Xử lý đất ô nhiễm phóng xạ

MỤC LỤC Trang 1. Tìm hiểu về phóng xạ 1.1 Bức xạ là gì? 1.2 Sự phân rã phóng xạ là gì? 1.3 Đơn vị hoạt độ phóng xạ (Becquerel) là gì 1.4 Chu kỳ bán rã diễn ra như thế nào? 1.5 Bức xạ tự nhiên và bức xạ nhân tạo là gì? 1.6 Chất phóng xạ sử dụng trong cuộc sống 2. Nguồn ô nhiễm và mức độ ô nhiễm 2.1 Nguồn ô nhiễm 2.2 Mức độ ô nhiễm 3. Xử lý đất nhiễm phóng xạ 3.1 Sơ lược 3.2 Mô tả 3.3 Ví dụ Tài liệu tham khảo

doc27 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3413 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Xử lý đất ô nhiễm phóng xạ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 VIỆN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG BỘ MÔN: XỬ LÝ Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG ĐẤT Bài tiểu luận: XỬ LÝ ĐẤT Ô NHIỄM PHÓNG XẠ GVHD: GS T.S LÊ HUY BÁ Người thực hiện: Lê Thị Thúy Vi MSSV: 07708221 TP HỒ CHÍ MINH THÁNG 5 NĂM 2010 MỤC LỤC Trang Tìm hiểu về phóng xạ ………………………………………………2 Bức xạ là gì? …………………………………………….. .2 Sự phân rã phóng xạ là gì? ………………………………..2 Đơn vị hoạt độ phóng xạ (Becquerel) là gì ………………..3 Chu kỳ bán rã diễn ra như thế nào? ………………………..3 Bức xạ tự nhiên và bức xạ nhân tạo là gì? …………………3 Chất phóng xạ sử dụng trong cuộc sống…………………...5 Nguồn ô nhiễm và mức độ ô nhiễm ....................................................8 2.1 Nguồn ô nhiễm …………………………………………………..8 2.2 Mức độ ô nhiễm ………………………………………………….9 Xử lý đất nhiễm phóng xạ …………………………………………10 3.1 Sơ lược ………………………………………………………10 3.2 Mô tả ………………………………………………………12 3.3 Ví dụ …………………………………………………………22 Tài liệu tham khảo Tìm hiểu về phóng xạ   1.1 Bức xạ là gì? Mọi người và mọi vật đều cấu tạo từ nguyên tử. Một người lớn trung bình là tập hợp của khoảng 4.000.000.000.000.000.000.000.000.000 nguyên tử oxy, hydro, cacbon, nito, phốt pho và các nguyên tố khác. Khối lượng nguyên tử tập trung ở phần hạt nhân nguyên tử mà độ lớn của nó chỉ bằng một phần tỷ của nguyên tử. Xung quanh hạt nhân hầu như là khoảng trống, ngoại trừ những phần tử rất nhỏ mang điện tích âm quay xung quanh hạt nhân được gọi là electron. Các electron quyết định tính chất hoá học của một chất nhất định. Nó không liên quan gì với hoạt độ phóng xạ. Hoạt độ phóng xạ chỉ phụ thuộc vào cấu trúc hạt nhân. Một nguyên tố được xác định bởi số lượng Proton trong hạt nhân. Hydro có 1 proton, Heli có 2, Liti có 3, Berili có 4, Bo có 5 và Cacbon có 6 proton. Số lượng Proton nhiều hơn, thì hạt nhân nặng hơn. Thori có 90 proton, Protatini có 91 và Urani có 92 proton được xem là những nguyên tố siêu Urani. Số lượng các nơtron quyết định hạt nhân có mang tính phóng xạ hay không. Để các hạt nhân ổn định, số lượng nơtron trong hầu hết mọi trường hợp đều phải lớn hơn số lượng Protron một ít. Ở các hạt nhân ổn định protron và nơtron liên kết với nhau bởi lực hút rất  mạnh của hạt nhân mà không phần tử nào thoát ra ngoài. Trong trường hợp như vậy, hạt nhân sẽ tồn tại bền vững. Tuy nhiên mọi việc sẽ khác đi nếu số lượng nơtron vượt khỏi mức cân bằng. Trong trường hợp này, thì hạt nhân sẽ có năng lượng dư và đơn giản là sẽ không liên kết được với nhau. Sớm hay  muộn nó cũng phải xả phần năng lượng dư thừa đó. Hạt nhân khác nhau thì việc giải thoát năng lượng dư cũng khác nhau, dưới dạng các sóng điện từ và các dòng phân tử. Năng lượng đó được gọi là bức xạ. 1.2 Sự phân rã phóng xạ là gì? Quá trình mà nguyên tử không bền giải thoát năng lượng dư của nó gọi là sự phân rã phóng xạ. Hạt nhân nhẹ, với ít Proton và nơtron trở lên ổn định sau một lần phân rã. Khi một nhân nặng như Radi hay Urani phân rã, những hạt nhân mới được tạo ra có thể vẫn không ổn định, mà giai đoạn ổn định cuối cùng chỉ đạt được sau một số lần phân rã. Ví dụ: Urani 238 có 92 proton và 146 nơtron luôn mất đi 2 proton và 2 nơtron khi phân rã. Số lượng proton còn lại sau một lần Urani phân rã là 90, nhưng hạt nhân có số lượng proton 90 lại là Thori, vì vậy Urani 238 sau một lần phân rã sẽ làm sinh ra Thori 234 cũng không ổn định và sẽ trở thành Protatini sau một lần phân rã nữa. Hạt nhân ổn định cuối cùng là chì chỉ được sinh ra sau lần phân rã thứ 14. Quá trình phân rã này xảy ra đối với nhiều hạt nhân phóng xạ có ở trong môi trường. 1.3 Đơn vị hoạt độ phóng xạ (Becquerel) là gì? Hoạt độ phóng xạ chỉ khả năng phát ra bức xạ của một chất. Hoạt độ không có nghĩa là cường  độ của bức xạ được phát ra hay những rủi ro có thể xảy ra đối với sức khoẻ con người. Nó được quy định bằng đơn vị hoạt độ Becquerel (Bq), phỏng theo tên một nhà vật lý người Pháp, Henri Becquerel. Hoạt độ phóng xạ của một tập hợp các hạt nhân phóng xạ được tính bởi số các phân rã trong nó trong một đơn vị thời gian. Nếu số lượng phân rã là 1/1 giây, thì hoạt độ của chất đó được tính là 1 Bq. Hoạt độ không liên quan gì đến kích thước hay khối lượng của một chất. Một nguồn phóng xạ có độ lớn bằng điếu thuốc lá dùng trong  một dụng cụ quan trắc phóng xạ có thể có hoạt độ lớn hơn hoạt độ cả thùng lớn chất thải phóng xạ hàng tỷ lần. Nếu số lượng phân rã xảy ra ở một lượng nhỏ của một chất là 1000/1 giây, hoạt độ của chất đó lớn hơn 100 lần so với một số lượng lớn chất chỉ có 10 phân rã xảy ra trong 1 giây. 1.4 Chu kỳ bán rã diễn ra như thế nào? Tốc độ phân rã được mô tả bằng  chu kỳ bán rã, đó là thời gian mà 1/2 số hạt nhân không bền của một chất nào đó phân rã.Chu kỳ bán rã là đơn nhất và không thay đổi cho từng hạt nhân phóng xạ và có thể là từ một phần giây đến hàng tỷ năm. Chu kỳ bán rã của Sulfua - 38 là 2 giờ 52 phút, của Radi - 223 là 11,43 ngày, và Cacbon - 14 là 5.730 năm. Trong các chu kỳ bán rã liên tiếp, hoạt độ chất phóng xạ giảm bởi phân rã từ 1/2, 1/4, 1/8, 1/16… so với hoạt độ ban đầu. Điều đó cho phép tính hoạt độ còn lại của bất cứ chất nào tại một thời điểm bất kỳ trong tương lai. Bức xạ có khắp nơi trong môi trường. Hầu hết các chất phóng xạ có đời sống dài đều sinh ra trước khi có Trái đất, vì vậy một lượng xạ luôn tồn tại là điều bình thường không thể tránh khỏi. Trong thế kỷ vừa qua, phông phóng xạ đã tăng lên không ngừng do các hoạt động như thử vũ khí hạt nhân và phát điện hạt nhân. Mức độ phóng xạ phụ thuộc vào nhiều yếu tố: địa điểm, thành phần của đất, vật liệu xây dựng, mùa, vĩ độ, và mức độ nào đấy nữa là điều kiện thời tiết: mưa, tuyết, áp suất cao, thấp, hướng gió… tất cả đều ảnh hưởng đến phông bức xạ. Bức xạ được xem là tự nhiên hay nhân tạo là do nguồn gốc sinh ra của nó. 1.5 Bức xạ tự nhiên và bức xạ nhân tạo là gì? Bức xạ tự nhiên Một phần của phông phóng xạ là bức xạ vũ trụ đến từ không gian. Chúng hầu hết bị cản lại bởi khí quyển bao quanh Trái đất, chỉ một phần nhỏ tới được Trái đất. Trên đỉnh núi cao hoặc bên ngoài máy bay, độ phóng xạ lớn hơn nhiều so với ở mặt biển. Các phi hành đoàn làm việc chủ yếu ở độ cao có bức xạ vũ trụ lớn hơn mức bình thường ở mặt đất khoảng 20 lần. Các chất phóng xạ có đời sống dài có trong thiên nhiên thường ở dạng các chất bẩn trong nhiên liệu hoá thạch. Trong lòng đất, các chất như vậy không làm ai bị chiếu xạ, nhưng khi bị đốt cháy, chúng được thải vào khí quyển rồi sau đó khuyếch tán vào đất, làm tăng dần phông phóng xạ. Nguyên nhân chung nhất của sự tăng phông phóng xạ là Radon, một chất khí sinh ra khi Radi kim loại phân rã. Các chất phóng xạ khác được tạo thành trong quá trình phân rã tồn tại tại chỗ trong lòng đất, nhưng Radon thì bay lên khỏi mặt đất. Nếu nó lan toả rộng và hoà tan đi thì không gây ra nguy hại gì, nhưng nếu một ngôi nhà xây dựng tại nơi có Radon bay lên tới mặt đất, thì Radon có thể tập trung trong nhà đó, nhất là khi các hệ thống thông khí không thích hợp. Radon tập trung trong nhà có thể lớn hơn hàng trăm lần, có khi hàng ngàn lần so với bên ngoài. Loại trừ khí Radon, bức xạ tự nhiên không có hại đối với sức khoẻ. Nó là một phần của tự nhiên và các chất phóng xạ có trong cơ thể con người cũng là một phần của tạo hoá. Bức xạ nhân tạo Những hoạt động của con người cũng tạo ra các chất phóng xạ được tìm thấy trong môi trường và cơ thể. Một số chất đã được thải vào khí quyển do các vụ thử vũ khí hạt nhân và phần nhỏ hơn nhiều là các nhà máy điện hạt nhân. Những giới hạn phát thải được phép đối với nhà máy điện hạt nhân bảo đảm chúng không gây tác hại gì. Hầu hết các chất phóng xạ sinh ra từ phân hạch hạt nhân nằm trong chất thải phóng xạ và được lưu giữ cách biệt với môi trường.  Hình 1: 'Chiếc bánh' mô tả sự đóng góp các nguồn bức xạ vào môi trường phóng xạ tự nhiên. Tất cả những đồng vị phóng xạ nói trên đều phát ra những tia phóng xạ có hại cho sức khoẻ như anpha, bêta, gamma v.v…, trong đó tác động đáng kể lên cơ thể con người là tia gamma. Trong “bức tranh” trên (Hình 1) mô tả sự phân bố sự đóng góp của các nguồn tia phóng xạ (gamma) trên mặt đất: 50% từ khí phóng xạ Radon, 20% từ đất đá trong vỏ Trái đất, 12% trong nước; lương thực; thực phẩm và 18% là tia vũ trụ. Cũng cần kể đến sự đóng góp của một phần rất nhỏ, khoảng 1%, các chất phóng xạ nhân tạo do sự phát tán bởi các vụ thử vũ khí nguyên tử trên không vào những năm 1960 của thế kỷ trước. 1.6 Chất phóng xạ được sử dụng như thế nào trong cuộc sống? Sản phẩm tiêu dùng  Một số sản phẩm tiêu dùng cũng có chứa chất phóng xạ. Các ngôi nhà thường được trang bị các thiết bị phát hiện khói có chứa nguồn phóng xạ alpha nhỏ, sơn dạ quang, đồng hồ và các dụng cụ cũng có chất phóng xạ tác động vào chất phôtpho làm nó sáng lên. Công nghiệp Nhiều người phải tiếp xúc hàng ngày với các vật liệu phóng xạ trong rất nhiều ngành công nghiệp. Con mắt bức xạ nhìn được mọi thứ được sử dụng trong nhiều trường hợp khác nhau, thường để bảo đảm an toàn cho con người. Tia X được dùng để soi hành lý tại các sân bay, kiểm tra các khuyết tật mối hàn và các vết hàn hoặc các vết nứt các trong công trình xây dựng, các đường ống và các cấu trúc khác. Trong quá trình kiểm tra, nó có thể giúp theo dõi những bất thường trong độ dày của sản phẩm giấy, của phim nhựa và các lá kim loại. Bức xạ được dùng đo mức độ chất lỏng trong các bồn chứa lớn. Nông nghiệp Bức xạ mạnh đã được sử dụng thành công trong việc phát triển 1500 giống cây lương thực và cây trồng khác cho sản lượng cao hơn, chống chịu tốt hơn với điều kiện thiên nhiên và sâu bệnh. Bức xạ được dùng để kiểm soát ruồi Tsetse ở Zambia, ruồi hại hoa quả ở Mexico và sâu cuốn lá ở Nam Mỹ và Bắc Phi. Trong kỹ thuật vô sinh côn trùng, côn trùng đực được đem chiếu xạ làm cho chúng bị mất khả năng sinh sản trước khi thả chung với côn trùng cái, thế hệ sau sẽ không được sinh ra. Không giống các hoá chất diệt côn trùng, biện pháp này không gây ô nhiễm và có mức tác dụng chọn lọc cao. Bức xạ trị bệnh  Trong lĩnh vực y tế, các ứng dụng bức xạ hầu hết được dựa vào khả năng của chất bức xạ cho phép nhìn xuyên qua và khả năng diệt các tế bào của các bức xạ mạnh. Ở nhiều nước, phụ nữ trung niên được kiểm tra bằng thiết bị chụp để theo dõi bệnh ung thư vú. Nha sỹ dùng thiết bị chụp hàm để phát hiện các dị thường của xương hàm. Xương được chụp để phát hiện các hiện tượng sai khớp hay gẫy xương. Có khi điều trị cần phải chẩn đoán bằng cách tiêm chất phóng xạ vào cơ thể. Bức xạ có thể được dùng riêng để chữa ung thư hay được sử dụng hỗ trợ cho điều trị bằng phẫu thuật hoặc hoá chất. Chẩn đoán sớm Nhiều căn bệnh được phát hiện sớm bằng chụp X quang còn có thể chữa được. Khi tia X vào cơ thể, nó tạo một hình ảnh có những vùng tối hơn và có những vùng sáng hơn, cho phép chụp các cơ quan nội tạng để chẩn đoán bệnh. Xương được tạo hình ảnh rất rõ trên phim nhưng để kiểm tra ruột hoặc sụn, bệnh nhân thường được tiêm, uống hoặc đưa vào cơ thể một chất tương phản, chất đó sẽ đọng lại ở nơi sẽ chụp và do tính dễ hấp thu bức xạ đó sẽ cho hình ảnh rất rõ về bộ phận được chụp trên phim X quang. Xạ trị Khi cần nguồn xạ năng lượng lớn hơn X quang như trong xạ trị, thì người ta dùng thiết bị Telecobalt, hay gần đây hơn là dùng máy gia tốc tuyến tính. Máy gia tốc tuyến tính truyền chùm electron năng lượng cao vào sâu trong khối tế bào cần điều trị như các khối u. Vì chùm tia electron rất dễ căn chuẩn, nó chiếu thẳng vào các khối u và phá huỷ khối u trong thời gian vài tuần mà không gây tổn hại gì nhiều cho tế bào xung quanh hoặc cho da. Các tế bào xung quanh nếu bị ảnh hưởng sẽ có thời gian hồi phục giữa các đợt điều trị. Khi cần thiết, máy gia tốc tuyến tính có thể chụp ảnh các cơ quan nội tạng với hình ảnh rõ hơn nhiều so với chụp X quang. Một hình thức khác nữa của xạ trị là điều trị hocmôn tuyến giáp và một số dạng u giáp trạng. Bệnh nhân được uống một dung dịch có chứa iôt 131, chất này đi vào tuyến giáp và tạo ra nội xạ trị. Trong trường hợp đặc biệt, một nguồn xạ nhỏ liên tục được đưa vào trong cơ thể bên cạnh vùng cần điều trị để thực hiện vùng điều trị ngắn tại chỗ. Chiếu xạ khử trùng và bảo quản thực phẩm Nguồn phóng xạ rất mạnh có thể được sử dụng để khử trùng các dụng cụ như dụng cụ phẫu thuật, găng tay, những dụng cụ không thể khử trùng bằng nhiệt độ cao. Một số loại thuốc cũng được khử trùng bằng chiếu xạ; thực phẩm cũng có thể chiếu xạ để bảo quản được lâu hơn. Hiện nay khoảng 20% thực phẩm bị hỏng trước khi đến được với người tiêu dùng trong khi thực phẩm chiếu xạ cũng có thể bảo quản nhiều tháng. Chiếu xạ thực phẩm còn loại trừ được các ký sinh trùng và khuẩn có hại. Thực phẩm đã được chiếu xạ không mang tính phóng xạ và không nguy hại đối với người tiêu dùng.  Hình 2: Vật liệu phóng xạ có thể có ảnh hưởng đến con người thông qua một loạt các tuyến đường.   Nguồn ô nhiễm và mức độ ô nhiễm Nguồn ô nhiễm  Ô nhiễm phóng xạ thường là kết quả của một tràn, tai nạn trong quá trình sản xuất hoặc sử dụng các nuclit phóng xạ(đồng vị phóng xạ), một hạt nhân không ổn định mà có quá nhiều năng lượng. Ô nhiễm có thể xảy ra từ khí phóng xạ, chất lỏng hoặc các hạt. Ví dụ, nếu một hạt nhân phóng xạ sử dụng trong y học hạt nhânlà vô tình đổ, vật liệu có thể được lây lan của mọi người khi họ đi bộ xung quanh. Ô nhiễm phóng xạ cũng có thể là một kết quả tất yếu của quá trình nhất định, chẳng hạn như việc phát hành của phóng xạ xenontrong tái chế nhiên liệu hạt nhân . Trong trường hợp đó chất phóng xạ không thể có, nó có thể được pha loãng với nồng độ an toàn. bụi phóng xạ hạt nhân là sự phân bố của ô nhiễm phóng xạ bởi một vụ nổ hạt nhân . Đối với một cuộc thảo luận về ô nhiễm môi trường do alpha phát thải xin vui lòng xem nguyên tố nhóm actini trong môi trường . Ngăn chặn những gì là sự khác biệt giữa vật liệu phóng xạ từ ô nhiễm phóng xạ. Vì vậy, chất phóng xạ trong container được niêm phong và không đúng được gọi là ô nhiễm, mặc dù các đơn vị đo lường có thể là như nhau. 2.2 Mức độ ô nhiễm Trong thực tế không có những điều như không phóng xạ. Không chỉ là toàn bộ thế giới liên tục bắn phá bởi các tia vũ trụ , nhưng mọi sinh vật sống trên trái đất có chứa một lượng đáng kể củacarbon-14 và phần lớn (bao gồm cả con người) có chứa một lượng đáng kể kali-40 . Các mức phóng xạ không gây hại hơn nữa ánh sáng mặt trời, nhưng cũng như số lượng quá nhiều ánh sáng mặt trời có thể nguy hiểm, do đó, cũng có thể cấp quá nhiều bức xạ. Mức độ ô nhiễm thấp Các mối nguy hiểm cho con người và môi trường khỏi ô nhiễm phóng xạ phụ thuộc vào bản chất của các chất ô nhiễm phóng xạ, mức độ ô nhiễm, và mức độ của sự lây lan của ô nhiễm. Mức độ thấp gây nguy cơ ô nhiễm phóng xạ ít, nhưng vẫn có thể được phát hiện bởi thiết bị đo bức xạ.Trong trường hợp cấp thấp ô nhiễm bởi các chất đồng vị với một nửa cuộc đời ngắn, các khóa học tốt nhất của hành động có thể chỉ đơn giản cho phép các tài liệu để tự nhiên phân rã . đồng vị sống dài hơn, nên được làm sạch và xử lý đúng cách, bởi vì ngay cả một mức độ rất thấp của bức xạ có thể được đe dọa khi tiếp xúc lâu dài với nó. Mức độ ô nhiễm cao mức độ ô nhiễm cao có thể gây rủi ro lớn cho người dân và môi trường. Mọi người có thể được tiếp xúc với bức xạ mức độ nguy hiểm tiềm tàng, cả bên ngoài và nội bộ, từ sự lây lan của nhiễm bẩn sau một tai nạn (hoặc một khởi đầu có chủ ý ) liên quan đến một lượng lớn chất phóng xạ. Cáchiệu ứng sinh học của tiếp xúc bên ngoài để ô nhiễm phóng xạ nói chung là giống như những người từ một nguồn bức xạ bên ngoài không liên quan đến chất phóng xạ, chẳng hạn như x-ray , máy móc, và phụ thuộc vào liều lượng hấp thụ . Xử lý đất nhiễm phóng xạ 3.1 Sơ lược                 Quy trình để tách các chất ô nhiễm kim loại phóng xạ và nguy hại từ các loại đất   Một phương pháp xử lý chất thải (2) bị ô nhiễm hòa tan, các chất độc hại hoặc phóng xạ đặc trưng bởi các bước sau: (1) tách một phần của vật liệu chất thải bị ô nhiễm và xác định phạm vi kích thước hạt của phần bị ô nhiễm nghiêm trọng của vật liệu; (2) xác định những phần của vật liệu chất thải đang bị ô nhiễm và cách ly vật chất, cung cấp vật liệu chất thải bị ô nhiễm (19) và vật liệu chất thải dùng một lần (18), (3) đi qua các vật liệu chất thải ô nhiễm thành một bộ máy giường tầng sôi (16), nơi chứa dung dịch nước lọc (21), có một thành phần hóa học hiệu quả để hòa tan các chất gây ô nhiễm có trong các vật liệu thải bị ô nhiễm, nơi các vật liệu thải bị ô nhiễm (19), (24) có chứa solubilized, bị ô nhiễm nghiêm trọng các loài, và bùn thải của một rò rỉ các giải pháp có chứa dùng một lần, làm sạch chất thải (32), (4) loại bỏ rò rỉ các giải pháp ( 24) từ bùn thải bị ô nhiễm nghiêm trọng, để cung cấp các giải pháp rò rỉ các dung dịch nước (27) có chứa solubilized, bị ô nhiễm nghiêm trọng các loài, và chất thải rắn; và (5) đi qua các giải pháp rò rỉ các dung dịch nước (27) từ bước (4) thông qua một bộ máy loại bỏ ion (38) có hiệu quả để loại bỏ các loài solubilized, bị ô nhiễm nghiêm trọng từ các giải pháp rò rỉ các dung dịch nước, để cung cấp làm sạch, dung dịch nước rò rỉ các giải pháp (21).  2.  được đặc trưng trong chất thải bị ô nhiễm phóng xạ chứa các loại, trong đó có ít nhất một trong radium phóng xạ, phóng xạ uranium, phóng xạ thori tồn tại ở nồng độ của hơn 5 picocuries / gram, và loại bỏ ion bộ máy (38) được chọn từ một cột trao đổi ion có chứa các vật liệu trao đổi ion 3.  đặc trưng ở chỗ sau khi bước (4), nước được thêm vào các chất thải rắn, để cung cấp một hỗn hợp của nước bị ô nhiễm còn lại và làm sạch vật liệu thải, nơi mà các nước bị ô nhiễm được truyền qua bộ máy loại bỏ ion trong bước ( 5), và chất thải được làm sạch khô.  4. Phương pháp yêu cầu bồi thường 1, đặc trưng ở chỗ, làm sạch dung dịch nước rò rỉ các giải pháp từ bước (5) được thông qua thông qua một bộ máy thẩm thấu ngược (42), để cung cấp: (a) làm sạch, tập trung, giải pháp rò rỉ các dung dịch nước có thành phần hóa học có hiệu quả để rò rỉ các chất gây ô nhiễm có trong các tài liệu xác định trong bước (2), trong đó dung dịch nước rò rỉ các giải pháp được thông qua để bước (3), và (b) nước tinh khiết, được thêm vào các chất thải rắn tách biệt trong bước (4).  5. Phương pháp yêu cầu bồi thường 1, được đặc trưng trong đó các vật liệu bị ô nhiễm (19) là bộ máy thông qua thành giường tầng sôi trong bước (3) có kích thước hạt dưới 420 micro mét.  6. Phương pháp yêu cầu bồi thường 1, được đặc trưng trong chất thải bị ô nhiễm có chứa radium phóng xạ, và lọc các dung dịch nước được sử dụng trong bước (3) được chọn từ nhóm bao gồm acid hydrochloric, acid nitric, cacbonat natri, clorua natri, và hỗn hợp của chúng.  7. Phương pháp yêu cầu bồi thường 1, được đặc trưng trong chất thải bị ô nhiễm có chứa phóng xạ uranium, và lọc các dung dịch nước được sử dụng trong bước (3) được chọn từ nhóm bao gồm acid hydrochloric, acid nitric, acid sulfuric, cacbonat natri, clorua natri, và hỗn hợp của chúng.  8. Phương pháp yêu cầu bồi thường 1, được đặc trưng trong chất thải bị ô nhiễm có chứa thori phóng xạ, và lọc các dung dịch nước được sử dụng trong bước (3) được chọn từ nhóm bao gồm acid hydrochloric, acid nitric, acid sulfuric, và hỗn hợp của chúng.  9. Phương pháp yêu cầu bồi thường 1, được đặc trưng trong đó các vật liệu bị ô nhiễm thông qua thành bộ máy giường tầng sôi trong bước (3) có mật độ từ 1,4 g / ml đến 3,2 g / ml, và kích cỡ một hạt dưới 420 micro mét, và trong bước ( 5), một cột trao đổi ion được sử dụng để cung cấp các giải pháp làm sạch rò rỉ các dung dịch nước.  10. Phương pháp yêu cầu bồi thường 1, được đặc trưng trong chất thải bị ô nhiễm có chứa ít nhất một trong những phóng xạ radium và uranium phóng xạ, các chất phóng xạ được truyền thông qua bộ máy giường tầng sôi trong bước (3) và có kích thước hạt dưới 420 micro mét, và một ion cột trao đổi được sử dụng trong bước (5) để cung cấp giải pháp làm sạch rò rỉ các dung dịch nước.  Mô tả: Phương pháp này liên quan đến một phương pháp phục hồi đất phóng xạ bằng cách khảo nghiệm phóng xạ ban đầu, quét, tách sôi, loại bỏ ion chọn lọc, và tập trung. Sự ô nhiễm đất, quặng, hoặc các vật liệu khác với các loại phóng xạ, chẳng hạn như radium, uranium, và thori, là một vấn đề môi trường chung. Trong số lượng lớn trường hợp, ô nhiễm phóng xạ không phải là đồng nhất phân phối thông qua khối lượng đất để được điều trị, cũng như, nó được phổ biến cho ô nhiễm có mặt trong một phần cụ thể của đất, chẳng hạn như bùn nhẹ hơn, humic, hoặc phần đất sét. Trong một số trường hợp các chất gây ô nhiễm có thể được hòa tan và không hòa tan trong các trường hợp khác.Các vị trí của các vật liệu khác nhau từ các khu dân cư, đến các khu vực khai thác mỏ, đến các cơ sở chế biến vật liệu phóng xạ. Trong mọi trường hợp, nó là cần thiết để loại bỏ hoặc làm sạch đất hoặc vật liệu khác. Việc xử lý đất bị ô nhiễm ngày càng trở nên đắt tiền, việc đào đất lên rồi chôn vùi các chất thải đó đang trở nên ít chấp nhận được với môi trường. Bằng sáng chế Mỹ thuật Mỹ A 4.783.253 (Ayres et al.), Dạy một phương pháp mà một phần giải quyết vấn đề tách chất thải nguy hại. Ở đó, các vật liệu thải được đặt trong một dòng chảy hướng lên thay thế nước ngọt tinh khiết, và các chất gây ô nhiễm không hòa tan có trong phần nặng của vật liệu thải được trọng lực gỡ bỏ. Tuy nhiên, quá trình này đòi hỏi một bộ máy cơ hoành qua lại khá phức tạp và sự khác biệt đáng kể trong một lực hấp dẫn cụ thể giữa phần ô nhiễm và phần không ô nhiễm, chủ yếu giới hạn ô nhiễm mật độ cao, và giới hạn chất ô nhiễm không hòa tan vào dòng nước và được rửa ra khỏi phần trên cùng của cột nước. Điều cần thiết là một phương pháp đơn giản xử lý khối lượng lớn vật liệu, ví dụ, lên đến 9.000 kg / giờ, có chứa các phần hòa tan các chất thải độc hại hoặc phóng xạ trong vòng một phần nhỏ kích thước hạt đặc biệt, để tách riêng phần sạch từ các vật liệu bị ô nhiễm và tập trung vật chất bị ô nhiễm. Phương pháp không nên đòi hỏi diện tích đất lớn, để điều trị vùng địa phương là một khả năng, và phương pháp này không nên kết quả trong xử lý chất thải hoặc các vấn đề chất độc hại. Đây là một trong các đối tượng chính của sáng chế này để cung cấp như một phương pháp. Theo đó, phương pháp xử lý vật chất bị ô nhiễm chất thải hòa tan, các loài độc hại hoặc phóng xạ đặc trưng bởi các bước sau: (1) tách một phần của vật liệu chất thải bị ô nhiễm, và xác định phạm vi kích thước hạt của phân số bị ô nhiễm nghiêm trọng của vật liệu; (2) xác định những phần của vật liệu chất thải đang bị ô nhiễm, và cách ly rằng vật chất, để cung cấp nguyên liệu bị ô nhiễm chất thải và chất thải vật liệu dùng một lần; (3) đi qua các vật liệu chất thải ô nhiễm thành một bộ máy giường tầng sôi nơi một giải pháp lọc dung dịch nước, có thành phần hóa học có hiệu quả để rò rỉ các chất gây ô nhiễm hòa tan có trong các vật liệu thải bị ô nhiễm, nơi liên lạc các vật liệu thải bị ô nhiễm tại một tốc độ trở lên có hiệu quả để loại bỏ các kích thước hạt, phạm vi đó được xác định để chứa các phần nhỏ bị ô nhiễm nghiêm trọng của vật liệu chất thải bị ô nhiễm, để cung cấp một bùn thải bị ô nhiễm nghiêm trọng của giải pháp rò rỉ, bị ô nhiễm nghiêm trọng các loài, và bùn thải  (4) loại bỏ các giải pháp rò rỉ từ bùn thải bị ô nhiễm nghiêm trọng, để cung cấp các giải pháp rò rỉ các dung dịch (5) đi qua các giải pháp rò rỉ các dung dịch nước từ bước (4) thông qua một bộ máy loại bỏ ion hiệu quả để loại bỏ các loại, bị ô nhiễm nghiêm trọng từ các giải pháp rò rỉ các dung dịch nước, để cung cấp giải pháp làm sạch, dung dịch nước rò rỉ. sáng chế là đặc trưng hơn nữa bằng cách thêm nước để các chất thải rắn sau bước (4), để cung cấp một hỗn hợp nước bị ô nhiễm chất thải còn lại và vật liệu làm sạch, nơi nước bị ô nhiễm được truyền qua bộ máy loại bỏ ion trong bước (5), và làm sạch chất thải được sấy khô và kiểm tra để xác định những phần nhỏ của các loài gây ô nhiễm, trong đó loài được truyền trở lại bước (2). sáng chế cũng là thêm đặc trưng bởi đi qua, rò rỉ các giải pháp làm sạch dung dịch nước từ bước (5) thông qua một bộ máy thẩm thấu ngược, cung cấp: (a) làm sạch, tập trung, giải pháp rò rỉ các dung dịch nước có thành phần hóa học có hiệu quả để rò rỉ các chất gây ô nhiễm hiện nay trong vật liệu xác định trong bước (1), và qua cho biết dung dịch nước rò rỉ các giải pháp để bước (3), và (b) tinh khiết, được thêm vào các chất thải rắn tách biệt trong bước (4). Phương pháp này cung cấp một hệ thống tích hợp hoàn toàn, giảm thiểu chế biến phục hồi hóa chất, phát sinh chất thải, và tiêu thụ nước. Phương pháp này có khả năng xử lý số tiền lớn của đất hoặc các tài liệu khác có chứa các phần của các loài độc hại hoặc phóng xạ, trong một thời trang kinh tế và trong một năng lượng hiệu quả. Trong khi quá trình này sẽ được mô tả chủ yếu để loại bỏ các loài hòa tan của các chất phóng xạ, chẳng hạn như radium, uranium, thori, và như thế, nó cũng bao gồm loại bỏ các loài độc hại khác như đồng, chì, hoặc thủy ngân ở dạng hòa tan. Để rằng các sáng chế sẽ được hiểu dễ dàng hơn, các mô tả sau đây của phương án thể hiện ưu tiên bây giờ sẽ được mô tả, bằng cách ví dụ chỉ, có sự tham khảo các bản vẽ kèm theo, trong đó: Hình1, tốt nhất minh họa các sáng chế là một sơ đồ của một trong những hiện thân của một phương pháp theo sáng chế này, làm sạch loài độc hại hoặc phóng xạ từ chất thải vật liệu  Hình 2 là một đồ thị của vận tốc giường tầng sôi, từ 20,65 · 10̅ 3 l.min̅ 1. cm ² (gpmin 5 / ft ²) đến 0.124 l.min̅ 1. Cm ² (/ ft ²,) so với mật độ hạt gpmin 30, từ 1,4 g / ml đến 3,2 g / ml, cho các hạt có kích thước khác nhau, trong quá trình hoạt động của giường tầng sôi trong phương pháp sáng chế này. Đề cập ngay bây giờ để hình 1 của bản vẽ, 2 vật chất thải, chẳng hạn như đất cát bị ô nhiễm phóng xạ, được kiểm tra bằng một máy quét phóng xạ 3, ví dụ, một natri cầm tay máy dò tia gamma iodide. Phần chất thải phát hiện có chứa một nồng độ của hơn 5 picocuries mỗi gram (> 5 pic / g) của các loài phóng xạ, ví dụ, radi-226, uranium-238, hoặc thori-232, được chia thành 4 dòng và không khí sấy khô trong một nhà kính, lò nướng, hoặc tương tự (không hiển thị). Phần không ô nhiễm được hồi lại một bãi rác vệ sinh hoặc khu vực bỏ ra 5. Nếu không phóng xạ, chất độc hại có liên quan, lấy mẫu chất hóa học có thể được dùng để xác định nồng độ của chúng. Phần bị ô nhiễm trong dòng 4 là hiển nhiên sau đó sàng lọc (không hiển thị) để loại bỏ các loại đá và các đối tượng khác có đường kính lớn hơn khoảng 1,5 cm. Những hiện vật này lại lớn hơn có thể được kiểm tra và xử lý ô nhiễm tại một bãi rác vệ sinh hoặc khu vực của loại bỏ nếu phát hiện có chứa ít hơn 5 picocuries mỗi gam chất phóng xạ hoặc số tiền tối thiểu của vật liệu phóng xạ không nguy hại. Nếu các đối tượng lớn hơn được tìm thấy vẫn còn bị ô nhiễm và nếu chúng đủ nhỏ, chúng có thể được nghiền nát và thêm vào các chất liệu, kích thước nhỏ hơn chất thải bị ô nhiễm. Nếu chúng là quá lớn hoặc nếu nó sẽ không hiệu quả để đè bẹp họ, sau đó là toàn bộ hoặc đá tảng đá, vv, có thể được rửa sạch một cách riêng biệt hoặc xử lý chất thải như bị ô nhiễm. Các vật liệu chất thải mà là để được tiếp tục xử lý theo phương pháp này sau đó được kết hợp lại và đóng kín trong bao bì, chẳng hạn như lớn 208 lít (55 gallon) trống, để vận chuyển đến cơ sở chế biến. Nếu các cơ sở chế biến hiện có của địa phương, niêm phong trong các container có thể không cần thiết. Các hiển nhiên sàng lọc, bị ô nhiễm chất thải sau đó sẽ lấy mẫu (không hiển thị) để xác định mật độ của nó trong gam / ml (g / ml), và một phần được truyền qua dòng 4 vào một tách hạt, chẳng hạn như một bộ máy sàng hoặc tương tự 6. Trong bộ máy sàng, chất thải được thông qua thông qua một loạt các sàng, hoặc tương tự, để cung cấp một đa số của hạt kích thước phạm vi chất thải bị ô nhiễm, ví dụ, hơn 297 micro mét; 150 micro mét đến 297 micro mét; 105 micro mét đến 150 micro mét; và dưới 105 micro mét. Mỗi đơn vị kích thước hạt sẽ được quét bởi một loạt các bộ máy quét tia gamma 8 hoặc hóa học phân tích. Bước này cũng có thể được thực hiện trong lĩnh vực này hoặc trong phòng thí nghiệm. Nó cũng có thể được thực hiện trên cơ sở liên tục, như trong hình 1 cho chất phóng xạ, trong đó một phần của các đơn vị kích thước hạt đi qua đường 7, qua máy quét tia gamma 8, và vào đường 9. Phần lớn các vật liệu bị nhiễm sẽ bỏ qua bộ máy sàng qua đường 10. Đây sàng bước quét sẽ xác định phạm vi kích thước hạt phân có chứa nồng độ chất gây ô nhiễm chính của phóng xạ. Nó như vậy sẽ đánh giá phạm vi kích thước hạt của phân số bị ô nhiễm nghiêm trọng của vật liệu phóng xạ. Hóa chất lấy mẫu cũng phải có khả năng sử dụng trên cơ sở liên tục. Các vật liệu chất thải bị ô nhiễm sau đó có thể được đưa vào một bộ máy tạo hạt tùy chọn 11, để đè bẹp các vật liệu và giảm kích cỡ của nó nhỏ hơn khoảng 420 micro mét.Hơn 420 micro mét, sau đó dung dịch nước tầng sôi chế biến sẽ yêu cầu vận tốc cao. Các vật liệu chất thải sau đó được thông qua gần một tia gamma 12 bộ máy quét, có chứa một mảng của một đa số các máy dò tia gamma cho chất phóng xạ. Điều này có thể được thực hiện bằng cách đi qua các vật liệu chất thải thông qua một phễu 13 và lên một vành đai di chuyển liên tục 14, vì vậy mà một lớp 15 của vật liệu thải được gửi như được hiển thị. Các băng tải sẽ di chuyển với một tốc độ mà sẽ cho phép đủ thời gian cho các phát hiện để xác định chính xác mức độ phóng xạ của một khối lượng chất gây ô nhiễm cho đất. Các tia gamma 12 bộ máy quét có thể là một iodide natri dò, hoặc tương tự, như là nổi tiếng trong nghệ thuật. lấy mẫu hóa chất có thể được thay thế cho vật liệu không độc hại phóng xạ,. Các tia gamma bộ máy quét, khi được sử dụng, sẽ được điều chỉnh để phân lập các dòng năng lượng phân rã liên kết với các chất gây ô nhiễm phóng xạ đặc biệt quan tâm.Ví dụ, máy dò sẽ được điều chỉnh sao cho 0,08 MeV (megaelectron volt) và 0,186 MeV dòng khí thải sẽ được theo dõi cho radium-226; dòng 0,094 MeV sẽ được theo dõi cho uranium-238, và 0,909 MeV và u.927 dòng MeV sẽ được theo dõi cho thori-232. Nếu bất kỳ phần của chất thải vật liệu được tìm thấy bởi các bộ máy quét tia gamma được nghiêm bị nhiễm chất phóng xạ, đó là, hơn 5-15 picocuries mỗi gam radium-226 tùy thuộc vào vị trí sâu đất của radium các, trên 30 picocuries mỗi gam uranium-238, hoặc trên 30 picocuries mỗi gam thori-232, hoặc cấp khác của các chất phóng xạ khác hoặc coi là bị ô nhiễm nghiêm trọng; rằng phần sẽ được thông qua vào một dung dịch nước rò rỉ các đất và bộ máy giường tầng sôi 16. Các thức ăn vào giường tầng sôi 16 có thể được thực hiện bởi bất kỳ tách thích hợp hoặc diverter bộ máy, ví dụ, các lưỡi cắt luân phiên chia 17 được hiển thị. Ở vị trí xuống hiển thị, tất cả các phần bị ô nhiễm nghiêm trọng 19 sẽ được đưa vào giường tầng sôi qua lối vào 20. Nếu một hoặc nhiều lớp phóng xạ thấp hoặc các phần độc hại được lấy mẫu, lưỡi cắt chia 17 có thể được nâng lên vị trí A, và các loại phóng xạ thấp hoặc các phần nguy hại sẽ được tách biệt, và lắng đọng chất thải làm nguyên liệu dùng một lần 18. Vật liệu chất thải này dùng một lần có thể được trả lại cho trang web khai quật như bãi rác. Nó được phổ biến cho ô nhiễm phóng xạ có mặt trong một phần đặc biệt của đất ở dạng hòa tan. Ví dụ, chất gây ô nhiễm hòa tan cation sẽ trao đổi vào phần đất sét tích điện âm của các loại đất. Trong trường hợp khác, ô nhiễm hòa tan có thể hấp thu vào các phần nhỏ humic ánh sáng của đất. Nó cũng thường có mặt ô nhiễm hòa tan như quặng còn sót lại mà sẽ có nhiều đặc điểm khác so với đất tự nhiên. Thông thường, các chất phóng xạ hoặc độc hại sẽ liên kết hoặc tương tác với các hạt mịn có kích thước vật liệu, như là những người dưới đây khoảng 150 micro mét, đường kính, do diện tích bề mặt cao hơn và hoạt động. Đây không phải là luôn luôn như vậy. Tuy nhiên, vì lợi ích của sự đơn giản, trong việc mô tả các hoạt động của bộ máy giường tầng sôi 16, mô tả rằng sau sẽ được dựa trên giả định rằng các phần tốt hơn của các hạt bị ô nhiễm nặng, mặc dù quá trình này hiệu quả trong cả hai trường hợp. Các phát minh sẽ hữu ích trên các vật liệu mà có một hoặc nhiều phân số mà bị ô nhiễm nghiêm trọng, hơn là ô nhiễm một đồng nhất, và nơi mà các loài chất gây ô nhiễm được hòa tan trong dung dịch rò rỉ các. Nếu nguồn chính của ô nhiễm nặng, chất phóng xạ có trong phần tiền phạt, vận tốc lên phía trên của giải pháp lọc dung dịch nước ăn từ đường 21 vào bộ máy giường tầng sôi 16 được thiết lập để loại bỏ các phần nhỏ ánh sáng từ phần đất nặng. Hình 2 cho thấy một đồ thị đặc trưng của vận tốc ga giường tầng sôi trong lít / mỗi phút / cm ² (gal. / phút / sq. Ft), là trục thẳng đứng, so với mật độ hạt trong gam / ml., Như là trục ngang, để 149 micromet hạt kích thước đường cong A, kích thước 105 micromet hạt đường cong B, và 74 kích cỡ micromet hạt đường cong C. Khi vận tốc của hạt một thiết bị đầu cuối là vượt quá, nó sẽ được entrained trong chất lỏng sôi và được thực hiện từ bộ máy giường tầng sôi 16 thông qua dòng 24. Các yếu tố đầu vào của mật độ và kích thước hạt chất thải hạt tiểu học bị ô nhiễm (s), thảo luận trước đó, ví dụ 105 micromet cát (có mật độ hạt khoảng 2,7 g / ml), có thể được đưa vào một máy tính, trong đó, theo quy định của thiết bị đầu cuối phù hợp đường cong vận tốc, có thể được sử dụng để chương trình chính xác vận tốc thiết bị đầu cuối của giải pháp lọc dung dịch nước vào cuối rò rỉ các nguồn cấp dữ liệu 22 của giường tầng sôi bằng cách điều chỉnh bơm 23. Điều này sẽ có hiệu quả loại bỏ các phạm vi kích thước hạt mà được xác định là bị ô nhiễm nghiêm trọng, ở đây, cho mục đích minh hoạ, các phân số tiền phạt thoát vào dòng 24. Các phân số tiền phạt sẽ thoát như là một bùn thải bị ô nhiễm nghiêm trọng của giải pháp làm rò rỉ, bị ô nhiễm nghiêm trọng loài. Các phần nặng, ở đây, cho mục đích minh hoạ, không bị ô nhiễm nghiêm trọng, sẽ xuất cảnh vào dòng 25 như là một bùn thải của các giải pháp làm rò rỉ, chứa dùng một lần, làm sạch chất thải.Điều này sẽ được dewater (không hiển thị), một lần nữa kiểm tra ô nhiễm, sấy khô, và sau đó được gửi như là vật liệu chất thải dùng một lần 18. Trong trường hợp thực tế nơi mà một số ô nhiễm không thể chấp nhận được ở lại, dòng 25 có thể được cho ăn trở lại phễu 13 hoặc xử lý chất thải phóng xạ như. Radium có thể được gỡ bỏ từ đất sử dụng, ví dụ, acid hydrochloric, acid nitric, cacbonat natri, clorua natri, và hỗn hợp của chúng, như là giải pháp radium rò rỉ các đại lý cho ăn qua đường 21 vào bộ máy giường tầng sôi 16. Uranium có thể được gỡ bỏ từ đất sử dụng, ví dụ, acid hydrochloric, acid nitric, acid sulfuric, cacbonat natri, clorua natri, và hỗn hợp của chúng, như là giải pháp uranium rò rỉ các đại lý. Thori có thể được gỡ bỏ từ đất sử dụng, ví dụ, acid hydrochloric, acid nitric, acid sulfuric, và hỗn hợp của chúng, như là giải pháp thori rò rỉ các đại lý. Các giải pháp khác rò rỉ các hiệu quả có thể được sử dụng cho radium, uranium thori hay, cũng như phóng xạ đối với các loài khác mà có thể có mặt, chẳng hạn như iốt phóng xạ rutheni, xêzi, stronti, hoặc coban; hoặc cho các chất ô nhiễm không phóng xạ như đồng, chì , hoặc thủy ngân. Các bùn bị ô nhiễm nghiêm trọng của giải pháp rò rỉ các phù 24 có thể được đưa đến một bộ máy thoát nước 26, như một máy ly tâm, để phân cách các giải pháp rò rỉ các từ bùn bị ô nhiễm, cung cấp một giải pháp phù rò rỉ các dung dịch nước có chứa 27 solubilized, bị ô nhiễm nghiêm trọng các loài, và đất một chất rắn chất thải bùn ở dòng 28.Tốt, nước từ dòng 29 được thêm vào bùn đất, để cung cấp một hỗn hợp của nước bị ô nhiễm còn lại và làm sạch vật liệu lãng phí trong bộ máy rửa đất 30. Một báo chí vành đai bộ lọc có thể được sử dụng để kết hợp thoát nước và bước rửa đất. Các vật liệu chất thải làm sạch sau đó có thể được thông qua thông qua một bộ máy thoát nước 31, chẳng hạn như máy ly tâm, và khô nếu cần thiết, để loại bỏ nước và để cung cấp vật liệu làm sạch chất thải phù 32. Các chất thải làm sạch sau đó có thể được quét bởi một tia gamma 33 bộ máy quét, có chứa một mảng của một đa số các máy dò tia gamma, để xác định vật liệu thải có chứa các phần nhỏ của các loài phóng xạ, được tách biệt bằng cách tách hoặc 34 bộ máy diverter và được truyền cho hopper 13 qua đường 35. Dùng một lần, làm sạch chất thải 36 có thể được trả lại cho một bãi chôn lấp hợp vệ sinh. Hóa chất lấy mẫu, một lần nữa, có thể được sử dụng cho các chất gây ô nhiễm không phóng xạ. Các giải pháp rò rỉ các dung dịch nước, chứa solubilized, bị ô nhiễm nghiêm trọng loài, trong dòng 27, sau đó có thể được thông qua với 38 cột trao đổi ion, nơi trao đổi ion hạt hoặc các loại tương tự 40, thường là polymer tổng hợp hữu cơ hoặc các hạt Zeolit tự nhiên, có đường kính khoảng 300 micro mét trên , nổi tiếng để thu hút các chất gây ô nhiễm có trong dòng 27, sẽ thu hút và loại bỏ hầu hết các radium solubilized, uranium, thori, chất gây ô nhiễm phóng xạ khác, hoặc không phóng xạ, độc hại, chất gây ô nhiễm. Tùy thuộc vào các giải pháp khai thác và hình thành của chất gây ô nhiễm, một vật liệu anion hoặc cation có thể được sử dụng. Ion trao đổi vật liệu hữu ích bao gồm một acid mạnh cation nhựa có chứa nhóm sulfonic chức năng với một copolymer styrene, và như thế, cho radium; và cùng một acid mạnh nhựa cation, hoặc một cơ sở vững mạnh nhựa anion có chứa amoni bậc bốn nhóm chức năng với một styrene hoặc styrene divinylbenzene copolymer, và như thế, cho urani và thori. nhựa trao đổi Cation, có tính chọn lọc cao hoặc chelating nhóm chức năng, có thể được sử dụng cho bất cứ kim loại nặng, bao gồm đồng, chì, hoặc thủy ngân. thay cho một cột trao đổi ion, một precipitator có thể được sử dụng như một bộ máy loại bỏ ion, nơi mà các giải pháp phù 27 sẽ được trộn với hydroxit sắt, bari sulfat, hay tương tự thế, để kết tủa hoặc radi đồng kết tủa hoặc thori, hoặc với hydroxide để kết tủa thori hoặc uranium, hoặc với peroxide để kết tủa uranium. Các ion trao đổi, lượng mưa các vật liệu có thể được sử dụng tùy thuộc vào chất liệu độc hại, phóng xạ liên quan. Việc trao đổi ion cột (hoặc precipitator) thải, đó là giải pháp làm sạch rò rỉ các dung dịch nước ở dòng 41, sau đó có thể được gửi đến một đơn vị thẩm thấu ngược 42, theo quy định tại nơi nổi tiếng với nguyên tắc chung, các giải pháp là phân chia thành một nước muối tập trung giải pháp dòng 21, có thể lọc refortified với đại lý thích hợp, ăn để bơm 23, và sử dụng lại cho lọc; và tổng chất rắn hòa tan thấp thấm dòng 29, được tái sử dụng để rửa trong bộ máy rửa đất 30. Các màng thẩm thấu ngược 43 là ở dạng semipermeable và có thể được thực hiện, ví dụ, của acetate cellulose đổi lần, muối acid polyamic, polyphenylester, polysulfone, hoặc polysulfonamide, và có thể hoạt động ở khoảng 21 kg / cm ² (300 psi). sáng chế này sẽ được minh họa có sự tham khảo ví dụ sau. 3.3 VÍ DỤ Một mẫu đất bị nghi là có mức độ thái quá của radium và ô nhiễm uranium đã được kiểm tra bằng cách sử dụng một máy dò sodium iodide phẳng, đầu tiên đặt ở MeV và 0,08 MeV 0,186 để đo lượng radi-226, và sau đó tại 0,094 MeV để đo lượng của uranium-238 . chỉ đọc một radium-226 mức độ g / 30 pic và uranium-238 một mức độ 80 pic / g, cho biết các mẫu đất đã bị nhiễm cả hai đồng vị. Một số các mẫu đất sau đó đã được tách biệt thành phần nhiều dựa trên kích thước hạt và mỗi phần một lần nữa được kiểm tra bằng cách sử dụng máy dò sodium iodide phẳng. Các hạt mịn, dưới khoảng 125 micro mét đã được tìm thấy có chứa một phần đáng kể của các vật liệu phóng xạ. Các mẫu đất sau đó đã được thông qua thành một, hình ống thẳng đứng, bộ máy giường tầng sôi. Một gram 2 / lít dung dịch natri cacbonat được dùng như là giải pháp lọc đại lý cho các radium-226 và uranium-238. Giải pháp này được bơm trở lên thông qua bộ máy giường tầng sôi ở một vận tốc hiệu quả để loại bỏ các micron 125 và phần dưới của mẫu đất, có nghĩa là, các phần nhỏ có chứa hầu hết các phóng xạ này. Điều này phần nhỏ phóng xạ nghiêm trọng được thông qua trong đầu của bộ máy giường tầng sôi như là một giải pháp rò rỉ các bùn, Các giải pháp lỏng rò rỉ các thông qua ra rằng dưới cùng của bộ máy giường tầng sôi có chứa các phầnnhỏ kích thước lớn hơn của các hạt. Điều này kích thước lớn hơn phần bùn được sấy khô và kiểm tra bằng cách sử dụng máy dò iodide natri đặt cho radium-226 và uranium-238. Bài đọc chỉ ra rằng phần lớn chứa ít hơn 15 pic / g của radium-226 và ít hơn 30 pic / g của uranium-238. Đây là một giảm phóng xạ lớn hơn 50% trong trường hợp của radium và giảm 63% phóng xạ trong trường hợp của uranium. Nitric acid, hydrochloricacid, clorua natri, hoặc hỗn hợp của họ có thể đã được thay thế cho các cacbonat natri như một chất lọc. Ngoài ra, các giải pháp phóng xạ thoát nghiêm trọng trên cùng của bộ máy giường tầng sôi có thể có được thông qua thông qua một cột trao đổi ion hoặc precipitator, để cung cấp làm sạch, dung dịch nước rò rỉ các giải pháp. Phương pháp này đơn giản là khả năng xử lý khối lượng lớn vật liệu và cách ly sạch từ vật chất bị ô nhiễm một cách có hiệu quả kinh tế và năng lượng. Tài liệu tham khảo Lê Huy Bá, Sinh thái Môi Trường Đất, NXB Đại học Quốc Gia TP HCM, 2007 Tăng Văn Toàn – Trần Đức Hạ, Kĩ thuật Môi Trường, NXB Giáo dục, 2002 Vũ Đăng Bộ, Hóa học và sự ô nhiễm Môi Trường, NXB Giáo dục, 2002

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docXử Lý Đất Ô Nhiễm Phóng Xạ.doc