Yếu tố hoạt động cá nhân đối với sự hình thành và phát triển nhân cách

LỜI MỞ ĐẦU Nhân cách không có sẵn bằng cách bộc lộ dần các bản năng nguyên thủy, mà nhân cách là các cấu tạo tâm lý mới được hình thành trong quá trình sống-giao tiếp, vui chơi, học tập, lao động. Nhân cách con người không phải được đẻ ra mà là được hình thành. Quá trình hình thành nhân cách chịu sự chi phối của nhiều yếu tố: yếu tố bẩm sinh – di truyền, môi trường tự nhiên và hoàn cảnh xã hội, giáo dục và hoạt động cá nhân. Mỗi yếu tố đều có vai trò quyết định. Song với tính cách là phương thức, là con đường, giáo dục, hoạt dộng có vai trò quyết định tron quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người. Để hình thành nhân cách con người phải đề cao vai trò của giáo dục và hoạt động cá nhân. Bởi đây là hai nhân tố quyết định trực tiêp sự hình thảnh và phát triển nhân cách. Qua đề tài này ta cho ta thấy được những quan điểm khác nhau nói về giáo dục, sự ảnh hưởng của yếu tố giáo dục đến các yếu tố khác, và quá trình phát triển giáo dục cũng như ảnh hưởng của yêu tố cá nhân đên nhân cach.

docx39 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 33407 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Yếu tố hoạt động cá nhân đối với sự hình thành và phát triển nhân cách, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lượm các kiến thức cần thiết, kĩ năng thích nghi với các điều kiện luôn thay đổi của cuộc sống và lao động, kĩ năng thực hiện hoạt động sáng tạo. Theo từ "Giáo dục" tiếng Anh - "Education" - vốn có gốc từ tiếng La tinh "Educare" có nghĩa là "làm bộc lộ ra". Có thể hiểu "giáo dục là quá trình, cách thức làm bộc lộ ra những khả năng tiềm ẩn của người được giáo dục". Giáo dục bao gồm việc dạy và học và đôi khi nó cũng mang ý nghĩa như là quá trình truyền thụ, phổ biến tri thức, truyền thụ sự suy luận đúng đắn, truyền thụ sự hiểu biết. Giáo dục là nền tảng cho việc truyền thụ, phổ biến văn hóa từ thế hệ này đến thế hệ khác. Giáo dục là phương tiện để đánh thức và nhận ra khả năng, năng lực tiềm ẩn của chính mỗi cá nhân, đánh thức trí tuệ của mỗi người. Nó ứng dụng phương pháp giáo dục, một phương pháp nghiên cứu mối quan hệ giữa dạy và học để đưa đến những rèn luyện về tinh thần, và làm chủ được các mặt như: ngôn ngữ, tâm lý, tình cảm, tâm thần, cách ứng xử trong xã hội. Dạy học là một hình thức giáo dục đặc biệt quan trọng và cần thiết cho sự phát triển trí tuệ, hoàn thiện nhân cách học sinh. Quá trình dạy học nói riêng và quá trình giáo dục nói chung luôn gồm các thành tố có liên hệ mang tính hệ thống với nhau: mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục, phương tiện giáo dục, hình thức tổ chức và chỉ tiêu đánh giá. Sự giáo dục của mỗi cá người bắt đầu từ khi sinh ra và tiếp tục trong suốt cuộc đời. (Một vài người tin rằng, sự giáo dục thậm chí còn bắt đầu trước khi sinh ra, theo đó một số cha mẹ mở nhạc, hoặc đọc cho những đứa trẻ trong bụng mẹ với hy vọng nó sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của đứa trẻ sau này). Với một số người quá trình đấu tranh giành giật sự sống, giành giật sự thắng lợi trong cuộc sống cung cấp kiến thức nhiều hơn cả sự truyền thụ kiến thức ở các trường học. Các cá nhân trong gia đình có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả giáo dục, thường có ảnh hưởng nhiều hơn, mặc dù việc dạy dỗ trong gia đình có thể không mang tính chính thức, chỉ có chức năng giáo dục rất thông thường. ♣ Quan điểm giáo dục theo Macxit Theo Mác, giáo dục là một hình thái ý thức xã hội, là một bộ phận của thượng tầng kiến trúc. Cũng như tôn giáo, đạo đức, pháp quyền, trong xã hội giai cấp, giáo dục bao giờ cũng mang tính giai cấp, giáo dục luôn luôn là công cụ của giai cấp thống trị xã hội “giai cấp nào thống trị tư liệu sản xuất vật chất thì cũng chiếm đoạt phương tiện sản xuất tinh thần”. chỉ có thể xây dựng một nền giáo dục của giai cấp vô sản khi giai cấp đó giành được quyền thống trị xã hội. ♣ Khái niệm giáo dục từ thuở ấu thơ Giáo dục từ thưở ấu thơ đề cập đến vấn đề giáo dục từ  những năm ấu thơ, một trong những thời kỳ nhạy cảm nhất trong cuộc sống. Theo như NAEYC (Hiệp hội quốc gia về giáo dục trẻ nhỏ), quá trình này trải dài từ lúc con người sinh ra cho đến khi 8 tuổi. Cụm từ khác được dùng với nghĩa “giáo dục từ thưở ấu thơ” là “học tập từ thưở ấu thơ”, “chăm sóc từ thửơ ấu thơ”. Giáo dục từ thưở ấu thơ thường tập trung vào quá trình học tập thông qua các hoạt động vui chơi của trẻ em. Cụm “giáo dục từ thưở ấu thơ” thường được dùng để định nghĩa các chương trình mẫu giáo hoặc nhà trẻ. Giáo dục từ thưở ấu thơ chính là quá trình nghiên cứu về sự phát triển của trẻ nhỏ. Việc giáo dục trẻ các kiến thức cơ bản về kỹ năng nhận thức, xã hội, cảm xúc và thể chất  trong quá trình từ khi sinh ra đến năm 8 tuổi là rất quan trọng. Các nghiên cứu trong lĩnh vực và các nhà giáo dục từ thưở ấu thơ đều coi phụ huynh như một phần không thể tách rời của quá trình giáo dục từ thưở ấu thơ. giáo dục hoặc phụ huynh. Tồn tại nhiều hình thức giáo dục từ thưở ấu thơ tuỳ thuộc vào niềm tin của nhà Phần lớn thời gian trong 2 năm đầu đời được dùng vào việc bước đầu tạo ra “cảm giác về bản thân” của trẻ, hay còn gọi là bước đầu xây dựng nhân dạng. Đây là phần quyết định trong quá trình phát triển của trẻ - sự  nhìn nhận đầu tiên về bản thân, cách thức hoạt động của trẻ, mức kỳ vọng của bản thân vào các hoạt động.  Vì lý do này, công việc chăm sóc từ thưở ấu thơ phải đảm bảo ngoài việc tuyển chọn và tập huấn các giáo viên  một cách kỹ lưỡng, nội dung chương trình phải nhấn mạnh mối liên kết với gia đình, văn hoá và ngôn ngữ của quê hương, nghĩa là giáo viên cần phải quan tâm tới mỗi trẻ theo giáo trình phù hợp với sự phát triển, cá nhân và văn hoá. Các trung tâm nên hỗ trợ gia đình hơn là thay thế gia đình. Nếu trẻ không nhận được sự nuôi dưỡng, ảnh hưởng và khuyến khích đầu đủ từ giáo viên/phụ huynh trong quá trình cốt yếu này, trẻ có thể phát triển không toàn diện, điều này không chỉ ảnh hưởng tới thành công ở nhà trẻ, mẫu giáo mà còn trong cuộc đời sau này của trẻ. Tóm lại, có thể nói rằng, giáo dục đó là quá trình mà thế hệ cha anh truyền lại kinh nghiệm lịch sử - xã hội cho các thế hệ mới nhằm chuẩn bị cho họ bước vào cuộc sống và lao động để bảo đảm sự phát triển hơn nữa của xã hội và của cá nhân. Như vậy, theo nghĩa rộng, nói đến giáo dục là nói đến sự tác động tới con người của toàn thể xã hội và của thực tiễn xung quanh. Đối với trẻ thơ, giai đoạn đầu tiên của đời người ( từ lọt lòng đến 6 tuổi) gióa dục nhằm phát triển các chức năng tâm lí, hình thành những cơ sở ban đầu của nhân cách con người, chuẩn bị cho những giai đoạn phát triển sau được thuận lợi. Các quan điểm về giáo dục Giáo dục Ai Cập Cổ Đại Thực hành nghề nghiệp của những người bình dân, Giáo dục trí tuTệ sơ đẳng: tập đọc, viết, làm toán, hình học. Giáo dục cao đẳng dành cho các tu sĩ, những nhà kiên trúc và sau cùng là thư kí. Các tu sĩ nắm giữ khoa học (thiên văn, toán học, cơ học và y học) và ý tưởng tôn giáo. Phương pháp dạy học là bắt chước và đào luyện trí nhớ, đôi khi học toán dưới dạng trò chơi. Kỉ luật được duy trì bằng roi vọt Giáo dục Ấn Độ Giáo dục theo kiểu chân truyền: Sư phụ-Đồ đệ Nội dung giáo dục thiên về tôn giáo (kinh Vệ đà)-văn phạm (chữ Phạn), thi ca, triết lí và luật pháp kiểu tôn giáo, y khoa, thiên văn, toán học. Phương pháp chủ yếu là đào luyện trí nhớ, học thuộc lòng, không chú trọng thể dục Có sự giảng dạy theo kiểu tập thể sơ cấp và các giảng tập viên, học nhóm Giáo dục Ba Tư Giáo dục mang tính quý tộc và quân phiệt. Nên giáo dục do quốc gia đảm trách: đứa trẻ ra khỏi gia đình lúc 7 tuổi được nuôi nấng và canh chừng trong nhà chung. Giáo dục thể chất, quân sự, rèn luyện để trở thành người lính. Giáo dục Kinh Thánh Kinh thánh chứa đựng các vấn đề giáo dục. Đầu tiên là do người mẹ, Sau đó ở nhà thờ trẻ học đọc, viết, âm nhạc, khiêu vũ và đào luyện về tôn giáo. Coi trọng giáo dục và người thầy. Chú ý giáo dục cả các em nữ. Học toán, thiên văn, văn chương, địa lý, lịch sử, triết học, kinh thánh Giáo dục Hy Lạp Cổ Đại Giáo dục quân sự ở Spart chủ yếu là phát triển thể chất, kỹ năng chiến đấu, tư cách công dân: tính tập thể, yêu nước. Giáo dục tự do và nhân bản ở Athens -Người mẹ là nhà GD đầu tiên của trẻ, -Chú ý tính toàn diện, -Các khoa học: kiến trúc, điêu khắc, thiên văn, triết lí, toán học, y học, sinh học, hóa học, vật lý… đều phát triển và được truyền đạt. -Dành cho các nhà khoa học những điều kiện nghiên cứu thuận lợi. Giáo dục Xocrat (469-399 TCN) Theo trường phái duy tâm chủ quan Nổi tiếng về sự hoài nghi và cách dạy học hỏi – đáp để tự tìm ra chân lý. Phương pháp hỏi – đáp được gọi là “thuật đỡ đẻ” hay là “phương pháp Xôcrát” Từ tìm hiểu sự vật hiện tượng cụ thể dẫn dắt đến kết luận. Giáo dục Đemocrit(460-370 TCN) Theo quan điểm duy vật Giáo dục kết hợp với lao động sản xuất thì mới có kết quả tốt. Đề cao việc học tập tri thức tự nhiên Không muốn giáo dục tôn giáo cho trẻ em Giáo dục Platon (427-348 TCN) Giáo dục giúp cho con người có lý trí. Giáo dục mẫu giáo theo cách của người mẹ. Trẻ lớn có thể học ở trường và ngoài trời. Giáo dục có chọn lọc cho phù hợp với khả năng của từng người, ai giỏi thì được học lên mãi. Người giỏi nhất sẽ được chọn để đứng đầu nhà nước. Đánh giá cao vai trò của giáo dục. Giáo dục là nhiệm vụ của tất cả mọi người, của toàn xã hội. Giáo dục con người là cả quá trình lâu dài. Giáo dục Aristot (384-322 TCN) Con người có 3 thành tố: xương thịt, ý chí và lí trí; vì vậy nôi dung GD phải tương ứng như: có GD thể chất, đạo đức, trí tuệ. Trẻ em phát triển qua 3 thời kì: 0-7 tuổi; 7-14; 14-21 có những đặc điểm riêng; chú ý tuổi dậy thì (14). Đánh giá cao vai trò của GD gia đình, của người mẹ. Giáo dục La Mã Tiếp thu nền văn minh Hy Lạp. Quan tâm giáo dục gia đình và pháp luật. Kích thích học tập bằng hình phạt. Phương pháp học chủ yếu là bắt chước. Dạy ngoại ngữ cho học sinh. Đã loại bỏ một phần khoa học và nghệ thuật của Hy Lạp. Giáo dục Quách Ty Liêng (118-42 TCN) Chú ý giáo dục ngôn ngữ. Quan tâm lời nói, hùng biện. Tạo cho trẻ niềm vui học tập. Kết hợp học tập và nghỉ ngơi, vui chơi giải trí. Chống lại lối dạy học bằng roi vọt. Chú trọng thuyết phục. Thầy giáo phải yêu mến học trò Giáo dục Trung Hoa Cổ Đại Kể từ 3000 năm TCN. Nền văn minh Trung Hoa xuất hiện. Giáo dục chịu ảnh hưởng nhiều của Đạo giáo, Nho giáo và Phật giáo. Nho giáo: Khổng Tử , Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử, Đổng Trọng Thư, Chu Hy T KHỔNG TỬ (551-479) +Mục đích giáo dục: Nhân nghĩa, trung chính Quân tử phải học đạo để thương người, trị người. Tiểu nhân học đạo để dễ sai khiến, biết phục tùng. Giáo dục làm cho dân giàu, nước mạnh Giáo dục phục vụ chính trị: đức trị và tu thân +Nội dung giáo dục: Đạo – đức Trung tâm là Nhân Nhân là đức làm người vừa tu nhân vừa ái nhân. Hiếu: yêu người nhà thì mới biết yêu người ngoài Trung với nước. Nghĩa: việc gì đáng làm thì làm, không hề mưu tính cái lợi cho mình cũng không cần biết hậu quả ra sao, không cố chấp. Lễ là ngọn, nhân là gốc, làm điều nhân cho mình chứ đâu do người. Có sáng suốt thì mới có đức nhân, biết giúp người mà không hại người và hại mình (trí). Khổng Tử nói cho Tử Lộ biết 6 đức bị che lấp: -Ham đức nhân mà không ham học thì bị che lấp là ngu muội, -Ham đức trí mà không ham học thì bị che lấp là phóng đãng, -Ham đức tín mà không ham học thì bị che lấp là bị tổn hại, -Ham đức ngay thẳng mà không ham học là bị che lấp là gắt gao, -Ham đức dũng mà không ham học thì bị che lấp là loạn động, -Ham cương cường mà không ham học thì bị che lấp là cuồng bạo + Phương pháp giáo dục Phù hợp với đối tượng Hỏi-đáp Ví von, dẫn chứng, liên hệ thực tế Phát huy tính tích cực Quan hệ thầy trò thân thiện Mạnh Tử (479-381) Phát triển tư tưởng của Khổng Tử. Theo thuyết tính thiện (nhân chi sơ tính bản thiện): biểu hiện ở 4 đức: nhân-nghĩa-lễ-trí; đề cao nhân nghĩa. Con người vốn có lòng trắc ẩn (thương xót), tu ố (then ghét), từ nhượng (cung kính), thi phi (phân biệt phải trái). Giáo dục phải theo chuẩn mực, phép tắc đã được định ra do các Thánh hiền. Người học phải chuyên tâm, trì chí, khiêm tốn và cầu tiến. Chú ý lương tâm, sự hổ thẹn và tùy đối tượng. Không vì lợi mà vì nhân Mạc Tử (479-381 TCN) Suốt đời hăm hở, kiên nhẫn làm việc nghĩa. Chủ trương “kiêm ái” Nhận biết đúng sai bằng tam biểu: thiên chí, minh quỷ và thánh vương xưa, tai mắt của trăm họ. Chú trọng lý do tại sao, để làm gì. Phê phán chiến tranh, sự giẫn dữ và hung bạo. Phê phán Nho giáo; không chú ý đến lợi ích, phân biệt.. Bản tính con người như một tấm lụa trắng, sau này tấm lụa ấy thành màu gì là do người đời và cuộc đời nhuộm nên. Pháp gia Nho gia lấy nhân-nghĩa-lễ-trí-tín, Mặc gia lấy “kiêm ái” để trị nước, còn Đạo gia theo “vô vi nhị trị”, thì Pháp gia đề cao pháp luật trong phép trị nước. Đại biểu cho Pháp gia là: Quản Trọng-Thận Đáo-Thân Bất Hại-Thương Ửơng-Hàn Phi Tử. Vai trò của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân cách Giáo dục là quá trình hoạt động tự giác, chủ động đến con người nhằm thỏa mãn nhu cầu hình thành và phát triển nhân cách cá nhân và đáp ứng yêu càu của xã hội. Giáo dục là toàn bộ những tác động của nhà trường, gia đình và xã hội. Trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách, giáo dục giữ vai trò chủ đạo, Điều đó được thể hiện như sau: + Giáo dục vạch ra nội dung và chiều hướng của sự phát triển nhân cách và tổ chức cho nhân cách phát triển theo nội dung và chiều hướng đã vạch ra. + Giáo dục là con đường thuận lợi nhất để cá nhân tiếp thu kinh nghiệm lịch sử, xã hội để tạo ra sự phát triển nhân cách. + Giáo dục là yếu tố tác động vào sự phát triển nhân cách có hiệu quả nhất vì đó là hoạt động có tổ chức, có kế hoạch, có phương pháp khoa học… + Giáo dục có thể phát huy những mặt ưu điểm của các yếu tố khác và khắc phục, bù đắp những khiếm khuyết của các yếu tố khác VD: Bồi dưỡng trẻ có năng khiếu thành tài năng, giáo dục cho trẻ mù, thiểu năng trí tuệ, người có hoàn cảnh khó khăn… + Giáo dục còn có khả năng uốn nắn những sai lệch của nhân cách cho phù hợp với yêu cầu của xã hội. Tuy vậy, chúng ta cũng không nên tuyệt đối hóa vai trò của giáo dục, coi giáo dục là vạn năng. Bởi vì nhân cách con người còn chịu sự chi phối của nhiều yếu tố khác. Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển nhân cách Theo thuyết tiền đỉnh(thuyết sinh học) Sự phát triển nhân cách do yếu tố di truyền quyết định, môi trường và giáo dục không có vai trò gì trong sự phát triển nhân cách Quan điểm đặc trung cho dòng phái nguồn gốc sinh học trong việc giải thích sự phát triển nhân cách là quan điểm về “những đặc điểm bẩm sinh”của trẻ là xu thế, hiểu hành vi và sự phát triển của con người một cách đơn giản, máy móc. Đối với những người theo học thuyết nguồn góc sinh học thì nhân tố sinh học, mà trước hết là tính di truyền là nhân tố có tác dộng quyết định. Sai lầm cơ bản của thuyết này là tuyệt đối hóa ảnh hưởng của yếu tố di truyền Theo thuyết duy cảm Môi trường là yếu tố quyết định sự phát triển nhân cách , giáo dục là van năng Quan điểm của John locke (là đại biểu của triết học duy vật duy cảm Anh) đưa ra nguyên lí “tabula- tấm bảng sạch’, linh hồn chúng ta khi mới sinh ra, có thể nói như một tờ giấy trắng, không có một kí hiệu hay ý niệm nào cả. mọi tri thức con người không phải là bẩm sinh, mà là kết quả của nhận thức. chúng dần có được nhờ kinh nghiệm. mọi quá trình nhận thức đều phải xuất phát từ các co quan trong cảm tính. Linh hồn con ngưởi không đơn giản là tấm bảng sạch hoàn toàn thụ động trướn hoàn cảnh xung quanh, mà có vai trò nhất định. Thuyết này cho rằng trẻ em như tờ giấy trắng, môi trường và giào dục tác động như thế nào thì sẽ phát triển như thế ấy. sai lầm cơ bản của thuyết này là tuyệt đối hóa ảnh hưởng của yếu tố môi trường và giáo dục Giáo dục tự do Quan niệm của Jean Jacques Rousseau (nhà triết học khai sáng Pháp) đề nghị nên giáo dục xã hội theo nguyên tắc tự nhiên và nguyên tắc tự do. Theo ông, khi mới sinh ra con người có những khuynh hướng tự nhiên và tích cực.Ông cho rằng trẻ em không thụ động tiếp nhận các chỉ dẫn của người lớn, mà tham gia một cách tích cực và chủ động vào việc hình thành trí tuệ và nhân cách của mình. Mọi sự can thiệp của người lớn vào sự phát triển của trẻ em đều có hại. vậy lên ông mướn giáo dục theo nguyên tắc tự do. Quan điểm của Macxit về vai trò của giáo dục T Đóng góp lớn lao nhất của Mác về mặt giáo dục là đã phát hiện ra bản chất xã hội của con người. Đó chính là quy luật của sự phát triển và giáo dục nhân cách con người trong xã hội loài người, đó là sự khác biệt giữa con người và con vật. - C.Mác đã tiếp thu tất cả những quan điểm duy vật của nhân loại về con người và bản chất người. Mác cũng thừa nhận rằng con người là một thực tế tự nhiên, là một thực thể sinh vật do quá trình biến đổi của hoàn cảnh tự nhiên và hoàn cảnh xã hội. - Song, Mác lại khẳng định hoàn cảnh tạo ra con người trong chừng mực con người tạo hoàn cảnh , nghĩa là cái hoàn cảnh tạo ra con người ấy cũng chính là do con người đã tạo ra. - Theo Mác, trong quá trình hình thành nhân cách, điều kiện quyết định là hoạt động thực tiễn, hoạt động lao động và hoạt động xã hội. Đó là quan điểm biện chứng để phân biệt Mác với các quan điểm phi Mác xít. Hoạt động xã hội và lao động vừa là điều kiện để hình thành nhân cách vừa là thước đo, đánh giá tính chủ thể của mỗi cá nhân. - Đối với giáo dục, giai cấp vô sản ý thức sâu sắc rằng muốn đào tạo con người phát triển toàn diện, muốn xây dựng một nền giáo dục mới thì phải tiến hành cuộc cách mạng chính trị, cách mạng xã hội làm thay đổi quan hệ xã hội, thiết lập xã hội mới, và chỉ trên quan hệ xã hội đó mới xây dựng nhân cách của con người xã hội tương lai được. - Luận đề của Mác về bản chất xã hội của con người là cơ sở lý luận để các nhà giáo dục hiểu rõ bản chất, động lực, các quy luật của quá trình giáo dục, dạy học xã hội chủ nghĩa. Chỉ có quán triệt sâu sắc luận đề bản chất xã hội của con người mới có thể giải thích được tất cả những hiện tượng giáo dục vô cùng phức tạp đã xảy ra trong xã hội loài người. - Ở góc độ giáo dục, phải thấy hết những đóng góp của Mác là cung cấp cho khoa học giáo dục một phương pháp luận vững chắc để xây dựng lý luận giáo dục xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền giáo dục xã hội chủ nghĩa và tổ chức thực hiện quá trình giáo dục con người của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. T Mác đã vạch ra quy luật tất yếu của xã hội tương lai là đào tạo, giáo dục những con người phát triển toàn diện. - Con người phát triển toàn diện là mơ ước của con người, vì con người có ý thức vươn tới sự toàn diện và đó là sự khác biệt giữa con người và con vật. - Tri thức tối thiểu và cũng là ước muốn tối đa của người nguyên thủy là kinh nghiệm lao động hái lượm, săn bắt, tổ chức thị tộc, bộ lạc, lễ nghi tôn giáo. Đến khi xã hội loài người phân chia giai cấp thì quá trình giáo dục cũng được phân chia theo giai cấp. - Việc đào tạo, giáo dục các thế hệ phát triển toàn diện là điều kiện để phát triển xã hội xây dựng kinh tế, văn hóa, khoa học kĩ thuật. - Theo tinh thần của Mác, con người phát triển toàn diện sẽ là mục đích của nên giáo dục cộng sản chủ nghĩa, và con người phát triển toàn diện là người phát triển đầy đủ, tối đa năng lực sẳn có về tất cả mọi mặt đạo đức, trí tuệ, thể chất, tình cảm, nhận thức, năng lực, óc thẩm mỹ và có khả năng cảm thụ được tất cả những hiện tượng tự nhiên, xã hội xảy ra xung quanh, đồng thời có thể sáng tạo ra những cái mới theo khả năng của bản thân. - Vì vậy, con người phát triển toàn diện theo quan điểm của Mác, trước hết phải là sự phát triển không ngừng của tất cả các mặt. song, điều đó không mâu thuẩn với sự phát triển thiên hướng, phát triển năng khiếu chuyên biệt, mà ngược lại, sự phát triển các mặt là tạo điều kiện cho các năng lực chuyên biệt càng hoàn thiện và càng phát triển tốt hơn. T Mác đã vạch ra những nguyên tắc cơ bản để đào tạo, giáo dục những con người phát triển toàn diện của xã hội tương lai. - Đó là sự kết hợp một cách hợp lý giữa giáo dục đạo đức, thể dục, trí dục và lao động sản xuất, đó là sự kết hợp giữa lao động sản xuất và thực hiện giáo dục bách khoa (giáo dục kĩ thuật tổng hợp) trong việc tổ chức cho trẻ em tham gia hoạt động thực tiển, hoạt động xã hội. - Mác đã đi đến nhận định rằng trong xã hội tương lai “lao động kết hợp với trí dục và thể dục, đó không những là một phương pháp làm tăng thêm sản xuất xã hội mà còn là một phương pháp duy nhất và độc nhất để đào tạo những con người phát triển toàn diện”. - Theo Mác, việc tổ chức lao động sản xuất cần để cho trẻ vận dụng những tri thức tiếp thu được qua quá trình trí dục, phải đảm bảo hiệu quả kinh tế và nhằm phát triển thể lực và giáo dục đạo đức, cần phát huy ý thức tự giác của trẻ và xuất phát từ đặc điểm tâm lý của trẻ. - Giáo dục kĩ thuật tổng hợp liên quan mật thiết với giáo dục lao động và tổ chức lao động sản xuất. Theo Mác, xã hội tương lai mới có đủ điều kiện thực hiện giáo dục kĩ thuật tổng hợp. giáo dục kĩ thuật tổng hợp vừa là một bộ phận hợp thành nội dung các mặt giáo dục, đồng thời lại vừa như một nguyên tắc của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. - Ngày nay, nền sản xuất công nghệ hiện đại ở các nước phát triển đã buộc phải thực hiện những lý tưởng giáo dục kĩ thuật tổng hợp theo quan điểm của C.Mác. T Những ý kiến của Mác về nội dung giáo dục cộng sản chủ nghĩa. - Theo Mác, giáo dục gồm 3 bộ phận + Trí dục + Thể dục, tức giáo dục thể chất và huấn luyện quân sự + Giáo dục bách khoa ( là giáo dục kĩ thuật) tức là giới thiệu các nguyên tắc cơ bản về quá trình sản xuất và hướng dẫn cho trẻ em và thanh niên có thói quen sử dụng tất cả các công cụ sản xuất đơn giản - Một nền sản xuất đáp ứng được những đòi hỏi không ngừng của con người thì khoa học kĩ thuật giữ vị trí quyết định. Muốn vậy nền giáo dục của xã hội tương lai ấy phải lấy trí dục làm nhiệm vụ chủ yếu. - Về nội dung của các mặt giáo dục, Mác cũng có những ý kiến, tuy chưa thật cụ thể, nhưng đó là những phương hướng quan trọng. + Về trí dục • Mác đòi hỏi phải trang bị cho thế hệ trẻ những tri thức khoa học hiện đại vì “khoa học” là lực lượng thúc đẩy cách mạng trong lịch sử. • Mác yêu cầu việc giảng dạy trong nhà trường phải cung cấp những tri thức hệ thống, cơ bản; những quy luật, những tri thức hiện đại để con người có khả năng vận dụng những tri thức đó vào cải tạo tự nhiên và xã hội. + Về đức dục • Đóng góp lớn lao nhất của Mác là ở chỗ vạch trần tính chất giai cấp của đạo đức, lên án sâu sắc đạo đức tư sản. • Hiểu theo quan điểm của Mác, không chỉ là hình thành ở thế hệ trẻ những chuẩn mực của quan hệ cư xử như đức hạnh, mà đó là lập trường tư tưởng, ý thức giai cấp, đó là nhân sinh quan, thế giới quan khoa học. + Về thể dục và quân sự • Là một mặt nhằm đào tạo con người phát triển toàn diện, góp phần tích cực thúc đẩy và hoàn thiện trí tuệ, tâm hồn… và làm cho con người có đủ khả năng làm chủ bản thân, tham gia vào các quá trình sản xuất và hoạt động xã hội. • Làm cho con người vui tươi, hạnh phúc giúp con người nâng cao hiệu quả, hiệu suất của hoạt động và lao động sản xuất, sức nhạy bén, nhanh nhẹn, chính xác, tính kỹ luật, sự dũng cảm... được phát triển. • Mác cũng quan niệm rất đúng đắn rằng giáo dục thể chất và quân sự phải phù hợp với đặc điểm tâm lý, sinh lý lứa tuổi và ngoài các hình thức thể dục bình thường, nên tăng cường du lịch, kết hợp với tổ chức lao động sản xuất hợp lý. + Về mĩ dục • cũng như thể dục Mác coi đó là một thành phần nhằm hình thành con người toàn diện. • muốn giáo dục, đào tạo những con người có nhận thức đúng, tình cảm trong sáng không thể coi nhẹ mĩ học. yêu cầu của mĩ dục là hình thành quan điểm thẩm mĩ đúng đắn, tình cảm thẩm mĩ sâu sắc và phải có khả năng sáng tạo ra cái đẹp, đánh giá đúng giá trị nghệ thuật của người khác sáng tạo. Giáo dục thẩm mĩ phải thông qua dạy học và hoạt động nghệ thuật. ♣ Kết Luận - Ngoài những nội dung chủ yếu ở trên Mác còn là người đặt nền móng cho những luận điểm rất cơ bản của giáo dục vô sản như: vấn đề quần chúng với giáo dục, bản chất của giáo dục và tính chất của nhà trường, chủ nghĩa nhân đạo trong giáo dục, vấn đề tôn giáo trong nhà trường, những vấn đề tâm lý học trong giáo dục… - Tuy những vấn đề trên chưa cụ thể chi tiết nhưng những ý kiến của Mác là phương hướng, là kim chỉ nam, có tính nguyên tắc để phân biệt lý luận giáo dục xã hội chủ nghĩa với giáo dục tư sản về bản chất. - Những tư tưởng giáo dục của Mác là kim chỉ nam cho giai cấp vô sản trong hoat động thực tiển, những tư tưởng đó là lần đầu tiên được thử nghiệm sau khi công xã Paris được thành lập và được thực hiện một cách triệt để từ sau cách mạng tháng 10 – 1917. Giáo dục định hướng và tổ chức dẫn dắt quá trình hình thành, phát triển nhân cách của cá nhân Xác định mục đích giáo dục cho cả hệ thống, cho từng bậc học, trường học và từng hoạt động giáo dục cụ thể. Xây dựng nội dung, chương trình, kế hoạch dạy học và giáo dục, lựa chọn phương pháp, phương tiện và hình thức giáo dục đáp ứng mục đích giáo dục, phù hợp với nội dung và đối tượng, điều kiện giáo dục cụ thể. Tổ chức các hoạt động giao lưu. Đánh giá, điều chỉnh nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục… Sự định hướng của giáo dục không chỉ thích ứng với những yêu cầu của xã hội hiện tại mà còn phải thích hợp với yêu cầu phát triển của tương lai để thúc đẩy sự phát triển của xã hội. vì vậy, giáo dục phải đi trước, đón đầu sự phát triển. Muốn đi trước, đón đầu sự phát triển, giáo dục căn cứ trên những dự báo về gia tốc phát triển của xã hội, thiết kế nên mô hình nhân cách của con người thời đại với hệ thống định hướng giá trị tương ứng. Giáo dục can thiệp, điều chỉnh các yếu tố khác nhằm tạo sự thuận lợi cho quá trình phát triển nhân cách Các yếu tố bẩm sinh- di truyền, môi trường và hoạt động cá nhân đều có ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách ở các mức độ khác nhau, tuy nhiên yếu tố giáo dục lại có thể tác động đến cá yếu tố này để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển nhân cách. Đối với di truyền Giáo dục tạo điều kiện thuận lợi để những mầm mống của con người có trong chương trình gen được phát triển. VD: trẻ được di truyền cấu tạo cột sống với dáng đi thẳng nhưng nếu không có sự giáo dục thì sẽ không đi thẳng được như trường hợp của em bé người Ấn Độ sống với chó sói nên di chuyển bằng tứ chi. Giáo dục rèn luyện, thúc đẩy sự hoàn thiện của các giác quan và vận động cơ thể. Giáo dục phát hiện những tư chất của cá nhân và tạo điều kiện đẻ phát huy năng khiếu thành năng lực cụ thể. Giáo dục tìm cách khắc phục những khiếm khuyết của cơ thể để khạn chế những khó khăn của người khuyết tật trong sự phát triển nhân cách. Ngoài ra, giáo dục còn góp phần tăng cường nhận thức trong xã hội về trách nhiệm của cộng dồng đối với người khuyết tật và tổ chức cho toàn xã hội chia sẻ, hỗ trợ người khuyết tật vượt qua khó khăn và bất hạnh của mình. Đối với môi trường Giáo dục tác động đến môi trường tự nhiên qua việc trang bị kiến thức và ý thức bảo vệ môi trường của con người,, khắc phục được sự mất cân bằng sinh thái, làm cho môi trường tự nhiên trở nên trong lành, đẹp đẽ hơn. Giáo dục tác động đến môi trường xã hội lớn thông qua các chức năng kinh tế- xã hội, chức năng chính trị- xã hội, chức năng tư tưởng văn hóa của giáo dục. Giáo dục còn làm thay đổi tính chất của môi trường xã hội nhỏ như gia đình, nhà trường, khu phố,…Để các môi tường nhỏ tạo nên những tác động lành mạnh, tích cực đến sự phát triển nhân cách con người Đối với hoạt động cá nhân Giáo dục tổ chức nhiều loại hình hoạt động giao tiếp bổ ích, lành mạnh nhằm phát huy những phẩm chất và năng lực của cá nhân. VD: Sân chơi ở các nhà văn hóa cho mội lứa tuổi, các câu lạc bộ xây dựng gia đình hạnh phúc tại địa phương - Công tác giáo dục luôn xây dựng các mối quan hệ giao tiếp tích cực giữa thầy trò, giữa bạn bè với nhau đồng thời tổ chức và định hướng cho trẻ tham gia vào các hoạt động chủ đạo ở từng lứa tuổi để thúc đẩy sự phát triển nhân cách. - Giáo dục tạo tiền đề cho tự giáo dục ở cá nhân. Tự giáo dục thể hiện tính chủ thể của cá nhân khi con người đáp ứng hoặc tự vận động nhằm chuyển hóa các yêu cầu của giáo dục thành phẩm chất và năng lực của bản thân. Trình độ, khả năng tự giáo dục của cá nhân phần lớn bắt nguồn từ sự định hướng của giáo dục. Giáo dục đúng đắn và đầy đủ sẽ giúp con người hình thành khả năng tự giáo dục, đè kháng trước những tác động tiêu cực của xã hội để phát triển nhân cách mạnh mẽ. “chỉ có những người biết tự giáo dục mới là những người thực sự có giáo dục.” (Bennet-Anh) Điều kiện để giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự phát triển nhân cách - Như vậy thông qua các tác động đón đầu sự phát triển,giáo dục koong chỉ tác động sự phát triến nhâ cách cá nhân mà còn thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên giáo dcj không phải là vạn năng, không thể một mình quyết định toàn bộ tiến trình phát triển nhân cách. Giáo dục không chỉ là một trong các yếu ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển nhân cách thông qua những tác động có tính chủ đạo. Vì vậy, để giáo dục thực sự đóng vai trò chủ đạo đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cần có cách điều kiện sau: + Công tác dự báo về xu hướng phát triển của xã hội phải đưa ra những định hướng đúng đắn để giáo dục thực hiện đúng chức năngđón đầu sự phát triển. + Các yếu tố trong giáo dục phải thống nhất với nhau, nhà giáo dục phải giữ vai trò chủ đạo, người được giáo dục phải thể hiện vai trò chủ động. + Phải có sự kết hợp chặt chẽ ba lực lượng giáo dục: gia đình, nhà trường và xã hội, trong đó nhà trường đóng vai trò chủ đạo. Những yếu kèm của giáo dục thường có nguyên nhân từ sự thiếu phối hợp đồng bộ giữa ba lực lượng này. + Nhà giáo dục phải nắm vững đặc điểm tâm sinh lí của người được giáo dục. + Nhà giáo dục phải co phẩm chất và năng lực để làm tốt công tác giáo dục. Giáo dục qua từng thời kì lịch sử ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách con người. - Lịch sử là diễn biến có thật của sự vật, hiện tượng. Sự xuất hiện, tồn tại và biến đổi của sự vật, hiện tượng. Giáo dục thời kì công xã nguyên thủy Xã hội công xã nguyên thủy kéo dài hàng triệu năm. Sống dựa vào tự nhiên.Lao động rất đơn giản như săn bắn, hái lượm với công cụ chủ yếu chế tạo từ đá, cây và xương thú. Cuộc sống thấp kém, đói rét, bệnh tật và sự yếu đuối trước tự nhiên là nguyên nhân chủ yếu của sự phát triển rất chậm thời kì này. Xã hội thị tộc, đùm bọc nhau theo dòng mậu hệ. Bước chuyển quan trọng của người nguyên thủy là chuyển từ săn bắn, hái lượm sang trồng trọt và chăn nuôi. Việc tìm ra lửa là phát kiến vĩ đại của người nguyên thủy. Lửa, lao động và sự phát triển của công cụ lao động cùng với ngôn ngữ đã làm phát triển xã hội nguyên thủy. Cuối thời kì này gia đình xuất hiện và xã hội thay đổi. -Kinh nghiệm lao động và sinh hoạt xã hội được tiếp thu trực tiếp trong cuộc sống. -Học gắn liền với sự tồn tại, lao động và sinh hoạt xã hội. -Học bằng cách quan sát, bắt chước; tự nhiên, bột phát, thực tiễn, hành động là cách học của con người nguyên thủy. -Chưa có trường học và người dạy -Cuối thời kì này mới bắt đầu xuất hiện những người chuyên lo cho công việc GD. -Nội dung giáo dục là những kinh nghiệm sản xuất, chống lại sự khắc nghiệp của tự nhiên, thú dữ, phong tục tập quán, lễ nghi tôn giáo, luật lệ công xã. -Phương pháp GD là lĩnh hội trực tiếp, phương tiện chủ yếu là lời nói, trực quan và hoạt động thực tiễn Giáo dục thời kì chiếm hữu nô lệ Xuất hiện nhà trường là nơi chăm sóc giáo dục cho con chủ nô, đào tạo người lính. Xuất hiện những người làm nhiệm vụ giáo dục. Tồn tại hai loại giáo dục: Giáo dục của tầng lớp trên Giáo dục của những người bình dân và nô lệ. Giao dục mang tính giai cấp. Phát triển giáo dục hiện nay Hai mươi năm từ năm 1986 đến năm 2005 ngành giáo dục đã thực hiện đổi mới giáo dục phục vụ cho đường lối đổi mới kinh tế xã hội do Đảng ta đề ra. Giáo dục Việt Nam đã quán triệt quan điểm ” Giáo dục là quốc sách hàng đầu “, ” Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển “. Kết quả của đổi mới giáo dục từ 1986 đến 2005, đặc biệt trong 10 năm bản lề nước ta có những tự hào to lớn. ít nhất có thể nêu lên bốn thành quả lớn sau đây: - Giáo dục phục vụ có kết quả nhất định cho đào tạo nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hoá và hội nhập quốc tế. - Giáo dục phục vụ cho xoá đói giảm nghèo thực hiện công bằng, bình đẳng xã hội. - Giáo dục phục vụ cho sự chấn hưng văn hoá giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. - Giáo dục phục vụ cho việc giữ vững an ninh chính trị trong đời sống cộng đồng. Giáo dục góp phần tạo ra sự bình ổn, ổn định của cộng đồng làm tăng năng xuất lao động xã hội thì thành tựu của giáo dục là rất to lớn. 1. Những “lỗ hổng” trong giáo dục nhân cách trẻ em - Người lớn cứ hay ngỡ ngàng trước những hành động bạo lực, trước sự vô cảm, vô văn hóa của một bộ phận trẻ em mà không tĩnh tâm để nhìn lại xem họ đã giáo dục trẻ em như thế nào? Người lớn đã quên mất rằng, một đứa trẻ ngoan ngoãn, chăm chỉ, hiền lành không phải sinh ra đã được như vậy mà nhờ được người lớn chăm sóc giáo dục. Bác Hồ cũng đã từng viết “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn/ Phần nhiều do giáo dục mà nên” (Nửa đêm- Nhật ký trong tù). Một đứa trẻ lớn lên, hình thành được một tính cách tốt hay xấu trước hết nó phụ thuộc vào sự giáo dục của người lớn trong gia đình, nhà trường mà các em học và môi trường xã hội, các hoạt động xã hội mà trẻ em tham gia. Nhìn vào “ba lực lượng” giáo dục này nhiều lúc chúng ta phải giật mình bởi cách giáo dục còn thiên lệch, khắc kỷ hoặc là buông lỏng một cách đến vô tâm. Với gia đình là nền tảng, là tế bào của xã hội, và trẻ em là người được học những bài học đầu tiên và thường xuyên về nhân cách trong gia đình. Thế nhưng, trước sự tác động của cuộc sống hiện đại, trước nhu cầu mưu sinh của nhiều gia đình mà giáo dục con cái bị sao nhãng. Có gia đình, nhất là ở nông thôn, bố mẹ sinh con gửi lại ông bà để đi làm kinh tế. Chỉ lo tiền cho con mà không biết rằng con cái thiếu thốn tình cảm, cần tình thương, sự ôm ấp vỗ về, động viên an ủi của cha mẹ khi chúng gặp những trở ngại trong cuộc sống. Những đứa trẻ thiếu tình thương thường sống lạnh lùng, vô cảm.. Muốn con ngoan học tốt nhưng cha mẹ nhiều khi lại không dành thời gian để quan tâm đến con cái. Ngày thì bận làm việc, tối xem vô tuyến hoặc ngủ, để cho trẻ loay hay nơi bàn học muốn làm gì thì làm. Với cách “quan tâm” đến con cái như vậy nên chưa bao giờ như bây giờ một không khí cô đơn bao trùm lên giới trẻ ngay chính trong ngôi nhà với người thân của mình lại đậm đặc như vậy. (nguồn ảnh: Thethaovanhoa.vn) Trẻ em cảm thấy cô đơn nên chúng phải tìm cách giải trí bằng cách kết thân với bạn bè, bằng các trò chơi Game online…Ông bà ta đã từng dạy “chọn bạn mà chơi” nhưng trong lúc cô đơn lại thiếu sự định hướng của người lớn thì chúng gặp ai cũng có thể kết thân được, tốt có, xấu có. Thậm chí có em còn không phân biệt được đâu là tốt, là xấu nên còn có những hành động làm theo bạn bè một cách mù quáng, thiếu bản lĩnh, học theo những thói xấu dễ dẫn tới phạm pháp, sa ngã. Không kết bạn ngoài đời thì chúng kết bạn ảo trên mạng hoặc chơi game bạo lực. Nếu bất kỳ ai đi vào bất kỳ một quán “net” nào cũng thấy trên 90% là thanh thiếu niên đang chơi game online mà phần lớn là game bạo lực. Điều này nó ảnh hưởng đến nhân cách một cách tiêu cực nhiều hơn là tích cực. Các vụ phạm tội do thanh thiếu niên gây ra đang gia tăng (ảnh minh họa) Ở thành thị có đôi ba tiệm cho thuê sách truyện để các em thuê đọc. Đây cũng là một cách giải trí tốt nhưng thị hiếu của các em lại thích truyện tranh mà truyện tranh cho trẻ em hiện nay cũng còn nhiều điều đáng bàn như ngôn ngữ phần lớn là khẩu ngữ (ít nhiều còn ảnh hưởng đến sự trong sáng của tiếng Việt), truyện tranh có rất nhiều chuyện của người lớn, hình ảnh khiêu gợi, kích thích trí tò mò của các em thì không đúng lúc. Ở nông thôn thì gần như không có sách để cho các em đọc. Các bưu điện văn hóa xã toàn sách dành cho người già và sách kỹ thuật nông nghiệp không đủ sức giữ chân các em. Rất ít xã có thư viện riêng vì thế các em không được giải trí lành mạnh bằng đọc sách, không học được lời hay lẽ phải, tri thức tiến bộ của nhân loại từ những trang sách. Đây cũng là một lỗ hổng trong giáo dục và cũng là một thiệt thòi lớn cho các em hiện nay. Đối với nhà trường hiện nay thì xu hướng vẫn còn coi trọng dạy chữ hơn dạy người. Các em gần như phải học cả ngày. Học sinh phổ thông từ lớp 1 cho đến lớp 12 ngoài học buổi chính còn học buổi hai (nâng cao, củng cố kiến thức). Dưới áp lực của thi cử và các chỉ tiêu nhà trường đặt ra, mà thường là chỉ tiêu về chất lượng học lực đã làm cho giáo viên phải đầu tư nhiều vào việc truyền thụ kiến thức văn hóa nên còn rất ít thời gian cho giáo  dục đức, thể, mĩ. Dẫn đến trẻ em cũng căng thẳng, mệt mỏi chán chường, sợ học và giảm hứng thú vui vẻ khi đến trường nên hiệu quả của việc giáo dục kỹ năng sống cho các em còn nhiều hạn chế. Để khắc phục được những điều còn bất cập trong giáo dục nhân cách cho trẻ hơn ai hết người lớn phải thấy được trách nhiệm giáo dục con cái của chính mình. Tổ chức đoàn thanh niên (ở địa phương cũng như trong nhà trường) phải đẩy mạnh các hoạt động thường xuyên, phù hợp với nhu cầu và đáp ứng được yêu cầu của giới trẻ, tạo được môi trường tốt để giáo dục tình cảm, lí tưởng cũng như những kỹ năng sống mà các em cần. Nhà trường chú ý hơn đến giáo dục toàn diện, cân bằng các chỉ tiêu giáo dục để trẻ em được phát triển hài hòa có trí thức, có văn hóa và đời sống tâm hồn phong phú. III. Kết luận sư phạm - Nhà trường cần phải điều chỉnh nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục cho phù hợp. - Giáo viên phải là những tấm gương tốt cho trẻ noi theo                               - Các thầy cô giáo nên coi trọng việc khuyến khích các em vừa phấn đấu học tập tốt vừa có ý thức xây dựng tập thể, đối xử thân mật và sẵn lòng giúp đỡ bạn bè. - Các cấp quản lý giáo dục cần giảm nhẹ chương trình học tập chính khóa để nhà trường có điều kiện tổ chức hoạt động ngoại khóa, giúp cho việc học của các em trở nên sinh động, toàn diện, và thiết thực hơn Top of Form D/ Hoạt động cá nhân đối với sự phát triển và hình thành nhân cách trẻ. I. Khái niệm. 1. Hoạt động là gì? Theo A.N.Leonchev: Hoạt động là đơn vị của đời sống cá nhân, là khâu trung gian có chức năng phản ánh tâm lí và hướng dẫn chủ thể trong thế giới đối tượng. Dưới góc độ triết học: hoạt động là quan hệ biện chứng của chủ thể và khách thể. Trong quan hệ đó, chủ thể là con người, khách thể là hiện thực khách quan. Ở góc độ này, hoạt động được xem là quá trình mà trong đó có sự chuyển hóa lẫn nhau giữa hai cực” chủ thể - khách thể . Dưới góc độ sinh học: hoạt động là sự tiêu hao năng lượng thần kinh và bắp thịt của con người khi tác động vào hiện thực khách quan nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. Dưới góc độ tâm lí học: Hoạt động là mối quan hệ tác động qua lại giữa con người( chủ thể) và thế giới( khách thể) để tạo ra sản phẩm cả về phía thế giới, cả về phía con người. Con người sống luôn luôn hoạt động. Giống như tế bào sống là đơn vị cấu tạo nên cơ thể sống của cá thể, hoạt động là đơn vị tạo nên toàn bộ đời sống của cá nhân và xã hội. Đời sống của mỗi cá nhân và xã hội được hinh thành bởi một dòng liên tục và chuyển hóa lẫn nhau của các hoạt động. Trong đó, mỗi hoạt động là một đơn vị trọn vẹn, thực hiện chức năng nhất định. Các cá nhân và xã hội chỉ tồn tại, phát triển bởi hoạt động và được biểu hiện thông qua hoạt động. Cuộc sống của con người là một chuỗi hoạt động, bởi lẽ hoạt động là phương thức tồn tại của con người và cũng là con đường hình thành và phát triển nhân cách. 2. Hoạt động cá nhân là gì? Hoạt động là phương tiện để cá nhân và đối tượng tác động với nhau. Trong đó, cá nhân một mặt, cải tạo và sáng tạo ra thế giới, mặt khác, sáng tạo và cải tạo, điều chỉnh tâm lí, nhân cách của mình. Hoạt động cá nhân được coi là nhân tố quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triển nhân cách. II. Vai trò của yếu tố hoạt động cá nhân đối với sự hình thành và phát triển nhân cách. Yếu tố hoạt động cá nhân ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển nhân cách bị chi phối bởi 2 tác động: hoạt động của cá nhân và sự giao tiếp của cá nhân. 1. Hoạt động của cá nhân. Hoạt động cá nhân làm cho con người nhận thức được hiện thực, kích thích hứng thú niềm đam mê, sáng tạo và làm nảy sinh những nhu cầu mới, thụôc tính tâm lý mới,...trong cá nhân mỗi con người. Dedicated to Có thể nói hoạt động là yếu tố quyết định sự hình thành và phát triển tâm lí, phát triển nhân cách của con người nhất là đối với trẻ em. Bởi vì thông qua hoạt động và bằng hoạt động con người lĩnh hội kinh nghiệm xã hội lịch sử bằng hoạt động của bản thân để hình thành nhân cách. Mặt khác cũng thông qua hoạt động con người xuất tâm "lực lượng bản chất" vào xã hội, tạo nên đại diện nhân cách của mình ở người khác trong xã hội. Thông qua những loại hình hoạt động tích cực, tự giác của người học mà nhân cách phát triển. Vd: trẻ phải học toán, học viết chữ trẻ mới có thể tiếp thu kiến thức hình thành nhân cách tự giác học, chăm chỉ,... Mọi hoạt động hình thành nhân cách đều có nguồn gốc từ hoạt động thực tiễn ở bên ngoài, do hoạt động bên ngoài chuyển vào bên trong theo cơ chế nhập tâm mà có. Vì vậy nếu con người không than gia vào hoạt động thì không có sự phát triển nhân cách. Sự phát triển nhân cách của mỗi người phụ thuộc vào sự tích cực hoạt động trên bình diện hoạt động bên ngoài và hoạt động của trí tuệ bên trong. Hoạt động là phương tiện để bộc lộ nhân cách. Nhân cách chỉ có thể được hình thành và thể hiện rõ qua hoạt động. Sự tích cực hoạt động của mỗi cá nhân là cơ sở để mỗi người tự ý thức được rõ về mình về người cùng tham gia hoạt động, trên cơ sở đó đẻ tự hoàn thiện mình. Sự hình thành nhân cách của con người phụ thuộc vào hoạt động chủ đạo ở mỗi thời kỳ nhất định. Muốn hình thành và phát triển nhân cách con người phải tham gia nhiều hoạt động khác nhau trong đó đặc biết chú ý vai trò của hoạt động chủ đạo. Vì thế phải lựa chọn tổ chức và hướng dẫn hoạt động đảm bảo tính giáo dục và tính hiệu quả đối với việc hình thành và phát triển nhân cách. Hoạt động là nguồn quan trọng nhất cung cấp cho học sinh hệ thống kinh nghiệm và ứng xử xã hội  Trẻ em trong quá trình tham gia tích cực vào các loại hình hoạt động, với các mối quan hệ đa dạng trong xã hội, các giá trị văn hóa của loài người, từ đó các phẩm chất, tính cách, năng lực được hình thành. Hoạt động của trẻ bao gồm: học tập, vui chơi, văn nghệ, thể dục thể thao, lao động và hoạt động tập thể. 2. Giao tiếp với nhân cách.  2.1 Khái niệm về giao tiếp. Giao tiếp là một dạng hoạt động. Giao tiếp là sự tác động qua lại giữa người với người trong xã hội hay nói cách khác giao tiếp là quá trình xác lập và vận hành các quan hệ người – người, hiên thực hóa các quan hệ xã hội giữa chủ thể này với chủ thể khác. 2.2 Vai trò của giao tiếp. Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội loài người, nhu cầu giao tiếp là một trong những nhu cầu cơ bản xuất hiện sớm nhất ở con người do đó không thể thiếu trong sự phát triển nhân cách. Vd: Khi còn trong bụng mẹ, trẻ đã có nhu cầu giao tiếp, và cụ thể ở đây chính là người mẹ, sau khi được sinh ra thì nhu cầu đó ngày càng phát triển và mở rộng dần; bố, ông ,bà,... -Nhờ giao tiếp con người gia nhập vào các quan hệ xã hội, lĩnh hội nền văn hoá xã hội chuẩn mực xã hội, làm thành bản chất con nguời, đồng thời thông qua giao tiếp con người đóng góp tài lực của mình vào kho tàng nhân loại và của xã hội để từ đó tạo nên bản chất con người, làm cho nhân cách phát triển. Và nhất là đối với trẻ em thì ngoài yếu tố để tồn tại thì nó còn giúp trẻ phát triển tâm lí ổn định. Vd: Cho trẻ tham gia các hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao, bé khỏe bé ngoan,...trẻ sẽ ý thức được vai trò của mình, trẻ sẽ năng động hơn, thích giao lưu, tiếp xúc với mọi người, không sợ khi đứng trước đám đông, hình thành trong trẻ sự tự tin,... -Trong giao tiếp con người không chỉ nhận thức người khác, nhận thức các quan hệ xã hội mà còn nhận thức được chính bản thân mình, tự đối chiếu so sánh mình với người khác, với chuẩn mực xã hội, tự đánh gía bản thân mình như là một nhân cách để hình thành một thái độ cảm xúc nhất định đối với bản thân, hay nói khác đi qua giao tiếp .con người hình thành năng lực ý thức.   Vd: Trẻ tự so sánh mình vơí các bạn về học lực, sức khỏe, khéo tay, múa dẻo,... để từ đó hình thành sự quýêt tâm cố gắng, nỗ lực, chăm chỉ không thua kém bạn để làm ông bà, bố mẹ vui lòng và mình cũng được vui và được thưởng. Giao tiếp của cá nhân được thể hiện qua các mối quan hệ sau: Quan hệ giữa cá nhân với gia đình. Quan hệ giữa cá nhân với bạn bè, mọi người xung quanh. Quan hệ giữa cá nhân với xã hội. Quan hệ giữa cá nhân với gia đình. Gia đình là một nhóm nhỏ xã hội, các thành viên trong nhóm có quan hệ gắn bó về hôn nhân hoặc huyết thống,tâm- sinh lý, cùng có chung các giá trị vật chất, tinh thần ổn định trong các thời điểm lịch sử nhất định. Khi đứa trẻ ra đời , trước hết là người mẹ và sau đó là cha và mọi người thân khác trong gia đình đã liên kết lại tạo thành môi trường văn hóa- xã hội đầu tiên của cuộc đời mỗi người- môi trường gia đình. Đây thực sự là một môi trường xã hội đầu tiên và gần gũi nhất của các cá nhân, có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển, nhất là trẻ em. Trong đó vai trò trung tâm thuộc về nhân cách và sự giáo dục của người mẹ. Gia đình là môi trường và tác nhân quan trọng đảm bảo sự sống ,chăm sóc và giáo dục con người đạt được tới mức tối đa các giá trị xã hội cơ bản; là màng lọc giúp con người khắc phục được những tác động tự phát của những yếu tố tiêu cực ngoài xã hội, giúp con người thích ứng với cuộc sống phức tạp và đầy biến động. Gia đình văn hóa, sống lành mạnh, sống có chuẩn mực đạo đức là tấm gương để con cái noi theo. b.Quan hệ giữa cá nhân với bạn bè và nhóm Nhân cách của con người còn bị tác động bởi sự giao tiếp với bạn bè ,với những người xung quanh. khi con người có sự tương tác với bạn bè và người xung quanh thì các mô hình kĩ năng xã hội cơ bản và cách ứng xử của con người Ví dụ:Những trẻ em quan hệ ít với bạn bè trong thời kì thơ ấu thường sau này dễ bị rối loạn nghiêm trọng về cảm xúc và hành vi .Trong nhóm bạn cùng lớp ,những trẻ bị các bạn xa lánh, từ bỏ,khi lớn lên sẽ gặp các khó khăn về tâm lý, từ đó có nguy cơ cao về lệch chuẩn nhận thức xã hội, hành vi trong ứng xử (có vấn để trong nhận định ,đánh giá các vấn đề xã hội và có các hành vi trộm cắp hay các hành vi phạm pháp khác). Con người thường bắt trước các khuôn mẫu hành vi của người khác, trước hết và gần gũi là hành vi của bạn, nên có thể học ,bắt chước bạn cả những hành vi tốt và không tốt. Ví dụ: Nếu đứa trẻ nhìn thấy bài kiểm tra của bạn có hình vẽ và được cô giáo cho điểm cao, trong bài kiểm tra trẻ sẽ cố gắng vẽ hình để được điểm cao như bạn. Bạn bè là tấm gương tốt nhất để cá nhâ soi và phát hiện ra chính mình. Trong quá trình tương tác với bạn , các hành vi của con người được cá nhân tiếp nhận và phản ứng theo sự cảm nhận của cá nhân , nhờ quan sát các phản ứng đáp lại mà cá nhân nhận ra hiệu quả tác động của mình, từ đó điều chỉnh , tăng cường hoặc làm mất nó. Quan hệ giữa cá nhân với xã hội Nhân cách con người được hình thành và phát triển trong môi trường xã hội mà ta gọi là các tập thể.Tập thể là một nhóm người, một bộ phận của xã hội được thống nhất lại theo những mục đích chung phục tùng các mục đích của xã hội. Tập thể có vai trò rất lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách.Trước hết, tập thể giúp cá nhân tìm thấy chỗ đứng của mình và thõa mãn nhu cầu hoạt đông, giao tiếp. Vì vậy, hoạt động tập thể là điều kiện, đồng thời là phương thức thể hiện và hình thành những năng khiếu, năng lực và các phẩm chất trong nhân cách.Tập thể tác động đến nhân cách qua hoạt động cùng nhau, qua dự luận tập thể,truyền thống tập thể, bầu không khí tập thể.Nhờ vậy, nhân cách của mỗi cá nhân liên tục được điều chỉnh, điều khiển cũng như phải thay đổi để phù hợp với các quan hệ xã hội mà cá nhân tham gia. Ngược lại, mỗi cá nhân tác động tới cộng đồng, xã hội, tới cá nhân klhác thông qua tập thể.Chính vì thế, trong giáo dục người ta thường vận dụng nguyên tắc giáo dục trong tập thể và bằng Một môi trường xã hội lành mạnh, như nền dân chủ, các quan hệ xã hội, điều kiện văn hoá - tinh thần của xã hội có sự phát triển hài hoà… thì sẽ tạo điều kiện cho tính tích cực của nhân cách phát huy. *Kết luận: Tóm lại giao tiếp là hình thức đặc trưng cho mối quan hệ giữa người và người, một nhân tố cơ bản của việc hình thành và phạt triển tâm lý ý thức, nhân cách. Song hoạt động và giao tiếp của con người chỉ có thể diễn ra trong công đồng, trong nhóm và tập thể. Như vậy , hoạt động và giao tiếp cá nhân là yếu tố trực tiếp quyết định đối với sụ hình thành và phát triển nhân cách.Con người luôn sống trong môi trường nhưng môi trường không quyết định nhân cách của con người mà chính những hoạt động và các mối quan hệ giao tiếp của cá nhân trong môi trường đó mới chi phối đến đời sống tâm lý và hình thành nhân cách của cá nhân.Ngạn ngữ Pháp có một câu nói “anh hãy cho tôi biết bạn của anh là ai,tôi sẽ cho anh biết anh là người như thế nào.” Như vậy, có thể nói, sự hình thành và phát triển nhân cách là một quá trình lâu dài và phức tạp. Trong quá trình đó, giữa các yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài, giữa cái sinh học và cái xã hội thường xuyên tác động lẫn nhau và vai trò của mỗi yếu tố đó thay đổi trong từng giai đoạn phát triển của mỗi người. Trong quá trình sống, con người có được những kinh nghiệm sống, niềm tin, thói quen... và ngược lại, khi tiếp nhận bất cứ việc gì, nhân cách cũng dựa trên chuẩn mực xã hội để điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp. Không chỉ thế, họ còn dựa vào những cái bên trong, những kinh nghiệm của mình để đánh giá, tiếp nhận hay gạt bỏ cái bên ngoài. Như thế, quá trình này luôn gắn với năng lực tự đánh giá, tự ý thức của mỗi người và do vậy, gắn với quá trình tự giáo dục, quá trình thường xuyên tự hoàn thiện mình của nhân cách. Nhân cách không phải là một cái gì đó đã hoàn tất, mà là quá trình luôn đòi hỏi sự trau dồi thường xuyên. Hoạt động các nhân có liên quan mật thiết với các nhân tố di truyền, môi trường và giáo dục. Toàn bộ các nhân tố này họp lại thành một chỉnh thể và có tác động đồng bộ đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Trong đó: Nhân tố di truyền đóng vai trò tiền đề. Nhân tố môi trường đóng vai trò điều kiện. Nhân tố giáo dục đóng vai trò chủ đạo Và nhân tố hoạt động cá nhân đóng vai trò quyết định t III.Liên hệ sư phạm Hoạt động cá nhân được coi là nhân tố quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triển nhân cách. Do đó cần tổ chức tốt các loại hình hoạt động cho học sinh. Muốn vậy cần phải chú ý những điều sau đây: Cần tổ chức các hoạt động phong phú, đa dạng. Các hoạt động tổ chức cho học sinh phải vừa có giá trị xã hội, vừa mang ý nghĩa cá nhân đối với người tham gia hoạt động. Cần coi trọng việc xây dựng nhu cầu, động cơ hoạt động và mục đích hành độnh cho các em. Cần tạo ra không khí thi đua sôi nổi, phấn khởi để đạt những mục đích đè ra cho hoạt động. Phát huy cao độ tính tự lập, tính tích cực, tính tự giác,...của các em, biết đề ra kế hoạch, phân công, kiểm tra, đôn đốc thường xuyên, đồng thời phải có sự điều chỉnh, uốn nắn sửa chữa về các mối quan hệ và giao lưu trong quá trình hoạt động của học sinh. Danh mục tài liệu tham khảo: Giáo dục học đại cương_Trần Thị Hương (chủ biên)_Nguyễn Thị Bích Hạnh_Hồ Văn Liên_Ngô Đình Qua Tâm Lí Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non_Nguyễn Ánh Tuyết (chủ biên). (thảo luận) Bottom of Form

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxYếu tố hoạt động cá nhân đối với sự hình thành và phát triển nhân cách.docx
Luận văn liên quan