MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ BHXH VÀ CHẾ ĐỘ THAI SẢN TRONG HỆ THỐNG CÁC CHẾ ĐỘ BHXH. 3
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ BHXH 3
1. Sự cần thiết khách quan và vai trò của BHXH 3
1.1. Sự cần thiết khách quan của BHXH 3
1.2. Vai trò của BHXH 5
2. Bản chất của BHXH 6
2.1. Khái niệm 6
2.2. Bản chất của BHXH 8
3. Quỹ BHXH_Hạt nhân của tài chính BHXH 9
3.1. Quỹ BHXH và sử dụng quỹ BHXH 9
3.2. Đặc điểm quỹ BHXH 10
3.3. Nguồn hình thành 11
II. CHẾ ĐỘ THAI SẢN TRONG HỆ THỐNG CÁC CHẾ ĐỘ BHXH 13
1. Vai trò của chế độ thai sản trong hệ thống các chế độ BHXH 13
2.Theo ILO( International Labour Oganiration) 14
2.1. Giới thiệu về tổ chức ILO 14
2.2. Mục đích 15
2.3. Đối tượng được hưởng trợ cấp chế độ thai sản 16
2.4. Điều kiện hưởng trợ cấp thai sản 16
3. Chế độ trợ cấp tại một số phát triển trên thế giới 18
3.1. Điều kiện nhận trợ cấp 18
3.2 Thời gian hưởng và mức hưởng 18
4. Nội dung chế độ thai sản ở Việt Nam hiện nay 20
4.1 Mục đích 20
4.2 Đối tượng hưởng trợ cấp thai sản lần thứ nhất, thứ hai bao gồm: 21
4.3 Thời gian nghỉ: 21
4.4 Mức hưởng trợ cấp thai sản. 21
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG CHI TRẢ CHẾ ĐỘ THAI SẢN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. 23
I. Những thành tựu 23
II. Những hạn chế 24
1. Đối với người lao động: 24
2. Đối với nhà nước 27
3. Đối với các doanh nghiệp 28
CHƯƠNG III : MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ THAI SẢN Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 31
1. Giải pháp thực hiện chế độ thai sản ở Việt Nam trong thời gian hiện nay. 31
1.1. Đối với người lao động: 31
1.2. Đối với nhà nước 31
1.3. Điều kiện thực hiện những giải pháp đó ở Việt Nam 32
2.TÌnh hình chi trả chế độ thai sản ở một số nước trên thế giới và bài học đối với Việt Nam. 33
KẾT LUẬN 36
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 37
39 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5304 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu 1 số biện pháp hoàn thiện chế độ Bảo hiểm xã hội thai sản ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng phục vụ nhân dân của Đảng và nhà nước, làm cho đất nước ngày càng phát triển.
Từ những năm 1987 trở vể trước, quỹ BHXH được hình thành từ 2 nguồn: Các xí nghiệp sản xuất vật chất đóng góp 4.7% quỹ lương của xí nghiệp, phần còn lại do NSNN tài trợ. Thực chất là không tồn tại quỹ BHXH độc lập. Từ năm 1988 đến nay quỹ BHXH được hình thành từ những nguồn sau:
-Người sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ lương của những người tham gia BHXH trong đơn vị. Trong đó 10% để chi trả các chế độ hưu trí, tử tuất và 5% để chi trả các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
- Người lao động đóng 5% tiền lương tháng để chi cho các chế độ hưu trí và tử tuất.
- Nhà nước hỗ trợ thêm để đảm bảo các chế độ BHXH đối với người lao động.
- Các nguồn khác.
Quỹ BHXH được sử dụng với mục đích:
- Chi trả trợ cấp cho người lao động hưởng các chế độ BHXH.
- Chi trả cho sự nghiệp quản lý BHXH
Khái niệm Quỹ BHXH
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà nước. Quỹ có mục đích và chủ thể riêng. Mục đích tạo lập quỹ BHXH là dùng để chi trả cho người lao động, giúp họ ổn định cuộc sống khi gặp các biến cố hoặc rủi ro. Chủ thể của quỹ BHXH chính là những người tham gia đóng góp để hình thành nên quỹ, do đó có thể bao gồm cả: Người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước.
3.2. Đặc điểm quỹ BHXH
* Quỹ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau:
- Quỹ ra đời và phát triển gắn với mục đích đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi gặp các biến cố, rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập từ lao động. Hoạt động của quỹ không nhằm mục tiêu lợi nhuận. Vì vậy, nguyên tắc quản lý quỹ BHXH là cân bằng thu - chi.
- Phân phối quỹ BHXH vừa mang tính chất hoàn trả vừa mang tính chất không hoàn trả. Tính chất hoàn trả thể hiện ở chỗ: người lao động là đối tượng tham gia và đóng góp BHXH đồng thời họ cũng là đối tượng được nhận trợ cấp , được chi trả từ quỹ BHXH cho dù chế độ, thời gian trợ cấp và mức trợ cấp của mỗi người khác nhau, tùy thuộc vào những biến cố hoặc rủi ro mà họ gặp phải, cũng như mức đóng góp và thời gian đóng góp BHXH của họ. Tính không hoàn trả thể hiện ở chỗ: cùng tham gia và đóng góp BHXH nhưng có người được hưởng trợ cấp nhiều lần và nhiều chế độ khác nhau, nhưng cũng có người được ít lần hơn, thậm chí không được hưởng. Chính vì vậy, một số đối tượng được hưởng trợ cấp nhiều hơn so với mức đóng góp của họ và ngược lại. Điều đó thể hiện tính chất xã hội của toàn bộ hoạt động BHXH.
- Quá trình tích lũy để bảo tồn giá trị và bảo đảm an toàn về tài chính đối với quỹ BHXH là một vấn đề mang tính nguyên tắc.
- Quỹ BHXH là hạt nhân, là nội dung vật chất của tài chính BHXH. Nó là khâu tài chính trung gian cùng với ngân sách Nhà nước và tài chính doanh nghiệp hình thành nên hệ thống tài chính quốc gia. Tuy nhiên mỗi khâu tài chính được tạo lập, sử dụng cho một mục đích riêng và gắn với một chủ thể nhất định, vì vậy chúng luôn độc lập với nhau trong quản lý và sử dụng. Nhưng tài chính BHXH, Ngân sách Nhà nước và tài chính doanh nghiệp lại có quan hệ chặt chẽ với nhau và đều chịu sự chi phối của pháp luật.
- Sự ra đời, tồn tại và phát triển quỹ BHXH phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội của từng quốc gia và điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ nhất định của đất nước.
3.3. Nguồn hình thành
* Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây:
- Người sử dụng lao động đóng góp
- Người lao động đóng góp
- Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm
- Các nguồn khác (như cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do đầu tư phần quỹ nhàn rỗi).
Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ các nguồn nêu trên. Tuy nhiên, phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia BHXH có khác nhau.
Về phương thức đóng góp BHXH của người lao động và người sử dụng lao động hiện vẫn còn 2 quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, phải căn cứ vào mức lương cá nhân và quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp. Quan điểm thứ hai lại nêu lên, phải căn cứ vào mức thu nhập cơ bản của người lao động được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác định mức đóng góp.
Về mức đóng góp BHXH, một số nước quy định người sử dụng lao động phải chịu toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động, Chính phủ trả chi phí y tế và trợ cấp gia đình, các chế độ còn lại cả người lao động và người sử dụng lao động cùng đóng góp mỗi bên một phần bằng nhau. Một số nước khác lại quy định, Chính phủ bù thiếu cho quỹ BHXH hoặc chịu toàn bộ chi phí quản lý BHXH…
Bảng 1.2.1: Mức đóng BHXH ở một số nước trên thế giới
Tên
nước
Chính phủ
Tỷ lệ đóng góp của người lao động so với tiền lương(%)
Tỷ lệ đóng góp của người sử dụng lao động so với quỹ lương
CHLB Đức
Bù thiếu
14,8 –18,8
16,3 – 22,6
CH Pháp
Bù thiếu
11,82
19,68
Inđônêxia
Bù thiếu
3,0
6,5
Philipin
Bù thiếu
2,85 – 9,25
6,85 – 8,05
Malaixia
Chi toàn bộ chế độ ốm đau, thai sản.
9,5
12,75
(Nguồn : BHXH ở một số nước trên thế giới)
Mức đóng góp BHXH thực chất là phí BHXH. Phí BHXH là yếu tố quyết định sự cân đối thu chi quỹ BHXH. Vì vậy, quỹ này phải được tính toán một cách khoa học. Khi xác định phí BHXH phải đảm bảo các nguyên tắc: Cân bằng thu chi, lấy số đông bù số ít và có dự phòng. Mức phí xác định phải được cân đối với mức hưởng, với nhu cầu BHXH và điều chỉnh sao cho tối ưu nhất.
Phí BHXH xác định theo công thức:
P= f1 + f2 + f3
Trong đó: P - Phí BHXH;
f1 - Phí thuần túy trợ cấp BHXH;
f2 - Phí dự phòng;
f3 - Phí quản lý.
Phí thuần túy trợ cấp BHXH cho cả chế độ ngắn hạn và dài hạn. Đối với các chế độ BHXH ngắn hạn, việc đóng và hưởng BHXH xảy ra trong thời gian ngắn thường là 1 năm) như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động nhẹ… Vì vậy, số đóng góp BHXH phải đủ cho số phát sinh chi trả trong năm. Đối với các chế độ BHXH dài hạn như: Hưu trí, trợ cấp mất người nuôi dưỡng, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp nặng… quá trình đóng và quá trình hưởng BHXH tương đối độc lập với nhau và diễn ra trong khoảng thời gian nhất định. Cho nên, sự cân bằng giữa đóng góp và hưởng BHXH phải được dàn trải trong cả thời kỳ dài. Vì thế, ngoài phí thuần túy phải có phí dự phòng để đảm bảo quỹ BHXH có dự trữ đủ lớn.
+ Chi trợ cấp cho các chế độ BHXH, chi phí cho sự nghiệp BHXH và chi đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH. Trong cơ cấu chi BHXH thì chi trả trợ cấp BHXH theo các chế độ là lớn nhất và quan trọng nhất vì đây là mục tiêu cơ bản nhất của BHXH: đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ, đảm bảo ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị, tổ chức.
+ Ngoài việc chi trả trợ cấp theo chế độ BHXH, quỹ BHXH còn được sử dụng cho chi phí quản lý như: tiền lương cho những người làm việc trong hệ thống BHXH; khấu hao tài sản cố định, văn phòng phẩm…
+Phần quỹ nhàn rỗi phải được đem đầu tư sinh lợi nhằm bảo toàn và tăng trưởng nguồn quỹ. Quá trình đầu tư quỹ BHXH phải đảm bảo nguyên tắc: An toàn, có lợi nhuận, có khả năng thanh toán và đảm bảo lợi ích kinh tế -xã hội.
II. CHẾ ĐỘ THAI SẢN TRONG HỆ THỐNG CÁC CHẾ ĐỘ BHXH
1. Vai trò của chế độ thai sản trong hệ thống các chế độ BHXH
Trong hệ thống các chế độ BHXH có thể nói chế độ thai sản là một trong những chế độ quan trọng và được thực hiện sớm nhất. Theo quy định của ILO một quốc gia chỉ coi là có hệ thống BHXH chỉ khi có ít nhất một trong 3 chế độ là: Ốm đau, thai sản, TNLĐ và BNN được thiết lập. Vai trò của nó thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, Đối với người lao động:
+ Góp phần ổn định cuộc sống người lao động và gia đình khi họ trong thời gian họ sinh đẻ, không thể tham gia lao động.
+ Góp phần ổn định tâm lý cho người lao động, đặc biệt là lao động nữ khi họ có nhu cầu có con, xin con nuôi, giúp họ có thời gian chăm sóc con cái bảo vệ sức khỏe của cả mẹ và con, không lo lắng về chi phí sinh con khi không tham gia lao động.
+ Thông qua chế độ thai sản, thể hiện sự quan tâm của những người lao động với nhau, đặc biệt là lao động nam đối với lao động nữ vì thường chế độ này chỉ thể hiện đối với lao động nữ.
Thứ hai, Đối với người sử dụng lao động:
+ Nếu chính sách thực hiện tốt góp phần thu hút lao động nữ vào các doanh nghiệp, mà hiện nay lực lượng nữ tham gia lao động ngày càng lớn, có tay nghề và trình độ ngày càng cao trong các lĩnh vực hoạt động sản xuất hàng hóa và dịch vụ.
+ Thông qua chính sách này người sử dụng lao động thể hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với người lao động và đối với toàn xã hội, nếu thực hiện tốt chính sách này sẽ thu hút được một lực lượng lớn lao động.
Thứ ba, Đối với nền kinh tế:
+ Nếu thực hiện tốt chế độ thai sản sẽ góp phần tái tạo lực lượng lao động lớn cho nền kinh tế trong tương lai.
+ Góp phần dung hòa mối quan hệ người sử dụng lao động và người lao động giúp cho việc sản xuất diễn ra liên tục giúp tăng trưởng nền kinh tế.
Thứ tư, Đối với xã hội:
+ Thực hiện tốt chế độ thai sản góp phần ổn định cuộc sống cho xã hội, đảm bảo thực hiện chính sách xã hội của mỗi quốc gia.
2.Theo ILO( International Labour Oganiration)
2.1. Giới thiệu về tổ chức ILO
ILO( International Labor Organiration) thành lập ngày tháng 4 năm 1919 theo quy định của hội nghị hòa bình Paris họp tại Vecxay( cộng hòa Pháp).
Vai trò của ILO
+ ILO đã thiết lập, xây dựng được các chương trình và chính sách quốc tế về an sinh xã hội nhằm mục đích lớn nhất là cải thiện đời sống và làm việc cho người dân trên phạm vi toàn thế giới.
+ Tổ chức lao động quốc tế còn nghiên cứu và đào tạo các chuyên gia ASXH cho nước nếu các nước yêu cầu.
+ Hỗ trợ rất nhiều mặt kỹ thuật cho các nước và thực hiện hợp tác quốc tế.
- ILO đã thiết lập, xây dựng các chương trình liên quan đến chế độ BHXH thai sản:
1. Công ước 102 : Công ước về quy phạm tối thiểu về an sinh xã hội năm 1952
2. Công ước 118: Công ước bình đẳng trong cư xử, năm 1958
3. Công ước 183: Công ước sửa đổi công ước về bảo vệ thai sản , năm 2000
4. Khuyến nghị số 191: Khuyến nghị sửa đổi khuyến khích bảo vệ thai sản, năm 2000.
2.2. Mục đích
Trong tổng số lao động xã hội, lao động nữ chiếm tỷ lệ không nhỏ. Ngoài xã hội, họ tham gia tích cực vào quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Trong gia đình, họ là người chăm sóc tế bào của xã hội, đó là gia đình và thực hiện thiên chức làm mẹ. Hầu hết phụ nữ nói chung và lao động nữ nói riêng đều phải qua thời kỳ mang thai, sinh nở và nuôi con nhỏ. Việc này làm cho sức khỏe của lao động nữ bị suy giảm, thu nhập từ lao động bị gián đoạn, tác động không nhỏ đến đời sống của họ và gia đình họ. Nhằm góp phần bảo vệ các bà mẹ và trẻ sơ sinh, các quốc gia trên thế giới rất quan tâm đến chế độ thai sản, coi đây là một chương trình an sinh xã hội quan trọng.
Chế độ trợ cấp thai sản có mục đích là bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập bị mất cho lao động nữ khi thai nghén, sinh đẻ và nuôi con nhỏ( kể cả trường hợp sinh con nuôi là trẻ sơ sinh). Sự hỗ trợ về tài chính này giúp họ nhanh chóng khôi phục sức khỏe để tái hòa nhập vào quá trình hoạt động xã hội và yên tâm hơn trong cuộc sống. Hơn nữa, mục đích của chế độ trợ cấp thai sản nhằm góp phần thực hiện bình đẳng đối với tất cả mọi phụ nữ trong lực lượng lao động và an toàn sức khỏe cho bà mẹ và trẻ sơ sinh, giúp lao động nữ thực hiện tốt quyền làm mẹ của mình. Đồng thời, thực hiện công bằng về cơ hội và đối xử đối với lao động nam và lao động nữ trong lao động. Điều 49, công ước số 102 nói về mục đích của chế độ này là “nhằm bảo toàn, phục hồi hoặc cải thiện sức khỏe của phụ nữ được bảo vệ, và khả năng làm việc, khả năng ứng phó với nhu cầu cá nhân của họ”.
2.3. Đối tượng được hưởng trợ cấp chế độ thai sản
Diện bảo vệ của chế độ trợ cấp thai sản bao gồm mọi phụ nữ là lao động làm công ăn lương với số lượng tham gia tối thiểu là 50% hoặc toàn bộ phụ nữ hoạt động kinh tế thường trú trong nước với số lượng tham gia tối thiểu là 20%; hoặc toàn bộ dân cư thường trú trong nước với số lượng tham gia tối thiểu là 50%. Đối với các quốc gia có nền kinh tế và phương tiện y tế chưa phát triển đủ mức và có bản tuyên bố được phê chuẩn việc thực hiện chưa đầy đủ các khuyến cáo theo công ước 102 thì diện bảo vệ bao gồm những người lao động làm công ăn lương nhưng tối thiểu là 50% số người làm việc trong các cơ sở công nghiệp sử dụng ít nhất 20 lao động.
2.4. Điều kiện hưởng trợ cấp thai sản
Điều 47, Công ước số 102 chỉ rõ: “Trường hợp bảo vệ bao gồm thai nghén, sinh đẻ và những hậu quả tiếp theo, và sự gián đoạn thu nhập nảy sinh như pháp luật của quốc gia quy định”.
Đồng thời, để tránh lạm dụng chế độ trợ cấp thai sản, có thể bổ sung quy định về điều kiện hưởng trợ cấp thai sản là phải có một khoảng thời gian tham gia BHXH tối thiểu, gọi là thâm niên BHXH. Thời gian này được quy định theo điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ.
2.5. Mức trợ cấp và thời gian trợ cấp
Lao động nữ trong giai đoạn mang thai và cho con bú không phải làm việc tại các địa điểm hay thực hiện các công việc được xác định là có hại cho sức khỏe của bà mẹ và trẻ sơ sinh. Đối với trường hợp thai nghén, sinh đẻ và các hậu quả của sự kiện này( nếu có), Người lao động nữ sẽ được hưởng trợ cấp y tế về thai sản. Đó là sự chăm sóc y tế trước, trong và sau khi đẻ do thầy thuốc hoặc người hộ sinh có bằng cấp thực hiện; các dịch vụ hỗ trợ y, dược, khám thử, chăm sóc răng; kể cả giải phẫu và nằm viện khi cần thiết. Các quốc gia đều khuyến khích lao động nữ sử dụng các dịch vụ y tế chung của cơ quan và dịch vụ y tế công cộng.
Trong trường hợp gián đoạn thu nhập vì các lý do trên, lao động nữ sẽ được trợ cấp bằng tiền thoe định kỳ. Mức trợ cấp phải đảm bảo nuôi sống chính mình và con mình trong điều kiện sức khỏe đảm bảo và mức sống phù hợp. Theo công ước 102, tỷ lệ trợ cấp thai sản tối thiểu là 45% nhưng công ước 183 mở rộng quy định mức trợ cấp không được thấp hơn 2/3 thu nhập trước đó của người lao động nữ. Bổ sung cho công ước 183, khuyến nghị số 191 yêu cầu nâng mức trợ cấp lên bằng mức lương trước đó của họ. Mức chi trả định kỳ có thể thay đổi trong thời gian hưởng trợ cấp. Thực tế, các quốc gia trên thế giới vận dụng vấn đề này rất linh hoạt.
Thời gian trợ cấp là toàn bộ thời gian được bảo vệ và không được ít hơn 12 tuần( công ước số 102). Công ước số 183 quy định thời gian nghỉ thai sản bao gồm 6 tuần nghỉ bắt buộc sau khi sinh để đảm bảo sức khỏe cho bà mẹ và trẻ sơ sinh. Nếu có chênh lệch giữa ngày sinh dự kiến và ngày sinh thực tế và thời gian nghỉ mang thai sẽ được nới rộng tương ứng mà không bị thời gian nghỉ bắt buộc sau khi sinh. Tổng thời gian nghỉ việc chế độ tối thiểu cũng được mở rộng ra 14 tuần.
Nếu lao động nữ bị đau ốm trong quá trình mang thai hoặc nảy sinh những vấn đề phức tạp ngoài việc mang thai hoặc sinh nở thì thời gian nghỉ sẽ được kéo dài. Tuy nhiên, thời gian nghỉ ốm tối đa sẽ được giới hạn và quy định theo điều kiện cụ thể của mỗi nước. Các quốc gia đều bảo trợ việc làm và không phân biệt đối xử đối với lao động nữ. Họ được đảm bảo trở lại vị trí cũ hoặc một vị trí công việc tương tự với mức lương tương đương ngay sau khi bình phục hoặc hết thời gian nghỉ chế độ. Ngoài ra, trong thời gian nuôi con nhỏ, phụ nữ có quyền nghỉ một hoặc một số lần hay giảm thời gian làm việc để cho con bú. Thời gian nghỉ, số lần nghỉ hoặc giảm giờ làm việc được quy định cụ thể tùy theo mỗi quốc gia. Nhưng thời gian này tính vào thời gian làm việc và do đó, người lao động nữ vẫn được tính lương đầy đủ.
Khuyến nghị số 191 còn quy định các hình thức nghỉ liên quan như sau:
Trường hợp người mẹ tử vong trước trước khi hết thời gian nghỉ sau khi sinh thì người cha đang làm việc phải được quyền nghỉ một thời gian tương đương với thời gian nghỉ sau sinh mà người mẹ chưa nghỉ hết để chăm sóc trẻ sau khi sinh của quy luật hiện hành
3. Chế độ trợ cấp tại một số phát triển trên thế giới
3.1. Điều kiện nhận trợ cấp
Điều kiện tham gia BHXH nói chung và chế độ thai sản nói riêng là:
+Những người đang mang thai hoặc sinh đẻ thì có tham gia BHXH.
+Phải có tham gia tối thiểu trước khi sinh, thông thường yêu cầu đóng góp của các nước là từ 6 đến 12 tháng cuối cùng trước khi sinh.
Bảng 1: Điều kiện về thời gian đóng góp tối thiểu trước khi sinh tại một số nước:
STT
Tên nước
Thời gian yêu cầu
1
Achentina
10 tháng đóng góp liên tục sau khi nghỉ thai sản hoặc đã có 6 tháng đóng góp trong 12 tháng trước khi sinh trong đó có một tháng làm việc ngay trước khi sinh.
2
Trung Quốc
Không có quy định thời gian tối thiểu
3
Pháp
Có 200 giờ làm việc trong 3 tháng cuối cùng trước khi sinh
4
Đức
Có 12 tuần tham gia BHXH hoặc có thời gian làm việc từ 4 đến 10 tháng trước khi sinh.
5
Nhật Bản
Tất cả những người có việc làm trong diện tham gia bảo hiểm xã hội.
6
Mêhico
Có 30 tuần đóng góp trong 12 tháng cuối cùng trước khi sinh.
7
Balan
Những người hiện tại đang làm việc ở những nơi thuộc phạm vi tham gia BHXH.
8
Nga
Không quy định thời gian đóng góp tối thiểu
9
Nam Phi
Có 13 tuần đóng góp trong 12 tuần trước khi sinh
10
Thái Lan
7 tháng đóng góp trong 15 tháng trước khi sinh( chỉ giới hạn trong hai lần sinh).
3.2 Thời gian hưởng và mức hưởng
Tùy theo điều kiện kinh tế-xã hội của từng quốc gia và khả năng hồi phục sức khỏe của lực lượng lao động của quốc gia đó mà người ta quy định thời hưởng, mức hưởng khác nhau.
Hiện nay trên thế giới có hai hình thức trợ:tiền và chăm sóc y tế.
+ Chăm sóc y tế: Hầu hết các nước trên thế giới có những chính sách trợ cấp đối với lao động nữ trong thời gian mang thai và sinh con sử dụng dịch vụ y tế trước và sau khi sinh. Dịch vụ y tế thông thường gồm: chăm sóc ban đầu, một số dịch vụ và thuốc men thiết yếu, những dịch vụ đặc biệt, phẫu thuật, chăm sóc thai sản, đặc biệt ở một số quốc gia có cả trợ cấp đi lại, chăm sóc y tế tại nhà.
+ Việc chi trả chi phí chăm sóc y tế hiện nay có 3 phương án cơ bản: chi trả trực tiếp cho người cung cấp dịch vụ trong các cơ sở y tế của nhà nước, hoàn trả chi phí cho bệnh nhân; chi trả theo các điều khoản trực tiếp về chăm soc y tế.
- Đối với người nhận trợ cấp thai sản bằng tiền mức trợ cấp và thời gian trợ cấp của thai sản của các nước khác nhau. Thông thường mức trợ cấp thai sản bằng 100% lương và thời gian trợ cấp là 6 tháng trước khi sinh và 6-8 tuần sau khi sinh. Ngoài mức trợ cấp kể trên thì mỗi lần sinh con người mẹ còn được trợ cấp nuôi con với mức 20-25% mức trợ cấp thai sản trong thời gian từ 6 tuần trở lên. Cũng có một số nước thực hiện tiền hỗ trợ tiền sắm sửa tã lót và trợ cấp thai sản một lần.
Bảng 2. Thời gian trợ cấp và mức trợ cấp của một số quốc gia trên thế giới:
STT
Tên nước
Thời gian hưởng và mức hưởng
1
Achentina
Thời gian trợ cấp là 90 ngày trên một lần sinh( người lao động có hai cách lựa chọn: 1. 30 ngày trước khi sinh và 60 ngày trướ khi sinh. 2. 40 ngày trước khi sinh và 45 ngày sau khi sinh). Mức hưởng là 100% thu nhập của tháng trước sinh.
2
Trung Quốc
Thời gian trợ cấp là 90 ngày cho một lần sinh và 42 ngày đối với nạo thai, phá thai. Hai trường hợp trên đểu hưởng 100% thu nhập( chi phí này do chủ sử dụng lao động tự chịu trách nhiệm.)
3
Pháp
Thời gian trợ cấp thai sản là 6 tuần trước khi sinh và 8 tuần sau khi sinh đối với sinh con lần 1, lần 2. 8 tuần trước khi sinh và 18 tuần sau khi sinh đối với con thứ 3. Song thai là 12 và 22 tuần trước và sau khi sinh, mang thai ba 24 tuần trước và 22 tuần sau khi sinh. Mức trợ cấp là 100% thu nhập ròng.
4
Đức
Thời gian trợ cấp là 6 tuần trước và 8 tuần sau khi sinh. Đối với người không đủ điều kiện trợ cấp như trên thì nhậ trợ cấp một lần bằng 150DM cho một lần sinh. Mức trợ cấp là 100% mức lương bình quân.
5
Nhật Bản
42 ngày trước (98 ngày nếu đa sinh ) và 56 ngày sau sinh. Mức lương 60% mức lương bình quân
6
Mêhico
Thời gian hưởng trợ cấp thai sản 42 ngày trước và 42 ngày sau( sau 42 ngày lao động nữ không hồi phục trở lại thì được trợ cấp ốm đau. Mức trợ cấp là 100% mức lương bình quân.
7
Balan
Thời gian trợ cấp 16 tuần trước đối với lần 1, 18 tuần đối với lần 2, 26 tuần đối với trường hợp sinh ba. Mức trợ cấp là 100% thu nhập.
8
Nga
Thời gian nghỉ trợ cấp 10-12 tuần trước khi sinh, và 10-16 tuần sau khi sinh. Những người nghỉ việc để trông con dưới 18 tháng tuổi, được nhận mức trợ cấp hàng tháng 200% mức lương tối thiểu. Mức trợ cấp là 100% thu nhập.
9
Nam Phi
Thời gian trợ cấp 18 tuần trước và 8 tuần sau khi sinh. Mức trợ cấp là 45% thu nhập tuần.
10
Thái Lan
Thời gian trợ cấp là 90 ngày 1 lần sinh, trợ cấp một lần là 400 BAT. Mức trợ cấp là 50% thu nhập
4. Nội dung chế độ thai sản ở Việt Nam hiện nay
Nội dung của chế độ thai sản ở Việt Nam được quy định rất chi tiết và đầy đủ trong luật:
4.1 Mục đích
Trợ cấp thai sản được quy định nhằm hỗ trợ cho bản thân người lao động nữ và trẻ em trước và sau khi sinh để bảo vệ sức khỏe cho người mẹ và trẻ em.
Lao động nữ có thai, sinh con lần thứ nhất, thứ hai khi nghỉ việc được trợ cấp thai sản.
4.2 Đối tượng hưởng trợ cấp thai sản lần thứ nhất, thứ hai bao gồm:
Lao động nữ sinh con lần thứ nhất một con, lần thứ hai hai con;
Lao động nữ sinh con lần hai hai con trở lên;
Lao động nữ sinh con lần thứ nhất hai con trở lên;
Lao động nữ đã có con riêng sau đó lấy chồng thì được hưởng trợ cấp sinh con lần đầu tiên với người chồng đó;
Lao động nữ chưa có con riêng, nếu lấy chồng đã có con riêng thì được trợ câp sinh con lần thứ nhất;
Lao động nữ không có chồng mà có con thì trợ cấp sinh con lần thứ nhất.
Trường hợp sinh con lần thứ nhất, thứ hai thuộc các đối tượng trên mà con chết thì lần sinh sau được trợ được tính hưởng trợ cấp thai sản theo quy định, lao động nữ có thai, sảy thai được hưởng các quyền lợi như sau:
4.3 Thời gian nghỉ:
Trong thời gian có thai được nghỉ việc để đi khám thai 3 lần, mỗi lần 1 ngày.
Trong trường hợp người lao động có thai làm việc ở xã, cơ sở y tế, hoặc người mang thai có bệnh lý, thai không bình thường thì được hưởng trợ cấp hai ngày cho mỗi lần khám thai.
Trong trường hợp bị sảy thai thì được nghỉ việc hưởng trợ cấp 20 ngày nếu thai dưới 3 tháng , 30 ngày nếu từ 3 tháng trở lên.
4.4 Mức hưởng trợ cấp thai sản.
- Mức hưởng trợ cấp trong thời gian nghỉ theo quy định bằng 100% mức đóng góp BHXH trước khi nghỉ.
Mức trợ cấp thai sản được tính như sau:
Trợ cấp khi nghỉ Tiền lương làm căn cứ
Việcđi khám thai, = đóng BHXH của tháng * 100% * số ngày nghỉ
sảy thai trước khi nghỉ
Trong đó tiền lương làm căn cứ đóng BHXH của tháng trước khi nghỉ bao gồm: Lương theo cấp bậc, chức vụ hợp đồng, thâm niên chức vụ bầu cử, hệ số chênh lệch bảo lưu, phụ cấp chức vụ , phụ cấp khu vực, phụ cấp đắt đỏ (nếu có)
Thời gian nghỉ được hưởng trợ cấp thai sản của lao động nữ trước và sau khi sinh con như sau:
4 tháng tuổi trong điều kiện làm việc bình thường :
5 tháng đối với người làm việc các ngành nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại làm việc theo chế độ ba ca, làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực từ 0.5 đến 0.7;
6 tháng đối với người làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 1, người làm nghề hoặc công việc đặc biệt danh mục do Bộ Lao Động – thương binh xã hội ban hành.
Mức trợ cấp thai sản:
Trợ cấp nuôi Tiền lương làm căn cứ
Con nuôi = đóng BHXH của tháng * 100% * số ngày nghỉ
sơ sinh trước khi nuôi
Mức trợ cấp thai sản trong thời gian nghỉ thao quy định , bằng 100% mức tiền lương đóng góp BHXH trước khi nghỉ. Mức trợ cấp thai sản được tính theo công thức:
Trợ cấp Tiền lương làm căn cứ đóng
Nghỉ việc = BHXH của tháng * 100% * số ngày nghỉ
Sinh con trước khi sinh
Trong đó tiền lương làm căn cứ đóng BHXH của tháng trước khi nghỉ bao gồm: Lương theo cấp bậc, chức vụ hợp đồng, thâm niên chức vụ bầu cử, hệ số chênh lệch bảo lưu, phụ cấp chức vụ , phụ cấp khu vực, phụ cấp đắt đỏ (nếu có).
Ngoài ra, khi sinh con lao động nữ được hưởng trợ cấp một lần bằng một tháng tiền lương đóng góp BHXH. Ngoài lao động nữ nếu nuôi con sơ sinh theo quy định của luật hôn nhân và gia đình được nghỉ việc và hưởng trợ cấp cho đến khi con đủ 4 tháng tuổi.
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG CHI TRẢ CHẾ ĐỘ THAI SẢN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
Những thành tựu
Tình hình thực hiện chế độ thai sản của Việt Nam từ năm 2000 đến nay. Sau gần 15 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI vạch ra, chúng ta đã thu được những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng cả về kinh tế, xã hội, chính trị, đối nội và đối ngoại. Hàng năm số việc làm mới tăng nhiều bổ sung vào lực lượng lao động, đời sống vật chất của đại bộ phận nhân dân đã được cải thiện, ổn định chính trị - xã hội được giữ vững, quốc phòng - an ninh được củng cố, quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và phát triển.
Từ những thuận lợi đó, chính sách bảo hiểm xã hội được ban hành trên cơ sở chuyển từ cơ chế bao cấp trước đây sang cơ chế thị trường, định hướng XHCN, thành lập quỹ BHXH hạch toán độc lập với Ngân sách Nhà nước, mở rộng BHXH ra khu vực ngoài quốc doanh, tách chức năng quản lý Nhà nước về BHXH ra khỏi chức năng tổ chức thực hiện và trong quá trình thực hiện có bổ sung, sửa đổi cho phù hợp đã tạo điều kiện cho việc thực hiện được tốt hơn. Cùng với chính sách đổi mới, Chính phủ đã quyết định thành lập BHXH Việt Nam có chức năng giúp Chính phủ quản lý quỹ BHXH và thực hiện các chế độ BHXH cho người tham gia. Với chức năng, nhiệm vụ được giao và căn cứ vào quy định pháp luật về BHXH, trong gần 15 năm qua, BHXH Việt Nam đã tổ chức thực hiện tốt chính sách BHXH đối với người tham gia BHXH nói chung, trong đó có chính sách BHXH đối với lao động nữ.
Cụ thể tình hình thực hiện chính sách BHXH từ năm 2000 đến nay: Đảng và nhà nước đã thực hiện được chế độ BHXH thai sản cho phần lớn người lao động trong cả các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp tư nhân cụ thể:
- Tất cả lao động nữ làm việc trong nhà nước đều được hưởng chế độ thai sản rất tốt theo đúng quy định của pháp luật, điều này góp phần không nhỏ vào cuộc sống của lao động nữ và gia đình họ nói riêng và cuộc sống cả cộng đồng nói chung.
- Đối với doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước: Ban Nữ công Tổng LĐLĐVN đã tổ chức một đợt khảo sát về thực hiện chính sách đối với LĐ nữ với quy mô lớn. Địa bàn khảo sát gồm 10 tỉnh ở cả ba miền Bắc - Trung - Nam, với 34 DN, phần lớn là DN có sử dụng đông LĐ nữ (từ 70% trở lên trong tổng số LĐ). Các nghề tập trung chủ yếu chủ yếu: Dệt may, da giày, chế biến thuỷ sản, sản xuất vật liệu xây dựng... Cùng với việc khảo sát là xây dựng 1.500 phiếu tham khảo ý kiến của người sử dụng LĐ, NLĐ và CBCĐ. Một trong những nội dung của chương trình này là quan tâm tới việc thực hiện chế độ thai sản và liên quan tới chăm sóc sức khoẻ của LĐ nữ. Qua số liệu tổng hợp cho thấy 77,6% LĐ nữ được khám sức khoẻ định kỳ; 45,8% được khám phụ khoa; 80% DN có phòng y tế, có tủ thuốc dự phòng thông thường. Đặc biệt DN may Thông Dụng tỉnh Bình Dương có trang bị phòng y tế khá đầy đủ tiện nghi, kể cả phòng lưu bệnh nhân. DN Green River Wood trợ cấp cho LĐ nữ nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi với mức 50.000 đồng/tháng. DN Good Top ở TP.Hồ Chí Minh trợ cấp nuôi con nhỏ mức 100.000 đồng/tháng. Đây là những kết quả khá thành công sau những năm thực hiện chế độ thai sản ở Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu không thể phủ nhận thì mặt hạn chế của nó là rất lớn, những hạn chế này chủ yếu xảy ra đối với lao động nữ trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp liên doanh liên doanh nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Những hạn chế
Từ việc nghiên cứu các văn bản pháp luật về chế độ thai sản và những quy định của pháp luật lao động đối với lao động nữ là rất ưu việt, nhưng việc thực hiện gặp không ít khó khăn, vướng mắc:
1. Đối với người lao động:
+ Chế độ thai sản đã quy định rất rõ trong Luật Bảo hiểm xã hội, bộ Luật Lao động cũng như hệ thống các tờ rơi, áp phích quảng cáo, trên đài , sách báo, trên mạng internet, tuy nhiên sự hiểu biết của người lao động vẫn gặp nhiều hạn chế. Đa phần những người lao động phổ thông khi được hỏi về quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi tham gia Bảo hiểm xã hội và được hưởng Chế độ thai sản thì hầu như họ không biết, lợi dụng sự thiếu hiểu biết của người lao động đối với chế độ thai sản cũng như Bảo hiểm xã hội, một số doanh nghiệp tư nhân thực hiện sai quy định đối với họ, làm mất quyền lợi của người lao động. Không chỉ những người lao động phổ thông mà chính những người lao động có trình độ trong điều kiện nền kinh tế khủng hoảng, theo suy nghĩ của họ có việc làm trong thời gian này cũng là khó khăn nên hầu như những quy định về việc tuyển dụng, ký kết hợp đồng lao động, mua bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, mức lương, nâng lương, điều kiện, môi trường lao động, chế độ thai sản ít được họ quan tâm nhiều. Chính điều này càng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp làm trái những quy định của pháp luật.
+ Hiện nay trong các doanh nghiệp thường đóng bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật là đóng theo lương tối thiểu, chính việc này làm cho các công ty hạn chế trả lương cơ bản cho công nhân viên để tránh chi phí cho doanh nghiệp, khi người lao động nữ nghỉ hưởng chế độ thai sản thì được trả thấp. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc hưởng chế độ thai sản của người lao động. Hầu hết đại diện các doanh nghiệp khi hỏi về chế độ thai sản là những người phụ trách hành chánh, nhân sự, kế toán... của doanh nghiệp. Rất nhiều người thắc mắc về mức đóng BHXH và yêu cầu được đóng trên mức lương cơ bản, không bao gồm các loại phụ cấp. Ai cũng biết, mức lương cơ bản hiện nay rất thấp và doanh nghiệp quy định mức lương này để giảm tối đa chi phí đóng BHXH cho người lao động. Nguyên tắc của BHXH là hưởng trên mức đóng: nếu đóng ở mức lương cao thì các chế độ liên quan: trợ cấp thai sản, trợ cấp BHXH... cũng được hưởng cao. Kiến nghị giảm mức đóng BHXH đồng nghĩa với việc người lao động của doanh nghiệp sẽ bị thiệt thòi quyền lợi, trong đó có cả quyền lợi của người kiến nghị?
+ Trong các doanh nghiệp đã quy định ưu tiên đối với lao động nữ và thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ đối với lao động nữ, tuy nhiên thực tế cho thấy trong thời gian lao động nữ nghỉ thai sản thì sẽ không được xét thi đua vì giữa Bộ luật Lao động và Qui định 123 của Thi đua khen thưởng có mâu thuẫn, ông Hứa Trọng Tâm, Phó tổng giám đốc công ty Cổ phần May Đồng Nai nêu vấn đề. Điều này còn liên quan đến nhiều qui định khác trong bảo hiểm xã hội khi tính thời gian để trợ cấp nghỉ thai sản, nhất là khu vực công việc thuộc lĩnh vực lao động nặng nhọc. Một trong những qui định được nhiều đại diện doanh nghiệp cho rằng nên bỏ hoặc sửa đổi vì tính không khả thi đó là khoản 2, điều 110.
+ Ngày 27/11/ 2009. Đại diện của hơn 200 doanh nghiệp đã có buổi tiếp xúc với lãnh đạo sở, ngành của TP để đề đạt nguyện vọng, kiến nghị những vướng mắc trong lĩnh vực lao động lao động, bảo hiểm xã hội (BHXH)... do Trung tâm Xúc tiến thương mại và đầu tư tổ chức sáng 26/11. Đáng tiếc, những vấn đề đặt ra tại buổi đối thoại chỉ dừng lại ở mức hỏi đáp đơn giản về pháp luật lao động, phải chăng các doanh nghiệp không biết hay giả vờ không biết
Chủ tọa đoàn tiếp nhận và trả lời những câu hỏi của các doanh nghiệp là những người có nhiều năm kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực LĐ, BHXH, công đoàn... Nhưng kinh nghiệm của họ cũng không có đất "dụng võ”, bởi những vấn đề mà đại diện doanh nghiệp đặt ra đã được phổ biến từ nhiều năm qua.
+ Vẫn do ảnh hưởng của phong tục lạc hậu, cổ hủ người phụ nữ không chồng mà có bầu rồi sinh con bị xã hội đánh giá thấp nhân phẩm, chính điều này làm cho tỷ lệ nạo thai đối với lao động nữ tăng, lao động nữ rơi vào trường hợp trên không được hưởng chế độ thai sản nào và có thể bị đuổi việc, chính những việc này ảnh hưởng không nhơ đến sức khỏe đối với người lao động.
+ Cũng trong cuộc khảo sát của Ban Nữ công Tổng LĐLĐVN cho thấy nhiều bất cập với những thực trạng liên quan việc chăm lo sức khoẻ đối với LĐ nữ. Ở KCN Tân Tạo, TP.Hồ Chí Minh có DN quy định nếu muốn thôi việc để trông con nhỏ cũng phải báo trước từ 30-45 ngày, nếu không thực hiện đúng như vậy sẽ bị đuổi việc. Một số DN quy định khi đi khám thai phải làm giấy xin phép và thời gian nghỉ đi khám thai trừ vào tiền thưởng chuyên cần của NLĐ. Theo quy định của Bộ luật Lao động thì "NLĐ trong thời gian hành kinh được nghỉ mỗi ngày 30 phút, trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi được nghỉ mỗi ngày 60 phút trong thời gian làm việc mà vẫn hưởng đủ lương". Theo Thông tư 79/TT-BTC của Bộ Tài chính có hướng dẫn: "Trong thời gian cho con bú, nếu vì lý do khách quan nào đó mà không về cho con bú, ở lại làm việc cho DN, thì thời gian làm việc thêm (tương ứng thời gian cho con bú) được DN trả trợ cấp theo chế độ phụ cấp làm thêm giờ". Thực tế khảo sát cho thấy 62,3% LĐ nữ trả lời là không được nghỉ thời gian vệ sinh kinh nguyệt 30 phút. Mặt khác do làm theo lương sản phẩm nên việc nghỉ cho con bú không thể hiện trong tiền lương, trên thực tế là LĐ nữ không được hưởng chế độ này theo đúng như quy định của BLLĐ. Còn theo quy định là vì lý do khách quan LĐ không nghỉ cho con bú mà làm việc thì được hưởng như phụ cấp làm thêm giờ, quy định này chỉ nằm trên văn bản, không có khả năng thực thi và không DN nào thực hiện. Cũng qua tập hợp phiếu thăm dò, LĐ nữ cho rằng, thời gian nghỉ hưởng chế độ thai sản trong điều kiện bình thường như hiện nay cần điều chỉnh, vì không đủ thời gian để chăm sóc con nhỏ, cũng như đảm bảo sức khoẻ cho người mẹ. Có tới 69,5% LĐ nữ được hỏi đề nghị nâng thời gian nghỉ thai sản từ 4 tháng hiện nay lên 6 tháng.2. Đối với nhà nước
+ Hiện nay đang có thông tin Bộ Luật lao động sẽ kéo dài thời gian nghỉ thai sản cho lao động nữ từ 4 lên 6 tháng. Việc tăng chính sách này nhằm đảm bảo sức khỏe cho cả lao động nữ và con nhỏ. Tuy nhiên đứng trên góc độ của nhà quản lý ta có thể thấy, điều này tạo ra sự mất công bằng, phân biệt ngày càng sâu sắc giữa hệ thống lao động trong nước: Đối với lao động làm việc các vùng nông thôn họ phải làm việc đến lúc sinh, chỉ được nghỉ ngơi khoảng 1 tháng sau đó phải làm việc bình thường. Đối với lao động nữ làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp cổ phần,…mặc dù các doanh nghiệp vẫn thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, nhưng họ lại có các chính sách giúp người lao động muốn đi làm sớm đó là: tiền lương của các doanh nghiệp trả không cao trong khi đó tiền thưởng, tiền phụ cấp tiền ăn ca lớn, tiền thưởng này phụ thuộc vào sự đi làm đều đặn của công nhân, thêm vào đó doanh nghiệp tư nhân thường xuyên đổi mới công nghệ cải tiến sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu của thị trường do đó nếu họ nghỉ quá lâu sẽ không theo kịp với chức vụ đang đảm nhiệm, và mất thời gian học việc lại sau khi sinh, do đó mặc dù chưa hết thời gian nghỉ các nữ công nhân vẫn muốn đi làm để hưởng các chính sách của công ty và theo kịp tiến độ của công ty. Còn đối với các công nhân viên chức làm việc trong nhà nước, công việc ít, nhàn nhã thì được hưởng đúng theo quy định của pháp luật vừa không ảnh hưởng đến lợi ích nên họ phải cố nghỉ đủ. Đây là 3 trường hợp điển hình cho thấy sự mất công bằng khi thực hiện chế độ thai sản đối với lao động nữ tăng lên.
+ Hệ thống pháp luật về chế độ thai sản cũng như hệ thống Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam nói chung còn có nhiều lỗ hổng, mặc dù đã được sử dụng tài liệu tham khảo của tổ chức ILO và các nước phát triển trong quá trình thực hiện, tuy nhiên các chính sách đưa ra còn nhiều phần là chưa phù hợp với Việt Nam, nhiều phấn là cải tiến chưa đúng mức( việc thực hiện thời giản cho người mới sinh là 4-6 tháng cao hơn cả những nước phát triển).
Đối với các doanh nghiệp
Không chỉ nhà nước và người lao động gặp khó khăn trong việc thực hiện cũng như quản lý chế độ thai sản đối với lao động nữ mà ngay cả bản thân những người sử dụng lao động gặp không ít những khó khăn. Theo kết quả tham vấn ý kiến tại cộng đồng cũng như các cuộc hội thảo do Ủy ban Về các vấn đề xã hội phối hợp với Văn phòng Quốc Hội và Dự án 00049114 của UNDP tổ chức đều cho rằng, những quy định về việc tuyển dụng, ký kết hợp đồng lao động, mua bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, mức lương, nâng lương, điều kiện, môi trường lao động, chế độ thai sản… đối với lao động nữ đã được nhiều doanh nghiệp thực hiện khá tốt, nhất là có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, việc sử dụng nhiều lao động nữ cũng làm cho doanh nghiệp gặp khó khăn. Đối với DN sử dụng từ 4.000- 5.000 lao động nữ thì bình quân hàng tháng có khoảng 150 người nghỉ thai sản, khoảng 100 người nghỉ con ốm hoặc mẹ ốm; tỷ lệ bỏ việc sau khi sinh cũng khá cao (do nhà trẻ chỉ nhận trẻ trên 12 tháng tuổi). doanh nghiệp thường bị động về số lượng lao động, năng suất, chất lượng bị ảnh hưởng, nhất là doanh nghiệp sản xuất theo dây chuyền.
Việc các doanh nghiệp phải đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ để thay thế lao động nữ trước và sau khi sinh theo quy định tại Điều 110 Bộ luật Lao động và Nghị định 23/NĐ/CP khó thực hiện, bởi doanh nghiệp không có kinh phí dành cho đào tạo nghề dự phòng, chỉ có thể đào tạo nghề cho công nhân mới được tuyển. Hơn nữa, công nhân nữ phải lao động 8 tiếng/ngày không thể bố trí được thời gian để học. Mà nhà nước không thể đào tạo cho công nhân, hay cấp kinh phí đào tạo tập trung cho công nhân, nhân viên vì mỗi cơ quan, mỗi doanh nghiệp có một dây chuyền sản xuất, cách làm việc, hệ thống các công việc cho công nhân là khác nhau, muốn đào tạo chuyên ngành thì rất tốn kém.
Về thực hiện chế độ thai sản, cơ bản các doanh nghiệp đã thực hiện đúng quy định đối với lao động nữ khi sinh con, khám thai, sảy thai, thực hiện kế hoạch hóa…. Tuy nhiên, quy định phụ nữ được nghỉ trước và sau khi sinh con từ 4 - 6 tháng, nhưng bắt đầu nghỉ từ tháng thứ mấy không cụ thể nên có doanh nghiệp yêu cầu nữ lao động nghỉ từ tháng thứ 8, thậm chí là tháng thứ 7, nhưng nhiều doanh nghiệp lại cho lao động nữ làm việc đến gần ngày sinh. Quy định lao động nữ được nghỉ 60 phút/ngày để cho con bú đối với con dưới 12 tháng tuổi... cũng khiến doanh nghiệp lúng túng khi thực hiện. Đối với doanh nghiệp gần khu dân cư, thì rất đơn giản. Nhưng hiện nay, phần lớn doanh nghiệp nằm trong khu chế xuất, khu công nghiệp, công nhân có xe đưa, đón đi làm đúng giờ. Do đó, lao động nữ không thể về giữa giờ, hoặc về sớm 60 phút cho con bú. Để đỡ thiệt thòi cho người lao động, nhiều doanh nghiệp đã vận dụng trả tiền tăng ca cho 60 phút đó, hoăc cộng dồn 8 ngày làm việc cho công nhân nghỉ một ngày. Cách làm tuy không đúng với mục đích của Luật, nhưng doanh nghiệp cũng khó giải quyết tốt hơn. Việc vận dụng linh hoạt quy định pháp luật bị cơ quan có thẩm quyền “thổi còi” hoặc các đối tác nước ngoài căn cứ vào quy định của luật để dọa “cắt” hợp đồng với doanh nghiệp. Quy định cho lao động nữ nghỉ 30 phút trong chu kỳ kinh nguyệt chưa có doanh nghiệp nào thực hiện, nhưng đã có tình trạng lao động nữ dựa vào quy định này để đòi tiền tăng ca, gây khó cho doanh nghiệp … Về việc tổ chức nhà trẻ, mẫu giáo hỗ trợ một phần chi phí cho lao động nữ có con ở lứa tuổi nhà trẻ mẫu giáo được nhiều doanh nghiệp và lao động nữ đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, thực tế hầu hết các doanh nghiệp được tham vấn đều trả lời không thể tổ chức nhà trẻ, mẫu giáo vì không có quỹ đất, không có kinh phí và khó khăn nhất là không thể tổ chức bộ phận chuyên môn để lo việc tổ chức, quản lý nhà trẻ. Nhiều doanh nghiệp và lao động đều bức xúc khi tỷ lệ lao động nữ không có nơi để gửi con phải nghỉ việc khá cao. Nhà trẻ hiện nay chỉ nhận các cháu trên 12 tháng tuổi, trong khi doanh nghiệp có số lượng lao động nữ quá đông (4.000 - 5.000 người) không thể hỗ trợ cho các bà mẹ đang nuôi con ở lứa tuổi mầm non, mẫu giáo. Rất nhiều ý kiến đề nghị nên bỏ quy định này và nên giao việc tổ chức nhà trẻ, mẫu giáo cho chính quyền địa phương phối hợp với ban quản lý khu công nghiệp thực hiện, doanh nghiệp sẽ hỗ trợ kinh phí. Hiện nay, hầu hết doanh nghiệp sử dụng từ 100 đến 4.000 – 5.000 lao động chưa được hưởng các chính sách ưu đãi, miễn giảm thuế. Có doanh nghiệp băn khoăn vì không thấy văn bản hướng dẫn cụ thể chế độ miễn giảm bao nhiêu; cách tính miễn giảm thuế quá nhiêu khê nên doanh nghiệp không thực hiện. Vì vậy, các văn bản hướng dẫn việc giảm thuế nên đơn giản hóa cách tính, chẳng hạn việc miễn giảm được tính trên số lao động nữ có ký kết hợp đồng lao động, có tham gia bảo hiểm xã hội… để thuận lợi cho doanh nghiệp được thụ hưởng, phần nào giảm bớt khó khăn khi sử dụng nhiều lao động nữ.
CHƯƠNG III : MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ THAI SẢN Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Giải pháp thực hiện chế độ thai sản ở Việt Nam trong thời gian hiện nay.
Đứng trước hàng loạt các vướng mắc trên, điều quan trọng hiện nay là làm thế nào để giải quyết những vướng mắc trên để chế độ thai sản được thực hiện theo đúng phương hướng và mục tiêu mà Đảng và nhà nước đã đề ra: đảm bảo quyền lợi cho người lao động nữ nói chung, tránh được sự phân biệt nam nữ trong xã hội nói riêng.
. Đối với người lao động:
+ Biện pháp đầu tiên đối với người lao động đó là tuyên truyền nhưng cần phải tuyên truyền sao cho đúng hướng, Không chỉ tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng hiện đại, trên mạng, trên các kênh truyền thông, áp phích, quảng cáo lớn mà còn đối với những người lao động phổ thông họ không có điều kiện học hành cao, không có cơ hội tiếp xúc với những phương tiện thông tin đại chúng hiện đại, nhà nước cần phải ban hành luật thành những tờ rơi nhỏ phát tán rộng rãi trong các doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp cổ phần, các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, ngoài ra cần phát tờ rơi, cử những phát thanh viên đến từng khu vực tổ dân cư tuyên truyền, phát tờ rơi. Công việc này tuy gặp rất nhiều khó khăn cả về kinh phí lẫn nguồn nhân lực thực hiện nhưng nó đem lại hiệu quả cao.
- Biên pháp tiếp theo là đưa chương trình giáo dục tuổi vị thành niên, sức khỏe sinh sản và chế độ thai sản đối với người lao động vào các chương trình học từ cấp trung học cơ sở trở lên. Theo quan sát thường các bạn học sinh ở các vùng quê hay bỏ học khi kết thúc 1 cấp học nào đó, do đó khi kết thúc một cấp học các trường nên có những bài học vắn tắt và những bài tìm hiểu về lao động, người lao động quyền và nghĩa vụ của người lao động khi họ đi làm thuê trong các khu công nghiệp hay các doanh nghiệp khi họ tốt nghiệp.
1.2. Đối với nhà nước
- Nhà nước cần có biện pháp tuyên truyền, phổ biến kiến thức hợp lý cho người lao động, người sử dụng lao động, đặc biệt là người lao động. Chúng
- Hiện nay nước ta mới chỉ thực hiện chế độ thai sản cho những đối tượng tự nguyện, nó chưa thể bao phủ hết lực lượng nữ trong xã hội, nhà nước nên đưa ra các chính sách bảo hiểm tự nguyện dành cho chế độ thai sản đáp ứng nhu cầu nguyện vọng của những người muốn tham gia nhưng không thuộc đối tượng bắt buộc. Biện pháp này đưa ra vừa nhằm tăng nguồn thu cho quỹ vừa mở rộng đối tượng hưởng chế độ thai sản.
- Nhà nước nên đưa ra những chính sách phù hợp hơn đối với người lao động nên xem xét trước và sau khi ban hành luật sau.
- Nhà nước cần nghiên cứu sửa đổi một số điều của Nghị định 113/CP, ngày 16.4.2004 của Chính phủ về quy định xử phạt hành chính đối với các hành vi vi phạm pháp luật LĐ, bằng cách nâng hình thức xử phạt đối với những DN vi phạm chế độ, chính sách được quy định trong BLLĐ, Luật BHXH... đối với NLĐ nói chung và LĐ nữ nói riêng.
- Nhà nước cần có hệ thống kiểm tra, thanh tra giám sát việc thực hiện BHXH của các doanh nghiệp của người sử dụng lao động đối với người lao động, từ đó có những chính sách điều chỉnh hợp và biện pháp xử phạt hợp lý đối với những trường vi phạm phát luật. Việc giám sát này cần phải phối hợp chặt chẽ với hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về các lĩnh vực khác: cơ quan thuế, cơ quan công an, bộ tài chính… để việc thực hiện thực hiện thu, giám sát được thuận lợi hơn.
1.3. Điều kiện thực hiện những giải pháp đó ở Việt Nam
- Hiện nay việc thực hiện các biện pháp trên ở Việt Nam tương đối khó khăn vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, Nhà nước đầu tư kinh phí rất thấp cho việc tuyên truyền mà thường tuyên truyền trên các phương tiện hiện đại, hoặc công chúng nhưng không dành cho những người bận rộn, không đầu tư thật sự cho việc tuyên truyền nên tuyên truyền thường không đúng hướng và kết quả thu lại không cao.
Thứ hai, Hệ thống lưc lượng lao động của nước ta trình độ thấp, họ chưa hiểu biết về lợi ích của BHXH, cũng như chế độ thai sản đối với họ nên một số thường tránh đóng BHXH, một số do không có sự hiểu biết về BHXH nên bị người sử lao động không đóng BHXH cho.
TÌnh hình chi trả chế độ thai sản ở một số nước trên thế giới và bài học đối với Việt Nam.
- Trên thế giới tình hình thực hiện chế độ thai sản rất tốt không chỉ từ phía các cơ quan quản lý nhà nước mà còn từ phía người lao động, người sử dụng lao động.
Đối với người lao động, khi bắt đầu tham gia quá trình lao động họ luôn tìm kiếm những công ty, doanh nghiệp nào thực hiện đúng quyền lợi của mình nếu khi ký kết hợp đồng xong mà công ty hay doanh ghiệp đó không thực hiện đúng như trong hợp đồng họ sãn sàng thôi việc và đi tìm việc ở một doanh nghiệp khác, họ luôn có tính độc lập trong công việc, khi mà thỏa mãn những điều kiện cá nhân họ luôn phát huy tối đa khả năng làm việc nên họ làm việc hiệu quả cho doanh nghiệp.
- Ở một số nước phát triển trên thế giới sự phân biệt đối xử nam, nữ thấp, khả năng kiếm việc của họ thường dễ dàng hơn Việt Nam, họ sống phong cách hiện đại không sợ điều tiếng nên việc có con mà không chồng không hề ảnh hưởng, họ vẫn được hưởng quyền lợi như bình thường.
- Hiện nay trên thế giới quy định thời gian hưởng, chế độ hưởng bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ cũng khác nhiều so với Việt Nam. Hầu như thời gian nghỉ của các nước này là 3 tháng trong khi Việt Nam đã thực hiện 4 tháng lại muốn thay đổi này thành 6 tháng, điều này có quá mất cân bằng không khi Việt Nam là nước đang phát triển trong khi những nước kinh tế phát triển. Chính vì thế việc Việt Nam muốn thay đổi thời gian nghỉ sinh thì cần phải xem xét lại.
- Các doanh nghiệp nước ngoài thường có chính sách khuyến khích lao động tham gia làm việc, chính vì thế họ luôn thu hút được những lao động giỏi và tay nghề cao, chính sách của họ đưa ra không chỉ đúng theo pháp luật mà còn khuyến khích thêm trái ngược hẳn với Việt Nam, Việt Nam luôn có những chính sách cắt giảm quyền lợi của người lao động chính vì thế tình trạng những người lao động giỏi nói chung và người lao động nữ nói chung thường không thích làm việc trong nước, đây cũng là tình trạng chung của đất nước gây ra hiện tượng chảy máu chất xám.
- Đối với chính phủ: Trước khi đưa ra bất kỳ một chính sách nào họ cũng luôn xem xét trước, sau, nghiên cứu kỹ cách thực hiện và khi các chính sách thực hiện xảy ra có nhiều bất cập gì, họ tìm hiểu và chỉnh sửa ngay từ đầu, tránh những rắc rối về sau.
Các nước phát triển thực hiện Bảo hiểm xã hội cũng nhu chế độ thai sản trong một thời gian đài do đó có nhiều kinh nghiệm, do đó Việt Nam muốn thực hiện tốt thì phải học hỏi và rút kinh nghiệm nhiều từ những nước đi trước
a- Để đảm bảo tăng mức lương hưu, trợ cấp BHXH đối với lao động nữ, đề nghị:
+ Nghiên cứu quy định tăng dần tuổi nghỉ hưu đối với người tham gia BHXH nói chung (cả nam và nữ). Riêng lao động nữ, ngoài việc tăng dẫn tuổi nghỉ hưu chung, cần nghiên cứu quy định giảm dần khoảng cách chênh lệch về tuổi nghỉ hưu so với lao động nam (hiện nay là 5 tuổi).
Theo số thống kê một số năm gần đây, hàng năm có khoảng 100 nghìn người nghỉ hưu (trong đó số lao động nữ nghỉ hưu chiếm 54,5%), với tuổi nghỉ hưu của người nghỉ hưu bình quân là 54,2 tuổi (lao động nam là 55,9 tuổi, của nữ là 52,4 tuổi. Tuổi thọ bình quân của người nghỉ hưu hiện nay khoảng 73,5 tuổi, thời gian bình quân hưởng lương hưu là 19,3 năm, trong đó nam hưởng bình quân 17 năm, nữ hưởng bình quân gần 22 năm.
+ Nghiên cứu quy định mức tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng BHXH để tính hưởng BHXH là tiền lương, tiền công và các khoản thu nhập bổ sung khác có tính chất tiền lương, tiền công của người lao động;
+ Nghiên cứu cải cách chính sách tiền lương, tiền công nói chung (nhất là tiền lương của khu vực hành chính) cho phù hợp và chính sách tiền lương, tiền công đối với lao động nữ để giảm dần khoảng cách chênh lệch về tiền lương đối với lao động nam, nhất là khi đến tuổi nghỉ hưu do nghỉ hưu sớm hơn, tổng thời gian công tác ít hơn (xem xét chính sách về thời hạn nâng bậc lương, nâng ngạch lương đối với lao động nữ).
b- Nghiên cứu về thời gian nghỉ việc hưỏng BHXH khi sinh con đối với lao động nữ để đảm bảo sức khỏe cho lao động nữ và chăm sóc trẻ em được tốt hơn (có thể tăng lên so với hiện nay) và xem xét quy định thời gian đóng BHXH 6 tháng trong thời hạn 12 tháng mới được hưởng trợ cấp thai sản khi sinh con trong trường hợp trước đó lao động nữ đã có nhiều năm đóng BHXH nhưng khi mang thai có khó khăn phải dưỡng thai.
c- Nghiên cứu quy định có khoản chi phí quản lý trong thực hiện giải quyết chế độ ốm đau, thai sản cho người lao động đối với đơn vị sử dụng lao động để đảm thực hiện chế độ được đầy đủ, kịp thời.
d- Nghiên cứu nâng các mức xử phạt, bổ sung hình thức xử phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH (nhất là vi phạm về thực hiện tham gia, đóng BHXH) và giao thẩm quyền xử lý vi phạm về BHXH cho tổ chức BHXH thực hiện để đảm bảo người lao động thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc được tham gia và hưởng BHXH đầy đủ, kịp thời và kiểm tra, xử lý nghiêm việc thực hiện bố trí lao động nữ không đúng với quy định của pháp luật,
e. Sớm nghiên cứu để có cơ chế hỗ trợ từ ngân sách nhà nước đối với người lao động tham gia BHXH tự nguyện, trước mắt là đối với lao động nữ, nhất là đối tượng thuộc diện nghèo, cận nghèo, vùng sâu, xa, dân tộc ít người (Điều 98 Luật BHXH có quy định Nhà nước hỗ trợ) để lao động nữ ở nông thôn, lao động tự do có điều kiện tham gia BHXH và hưởng BHXH, đảm bảo đời sống khi về già, đồng thời đảm bảo chung an toàn, an sinh xã hội .
KẾT LUẬN
Chế độ thai sản ở Việt Nam đã trải qua nhiều năm hoạt động và thực hiện , bên cạnh những đóng góp không nhỏ của nó vào nền kinh tế xã hội thì còn rất nhiều mặt trái của chế độ chưa được thực hiện hiệu quả. Chính vì thế cho nên việc thực hiện các biện pháp để cải thiện chế độ thai sản làm sao cho có hiệu quả là rất quan trọng vấn đề này đòi hỏi cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, các ban ngành, các bộ phận quản lý sao cho nó đạt hiệu quả cao nhất.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Những điều cần biết về BHXH
Giáo trình an sinh xã hội( NXB Đại học Kinh Tế Quốc Dân)
Luật BHXH năm 1995
…….
MỤC LỤC
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1 số biện pháp hoàn thiện chế độ Bảo hiểm xã hội thai sản ở Việt Nam hiện nay.DOC