MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 3
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN 3
1. Tổng quan về tình hình nghiện ma túy ở Việt Nam. 3
1.1. Các khái niệm liên về ma túy. 3
1.1.1. Ma túy 3
1.1.2. Nghiện ma túy và đôi nét về lịch sử nghiện ma túy ở Việt Nam. 4
1.2.3 Người nghiện ma túy. 9
2. Công tác phòng chống ma túy ở nước ta. 9
2.1.Về công tác giảm cung ma túy. 10
2.2. Công tác giảm cầu ma túy. 11
2.3. Công tác giảm hại ma túy. 17
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC TỔ CHỨC QUẢN LÝ, DẠY NGHỀ VÀ TẠO VIỆC LÀM CHO NGƯỜI SAU CAI NGHIỆN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 18
1. Sự cần thiết tổ chức quản lý, dạy nghề và tạo việc làm cho người sau cai nghiện. 18
1.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh. 18
1.1.1. Đặc điểm kinh tế: 18
1.1.2. Đặc điểm xã hội: 19
1.2. Thực trạng về tình hình nghiện ma túy và công tác cai nghiện tại thành phố Hồ Chí Minh. 20
1.2.1. Tình hình nghiện ma túy trên địa bàn Thành phố. 20
1.2.2. Hạn chế công tác cai nghiện phục hồi đến năm 2002. 21
2. Cơ sở pháp lý của công tác tổ chức, quản lý, dạy nghề và tạo việc làm cho người sau cai nghiện tại Thành phố Hồ Chí Minh. 22
2.1. Sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và các bộ ngành trong việc thực hiện NQ16 23
2.2. Sự quan tâm, kiểm tra giám sát thực hiện của Ủy ban nhân dân Thành phố. 25
3. Một số kết quả về công tác tổ chức quản lý, dạy nghề và đào tạo việc làm cho người sau cai nghiện tại TP.HCM 26
3.1. Tại các Trung tâm chữa bệnh giáo dục- lao động xã hội 26
3.1.1. Tiếp nhận và Tổ chức quản lý, dạy nghề và tạo việc làm cho người sau cai nghiện 27
3.1.2. Công tác dạy nghề 28
3.2.3. Tổ chức việc làm cho người sau cai nghiện 30
3.1.3. Công tác dạy văn hóa 33
3.1.4. Một số hoạt động bổ sung việc tổ chức quản lý, dạy nghề và tạo việc làm cho người sau cai nghiện. 35
3.2. Tại các doanh nghiệp sử dụng lao động sau cai nghiện 41
3.2.1. Tình trạng việc làm 41
3.2.2Về tiền lương và thu nhập 42
3.2.3.Hợp đồng lao động 44
3.2.4. Một số yếu tố khác ảnh hưởng quá trình làm việc của người lao động 45
3.2.5. Về phía các doanh nghiệp sử dụng lao động sau cai nghiện 47
4. Nhận xét đánh giá và bài học kinh nghiệm. 48
4.1 Những mặt làm được 48
4.2. Khó khăn, vướng mắc: 49
4.3. Đánh giá chung. 49
4.4. Bài học kinh nghiệm. 52
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG MỤC TIÊU VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ 54
1. Phương hướng, nhiệm vụ. 54
1.1 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động 54
1.2. Tập trung thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm. 55
2. Mục tiêu 56
3. Kiến nghị 56
KẾT LUẬN 58
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 60
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
HĐLĐ : Hợp đồng lao động
UBND : Uỷ ban nhân dân
NQ16 : Nghị quyết 16
DN : Doanh nghiệp
TP.HCM : Thành phố Hồ Chí Minh
BHYT, BHXH : Bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội
TT : Trung tâm.
Nếu có thắc mắc gì về bài viết bạn liên hệ tới số ***********
64 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3613 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu 1 số công tác để thực hiện tổ chức quản lý, dạy nghề và tạo việc làm cho người sau cai nghiện tại TP Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được xây dựng thoáng mát, bàn ghế sạch sẽ, khay đĩa luôn được vệ sinh sạch sẽ. Người có sức khỏe phải tự tăng gia sản xuất để bảo đảm đủ suất ăn.Việc tổ chức trồng rau xanh, chăn nuôi tại các trung tâm đã tự túc 70-80% nhu cầu rau, 50-60% nhu cầu thực phẩm nên đã góp phần đáng kể vào giá trị dinh dưỡng của các bữa ăn. Bên cạnh đó, nhiều trung tâm đã tổ chức sản xuất tiểu thủ công nghiệp, gia công chế biến thực phẩm như sản xuất bánh mỳ, đậu phụ, sữa đậu lành…cũng góp phần nâng cao chất lượng bữa ăn.
Công tác dạy nghề
Tất cả các trung tâm đều rất quan tâm tổ chức dạy nghề cho người cai nghiện ngay khi họ mới tập trung. Dạy nghề cho các đối tượng là một nội dung quan trọng trong việc tổ chức quản lý, dạy nghề và tạo việc làm cho người sau cai nghiện vì có đến 50% số đối tượng trước khi đi cai nghiện không có chuyên môn kỹ thuật. Ban lãnh đạo các trung tâm đã rất năng động sáng tạo, tìm mọi cách, mọi biện pháp, mọi nguồn có thể tổ chức các lớp hướng dẫn dạy nghề cho đối tượng này. Một số nghề được đào tạo tại trung tâm như:
Nghề dài hạn: Tiện, hàn, điện máy, điện lạnh, điện tử, điện công nghiệp, công nghệ thông tin.
Nghề ngắn hạn: May công nghiệp, mộc, một số nghề khác( nghề thủ công mỹ nghệ..).
Theo số liệu của TP. HCM, đến hết năm 2005, các trung tâm đã tổ chức nhiều lớp với loại hình khóa đào tạo khác nhau cho gần 24.600 lượt đối tượng và hết năm 2006 con số này lên tới 32.981 lượt người, và có 11.507 người được cấp chứng chỉ. Tuy nhiên số liệu báo cáo không tách riêng cho học viên đang cai nghiện và sau cai nghiện nên không có số liệu cụ thể đánh giá đối tượng sau cai nghiện. Vì vậy, số đối tượng thực hiện Nghị quyết 16 thấp hơn rất nhiều.
Việc đăng ký tham gia học nghề là tự nguyện theo những nghề sẵn có trong trung tâm. Trung tâm sẽ thống kê trình độ, sức khỏe của đối tượng để tư vấn chọn nghề phù hợp và sắp xếp các lớp học phù hợp.
Tuy nhiên, có 20% đối tượng không tham gia học nghề do nhiều nguyên nhân: Đã có trình độ trung học chuyên nghiệp hoặc bằng dài hạn trở lên, đã có chứng chỉ nghề ngắn hạn, do sức khỏe yếu, và một số ít học viên không thấy phù hợp.
Hiện nay số nghề đào tạo trong các trung tâm có 5- 6 nghề, khóa đào tạo chủ yếu từ 2-3 tháng đối với các nghề kỹ thuật. Phần lớn các học viên được đào tạo dưới hình thức kèm cặp đối với các công việc không đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao. Vì vậy kế hoạch đào tạo nghề dài hạn là khó thực hiện. Các trung tâm chỉ đứng ra tổ chức và quản lý công tác dạy nghề, việc giảng dạy được ký kết với các cơ sở dạy nghề ở ngoài nhằm đa dạng hóa về các nghề khác nhau, đáp ứng một phần nhu cầu rất khác nhau của các đối tượng. Nhìn chung các đối tượng được dạy nghề đánh giá cao hiệu quả của công tác học nghề tại trung tâm.
Ngoài ra, có một xu hướng trong dạy nghề ngắn hạn đó là các trung tâm thường dạy cho học viên những nghề đơn giản để đáp ứng các hợp đồng gia công ký kết với các doanh nghiệp như may, thêu, đan, chế biến hạt điều…Sau khi kết thúc giai đoạn quản lý tập trung thì làm việc tại các cụm công nghiệp là không mấy khó khăn nhưng nếu hồi gia thì sẽ không phù hợp về công việc. Bởi vậy 50% số đối tượng đánh giá công tác học nghề tại trung tâm chưa đạt hiệu quả.
Taị mỗi trung tâm, tùy theo đặc thù thường có từ 1- 2 nghề chính về may công nghiệp hoặc mộc và cơ điện sửa chữa… Giáo viên dạy nghề tại trung tâm quản lý sau cai nghiện được thực hiện ký kết hợp đồng với các trung tâm dạy nghề của các quận thuộc TP. HCM. Một số nghề còn lại thường được tổ chức tại các xưởng sản xuất của các công ty hợp tác đầu tư xây dựng ở trong khuôn viên của trung tâm.
Một số bất cập trong công tác quản lý dạy nghề cho các đối tượng cần được giải quyết như:
- Sức khỏe yếu, tâm lý người sau cai nghiện không tập trung.
- Khó có thể đầu tư nhiều xưởng cho các loại nghề để đào tạo theo nhu cầu học viên và nhu cầu của thị trường. Các lớp chuyên ngành không đủ hoặc không có giáo viên giảng dạy lớp lý thuyết kết hợp thực hành.
- Chưa có khả năng đào tạo nghề dài hạn vì khả năng đầu tư trang thiết bị đa dạng và hiện đại, cũng như thời lượng của đối tượng dành cho học nghề trong thời gian lưu lại trung tâm là không dài.
3.2.3. Tổ chức việc làm cho người sau cai nghiện
Tạo việc làm cho người sau cai nghiện là một nhiệm vụ của các trung tâm quản lý người sau cai nghiện, góp phần tạo thu nhập, ổn định đời sống vừa rèn luyện nhân cách và có được kinh nghiệm về một nghề nào đó để đối tượng hòa nhập cộng đồng.
Các trung tâm quản lý sau cai nghiện tùy vào đặc thù và khả năng hợp tác với các công ty đầu tư vào trung tâm để tổ chức giải quyết việc làm bằng các hình thức như: Trung tâm tự tổ chức sản xuất, Công ty liên kết xây dựng sản xuất trong trung tâm, trung tâm ký hợp đồng đưa người đi lao động các doanh nghiệp bên ngoài.
Tham gia sản xuất sẽ đáp ứng nhu cầu thực phẩm để cải thiện bữa ăn hàng ngày, người lao động có thêm thu nhập từ 120- 900 ngàn đồng/ tháng.
Các trung tâm có điều kiện về đất đai đã tổ chức trồng rừng, các loại cây công nghiệp, cây ăn quả, trồng rau xanh và chăn nuôi gia súc. Nhờ đó tự túc được 70-80% nhu cầu rau xanh và 50-60% nhu cầu thực phẩm hàng ngày.
Thành phố cũng đã tổ chức xúc tiến đầu tư, triển lãm, hội chợ trưng bày sản phẩm của người sau cai nghiện để giới thiệu với thị trường và mở rộng liên kết. Có 60 doanh nghiệp, cá nhân đầu tư dạy nghề, sản xuất tại các trung tâm với số vốn lên tới 832 tỷ đồng, thuộc các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, may-thêu, chế biến hạt điều, mộc, nhựa gia dụng, gạch và chăn nuôi, trồng trọt. Tính đến cuối năm 2006 đã giải quyết việc làm thường xuyên cho 17.460 học viên và người sau cai nghiện, sang năm 2007 do số lượng người hòa nhập cộng đồng tăng lên nhiều, tính đến tháng 6/2007 giải quyết cho 7.983 học viên và người sau cai nghiện.
Những người có việc làm, có thu nhập đã đóng góp thêm tiền ăn cho bếp ăn tập thể, tự trang trải sinh hoạt và không nhận tiền viện trợ thậm chí còn gửi tiền về giúp gia đình.
Tuy nhiên, thực trạng tại môi trường làm việc ở các cơ sở sản xuất tại các trung tâm cai nghiện tập trung là công việc giản đơn, nhàm chán, quản lý cả lao động lẫn công việc chưa thấu đáo, chưa đúng phương pháp…nên thu nhập bình quân rất thấp.
Số liệu thống kê thu nhập bình quân của lao động trong các cơ sở sản xuất tại các trung tâm cai nghiện cho thấy chỉ riêng nghề may mang tính phổ thông, chứa ít nhiều yếu tố kỹ thuật thì thu nhập bình quân tại các cơ sở sản xuất trong trung tâm cai nghiện chỉ đạt khoảng 170.000đồng/người/
tháng.
Bảng 2: Thu nhập bình quân của lao động tại trung tâm :
( đơn vị 1.000 đồng/tháng)
Sản xuất nông nghiệp:
- Trồng rau xanh
Trồng nấm
Trồng cà phê – cao su
Chăn nuôi
100
250
150
150
Sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp:
Hàng thủ công mây, tre, nứa, lá mành trúc
Sơ chế hạt điều
Đan giỏ lục bình
Mộc, mộc kỹ nghệ
May công nghiệp
Hàn
Sản xuất gạch
Chế biến gỗ
Đan vợt cầu lông
Ép áo mưa
Xây dựng
Xâu hạt cườm
May giầy cườm
Thêu, đan giỏ nút
Dệt chiếu
Sơn mài
Chế biến các loại bánh (cho nhu cầu nội bộ)
Chế biến thực phẩm (cho nhu cầu nội bộ)
130
190
320
160
170
170
245
320
100
160
170
100
150
130
100
200
200
190
3.1.3. Công tác dạy văn hóa
Do đối tượng chủ yếu là ở nhóm tuổi thanh niên (18 - 35 tuổi chiếm 87%) nên việc đào tạo cả về văn hóa và chuyên môn là cần thiết. Mặc dù công tác dạy văn hóa không phải là nhiệm vụ trọng tâm của giai đoạn đầu thực hiện thí điểm Nghị quyết 16 nhưng trong quy chế của Thành phố đã ban hành “Người sau cai nghiện chưa đủ 18 tuổi được tập trung học văn hóa … đến khi đủ 18 tuổi, và người sau cai nghiện chưa tốt nghiệp phổ thông trung học được tạo điều kiện bổ túc văn hóa”. Các trung tâm thuê giáo viên từ các trung tâm giáo dục thường xuyên của TP. HCM thông qua hợp đồng giữa hai đơn vị. Phòng học được trang bị đầy đủ bàn ghế phấn sách vở được TP. HCM cung cấp. Trung tâm giáo dục thường xuyên chịu trách nhiệm về chương trình, giáo trình, giáo viên và các phương tiện giảng dạy. Số liệu của báo cáo cho thấy, trình độ học viên và người sau cai nghiện đã nâng lên rõ rệt trong thời gian ở trung tâm. Các đối tượng mù chữ sau khi kết thúc giai đoạn cai nghiện bắt buộc chuyển sang giai đoạn quản lý sau cai nghiện cơ bản đã được xóa mù chữ. Tính đến năm 2007, có tới 99 người sau cai nghiện được tham gia chương trình đại học từ xa.
Bảng 3: Cơ cấu trình độ văn hóa năm 2003 và 2006 của đối tượng
Đơn vị: %
Trình độ văn hóa
Năm 2003
Năm 2006
Mù chữ
12.3
4.2
Tiểu học
38.3
10.5
Trung học sơ sở
34.1
64.4
Trung học phổ thông
15.3
20.9
Tổng
100
100
(Nguồn: Báo cáo của Thành ủy TP. HCM tháng 5/2005)
Bảng trên cho thấy, trình độ văn hóa của các đối tượng đã được cải thiện đáng kể. Số mù chữ và chỉ có trình độ tiểu học giảm mạnh và thay vào đó là sự gia tăng của đối tượng tốt nghiệp trung học cơ sở và trung học phổ thông.
Việc tổ chức dạy văn hóa tại các trung tâm còn gặp những khó khăn vì các đối tượng sau cai nghiện có trình độ rất khác nhau nên phải tổ chức thành nhiều lớp học phù hợp với trình độ của đối tượng. Việc dạy văn hóa cho học viên có trình độ ở các cấp học cao hơn đã không được tính toán từ đầu, cho nên gặp phải một số vướng mắc khó giải quyết như:
Thiếu cán bộ chuyên môn có trình độ tương ứng đứng lớp, thiếu nghiệp vụ sư phạm, thiếu tài liệu, trang thiết bị cần thiết, sách giáo khoa…
Thiếu kinh phí ( ban đầu chỉ cấp cho việc xóa mù chữ và phổ cập tiều học ). Cuối năm 2004 mới có quyết định kinh phí cho bậc trung học cơ sở.
Nhiều trung tâm đóng ở vùng sâu, vùng xa, rất trở ngại cho việc hợp tác với Phòng Giáo dục và các trường tại địa phương.
Tình trạng thiếu học viên do những nguyên nhân như: học viên cai nghiện là những người lười biếng, sức khỏe kém vì vậy động viên họ đến lớp là rất khó trong khi họ cũng không có tiền đóng học phí, thêm vào đó các học viên ban ngày phải lao động vất vả nên không còn ý chí, sức khỏe để đến lớp. Nhiều đối tượng là người có tiền sử dùng ma túy, trí nhớ giảm nên việc học không được tập trung và kém hiệu quả.
3.1.4. Một số hoạt động bổ sung việc tổ chức quản lý, dạy nghề và tạo việc làm cho người sau cai nghiện.
Thứ nhất là, công tác giáo dục đạo đức nhân cách và tuyên truyền vận động:
- Xác định người nghiện là đối tượng khiếm khuyết một phần nhân cách, yếu kém trong nhận thức hành vi, Thành phố chủ trương đẩy mạnh công tác giáo dục nhân cách cho người nghiện, biên soạn Bộ tài liệu giáo dục gồm 72 bài, trong đó 40 bài có nội dung giáo dục, dễ hiểu như: “Giáo dục lối sống nhân cách ”, “ Rèn luyện ý chí tuổi trẻ”, “Đạo dức và hành vi đạo đức”…mang lại hiệu quả trong việc giáo dục nhân cách cho đối tượng cai nghiện. Bộ tài liệu này đã được Bộ Lao động – Thương binh và xã hội cho ứng dụng tại các trung tâm trên cả nước từ đầu năm 2007.
- Song song với giáo dục nhân cách, công tác giáo dục pháp luật cũng được Thành phố phối hợp với các trung tâm quan tâm và triển khai thực hiện. Ngoài nội dung giáo dục về Luật phòng, chống ma túy, Luật phòng, chống HIV/AIDS.
- Công tác tuyên truyền, vận động: bằng tài liệu, tổ chức hội nghị, lớp tập huấn triển khai cho các cán bộ, các đoàn thể, từ thành phố đến quận huyện, xã phường, các sở ngành, địa phương về phòng chống ma túy.
- Định kỳ tặng quà, thăm hỏi động viên các cán bộ nhân viên tại Trung tâm, các học viên và người sau cai nghiện.
Thứ hai là chăm lo đời sống vật chất và tinh thần:
Các trung tâm tổ chức tốt các hoạt động sinh hoạt giải trí. Trong mỗi khu, nơi ở của đối tượng thường có diện tích rộng làm vườn hoa, trồng cây cảnh tạo không gian thoải mái trong những giờ nghỉ ngơi. Có siêu thị nhỏ và căng tin phục vụ đồ ăn, nước giải khát theo nhu cầu sinh hoạt cá nhân của các đối tượng như cuộc sống ở bên ngoài.
Trong mỗi lĩnh vực được trang bị tủ sách, câu lạc bộ văn hóa, loa truyền thanh. Tổ chức hoạt động thể thao đa dạng, có phòng thể dục dụng cụ, có sân bóng chuyền cầu lông ngoài trời, sân bóng đá, tạo ra phong trào rèn luyện sức khỏe thường xuyên cũng như tổ chức giao lưu và thi đấu nội bộ giữa các khu và với bên ngoài trung tâm.
Công tác tuyên truyền giáo dục được thực hiện thông qua nhiều, hình thức, lớp học, sinh hoạt chuyên đề cuối tuần, chiếu phim, thông tin thời sự. Những phát sinh vướng mắc của đối tượng và nhân thân được tư vấn, đối thoại trực tiếp giúp họ hiểu rõ về chủ trương, quy định của TP. HCM để bản thân động viên con em mình tích cực rèn luyện tu dưỡng.
- Các Trung tâm tạo điều kiện cho học viên, người sau cai nghiện xây dựng và biên soạn các chương trình phát thanh, báo tường, tổ chức tham quan danh lam thắng cảnh …
- Giải quyết cho các học viên có thành thích tốt được về thăm nhà và các chế độ nghỉ phép như cưới hỏi, ma chay…
Thứ ba là chăm sóc sức khỏe học viên
Xuất phát từ tình trạng sức khỏe yếu kém của đối tượng khi vào trung tâm, việc chăm sóc sức khỏe và phòng chống lây nhiễm HIV/AIDS được đặc biệt quan tâm. Mỗi trung tâm có phòng y tế với đầy đủ số thuốc và được trang bị một số thiết bị y tế.
Các trung tâm thực hiện nghiêm chỉnh quy định lập sổ y bạ và tổ chức khám sức khỏe định kỳ mỗi năm 2 lần cho các đối tượng. Các trung tâm luân phiên tiếp đón các đoàn của bệnh viện Thành phố đến chữa bệnh cho các đối tượng, trao đổi kinh nghiệm, nâng cao kiến thức và kỹ năng tay nghề cho các cán bộ trung tâm.
Chế độ chính sách tiền thuốc đối với người sau cai nghiện được hỗ trợ với mức điều trị thông thường 10.000/ tháng. Các trung tâm hợp tác với các công ty dược tổ chức quầy thuốc trả tiền sau, để thân nhân của các đối tượng có thể mua thêm thuốc ngoài đơn thuốc cho đối tượng. Sự kết hợp giiữa trung tâm và gia đình tích cực trong điều trị, phục hồi sức khỏe của đã cải thiện được đáng kể sức khỏe của đối tượng.
Bên cạnh việc chăm sóc y tế, các trung tâm còn phối hợp với Ủy ban phòng chống HIV/AIDS tổ chức nhiều lớp tập huấn cho đối tượng, người nhiễm HIV về chăm sóc điều trị các bệnh lây lan và bệnh nhiễm trùng cơ hội. Tại các trung tâm nhiều buổi tư vấn chăm sóc sức khỏe học được tổ chức cho đối tượng sau cai nghiện trước khi về hòa nhập với cộng đồng.
Cán bộ y tế tại các trung tâm chiếm khoảng 14% tổng số nhân viên. Tỷ lệ 1 nhân viên y tế trên 41 học viên là tạm đủ về số lượng. Tuy nhiên, các trung tâm ở xa rất khó thu hút bác sỹ về làm việc, đồng thời họ cũng không yên tâm làm việc tốt. Để khắc phục tình trạng trên, các trung tâm ưu tiên các trường hợp đào tạo cán bộ tại chỗ. Mặc dù vậy, vẫn còn tình trạng trung tâm thiếu bác sỹ.
Khoảng 50% số đối tượng kể cả các đối tượng sau khi trở về cộng đồng đều đánh giá rằng sức khỏe của họ đã được cải thiện sau thời gian chăm sóc tại trung tâm.
Tổ chức tốt bếp ăn công nghiệp tại các trung tâm, thường xuyên bảo đảm nước sạch cho ăn uống và đủ nước dùng cho sinh hoạt, thực hiện đúng quy trình xử lý nước thải, rác thải y tế, bảo vệ môi trường và cảnh quan khu vực trung tâm
Mỗi đơn vị đều có y – bác sỹ theo dõi vệ sinh an toàn thực phẩm.
Thứ tư là trợ giúp vay vốn tạo việc làmcho đối tượng sau cai nghiện:
Bên cạnh nguồn vốn được huy động từ Quỹ xoá đói giảm nghèo, của Ngân hàng chính sách xã hội, nguồn vốn vay từ Uỷ ban phòng chống AIDS, nguồn vay từ các Đoàn thể địa phương: Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh …giúp đỡ người tái hoà nhập cộng đồng vay vốn, tạo việc làm. Đến nay, có 376 người tái hoà nhập cộng đồng được vay với tổng số tiền được vay lên tới 1tỷ 781 triệu đồng, bước đầu việc làm ăn có hiệu quả và tỷ lệ trả vốn vay đạt 98%.
Thứ năm là công tác tổ chức bộ máy và cán bộ quản lý ở các trường dạy nghề, Trung tâm:
Tính đến năm 2006, tổng số cán bộ nhân viên làm việc trong 20 trung tâm là 3.086 người. Bình quân mỗi trung tâm có 150 cán bộ nhân viên. Trong đó, số đạt trình độ đại học chiếm 30%, trung học chuyên nghiệp chiếm 20%, còn lại 50% chỉ có tình độ sơ cấp hoặc không có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Cán bộ nhìn chung đã yên tâm công tác, đó chính là kết quả của những chính sách hợp lý bao gồm: chính sách luân chuyển về trung tâm, chính sách đề bạt các cán bộ nhiệt huyết có năng lực và bố trí về các trung tâm mới, xen ghép các cán bộ nhân viên có nhiều kinh nghiệm với người mới tuyển dụng, chính sách phụ cấp tiền lương, chính sách việc làm và hộ khẩu để thu hút sinh viên mới ra trường tình nguyện về các trung tâm ở xa.
Ngoài các chế độ chính sách do nhà nước quy định như: phụ cấp lây nhiễm, độc hại cao, phụ cấp thu hút lao động có trình độ cao, TP. HCM còn ban hành Quyết định số 189/2003/QĐ-UB ngày 22/9/2003 về thực hiện một số chế độ chính sách đối với cán bộ công chức và người lao động làm việc tại những vùng khó khăn tại các cơ sở chữa bệnh. Bên cạnh đó, Thành phố còn ban hành Quyết định số 45/2005/QĐ-UB ngày 21/3/2005 về thực hiện chế độ phụ cấp đối với cán bộ, nhân viên làm việc tại các cơ sở xã hội, cơ sở chữa bệnh. Theo đó cho phép thực hiện chế độ trợ cấp ngoài quy định của Trung ương để bồi dưỡng thêm cho cán bộ, nhân viên theo 3 mức như sau:
Bác sỹ, cán bộ ban giám đốc đơn vị được hưởng thêm 3 lần mức lương tối thiểu.
Cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học được hưởng thêm 2,5 lần lương tối thiểu.
Người có trình độ trung cấp được hưởng thêm 2 lần lương tối thiểu.
Nhờ vậy, thu nhập bình quân của mỗi bác sỹ và lãnh đạo từ 4-5 triệu đồng/tháng; cán bộ đại học từ 2,5-3,5 triệu đồng/ tháng; cán bộ trung cấp từ 2-2,5 triệu đồng/tháng.
Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã tạo điều kiện nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các cán bộ trong trung tâm. Đến cuối năm 2006 đã có 33 người theo học đại học, 185 người theo học các chương trình trung cấp. Riêng cán bộ y tế có một tầm quan trọng đặc biệt đối với các trung tâm nên Sở Lao động- Thương binh và Xã hội đã lên kế hoạch phát triển đội ngũ đào tạo từ cơ sở để ỏn định làm việc cho giai đoạn 2004-2008 bao gồm: 19 bác sỹ, 11 y sỹ và 170 điều dưỡng viên.
Thứ sáu là sự phối hợp giữa các Bộ ngành:
- Bộ Lao động - Thương binh và xã hội thường xuyên theo dõi quá trình thực hịên tổ chức quản lý, dạy nghề và tạo việc làm cho người sau cai nghiện và tổ chức đoàn kiểm tra liên ngành đến các Trường, Trung tâm của Thành phố kiểm tra công tác cai nghiện phục hồi, giáo dục nhân cách, dạy nghề, dạy văn hóa, công tác chăm sóc sức khỏe, bảo vệ môi trường. Lãnh đạo Bộ kịp thời đề ra những chỉ đạo, hứng dẫn cho Thành phố khắc phục những mặt yếu trong quá trình thực hiện đề án và phát huy mặt tích cực, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm chỉ đạo chung trong toàn ngành. Đồng thời qua công tác kiểm tra, Bộ tiếp thu những đề xuất cơ sở và căn cứ thực tế phát sinh đã phối hợp với bộ - ngành liên quan tham mưu những Nghị định và ban hành các Thông tư hướng dẫn liên quan thiết thực đến công tác cai nghiện phục hồi và quản lý sau cai nghiện.
- Bộ Y tế: Việc chăm sóc sức khỏe, quy trình cai nghiện điều trị cho các đối tượng tại các trung tâm cai nghiện ma túy được sự quan tâm chỉ đạo sâu sắc của Bộ Y tế. Bộ Y tế đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Lao động – Thương binh và xã hội ban hành những thông tư hướng dẫn giúp các trường, Trung tâm triển khai tốt công tác y tế, quy trình cai nghiện, đặc biệt là lĩnh vực phòng chống HIV/AIDS.
- Bộ Tư pháp: đây là công việc mới, chưa có tiền lệ nên việc xây dựng khung pháp lý cho việc triển khai là rất quan trọng. Qua thực tiễn công việc hàng ngày, Thành phố đúc kết, tổng hợp thành lý luận xây dựng những chính sách, những quy định cụ thể từ vấn đề quản lý đối tượng sau cai nghiện… đến những chế độ thu hút chất xám, ưu đãi đầu tư sản xuất trong các trung tâm; Thành phố đều có văn bản trao đổi ý kiến với Bộ Tư pháp trước khi thực hiện và trong quá trình thực hiện.
- Bộ Công an: Bên cạnh công tác chỉ dạo, triệt phá, bắt giữ bọn tội phạm ma túy trên cả nước, Bộ Công an đã hỗ trợ tích cực trong phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và xã hội trong công tác quản lý cai nghiện phục hồi: ban hành thông tư hướng dẫn, chỉ đạo Công an địa phương hỗ trợ giữ gìn trật tự an ninh, phòng chống buôn bán ma túy.
Ngoài ra, Văn phòng chính phủ, Bộ Tài chính và một số Bộ ngành khác liên quan trong phạm vi quản lý nhà nước chuyên ngành đã hỗ trợ các tỉnh thành phố về chủ trương, chính sách cụ thể có liên quan trong quản lý học viên cai nghiện ma túy, chế độ tài chính, đầu tư sản xuất trong các cơ sở giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện
3.2. Tại các doanh nghiệp sử dụng lao động sau cai nghiện
Để tạo điều kiện cho người sau cai nghiện ổn định cuộc sống, rèn luyện nhân cách, giảm thiểu tái nghiện, Chính phủ cũng như thành phố Hồ Chí Minh đã đề ra các chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi thu hút các nhà đầu tư mở doanh nghiệp thu hút lao động sau cai nghiện.
Điển hình là các doanh nghiệp trong cụm Công nghiệp Nhị Xuân, đây là cụm công nghiệp đặc biệt do Lực lượng thanh niên Xung phong quản lý và được hưởng nhiều chính sách hỗ trợ. Ngoài ra, lực lượng này còn thành lập hai doanh nghiệp là Đại Việt và Mỹ Sơn cùng với hai cơ sở khác do Sở Lao động Thương binh xã hội quản lý nhưng lại đặt ở Đồng Nai cũng đang thu hút lao động sau cai nghiện.
3.2.1. Tình trạng việc làm
Từ khi Nghị quyết 16 ra đời, Nhà nước cũng như TP. HCM đã có nhiều chính sách ưu đãi tạo nhiều cơ hội cho người sau cai nghiện có việc làm. Các kênh việc làm chủ yếu gồm: làm việc tại các cụm công nghiệp, làm việc và định cư ngay tại các trường, các trung tâm cai nghiện, làm việc trên những công trình lớn cần nhiều lao động phổ thông và làm việc tại các hợp tác xã, các cơ sở sản xuất do gia đình, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế đầu tư.
Tính từ năm 2005, khi bắt đầu có chủ chương khuyến khích các cơ sở thu hút lao động thì có 882 người được tuyển dụng làm việc cho các cơ sở đặc biệt, trong đó, 683 người được làm tại cụm Công nghiệp Nhị Xuân, 200 người khác làm tại các cơ sở như: Đại Việt, Mỹ Sơn và các trung tâm quản lý, dạy nghề của Thành phố Hồ Chí Minh.
Tổng số người tái hòa nhập về các doanh nghiệp mới chỉ chiếm 9,4%. Ngay trong cụm Công nghiệp Nhị Xuân thì số lao động sau cai nghiện chiếm trên 60% tổng số lao động làm việc tại đây.
Công việc chủ yếu tại các trung tâm quản lý sau cai nghiện vẫn là gia công hạt điều. Tại các doanh nghiệp trong cụm công nghiệp Nhị Xuân thì tạo ra nhiều công việc hơn: sản xuất đồ nhựa gia dụng, sản xuất bình ga, sản xuất đồ gia dụng bằng sắt, bằng nhôm. Lao động làm may, thêu, đan cũng chiếm tỷ trọng đáng kể ( 1/3 tổng số). Công việc chủ yếu không đòi hỏi chuyên môn kỹ thuật cao.
Bảng4: Cơ cấu việc làm của đối tượng sau khi kết thúc giai đoạn quản lý về các doanh nghiệp đặc biệt.
Đơn vị: %
Nghề
DN trong cụm Nhị Xuân
DN ngoài cụm Nhị Xuân
Làm việc và định cư tại TT
Tổng số
Giacông hạt điều
23.0
23
May, thêu, đan
19.7
13.1
32.8
Thợ có kỹ thuật(điện,cơ khí)
37.7
37.7
Khác
1.6
4.9
6.5
Tổng
59
13.1
27.9
100
Về thời gian lao động, có 80% người sau cai nghiện tái hòa nhập làm việc trong các doanh nghiệp theo đúng thời gian quy định (làm 5 – 6 ngày 1 tuần, 8 giờ một ngày), cá biệt tại các doanh nghiệp dệt may, thời gian làm việc kéo dài 8,5 tiếng trong ngày và làm việc cả 7 ngày trong tuần.
3.2.2Về tiền lương và thu nhập
Đa số các doanh nghiệp nhận tuyển lao động là người sau cai nghiện mới được thành lập hoặc mới họat động nên lợi nhuận còn thấp và không như mong đợi của các chủ doanh nghiệp. Mặt khác, lao động là người sau cai nghiện có đặc điểm về tâm lý chưa ổn định và sức khỏe chưa đảm bảo nên tiền lương ở mức thấp. Nhưng nguyên nhân quan trọng đó là do công việc làm trong phần lớn các cơ sở sản xuất là loại lao động giản đơn, ít hàm lượng chất xám, việc quản lý lao động chưa chặt chẽ, và một số lao động lười biếng. Thu nhập bình quân đạt 540.000 đồng/người/tháng.
Bảng 5: Thu nhập bình quân/ tháng của lao động sau cai nghiện
Đơn vị: %
Nghề
Dưới 200 nghìn đồng
Từ 200-500 nghìn đồng
Từ 500 đến
1 triệu đồng
Từ 1 triệu đồng trở lên
Gia công hạt điều
4.9
18.0
May thêu đan
1.6
1.6
18.0
11.5
Kỹ thuật
1.6
3.3
24.6
8.2
Dịch vụ
4.9
Khác
1.6
Tổng
14.8
23
42.6
19.7
(Nguồn: số liệu khảo sát đối tượng tái hòan nhập cộng đồng trong cum công nghiệp Nhị Xuân)
Lao động làm việc trong các lĩnh vực dệt/ may và cơ khí có tiền lương cao nhất, thấp nhất là lương của thợ bóc tách hạt điều. Lao động có mức tiền lương từ 500 nghìn đồng/ tháng chiếm tỷ lệ cao nhất (khoảng 43%); có mức tiền lương từ 1triệu đồng/ tháng trở lên chiếm gần 20% (là thợ cơ khí và dệt may). Cụ thể mức lương cao nhất ở công ty Đại Việt là 1.600.000 đồng/ tháng, mức lương trung bình khoảng 900.000đồng/ tháng, mức lương thấp nhất 650.000đồng/ tháng. Công ty Đông Phương có mức lương cao nhất là 1.540.000đồng/ tháng, trung bình là 800.000đồng/ tháng, mức thấp nhất là 400.000đồng/ tháng. Số có mức tiền lương dưới 400.000đồng/ tháng chủ yếu là lao động làm việc và định cư trong Trung tâm Phú Văn.
Phần lớn những người lao động cho rằng do tiền lương, thưởng còn thấp nên họ chưa thể tiết kiệm cho bản thân cũng như hỗ trợ gia đình. Tuy nhiên, vẫn có số ít những lao động làm việc tại công ty may Đại Việt có tiết kiệm và gửi tiền về giúp gia đình.
3.2.3.Hợp đồng lao động
Bảng 6: Số liệu thống kê về tình hình ký hợp đồng lao động:
Đã kí
HĐLĐ
Chưa kí
HĐLĐ
Tại cụm công nghiệp Nhị Xuân
0
100%
Tại các doanh nghiệp ngoài cụm Nhị Xuân
87.5%
12.5%
Làm việc tại trung tâm
0
100%
Chung
11.48%
83.61%
Mới chỉ có doanh nghiệp may Đại Việt đã ký hợp đồng với người lao động. Các doanh nghiệp trong cụm công nghiệp Nhị xuân và các cơ sở khác chưa thực hiện ký HĐLĐ với người sau cai nghiện.
Lý do của việc chưa ký hợp đồng là do các doanh nghiệp này nhận lao động trực tiếp từ các cơ sở và đang chờ các chính sách của nhà nước hỗ trợ tạo việc làm cho người lao động. Bên cạnh đó, 9% số người lao động không ký hợp đồng vì lý do sức khỏe, 22% do lao động không muốn làm việc lâu dài tại đây, 24% là do các doanh nghiệp không muốn ký.
3.2.4. Một số yếu tố khác ảnh hưởng quá trình làm việc của người lao động
Tình trạng đầu tư sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thu hút lao động sau cai nghiện.
- Cụm công nghiệp Nhị Xuân là cụm công nghiệp đặc biệt vì được hưởng nhiều ưu đãi nhằm mở rộng sản xuất tạo việc làm và ổn định đời sống cho người sau cai nghiện. Thành lập năm 2005, bao gồm cảc khu dân cư đô thị với tổng diện tích là 54,1 ha dành để sản xuất, 23,7 ha để xây dựng khu dân cư và chung cư cho người lao động và cán bộ quản lý. Đến tháng 11/2006 đã có 6 doanh nghiệp tư nhân xây dựng cơ sở sản xuất và tiếp nhận người sau cai làm việc tại cụm công nghiệp Nhị Xuân:
- Công ty Ngọc Hà sản xuất mỳ ăn liền tiếp nhận 60 lao động nữ và số này được bố trí làm ca riêng.
- Công ty may Tường Vân tiếp nhận 426 người sau cai đã được tái hòa nhập cộng đồng. Số đối tượng này được chuyển từ các trường, trung tâm theo nguyện vọng của gia đình về cụm công nghiệp Nhị Xuân.
- Công ty thể thao Sài Gòn tiếp nhận 35 người sau cai nghiện từ tháng 7/2006 và hướng dẫn cho đối tượng này trong 3 tháng.
- Công ty TNHH May Diễm Khanh, tiếp nhận 160 lao động là người tái hòa nhập cộng đồng và đối tượng sau cai.
- Công ty TNHH sản xuất và thương mại Thiên Phước tiếp nhận 30 lao động là người tái hòa nhập cộng đồng và người sau cai.
- Công ty cổ phần cơ khí Đông Phương tiếp nhận 30 lao động là người tái hòa nhập cộng đồng và người sau cai.
Ban quản lý cụm công nghiệp Nhị Xuân cho biết đến hết tháng 11/2006, ngoài 6 doanh nghiệp đã bước vào hoạt động sản xuất, đã có 14 nhà đầu tư là các doanh nghiệp tư nhân ký hợp đồng thuê 20,23 ha đất xây dựng cơ sở sản xuất, 8 doanh nghiệp trong số này đang thi công xây dựng nhà xưởng. Khi 20 doanh nghiệp đã ký hợp đồng xây dựng xong, bước vào sản xuất sẽ có 2.500 lao động là người sau cai nghiện được tiếp nhận. Các doanh nghiệp được hưởng ưu đãi theo chương trình kích cầu vay, vay vốn từ Quỹ đầu tư và phát triển.
Đến tháng 4/2007 có 20 doanh nghiệp thuê gần 28 ha với vốn đầu tư 5000 tỷ đồng. Lĩnh vực sản xuất chính: dệt may, chế biến thực phẩm, chế biến gỗ…
Bên cạnh đó, các cơ sở sản xuất trên địa bàn quận huyện bao gồm:
- Công ty TNHH may – thêu xuất khẩu Mỹ Sơn tiếp nhận 78 người sau cai.
- Công ty TNHH may Đại Việt, tiếp nhận 100 đối tượng vào làm việc.
Do tính chất công việc, các doanh nghiệp chủ yếu cần lao động có trình độ ở mức trung bình. Tuy nhiên khó khăn là tình trạng sức khỏe của người sau cai nghiện thường rất kém, ảnh hưởng nhiều đến năng suất lao động và tình hình sản xuất chung của các doanh nghiệp.
Môi trường làm việc các đối tượng sau cai nghiện:
Các cơ sở sản xuất đảm bảo các điện về an toàn vệ sinh lao động, nhà xưởng rộng rãi không bị ô nhiễm không khí, tiếng ồn. Lao động làm việc tại các sơ sở này đều được quản lý bởi những người có chuyên môn nên ý thức kỷ luật cũng như thực hiện những nội dung, quy chế của các doanh nghiệp rất tốt. Việc tiếp tục quản lý, giáo dục đối tượng này là yêu cầu và nhiệm vụ không thể thiếu, bởi vì họ cần thêm trang bị tinh thần tôn trọng pháp luật, về đạo đức, tư cách và lối sống của một công dân đích thực. Tuy nhiên, một số doanh nghiệp ở cụm công nghiệp Nhị Xuân cho biết, vẫn có lao động trốn ra ngoài. Công ty Đông Phương có 30 người từng trốn, công ty may Thiên Phước có 15 người trốn.
Chăm sóc sức khỏe các đối tượng sau cai nghiện.
Chăm sóc sức khỏe là việc quan trọng và cần thiết với những đối tượng sau cai nghiện.
Tình trạng sức khỏe của người lao động sau cai nghiện hiện nay yếu hơn 21% so với thời gian tập trung tại các trung tâm, người có sức khỏe tốt hơn chiếm 28%, sức khỏe bình thường chiếm 51%.
Các doanh nghiệp đều có chuyên môn về y tế theo dõi tình hình sức khỏe cũng như tâm lý của người lao động sau cai nghiện tái hòa nhập làm việc. Các doanh nghiệp trong cụm công nghiệp Nhị Xuân có cơ sở y tế định kỳ tổ chức theo dõi, khám bệnh và điều trị cho các đối tượng.
Những nội dung chủ yếu của công tác chăm sóc y tế được TP. HCM đề cập và cấp kinh phí là:
- Tổ chức xét nghiệm HIV/AIDS đối với những người sau cai nghiện nếu có nghi ngờ bị nhiễm để kịp thời phân loại và bố trí công việc phù hợp với sức khỏe.
- Tại các cơ sở giải quyết việc làm cho người sau cai có phòng y tế để thực hiện việc khám và chăm sóc sức khỏe cán bộ, công nhân, viên chức và lao động sau cai nghiện.
- Người sau cai nghiện đang làm việc theo phương thức giải quyết việc làm nếu chuyển sang AIDS giai đoạn cuối được chuyển đến cơ sở điều trị dành riêng cho bệnh nhân AIDS tại bệnh viện Nhân Ái hoặc về nhà chăm sóc theo nguyện vọng của gia đình.
3.2.5. Về phía các doanh nghiệp sử dụng lao động sau cai nghiện
Các chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp đầu tư việc làm cho học viên và người sau cai nghiện:
Để thu hút nhiều nguồn lực đầu tư vào các cơ sở cai nghiện, Thành phố đã tổ chức nhiều cuộc tiếp xúc với các doanh nghiệp đóng trên địa bàn Thành phố và ở các tỉnh, thành phố nơi các trung tâm đóng nahừm xúc tiến các hoạt động kêu gọi đầu tư, đồng thời lắng nghe các doanh nghiệp góp ý với dự thảo các chính sách ưu đãi của Thành phố. Bên cạnh đó, Thành phố cũng đã tổ chức, triển lãm, hội chợ giới thiệu sản phẩm do người sau cai nghiện làm ra để giới thiệu với thị trường, tiêu thụ sản phẩm và mở rộng việc liên kết hỗ trợ sản xuất.
Đến nay, đã ban hành một số chính sách, chế độ khuyến khích đầu tư giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện
- Quyết định số 251/2003/QĐ-UB giao quỹ đầu tư phát triển Thành phố cho vay các chương trình sản xuất, thực hiện Đề án tổ chức quản lý dạy nghề và giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện.
- Quyết định số 17/2005/QĐ-UB của UBND Thành phố quy định chính sách ưu đã với các nhà đầu tư sử dụng lao động là học viên và người sau cai nghiện về mặt bằng, nhà xưởng sản xuất, về vốn và lãi xuất; được hỗ trợ tài chính sau khi nộp thuế.
- Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 212/2006/QĐ-TTg về tín dụng đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ và doanh nghiệp sử dụng người lao động là người sau cai nghiện.
4. Nhận xét đánh giá và bài học kinh nghiệm.
4.1 Những mặt làm được
Về mặt kinh tế: Giảm đáng kể sức cầu về ma túy, giúp loại bỏ một khoản chi phí lên tới hàng trăm tỷ đồng về việc sử dụng ma túy trong xã hội. Nếu tính bình quân một người sử dụng ma túy chi 50.000 nghìn đồng/ ngày thì tổng số tiền mà trên 30.000 con nghiện Thành phố sẽ đốt hết trong vòng 1 năm là trên 500 tỷ đồng. Mặt khác, nhờ được giáo dục, học nghề mà hàng vạn người nghiện trong những năm qua đã có việc là, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội. Đồng thời giải quyết một số lượng lớn lao động cho đối tượng sau cai nghiện.
Về mặt xã hội, nhân văn: góp phần xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, làm giảm đi gánh nặng của bao gia đình có con em cai nghiện, tạo cơ hội cho hàng chục vạn con người đang dần chết mòn vì ma túy được chữa trị chăm sóc sức khỏe, rèn luyện, nâng cao nhận thức.
Về mặt an ninh trật tự xã hội: Giảm tình trạng gia tăng người nghiện và tái nghiện, giảm bớt tình hình tội phạm hình sự, đặc biệt là tội phạm về ma túy.
4.2. Khó khăn, vướng mắc:
- Tình trạng học vấn của các đối tượng
- Các trường, Trung tâm vừa làm công tác giáo dục, chữa trị, vừa thực hiện công tác quản lý sản xuất nên công việc phức tạp trong khi cán bộ còn thiếu và chưa đồng bộ.
- Tình hình đấu tranh phòng chống tệ nạn ma túy còn diễn biến rất phức tạp.
- Các quy định về pháp lý còn chậm, chưa đầy đủ.
4.3. Đánh giá chung.
Thành phố Hồ Chí Minh đã hết sức coi trọng công tác phòng chống tệ nạn ma túy nói chung và tổ chức thực hiện NQ16 nói riêng. Điều này được thể hiện ở sự chỉ đạo quyết liệt của Thành ủy, UBND TP.HCM với sự tham gia tích cực của các ban ngành, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP.HCM, của các tổ chức đoàn thể, của chính quyền địa phương, nhất là cấp xã/ phường, và một bộ phận không nhỏ thanh niên tình nguyện. Mục tiêu cuối cùng là giảm tỷ lệ tái nghiện, ngăn chặn và đẩy lùi tệ nạn ma túy, tạo môi rường xã hội ổn định cho phát triển kinh tế. Công tác kiểm tra giám sát được tiến hành đều đặn. Các văn bản chỉ đạo đều được cập nhật, công tác báo cáo về trung ương được tiến hành nghiêm túc.
Số lượng tái nghiện theo báo cáo đã thấp hơn so với trước lúc triển khai thực hiện NQ16. Điều này phản ánh sự thành công trong giai đoạn cai nghiện cũng như trong giai đoạn quản lý tập trung. Vì vậy chủ trương kéo dài việc quản lý đối tượng thêm giai đoạn sau cai nghiện để dạy nghề và tạo việc làm là hết sức cần thiết trước khi đưa về cộng đồng.
Tình hình tội phạm trên địa bàn đã giảm đáng kể do các đối tượng nghiện ma túy đã được đưa đi cai nghiện bắt buộc hoặc vào các trung tâm quản lý, do đó cũng giảm nhiều hiện tượng lan truyền sử dụng ma túy trong cộng đồng.
Thành phố đã dành một khoản kinh phí khá lớn 1.400 tỷ đồng, một mặt để nâng cấp các trung tâm, mặt khác để xây mới trung tâm. Tổng số trung tâm được đầu tư là 20 trung tâm, nhằm tăng cường năng lực cho công tác quản lý, dạy nghề và giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện.
Chính sách đối với cán bộ, viên chức vào làm việc tại các trung tâm được bổ sung rất nhiều so với quy định của Trung ương. Điều này đảm bảo sự yên tâm công tác của một bộ phận lớn những cán bộ, viên chức. Số lượng đối tượng trên một cán bộ là hợp lý song còn thiếu tính hợp lý về cơ cấu chuyên môn. Còn thiếu những cán bộ về tâm lý, về luật và xã hội học, thiếu bác sỹ chuyên môn. Bên cạnh đó, các trung tâm xa Thành phố vẫn chưa thu hút được cán bộ.
Tạo việc làm cho người sau cai nghiện được thực hiện khá tốt mặc dù thu nhập của đối tượng là chưa cao nhưng có tác dụng giáo dục tinh thần lao động cho các đối tượng, giảm bớt gánh nặng kinh tế cho gia đình, giúp đối tượng không còn thời gian nghĩ đến ma túy thay vào đó hăng say lao động. Các trung tâm đã cố gắng bố trí việc làm phù hợp với sức khỏe và trình độ của từng đối tượng.
Việc đăng ký học văn hóa trên tinh thần tự nguyện của các đối tượng là một cố gắng rất lớn của cán bộ làm công tác tư vấn khi họ bằng mọi cách thuyết phục đối tượng tham gia học văn hóa. Tuy nhiên, vẫn chỉ có khoảng 40% số đối tượng tham gia học văn hóa.
Hoạt động dạy nghề cũng là một nhiệm vụ quan trọng của trung tâm và nhìn chung đã được thực hiện tốt. Song còn tồn tại một số vướng mắc:
Trung tâm chỉ đào tạo nghề phục vụ trực tiếp cho các hoạt động sản xuất ở trung tâm mà chưa chú trọng đào tạo theo nhu cầu xã hội để tạo điều kiện cho đối tượng về với cộng đồng.
Công tác đào tạo nghề chỉ thực sự có hiệu quả khi có sự liên kết đào tạo giữa các trung tâm và các doanh nghiệp tại các cụm công nghiệp. Tuy nhiên còn tồn tại nhiều bất cập trong việc hợp tác này vì một số doanh nghiệp không liên kết đào tạo.
Các trung tâm đã làm tốt công tác chăm sóc y tế. Sức khỏe của 50% đối tượng đã được nâng lên. Các trung tâm mở sổ khám sức khỏe, tổ chức khám sức khỏe định kỳ và cũng định kỳ chuyển đối tượng lên bệnh viện tuyến trên để khám và điều trị. Tuy nhiên các trung tâm gặp nhiều khó khăn để chăm sóc sức khỏe cho học viên nhiễm HIV, do trang thiết bị y tế lạc hậu, thiếu bác sỹ chuyên môn và thiếu các loại thuốc đặc thù.
Chăm sóc đời sống tinh thần cũng như công tác tuyên truyền được thực hiện tốt.
Hòa nhập cộng đồng về các cụm công nghiệp là một buớc rất quan trọng. Ngoài những chính sách của trung ương, TP. HCM đã bổ sung nhiều chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư vào các cụm công nghiệp đặc biệt thu hút lao động sau giai đoạn quản lý tập trung tại các trung tâm. Các chính sách chủ yếu: thuế, hỗ trợ mặt bằng, vốn, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm, hỗ trợ dạy nghề, BHYT, BHXH… Song bên cạnh đó còn các vấn đề tồn tại như:
Số doanh nghiệp đang hoạt động là rất ít, đến cuối năm 2006 chỉ có 6 doanh nghiệp tiếp nhận lao động sau cai nghiện. Có thể chỉ ra một số nguyên nhân như: số lao động được dạy nghề trong trung tâm chưa đủ trình độ chuyên môn kỹ thuật, sức khỏe thường yếu hơn so với lao động bình thường; và việc thực hiện NQ 16 đến nay mới được thời gian ngắn nên các doanh nghiệp chưa hoàn thành các thủ tục về phê duyệt đầu tư và đi vào hoạt động.
Chủ trương tạo việc làm cho người sau cai nghiện là đúng song thực tế các doanh nghiệp mới chỉ thu hút được 10% đối tượng sau cai, khoảng 700 lao động là người sau cai. Con số này chưa đáp ứng mục tiêu mà Thành phố đã đề ra.
4.4. Bài học kinh nghiệm.
- Phải thể hiện mạnh mẽ quyết tâm chính trị của Đảng Bộ Thành phố đến địa phương, cơ sở. Đề cao tinh thần trách nhiệm đối với nhân dân, năng động sáng tạovà quyết liệt trong chỉ đạo thực hiện. Biết tổ chức huy động và biết phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị từ thành phố đến quận huyện và cơ sở; phân công cụ thể rõ ràng trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, các ngành, các cấp; phát huy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể quần chúng tham gia thực hiện nhiệm vụ, phối hợp nhịp nhàng, chủ động với những hình thức nội dung phong phú. Xuất phát từ đặc điểm tình tình, đề ra chủ trương phải sát thực, phải có quyết tâm cao, thực hiện, kiên trì đề xuất và tranh thủ ý kiến của Chính phủ, Quốc hội và các bộ, ngành trung ương. Biết huy động sự hỗ trợ của Đảng bộ, chính quyền địa phương bạn và thực hiện tốt công tác dân vận tại địa phương nơi trung tâm trú đóng.
- Nhanh chóng tổ chức bộ máy, hình thành được khung cán bộ thích ứng với số lượng học viên cai nghiện, từ lãnh đạo đến nhân viên đều phải có tâm huyết ham học hỏi để nâng cao năng lực, tinh thần trách nhiệm với công việc.
- Trong công tác lãnh đạo, biết chọn đúng và tập trung giải quyết các vấn đề trọng tâm, trọng điểm; kết hợp triển khai bằng nhiều biện pháp đồng bộ, kiên quyết đẩy mạnh công tác đấu tranh triệt phá tệ nạn xã hội song song với tuyên truyền, vận động thường xuyên liên tục bằng nhiều biện pháp khác nhau thực hiện Chương trình 3 giảm “giảm tội phạm, ma túy, mại dâm” và công tác quản lý, dạy nghề và tạo việc làm cho người sau cai nghiện.
- Chủ động trong triển khai nhiệm vụ, không trông chờ, ỷ lại Trung ương, ban hành đầy đủ các các quy định pháp luật đầy đủ, cụ thể; khẩn trương xây dựng một hành lang pháp lý đảm bảo cho NQ16 được thực hiện một cách thống nhất. Để tránh những sai sót không cần thiết, Thành phố đã tổ chức nghiên cứu, soạn thảo lấy ý kiến rộng rãi từ các cơ sở Đảng, Chính quyền các cấp, các tầng lớp nhân dân để hình thành các quy định pháp lý là cơ sở cho việc hành động.
- Tập trung trong lãnh đạo và thống nhất trong chỉ huy, với quyết tâm thường xuyên sâu sát cơ sở, xử lý một cách khoa học những vấn đề mới phát sinh, sáng tạo và dũng cảm trong việc đề ra những biện pháp tháo gỡ, những vướng mắc trong quá trình tổ chức đồng bộ, chặt chẽ cả về phát động phong trào quần chúng, thường xuyên đúc kết kinh nghiệm, tổng kết kinh nghiệm, tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện chủ trương, giải pháp thực hiện.
CHƯƠNG III
PHƯƠNG HƯỚNG MỤC TIÊU VÀ MỘT SỐ
GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ
1. Phương hướng, nhiệm vụ.
1.1 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động
- Tiếp tục triển khai công tác giáo dục, tuyên truyền về Chương trình 3 giảm “ giảm tội pham, ma túy và mại dâm”, tái hòa nhập cộng đồng cho người sau cai nghiện, duy trì, nâng cao nhận thức về NQ16 trong nhân dân. Về biện pháp: chú trọng việc phối hợp đồng bộ hoạt động của các ngành chức năng, công an, chính quyền cơ sở với Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong công tác phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội, chuyển hóa địa bàn, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tăng cường tình đoàn kết trong cộng đồng dân cư, đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc.
- Các cấp chính quyền phối hợp với Mặt trận tổ quốc Việt Nam và vận động các đoàn thể, tổ chức xã hội xây dựng các đội, nhóm, câu lạc bộ thu hút người tái hòa nhập cộng đồng tham gia sinh hoạt, vui chơi giải trí, tham gia công tác xã hội, giới thiệu việc làm hoặc trợ giúp vay vốn tự tạo việc làm, tạo điều kiện cho người sau cai nghiện tái hòa nhập cộng đồng, tránh xa môi trường và bạn bè xấu, ổn định cuộc sống, không tái nghiện.
- Các cơ quan báo, đài Thành phố trực tiếp tục tuyên truyền về kết qủa thực hiện NQ 16; có các bài viết, bài nói, phóng sự, các tác phẩm kịch, ca nhạc tuyên truyền, vận động chiến sỹ, cán bộ công chức, nhân dân khu phố tích cực tham gia quản lý, giúp đỡ các đối tượng tái hòa nhập cộng đồng; biểu dương kịp thời các gương người tốt, việc tốt ( các cá nhân, doanh nghiệp, cơ quan giúp đỡ người tái hòa nhập cộng đồng ổn định cuộc sống, gương những người tái hòa nhập có nghị lực, có ý chí phấn đấu vươn lên).
- Sở Văn hóa thông tin phối hợp với Sở Lao động – Thương binh và xã hội, công an Thành phố, Sở Y tế xây dựng đề cương, tài liệu phổ biến về tác hại của ma túy nói chung và ma túy tổng hợp nói riêng ( thuốc lắc) với đại dịch HIV/AIDS; tuyên truyền giáo dục tần lớp thanh - thiếu niên xây dựng nếp sống lành mạnh, lên án mạnh mẽ nếp sống trụy lạc hiện đang có xu hướng phổ biến trong một bộ phận không nhỏ những thanh niên nam nữ hiện nay.
1.2. Tập trung thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm.
- Đẩy mạnh xã hội hóa công tác cai nghiện và giải quyết các vấn đề sau cai, huy động sự tham gia của gia đình, các ngành, các cấp, các doanh nghiệp, tổ chức xã hội tham gia công tác cai nghiện.
- Tiếp tục hoàn thiện các giải pháp phòng, chống thẩm lậu ma túy, các chất gây nghiện vào các trường, trung tâm. Đẩy mạnh công tác giáo dục, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, đòan kết, thân ái giữa các học viên và người sau cai nghiện. Tiếp tục đầu tư cho các hoạt động văn hóa giáo dục, chăm sóc sức khỏe, vui chơi giải trí… và thực hiện đầy đủ các chế độ cho người sau cai nghiện.
- Tăng cường công tác quản lý, giúp đỡ người sau cai tái hòa nhập cộng đồng tại các địa phương; tích cực triển khai các mặt về tổ chức, huy động lực lượng, phát động phong trào quần chúng hưởng ứng, góp sức trong việc tiếp nhận, giúp đỡ tạo điều kiện cho người tái hòa nhập cộng đồng có việc làm ổn định cuộc sống, hạn chế mức thấp nhất số người tái nghiện.
- Triển khai các phương thức bố trí việc làm cho người sau cai nghiện theo nội dung NQ16, trong đó ưu tiên dạy nghề cho người tái hòa nhập cộng đồng về các cụm công nghiệp và các doanh nghiệp đặc biệt. Khuyến khích các mô hình, hình thức liên kết với các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất do gia đình học viên và các thành phần kinh tế, đầu tư giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện, người tái hòa nhập cộng đồng.
- Tổ chức sắp xếp lại, sử dụng hiệu quả các cơ sở cai nghiện; bố trí lại và tạo việc làm ổn định cho số nhân sự dư thừa tại các trường, trung tâm phù hợp với tình hình thực tế là số lượng học viên giảm do tăng về số người trở về cộng đồng.
- Không ngừng đẩy mạnh công tác xã, phường, thị trấn lành mạnh, không có tệ nạn ma túy, mại dâm; tích cực đấu tranh làm chuyển hóa nhanh và vững chắc các địa bàn phức tạp về tội phạm, tệ nạn ma túy và các tệ nạn xã hội khác nhằm tạo môi trường lành mạnh, kiện toàn bộ máy tổ chức nâng cao nghiệp vụ cho các tình nguyện viên Tổ cán sự tình nguyện phường xã để tăng cường lực lượng quản lý, giúp đỡ người tái hòa nhập về với cộng đồng tại các địa phương.
- Tăng cường công tác hợp tác quốc tế và tranh thủ những cam kết hỗ trợ cũng như học tập kinh nghiệm của các nước trong lĩnh vực phòng, chống ma túy, phòng chống HIV/AIDS, cai nghiện phục hồi, quản lý người sau cai nghiện tại cộng đồng.
- Đa dạng hóa và nhân rộng các mô hình cai nghiện, giải quyết các vấn đề sau cai nghiện.
2. Mục tiêu
Đến năm 2010, đạt trên 80% người nghiện ma túy được cai nghiện, chữa trị, dạy nghề. Giảm tỷ lệ tái nghiện 8-10% / năm.
Kiến nghị
Để nâng cao hiệu quả việc tổ chức quản lý, dạy nghề và tạo việc làm cho người sau cai nghiện ở Thành phố Hồ Chí Minh cũng như cân nhắc mở rộng triển khai ở các địa phương khác, xin đưa ra một số kiến nghị sau:
Điều kiện kinh tế, xã hội, mức độ phức tạp của tệ nạn xã hội là rất khác nhau do đó không có một mô hình chung áp dụng cho tất cả các địa phương. Kiến nghị Chính phủ cho phép các thành phố và các địa phương tùy theo điều kiện và khả năng của mình để lựa chọn và tổ chức mô hình cai nghiện phục hồi thích hợp sau khi quản lý, giáo dục người nghiện không hiệu quả tại phường xã.
Cần nghiên cứu mở rộng khoảng xét duyệt cho tái hòa nhập cộng đồng, giảm thời gian hoàn thành cai nghiện xuống dưới 2 năm cho đối tượng có thời gian nghiện ngắn, có trình độ học vấn cao, có trình độ chuyên môn kỹ thuật và có tinh thần ý thức chấp hành tốt.
Hoạt động dạy nghề cần tiến hành theo nhu cầu của xã hội, không nên đáp ứng nhu cầu trước mắt phục vụ cho các hợp đồng gia công của trung tâm, giúp người sau cai nghiện dễ tìm được viêc khi hồi gia. Tăng cường việc liên kết với các doanh nghiệp.
Đánh giá đúng nguyên nhân của việc chậm triển khai thu hút các doanh nghiệp.
Triển khai chính sách về hỗ trợ BHYT, BHXH cho các doanh nghiệp thu hút lao động sau cai nghiện.
KẾT LUẬN
Thực hiện đường lối đổi mới, hội nhập quốc tế của Đảng, trong những năm cuối thế kỷ 20, Thành phố Hồ Chí Minh đã phát triển nhanh chóng và đạt được những thành tựu nổi bật về kinh tế, văn hóa, xã hội; mức sống người dân không ngừng được nâng cao. Tuy nhiên cùng với những mặt tích cực của sự phát triển, những tiêu cực của xã hội cũng phát sinh, trong đó tệ nạn ma túy diễn ra hết sức nghiêm trọng đã gây nhiều bất an trong đời sống xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển bền vững của Thành phố.
Thành phố đã tiến hành thực hiện nhiều giải pháp phòng, chống ma túy tệ nạn xã hội, trong đó trọng tâm là giảm ma túy. Với quyết tâm cao và bằng nhiều biện pháp, Thành phố đã đề nghị với Quốc hội thực hiện thí điểm NQ16 về “Tổ chức quản lý, dạy nghề và giải quyết việc làm cho đối tượng sau cai nghiện ma túy”. Sau 5 năm thực hiện NQ16 này, Thành phố đã đạt được nhiều thành công bước đầu và rút ra nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho các địa phương khác.
Đề tài của tôi đã nêu nên một số đánh giá về công tác tổ chức quản lý, dạy nghề và tạo việc làm cho người sau cai nghiện tại TP. HCM. Tôi mong muốn bằng tầm nhìn, hiểu biết của sinh viên Kinh tế và Quản lý Công, và những kiến thức đã học được từ ngành quản lý kinh tế, các giải pháp, kiến nghị mà tôi nêu ra xin góp phần tham khảo cho các nhà quản lý xã hội về vấn đề phòng, chống tệ nạn ma túy nói chung và công tác cai nghiện ma túy nói riêng.
Do còn hạn chế về mặt trình độ và thời gian và một số điều kiện khác nên bài cáo cáo của tôi không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong được sự góp ý của các thầy, cô giáo trong khoa; các cô chú trong phòng Chính sách 06, Cục phòng, chống tệ nạn xã hội, Bộ Lao động – Thương binh và xã hội!
Cuối cùng, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến cô giáo Hồ Thị Bích Vân đã hướng dẫn tôi trong suốt quá trình hoàn thành đề tài.
Tôi cũng xin cảm ơn các cô, các chú và toàn thể anh chị trong phòng Chính sách 06, Cục phòng, chống tệ nạn xã hội đã nhiệt tình chỉ bảo tôi trong quá trình thực tập!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Báo cáo từ năm 2000 đến 2007 về tình hình tội phạm ma túy và công tác cai nghiện tại TP. HCM và cả nước.
Cục phòng, chống tệ nạn xã hội . Bộ Lao động thương binh xã hội - Luật phòng chống ma túy và một số văn bản hướng dẫn thi hành về cai nghiện phục hồi. – NXB Lao động xã hội – 2007 – Hà Nội.
Cục phòng, chống tệ nạn xã hội. Bộ Lao động thương binh xã hội - Một số mô hình điển hình phòng, chống mại dâm và cai nghiện ma túy – NXB Lao động xã hội – 2005- Hà Nội.
Cục Phòng, chống tệ nạn xã hội – Tài liệu tập huấn công tác chữa trị phục hồi cho người nghiện – NXB Lao động xã hội – Hà Nội.
Khoa Khoa học quản lý - Khoa học tổ chức và quản lý. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn – NXB Khoa học kỹ thuật -2008 - Truờng Đại học Kinh tế quốc dân.
Làm thế nào để ngăn chặn nạn ma túy trong giới trẻ - NXB Công an nhân dân – 1997 – Hà Nội.
Lưu Minh Trị- Hiểm họa ma túy, nhận biết và hành động- NXB Văn hóa thông tin – 2000 - Hà Nội.
Phan Thị Mai Hương - Thanh niên nghiện ma túy. Nhân cách và hoàn cảnh xã hội - NXB Khoa học xã hội – 2008 – Diễn đàn phát triển Việt Nam/
Truờng Đại học Kinh tế quốc dân - Giáo trình kinh tế lao động - Tác giả Bộ môn kinh tế lao động - NXB Giáo dục.
TS Trần Thu, TS Hồ Bá Thâm - Quản lý dạy nghề và giáo dục phục hồi nhân cách cho người sau cai nghiện. Vấn đề và kinh nghiệm ở Thành phố Hồ Chí Minh - NXB Lao động xã hội –2008 –
Tài liệu tập huấn của ILO về phòng, chống lạm dụng ma túy trong doanh nghiệp.
Các trang web:
Trang web Cục phòng chống tệ nạn xã hội:
Trang web Bộ Lao động - Thương binh và xã hội:
Trang web Đại biểu nhân dân thành phố Hồ Chí Minh:
Trang web của Thành phố Hồ Chí Minh:
Trang web Sở lao động thương binh xã hội TP. HCM:
Sldtbxh.hochiminhcity.gov.vn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1 số công tác để thực hiện tổ chức quản lý, dạy nghề và tạo việc làm cho người sau cai nghiện tại TPHCM.DOC