Hiện nay, với việc kinh tế phát triển không ngừng, thì các tranh chấp liên quan đến lĩnh vực kinh tế ngày càng tăng cao. Tuy nhiên, hệ thống tòa án chưa đáp ứng đủ để giải quyết các tranh chấp này. Do đó, việc giải quyết bằng Trọng tài ngày càng được chú trọng, bởi tính linh hoạt và nhanh chóng của nó, giúp cho các doanh nghiệp tiết kiệm khá nhiều thời gian. Sau đây, là tổng hợp 50 phán quyết đặc sắc, chọn lọc của trọng tài thương mại quốc tế.
Mục lục:
PHÁN QUYẾT SỐ 1: TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN TÍNH ĐỘC LẬP CỦA ĐIỀU KHOẢN TRỌNG TÀI
PHÁN QUYẾT SỐ 2: TRANH CHẤP VỀ CHẤT LƯỢNG CỦA HỆ THỐNG THIẾT BỊ HPA
PHÁN QUYẾT SỐ 3: TRANH CHẤP VỀ TÍNH VÔ HIỆU CỦA HỢP ĐỒNG ĐỔI HÀNG
PHÁN QUYẾT SỐ 4: TRANH CHẤP VỀ VIỆC KHÔNG GIAO HÀNG DO BẤT KHẢ KHÁNG TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN GỖ
PHÁN QUYẾT SỐ 5: TRANH CHẤP VỀ CÁCH THỨC KIỂM TRA CHẤT LƯỢNG HÀNG HOÁ
PHÁN QUYẾT SỐ 6: TRANH CHẤP VỀ GIAO HÀNG KHÔNG ĐÚNG CHẤT LƯỢNG TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN GIẦY NỮ
PHÁN QUYẾT SỐ 7: TRANH CHẤP TRONG 3 HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG
PHÁN QUYẾT SỐ 8: TRANH CHẤP VỀ VIỆC TỪ CHỐI NHẬN HÀNG TRONG HỢP ĐỒNG BÁN NGUYÊN LIỆU
PHÁN QUYẾT SỐ 9: TRANH CHẤP VỀ VIỆC TĂNG GIÁ HÀNG TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN THÉP
PHÁN QUYẾT SỐ 10: TRANH CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN TRANG THIẾT BỊ
PHÁN QUYẾT SỐ 11: TRANH CHẤP VỀ VIỆC GIAO HÀNG CHẬM TRONG HỢP ĐỒNG GIA CÔNG GĂNG TAY
PHÁN QUYẾT SỐ 12: TRANH CHẤP VỀ GIAO HÀNG THIẾU TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN QUẦN ÁO TRẺ EM
PHÁN QUYẾT SỐ 13: TRANH CHẤP VỀ CHẤT LƯỢNG MÁY ĐÓNG GÓI
PHÁN QUYẾT SỐ 14: TRANH CHẤP VỀ TIỀN TẠM ỨNG TRONG HỢP ĐỒNG LÀM PHIM
PHÁN QUYẾT SỐ 15: TRANH CHẤP VỀ CHẤT LƯỢNG CUA ĐÔNG LẠNH VÀ TÔM MUỐI
PHÁN QUYẾT SỐ 16: TRANH CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGŨ CỐC
PHÁN QUYẾT SỐ 17: TRANH CHẤP DO TỪ CHỐI NHẬN HÀNG TRONG HỢP ĐỒNG BÁN GIẤY GÓI KẸO
PHÁN QUYẾT SỐ 18: TRANH CHẤP DO TỪ CHỐI THANH TOÁN TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN CÀ PHÊ
PHÁN QUYẾT SỐ 19: TRANH CHẤP DO KHÔNG GIAO HÀNG TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN XI MĂNG
PHÁN QUYẾT SỐ 20: TRANH CHẤP DO GIAO HÀNG CÓ KHUYẾT TẬT
PHÁN QUYẾT SỐ 21: TRANH CHẤP VỀ VIỆC CHUYỂN NGHĨA VỤ TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN GẠO
PHÁN QUYẾT SỐ 22: TRANH CHẤP VỀ VIỆC GIAO HÀNG SAI QUY CÁCH
TRONG HỢP ĐỒNG MUA THÉP PHẾ LIỆU
PHÁN QUYẾT SỐ 23: TRANH CHẤP DO KHÔNG MỞ THƯ TÍN DỤNG (L/C)
ĐỂ THANH TOÁN TIỀN HÀNG
PHÁN QUYẾT SỐ 24: TRANH CHẤP VỀ VIỆC CHẬM TRẢ TIỀN HÀNG
TRONG HỢP ĐỒNG NHẬP KHẨU QUA UỶ THÁC
PHÁN QUYẾT SỐ 25: TRANH CHẤP DO KHÔNG MỞ THƯ TÍN DỤNG THANH TOÁN TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN THÉP
PHÁN QUYẾT SỐ 26: TRANH CHẤP VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG XÂY DỰNG
PHÁN QUYẾT SỐ 27: TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN THƯ TÍN DỤNG
KHÔNG HUỶ NGANG
PHÁN QUYẾT SỐ 28: TRANH CHẤP VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG VÔ ĐIỀU KIỆN
PHÁN QUYẾT SỐ 29: TRANH CHẤP TÌNH TRẠNG AN TOÀN CỦA CẦU BẾN
PHÁN QUYẾT SỐ 30: TRANH CHẤP VỀ THỜI GIAN GIA HẠN DỠ HÀNG
PHÁN QUYẾT SỐ 31: TRANH CHẤP VỀ THỜI GIAN ĐỢI CẦU BẾN
PHÁN QUYẾT SỐ 32: TRANH CHẤP VỀ KHẢ NĂNG ĐI BIỂN CỦA TÀU
PHÁN QUYẾT SỐ 33: TRANH CHẤP DO HÀNG HOÁ KHÔNG ĐƯỢC CHẤP NHẬN TẠI CẢNG DỠ HÀNG
PHÁN QUYẾT SỐ 34: TRANH CHẤP VỀ VIỆC HUỶ HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỂN DO KHÔNG XẾP HÀNG
PHÁN QUYẾT SỐ 35: TRANH CHẤP VỀ NGHĨA VỤ VẬN CHUYỂN
TRONG HỢP ĐỒNG C&F
PHÁN QUYẾT SỐ 36: TRANH CHẤP TRONG VỤ TÀU CHỞ GẠO
PHÁN QUYẾT SỐ 37: TRANH CHẤP VỀ THÙ LAO TRONG HỢP ĐỒNG
KHẢO SÁT THIẾT KẾ
PHÁN QUYẾT SỐ 38: TRANH CHẤP VỀ SỬA ĐỔI GIÁ TRONG HỢP ĐỒNG THẦU PHỤ XÂY DỰNG
PHÁN QUYẾT SỐ 39: TRANH CHẤP DO KHÔNG THỰC HIỆN NGHĨA VỤ
TRONG HỢP ĐỒNG XÂY DỰNG
PHÁN QUYẾT SỐ 40: TRANH CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG ĐẠI DIỆN BÁN HÀNG
PHÁN QUYẾT SỐ 41: TRANH CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG PHÂN PHỐI Ô TÔ
PHÁN QUYẾT SỐ 42: TRANH CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG PHÂN PHỐI THIẾT BỊ
PHÁN QUYẾT SỐ 43: TRANH CHẤP VỀ THANH TOÁN TRONG
HỢP ĐỒNG LI-XĂNG
PHÁN QUYẾT SỐ 44: TRANH CHẤP VỀ VIỆC LỰA CHỌN LUẬT ÁP DỤNG TRONG HỢP ĐỒNG LI-XĂNG
PHÁN QUYẾT SỐ 45: TRANH CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG LI -XĂNG
VỀ MỘT HỢP CHẤT DƯỢC PHẨM
PHÁN QUYẾT SỐ 46: TRANH CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG LI - XĂNG VỀ CHAI ĐỰNG ĐỒ UỐNG NHẸ
PHÁN QUYẾT SỐ 47: TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN THẾ QUYỀN TRONG
HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TÍN DỤNG
PHÁN QUYẾT SỐ 48: TRANH CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG BẢO HIỂMTHANH TOÁN TIỀN HÀNG
PHÁN QUYẾT SỐ 49: TRANH CHẤP TRONG LIÊN DOANH
PHÁN QUYẾT SỐ 50: TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC LỰA CHỌN TƯ PHÁP HAY CÔNG PHÁP LÀM LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP ĐỒNG
215 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4783 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu 50 phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ày cho Nguyên đơn suốt 5 năm là một lỗi rất nặng, do đó Nguyên đơn có quyền đòi bồi thường tổn thất lợi nhuận mà đáng lẽ Nguyên đơn có thể được hưởng theo Hợp đồng này tính đến năm 1992. Uỷ ban trọng tài quyết định các Bị đơn phải trả cho Nguyên đơn số lợi nhuận bị tổn thất là 37.365.173 FF.
PHÁN QUYẾT SỐ 46
TRANH CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG LI - XĂNG
VỀ CHAI ĐỰNG ĐỒ UỐNG NHẸ
Các bên:
Nguyên đơn : Chủ sở hữu bằng sáng chế Italia
Bị đơn : Người sử dụng bằng sáng chế Italia
Các vấn đề được đề cập:
Quyết định của cơ quan hành chính gia hạn miễn phí thời hạn bảo hộ bằng sáng chế
Thẩm quyền xét xử của trọng tài
Tóm tắt vụ việc:
Nguyên đơn là chủ sở hữu sáng chế đã đăng ký ở Italia, có quyền sở hữu đầy đủ và được hưởng các lợi ích từ các sáng chế và ứng dụng sáng chế trong sản xuất chai nhựa polyethylene dùng để đựng đồ uống nhẹ có ga.
Năm 1979, Nguyên đơn và công ty X ký Hợp đồng cho phép sử dụng sáng chế chai đựng đồ uống nhẹ (chai SDK).
Ở Italia, loại chai SKD được cấp bằng sáng chế số .... Bằng sáng chế này được nêu trong Phụ lục A của Hợp đồng. Nguyên đơn cũng là chủ sở hữu của năm bằng sáng chế khác ở Italia (xem Phụ lục B của Hợp đồng) liên quan đến các loại chai SKD đặc biệt hoặc phương pháp sản xuất hoặc thiết bị sản xuất ra các loại chai này.
Năm 1984, với sự đồng ý của Nguyên đơn, công ty X đã chuyển nhượng Hợp đồng cho công ty con của mình, Bị đơn.
Năm 1985, Bị đơn gửi cho Nguyên đơn bản telex đề cập tới một Sắc lệnh của Chính phủ Italia ngày 22 tháng 6 năm 1979 đăng trong Công báo ngày 7 tháng 8 năm 1979 (sau đây gọi là Sắc lệnh).
Điều 4 của Sắc lệnh quy định tăng thời hạn bảo hộ của các bằng sáng chế ở Italia từ 15 năm lên 20 năm và Điều 84 quy định "những người được cho phép sử dụng sáng chế và những người đã đầu tư có hiệu quả và nghiêm túc để sử dụng sáng chế có quyền nhận một giấy phép không độc quyền bắt buộc (a non exclusive compulsory license) để sử dụng sáng chế miễn phí trong thời gian gia hạn thêm với điều kiện thời hạn bảo hộ của sáng chế sắp hết. Nếu bằng sáng chế chưa hết thời hạn bảo hộ thì không áp dụng quyền này."
Viện dẫn các điều khoản nói trên, Bị đơn đã thông báo cho Nguyên đơn rằng họ sẽ ngừng trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế vào cuối năm 1985 bởi vì tính đến năm 1985 sáng chế đã đăng ký được 15 năm. Nguyên đơn phản đối và cho rằng Bị đơn không có quyền ngừng trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế.
Qua bản telex ngày 3 tháng 7 năm 1986, Bị đơn đã yêu cầu Nguyên đơn cấp một giấy phép không độc quyền sử dụng bằng sáng chế miễn phí (a non exclusive free license) cho đến ngày 16 tháng 12 năm 1990. Bị đơn còn nhấn mạnh "nếu yêu cầu chính thức này không được chấp nhận trong vòng 15 ngày kể từ ngày hôm nay, Bị đơn có quyền nộp đơn cho Văn phòng sáng chế Italia để chính thức xin cấp giấy phép bắt buộc (a compulsory license) phù hợp với các điều khoản liên quan của Luật sáng chế Italia."
Theo yêu cầu của Bị đơn, Bộ Công nghiệp Italia ban hành một Quyết định cấp cho Bị đơn một giấy phép bắt buộc không độc quyền (a non exclusive compulsory license) sử dụng sáng chế miễn phí trong vòng 5 năm từ ngày 16 tháng 12 năm 1985 đến ngày 15 tháng 12 năm 1990.
Do Bị đơn từ chối thanh toán tiền mua quyền sử dụng sáng chế nên Nguyên đơn đã kiện ra trọng tài đòi Bị đơn bồi thường thiệt hại hợp đồng và trả tất cả mọi khoản thanh toán theo Hợp đồng cho đến ngày bằng sáng chế hết thời hạn bảo hộ, đó là ngày 16 tháng 12 năm 1990.
Phán quyết của trọng tài:
(Phán quyết trình bày dưới đây chỉ giải quyết vấn đề khả năng thụ lý khiếu kiện của Nguyên đơn)
Bị đơn phản đối thẩm quyền xét xử của trọng tài với các lý do sau đây:
Thứ nhất, Quyết định của Bộ Công nghiệp Italia đã hoàn toàn giải quyết được khiếu kiện của Nguyên đơn. Vì vậy, cần chấm dứt vụ kiện. Theo Bị đơn Điều 84 của Sắc lệnh đã trao cho Bộ Công nghiệp Italia quyền cấp giấy phép sử dụng sáng chế miễn phí. Không có Toà án hay trọng tài nào có thể thay thế Bộ Công nghiệp Italia thực hiện quyền lực hành chính này.
Thứ hai, nếu Bị đơn có giấy phép sử dụng bằng sáng chế miễn phí có hiệu lực pháp lý, thì Bị đơn hoàn toàn không vi phạm hợp đồng; nếu không thì Hợp đồng đương nhiên bị vi phạm. Điều này có nghĩa là vấn đề xác định vi phạm hợp đồng cũng đồng thời là việc xác định quyền của Bị đơn theo Điều 84 của Sắc lệnh. Quyền sử dụng sáng chế của Bị đơn căn cứ trên cơ sở Quyết định của Bộ Công nghiệp Italia chứ không căn cứ trên Hợp đồng. Nói cách khác, tranh chấp đưa ra Uỷ ban trọng tài không liên quan đến các quyền của Bị đơn phát sinh từ Hợp đồng hay giải thích hợp đồng như quy định trong điều khoản trọng tài của Hợp đồng. Vì vậy trọng tài không có thẩm quyền.
Ngoài ra, Bị đơn còn cho rằng Uỷ ban trọng tài không thể phủ nhận Quyết định ngày 16 tháng 5 băn 1988 của Bộ Công nghiệp Italia. Uỷ ban trọng tài cần xem xét Quyết định của Bộ Công nghiệp Italia và sau khi khẳng định giấy phép của Bộ Công nghiệp Italia cho phép sử dụng sáng chế miễn phí thì phải tuyên bố Bị đơn không vi phạm hợp đồng. Theo Bị đơn, nếu sự việc chỉ trong giới hạn như vậy thì tranh chấp có thể đưa ra xét xử trọng tài.
Về phần mình, Nguyên đơn lập luận như sau:
Vấn đề duy nhất Uỷ ban trọng tài phải quyết định là trong phạm vi của Quyết định của Bộ Công nghiệp Italia, Bị đơn có phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế cho Nguyên đơn nữa hay không. Theo Nguyên đơn, vấn đề này không được quyết định bởi Bộ Công nghiệp Italia vì cơ quan này chỉ quyết định xem liệu Bị đơn có quyền nhận giấy phép theo Điều 84 của Sắc lệnh không. Bộ Công nghiệp Italia không đưa ra bất cứ giải thích Hợp đồng nào bởi việc đó thuộc thẩm quyền của Uỷ ban trọng tài. Vì vậy, Nguyên đơn cho rằng Uỷ ban trọng tài phải thực hiện quyền giải thích hợp đồng.
Theo Nguyên đơn, Quyết định của Bộ Công nghiệp không miễn cho Bị đơn các nghĩa vụ hợp đồng phải trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế cho Nguyên đơn.
Hơn nữa, Nguyên đơn còn cho rằng Bị đơn đã lẫn lộn giữa quyền sử dụng sáng chế miễn phí mà Bị đơn có được theo Quyết định của Bộ Công nghiệp Italia và khiếu kiện của Nguyên đơn đòi tiền bản quyền theo hợp đồng. Đối với Nguyên đơn, Uỷ ban trọng tài phải xem xét việc Quyết định của Bộ Công nghiệp có tác động như thế nào đến vụ tranh chấp. Bản thân Quyết định của Bộ Công nghiệp phải được giải thích và áp dụng theo Hợp đồng.
Uỷ ban trọng tài có ý kiến như sau:
Vấn đề chính được đưa ra trước Uỷ ban trọng tài là liệu Bị đơn có quyền ngừng trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế theo Hợp đồng không và liệu Bị đơn có phải trả tiền bồi thường thiệt hại vi phạm hợp đồng không.
Theo điều khoản trọng tài trong Hợp đồng "bất kỳ tranh chấp nào liên quan tới giải thích hoặc thực hiện Hợp đồng này và bất kỳ vấn đề nào nảy sinh từ Hợp đồng mà các bên không thể giải quyết trong một thời hạn hợp lý, sẽ được đưa ra trọng tài theo các quy tắc của Phòng thương mại quốc tế." Việc trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế qui định tại Hợp đồng và việc vi phạm hợp đồng do không trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế là các vấn đề liên quan đến việc thực hiện hợp đồng.
Uỷ ban trọng tài không chấp nhận quan điểm của Bị đơn cho rằng tranh chấp không thể đưa ra trọng tài vì "vấn đề về vi phạm hợp đồng trùng với vấn đề xác định quyền của Bị đơn theo Điều 84 của Sắc lệnh". Bị đơn từ chối thẩm quyền của trọng tài dựa trên một căn cứ duy nhất là Quyết định ngày 16 tháng 5 năm 1988 của Bộ Công nghiệp Italia đã cho Bị đơn quyền ngừng trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế. Nguyên đơn đã bác quan điểm này trước Uỷ ban trọng tài. Nguyên đơn nhấn mạnh vấn đề cần xem xét ở đây là liệu trong phạm vi Quyết định của Bộ Công nghiệp Italia, Bị đơn có nghĩa vụ tiếp tục trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế cho Nguyên đơn theo Hợp đồng nữa hay không. Vấn đề này liên quan tới giải thích Hợp đồng và theo quy định của điều khoản trọng tài trong Hợp đồng, Uỷ ban trọng tài được phép giải thích Hợp đồng.
Hơn nữa, do Nguyên đơn nói rõ là Nguyên đơn không phản đối Quyết định của Bộ Công nghiệp Italia, Uỷ ban trọng tài không được các bên yêu cầu phải quyết định xem liệu Bị đơn có quyền được nhận giấy phép sử dụng sáng chế miễn phí trong phạm vi Điều 84 của Sắc lệnh không, một vấn đề vượt ra ngoài phạm vi thẩm quyền của Uỷ ban trọng tài. Quyết định ngày 16 tháng 5 năm 1988 là một trong những nhân tố pháp lý Uỷ ban trọng tài cần xem xét khi xác định quyền của Bị đơn không phải trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế theo Hợp đồng nhưng sự tồn tại của Quyết định này không tước đi quyền giải thích Hợp đồng và xác định tranh chấp phát sinh từ Hợp đồng của Uỷ ban trọng tài. Thực tế, Bị đơn không hoàn toàn phản đối quan điểm này, bởi Bị đơn đã thừa nhận rằng Uỷ ban trọng tài có thể xem xét Quyết định của Bộ Công nghiệp và sau khi đã khẳng định giấy phép cho Bị đơn quyền sử dụng sáng chế miễn phí thì tuyên bố là Bị đơn không vi phạm Hợp đồng. Điều này cho thấy việc Bị đơn khước từ đưa tranh chấp ra trọng tài trên thực tế là sự khước từ một trong những giải pháp mà Uỷ ban trọng tài có thể đề xuất với Bị đơn. Nếu Uỷ ban trọng tài có thẩm quyền quyết định Bị đơn không vi phạm Hợp đồng, Uỷ ban trọng tài cũng có thẩm quyền đưa ra quyết định về các vi phạm hợp đồng khác.
Vì các lý do nêu trên, Uỷ ban trọng tài quyết định tranh chấp có thể đưa ra trọng tài và Uỷ ban trọng tài có thẩm quyền quyết định xem liệu Bị đơn có quyền ngừng trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế theo Hợp đồng không và nếu ngừng trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế thì Bị đơn có vi phạm Hợp đồng không.
PHÁN QUYẾT SỐ 47
TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN THẾ QUYỀN TRONG
HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TÍN DỤNG
Các bên:
Nguyên đơn : Ngân hàng (A)
Bị đơn : Người cung cấp bảo lãnh (B)
Các vấn đề được đề cập:
Quyền khởi kiện của người được bảo hiểm
Thế quyền
Tóm tắt vụ việc:
Ngân hàng A, Nguyên đơn, cho một công ty vay tiền để xây dựng nhà máy. Việc cho vay này được thực hiện trên cơ sở bảo lãnh trả của B, Bị đơn. Hợp đồng vay qui định luật áp dụng là luật Pháp.
Sau đó A ký một hợp đồng bảo hiểm tín dụng với COFACE (Công ty bảo hiểm ngoại thương Pháp) theo đó COFACE cam kết sẽ thanh toán cho A tiền bảo hiểm là x% trị giá khoản vay khi xảy ra sự kiện được bảo hiểm (tức là khi khoản vay không được trả đúng hạn và người bảo lãnh B từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của mình).
Trên thực tế, B đã từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của mình khi đến hạn. COFACE, vì thế, đã trả cho Ngân hàng A một khoản tiền là x% trị giá khoản vay theo đúng hợp đồng bảo hiểm tín dụng.
Ngân hàng A đã kiện B ra trọng tài yêu cầu B trả khoản tiền vay mà B đã đứng ra bảo lãnh.
Phán quyết của trọng tài:
(Phán quyết trọng tài trình bày dưới đây chỉ giải quyết vấn đề về quyền khởi kiện của Nguyên đơn)
Khi tố tụng trọng tài mới bắt đầu, Bị đơn, trên cơ sở tư vấn của người vay, đã đưa ra lập luận rằng Nguyên đơn không có quyền khởi kiện trong vụ việc này vì Nguyên đơn thực tế đã được COFACE thanh toán tiền bảo hiểm cho khoản vay. Nhưng trong quá trình tố tụng sau đó Bị đơn không hề nhắc lại lập luận này. Trong các bản giải trình và biện hộ của mình, Bị đơn chỉ nêu rằng Nguyên đơn không có quyền kiện đòi toàn bộ khoản vay được Bị đơn bảo lãnh mà chỉ có quyền kiện đòi phần tiền không được COFACE thanh toán bảo hiểm.
Tuy nhiên, căn cứ vào các sự kiện được viện dẫn và các chứng cứ do các bên đưa ra, uỷ ban trọng tài thấy rằng cần thiết phải giải quyết vấn đề: Nguyên đơn có quyền khởi kiện đòi Bị đơn thanh toán toàn bộ khoản vay hay không khi Nguyên đơn đã được COFACE thanh toán tiền bảo hiểm là x% khoản vay được bảo lãnh, tính cả vốn lẫn lãi? (Liệu ở đây quyền khởi kiện của Nguyên đơn có bị chuyển sang cho COFACE theo nguyên tắc thế quyền trong bảo hiểm hay không?)
Điều L.121-12 Bộ luật bảo hiểm Pháp qui định: người bảo hiểm, sau khi đã trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm, được thay thế người được bảo hiểm trong việc đòi và khởi kiện (gọi là thế quyền) đối với khoản nợ tương đương với khoản tiền bảo hiểm mà người bảo hiểm đã thanh toán cho người được bảo hiểm. Qui định về thế quyền này là một trong các qui tắc cơ bản của luật về bảo hiểm và đã được khẳng định trong nhiều phán quyết của Toà Phá án Pháp.
Trong vụ việc này, hợp đồng bảo hiểm được ký kết giữa Ngân hàng A và COFACE. COFACE là một công ty nhà nước hoạt động với mục đích hỗ trợ các nhà xuất khẩu thông qua việc cung cấp các bảo đảm tín dụng cho các khoản vay trung hạn trong một số giao dịch có tầm quan trọng nhất định. COFACE bảo hiểm cho các nhà xuất khẩu đối với các rủi ro xảy ra khi nhà xuất khẩu không thu được tiền từ đối tác của mình. Thực tế, COFACE không bảo hiểm toàn bộ rủi ro mà chỉ bảo hiểm một số phần trăm nhất định của rủi ro. Điều này phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm buộc người được bảo hiểm phải có sự cẩn trọng tối thiểu khi tiến hành các giao dịch và có trách nhiệm giảm thiểu thiệt hại khi có rủi ro xảy ra. Hợp đồng mà COFACE ký với Ngân hàng A thể hiện đầy đủ các qui tắc hoạt động nói trên của COFACE và được xác định là một Hợp đồng bảo hiểm tín dụng.
Theo khoản 3 Điều L.111-1 Bộ luật bảo hiểm, các hợp đồng bảo hiểm tín dụng không thuộc phạm vi áp dụng của Điều L.112-12 qui định về việc thế quyền của người bảo hiểm đối với người được bảo hiểm. Như vậy, trong vụ việc này, việc thế quyền không được áp dụng một cách đương nhiên theo qui định tại Điều L.112-12. Để xác định có tồn tại thế quyền trong vụ việc này hay không, và nếu có thì thế quyền cần phải được hiểu như thế nào, trọng tài phải dựa trên các căn cứ khác sẽ được xem xét lần lượt dưới đây.
Thứ nhất, Điều XV Hợp đồng qui định: bất kỳ việc thanh toán tiền bảo hiểm nào do COFACE thực hiện đều dẫn tới hệ quả là COFACE được thay thế người được bảo hiểm trong việc thực hiện quyền đòi và khởi kiện đòi khoản tiền vay được bảo hiểm, các khoản lãi và các khoản tiền khác có liên quan đến khoản vay chính. Như vậy, trong trường hợp này, thế quyền giữa người bảo hiểm và người được bảo hiểm sau khi tiền bảo hiểm đã được thanh toán là hoàn toàn rõ ràng: khoản tiền bảo hiểm đã được thanh toán trước khi tố tụng trọng tài này bắt đầu, COFACE là người thụ hưởng duy nhất của x% khoản tiền nợ phát sinh từ hợp đồng cho vay của Ngân hàng và Ngân hàng A chỉ còn quyền khởi kiện đối với y% còn lại của khoản nợ này.
Thứ hai, Bộ luật bảo hiểm cũng như các điều khoản trong Hợp đồng bảo hiểm có những qui định cho thấy việc thế quyền không phải là tuyệt đối (tức là ngay cả khi có thế quyền, người bảo hiểm lẫn người được bảo hiểm vẫn có những quyền và nghĩa vụ liên quan chặt chẽ với nhau). Điều A.432-5 Bộ luật bảo hiểm qui định mọi khoản tiền thu được (từ phía người có nghĩa vụ trả tiền) sau khi tiền bảo hiểm đã được thanh toán phải được phân chia cho người bảo hiểm và người được bảo hiểm theo tỷ lệ bảo hiểm qui định trong hợp đồng; tuy nhiên điều khoản này không xác định rõ trong số hai chủ thể này, ai là người có quyền đòi (hoặc kiện đòi) khoản nợ đó. Điều XII Các Điều kiện chung của Hợp đồng qui định “COFACE phải chịu các chi phí xét xử, với tỷ lệ tương ứng với tỷ lệ bảo hiểm, trong các thủ tục tố tụng được tiến hành để tránh hoặc hạn chế những thiệt hại phát sinh từ rủi ro được bảo hiểm”. Điều XIII Các Điều kiện chung qui định rằng việc thanh toán tiền bảo hiểm phụ thuộc vào việc thực hiện các quyền gắn liền với khoản nợ được bảo hiểm của Người được bảo hiểm. Qui định này phù hợp với Điều 21 của Hợp đồng theo đó “Người được bảo hiểm (dù đã thế quyền cho Người bảo hiểm) vẫn có trách nhiệm tiến hành tất cả các biện pháp cần thiết đề đòi lại khoản nợ của mình và cam kết tuân thủ các chỉ dẫn của COFACE liên quan đến vấn đề này. Việc thanh toán tiền bảo hiểm không giải phóng Người được bảo hiểm khỏi các nghĩa vụ đã nêu trong Hợp đồng bảo hiểm”. Từ các điều khoản này có thể thấy người được bảo hiểm sau khi đã nhận tiền bảo hiểm vẫn có quyền và tư cách khởi kiện đòi trả nợ.
Thứ ba, theo một án lệ của Toà Phá án Pháp trong phán quyết ban hành ngày 17 tháng 12 năm 1985, không một qui định nào trong hệ thống pháp luật hiện nay buộc người thế quyền phải tự mình thực hiện các quyền mà anh ta có và người thế quyền có thể để cho người được thế quyền thực hiện các quyền này. Việc thanh toán tiền bảo hiểm không giải phóng người vay nợ (người phải thanh toán khoản nợ được bảo hiểm) khỏi nghĩa vụ của mình. Như vậy, trong vụ việc này, COFACE hoàn toàn có thể để cho Ngân hàng thay mình kiện đòi toàn bộ khoản nợ. Điều này là hoàn toàn hợp lý bởi tiền nợ trong trường hợp này là một khoản vay trung hạn và Ngân hàng rõ ràng là có lợi thế hơn COFACE trong việc quản lý và theo dõi hồ sơ của việc vay nợ.
Thứ tư, Điều 10 Hợp đồng bảo hiểm có qui định “Khi COFACE không muốn tự mình tiến hành khởi kiện chống lại người có nghĩa vụ trả nợ, Người được bảo hiểm cam kết thực hiện tất cả các biện pháp cần thiết và hợp lý để bảo vệ các quyền lợi của mình và đảm bảo việc thanh toán khoản tiền được bảo hiểm với sự chấp thuận và theo các chỉ dẫn của COFACE”. Với điều khoản này, có thể nói rằng trước khi tố tụng trọng tài được bắt đầu, COFACE đã uỷ quyền một cách minh bạch cho Ngân hàng tiến hành khởi kiện ra trọng tài theo đúng qui định tại hợp đồng để thu hồi lại toàn bộ khoản nợ. Tuy nhiên, COFACE vẫn bảo lưu quyền được đưa ra những chỉ dẫn cần thiết cho Ngân hàng A và quyền được thông báo về tiến trình tố tụng trọng tài. Như vậy, việc Ngân hàng A thay thế cho COFACE khởi kiện đòi Bị đơn toàn bộ khoản nợ là hoàn toàn phù hợp với thoả thuận uỷ nhiệm khiếu kiện giữa Ngân hàng và COFACE.
Thứ năm, về mặt nguyên tắc, khi có tranh chấp phát sinh giữa Người được bảo hiểm (ở đây là Ngân hàng A) và đối tác của họ (người vay nợ), Người bảo hiểm (COFACE) sẽ phải ngừng việc thanh toán tiền bảo hiểm cho đến khi tranh chấp liên quan được giải quyết xong (theo thủ tục giải quyết tranh chấp qui định tại hợp đồng vay nợ) và Người được bảo hiểm được thừa nhận là người thụ hưởng của khoản tiền vay đó (Phán quyết ngày 9 tháng 11 năm 1988, Toà Phúc thẩm Paris). Tuy nhiên, Người bảo hiểm vẫn có thể thanh toán một phần tiền bảo hiểm với điều kiện Người được bảo hiểm cam kết sẽ trả lại cho Người bảo hiểm khoản tiền bảo hiểm đã nhận nếu cơ quan xét xử (trọng tài hoặc toà án) ra quyết định bác bỏ yêu cầu của Người được bảo hiểm đối với khoản nợ bị tranh chấp. Do đó, trong vụ việc này, việc COFACE đã thanh toán tiền bảo hiểm cho Ngân hàng không vi phạm nguyên tắc ngừng thanh toán vì có tố tụng giải quyết tranh chấp.
Từ các căn cứ nêu trên, uỷ ban trọng tài kết luận: trong vụ việc này, Nguyên đơn hoàn toàn có tư cách pháp lý và có quyền lợi để khởi kiện đòi Bị đơn toàn bộ khoản vay, lãi và các khoản tiền khác liên quan đến khoản vay đó.
PHÁN QUYẾT SỐ 48
TRANH CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM
THANH TOÁN TIỀN HÀNG
Các bên:
Nguyên đơn : Một ngân hàng Bỉ (X)
Một công ty Pháp (Y)
Bị đơn : Hãng bảo hiểm (Z)
Các vấn đề được đề cập:
- Quyền khởi kiện
- Luật áp dụng cho hợp đồng
- Bảo hiểm thông thường hay bảo hiểm tín dụng?
- Sự kiện bảo hiểm và tính không lường trước được của hợp đồng bảo hiểm
- Tình trạng phá sản của một bên trong tố tụng trọng tài
Tóm tắt vụ việc:
Công ty Y ký hợp đồng bán nguyên vật liệu cho một người mua châu Phi. Hai bên thoả thuận tiền hàng phải được thanh toán bằng tín dụng chứng từ không huỷ ngang, có xác nhận, trong đó quy định trả 90% giá trị lô hàng sau mỗi lần giao hàng, 10% còn lại sẽ thanh toán khi bên bán xuất trình "Các thư giải phóng hàng" mà người mua phải phát hành 60 ngày sau khi chuyến hàng cuối cùng về đến điểm giao hàng. Việc mua bán này được thực hiện bằng nguồn tài chính của ngân hàng Bỉ (X).
Một hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết giữa X, Y và hãng bảo hiểm Z theo đó Z cam kết trả cho người bán khoản bảo hiểm trong trường hợp người mua không thanh toán 10% giá trị lô hàng khi các chứng từ lấy hàng đã được xuất trình. Thời gian bảo hiểm kéo dài từ ngày 1 tháng 11 năm 1988 đến ngày 31 tháng 3 năm 1989 và thời hạn đòi thanh toán tiền bảo hiểm là 510 ngày kể từ ngày xảy ra sự kiện bảo hiểm. Theo bản Phụ lục của Hợp đồng, ngân hàng X, người sẽ trực tiếp trả phí bảo hiểm, sẽ được hưởng tiền bảo hiểm.
Ngày 2/2/1989, công ty Y thông báo cho hãng bảo hiểm Z rằng việc dỡ hàng của chuyến tàu cuối cùng đã thực hiện vào ngày 26/11/1988 mà công ty này vẫn chưa nhận được " Các thư giải phóng hàng" đáng ra đã phải được ký phát chậm nhất là vào ngày 25/1/1989 tức là 60 ngày sau khi dỡ lô hàng cuối cùng để người bán có thể nhận được khoản thanh toán 10% còn lại. Công ty Y cũng thông báo cho hãng bảo hiểm Z rằng họ đã và đang tiến hành xác minh việc không thanh toán này tại nước của người mua và qua ngân hàng đã xác nhận tín dụng chứng từ nói trên. Hãng bảo hiểm Z trả lời rằng họ đã ghi nhận việc "Các thư giải phóng hàng" vẫn chưa được ký phát và họ chờ đợi kết quả tiếp theo của vụ việc.
Sau đó, hãng Z nhận thấy rằng công ty Y đã thoả thuận với khách hàng của mình kéo dài thêm thời hạn tín dụng đến ngày 31/5/1989 mà không có sự đồng ý của hãng Z và thời hạn của hợp đồng bảo hiểm vì thế cũng bị ảnh hưởng. Trên cơ sở các căn cứ chấm dứt bảo hiểm, hãng Z cho rằng mình được giải phóng khỏi trách nhiệm bảo hiểm.
Ngân hàng X (với tư cách là người kiện chính) và Công ty Y (với tư cách là người kiện phụ trợ Tạm dịch từ thuật ngữ tiếng Pháp "demandeur à titre subsidiaire"
) đã kiện ra trọng tài yêu cầu Hãng Z trả tiền bảo hiểm như thoả thuận.
Phán quyết của trọng tài:
1. Về tư cách khởi kiện của công ty Y:
Trong bản giải trình gửi cho trọng tài, các bên bị đơn đã đề nghị trọng tài xem xét tính hợp pháp của quyền khởi kiện của bên nguyên thứ hai. Trọng tài cho rằng yêu cầu này là hợp lý và chấp nhận xem xét giải quyết.
Phụ lục của hợp đồng bảo hiểm ký ngày 30 tháng 11 năm 1988 quy định : "theo đề nghị của người được bảo hiểm, quyền hưởng bảo hiểm khi sự cố xảy ra sẽ được chuyển cho ngân hàng X" ; Phụ lục này đã được cả Y, Z và X ký.
Công ty Y không lập luận rằng các bên đã thoả thuận một phụ lục mới thay đổi nội dung bản phụ lục ký ngày 30 tháng 11 năm 1988, cũng không khẳng định mình được ngân hàng chấp thuận cho lấy lại quyền nhận tiền bảo hiểm. Trong khi đó khiếu kiện của ngân hàng chỉ nhằm một mục đích duy nhất là đòi hãng Z trả bảo hiểm đã quy định trong hợp đồng bảo hiểm. Công ty Y cũng không đưa ra được một chứng cứ pháp lý nào chứng minh cho lập luận về tư cách "nguyên đơn bổ trợ" mà Nguyên đơn đã đưa ra bởi vì chính Ông ...., cán bộ phụ trách thủ tục phá sản của công ty Y, đại diện công ty này, đã viết rằng khoản tiền bồi thường trị giá ... phải được trả cho ngân hàng X, đơn vị đã cấp tín dụng cho khoản tiền 10% còn lại của hợp đồng bán hàng.
Do đó, trọng tài kết luận rằng công ty Y không có quyền khởi kiện và vì vậy bác đơn kiện của công ty Y.
2. Về bản chất của hợp đồng bảo hiểm:
Các bên có quan điểm khác nhau về bản chất của Hợp đồng bảo hiểm mà các bên đã ký kết. Đối với các Nguyên đơn, đó là một hợp đồng bảo hiểm thông thường và được điều chỉnh bởi Bộ luật Bảo hiểm Pháp, trong khi đó Bị đơn lại coi đây là một Bảo hiểm tín dụng :
Hợp đồng bảo hiểm, phần Mở đầu của Các Điều kiện chung qui định : "hợp đồng bảo hiểm này được điều chỉnh bởi Luật của quốc gia thuộc Cộng đồng chung Châu Âu được nêu trong phần Các Điều kiện đặc biệt". Trong Các Điều kiện đặc biệt này có một điều khoản trọng tài trong đó qui định một cách chung chung là luật của Pháp sẽ là luật áp dụng cho hợp đồng. Không một quy định nào trong các Điều kiện chung hay Điều kiện đặc biệt dẫn chiếu cụ thể đến Bộ luật Bảo hiểm hay một quy định pháp quy khác của hệ thống luật Pháp.
Tuy nhiên, khoản cuối của Điều 1 phần Các Điều kiện chung có quy định: "Các văn bản sau đây là bộ phận không tách rời của Hợp đồng bảo hiểm : bản hợp đồng này, các phụ lục của Các Điều kiện chung, các Điều kiện đặc biệt và bản hỏi đáp đã được người đề nghị bảo hiểm điền và ký tên trong đó có gắn kèm hợp đồng thương mại".
Tại trang 10 của bản hỏi đáp do hãng Z lập và công ty Y ký tên có đoạn lưu ý người ký rằng việc khai không chính xác "tuỳ từng trường hợp có thể dẫn đến những hình thức phạt quy định trong các Điều L.113-8 và L.113-9 Bộ luật Bảo hiểm". Chứng cứ này do các bên Nguyên đơn đưa ra và được uỷ ban trọng tài chấp nhận.
Do bản hỏi đáp này là một bộ phận của hợp đồng bảo hiểm nên rõ ràng là hợp đồng này thuộc sự điều chỉnh của Bộ luật Bảo hiểm mà Bị đơn buộc phải tuân thủ. Do đó, không nhất thiết phải xem xét thêm vấn đề liệu các bên trong hợp đồng có thoả thuận ký kết một hợp đồng bảo hiểm tín dụng theo định nghĩa của Jean Bastin (mà cả hai bên đương sự cùng viện dẫn) hay không. (Jean Bastin định nghĩa như sau: bảo hiểm tín dụng là "một hệ thống bảo hiểm cho phép các chủ nợ có thể thu hồi được các khoản nợ, thông qua khoản tiền bảo hiểm, trong trường hợp những người có nghĩa vụ trả nợ đã nêu đang trong tình trạng mất khả năng thanh toán và do đó không thể thanh toán được khoản nợ").
Theo điều II của Các điều kiện chung của Hợp đồng bảo hiểm, tất cả các thiệt hại phát sinh trực tiếp hay gián tiếp từ: "sự mất khả năngtài chính của người được bảo hiểm hay của người mua/người bán của người được bảo hiểm" không thuộc phạm vi được bảo hiểm. (Theo qui định của hợp đồng bảo hiểm, việc thanh toán bảo hiểm sẽ được thực hiện nếu bên bán không được thanh toán số tiền hàng 10% còn lại do lỗi của người mua hàng không thực hiện nghĩa vụ ký phát các chứng từ lấy hàng). Điều này trái với định nghĩa của Jean Bastin về bảo hiểm tín dụng nên có thể kết luận bản hợp đồng ký kết giữa Nguyên đơn và Bị đơn năm 1988 không phải là một bảo hiểm tín dụng. Và vì thế không cần phải xem xét lập luận của Bị đơn rằng trong trường hợp này tồn tại sự mất khả năng thanh toán và rằng đây là trường hợp được loại trừ khỏi việc bảo hiểm.
Trọng tài kết luận rằng Hợp đồng bảo hiểm này được điều chỉnh bởi Bộ luật Bảo hiểm và tất cả các điều kiện chung và điều kiện đặc biệt quy định trong Hợp đồng đó.
3. Về nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm:
Bị đơn lập luận rằng mình không có bất cứ một nghĩa vụ nào đối với bên Nguyên đơn vì lý do trên thực tế phí baỏ hiểm chỉ được thanh toán vào ngày 8/2/1989, tức là sau khi xảy ra sự kiện bảo hiểm (tiền hàng không được thanh toán do người mua Châu Phi không ký phát các chứng từ cần thiết để người bán nhận tiền hàng) vào ngày 26/1/1989.
Nguyên đơn thừa nhận rằng đúng là theo Điều V của Các Điều kiện chung của Hợp đồng bảo hiểm, Hợp đồng này ‘chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm thanh toán phí bảo hiểm’. Tuy nhiên, phần Các Điều kiện đặc biệt lại quy định rằng "dù cho ngày có hiệu lực theo qui định tại Các Điều kiện đặc biệt này là ngày nào, việc bảo hiểm chỉ được thực hiện nếu bên được bảo hiểm đã trả phí bảo hiểm. Nếu phí bảo hiểm không được trả, người bảo hiểm có quyền huỷ hợp đồng mà vẫn bảo lưu quyền đòi phí bảo hiểm".
Theo uỷ ban trọng tài, các Nguyên đơn đã rất có lý khi dẫn chiếu đến điều khoản này của Các Điều kiện đặc biệt, bởi vì Hợp đồng bảo hiểm quy định rõ rằng ‘trong trường hợp có sự bất đồng trong cách hiểu’, thì Các Điều kiện đặc biệt sẽ có hiệu lực ưu tiên hơn tất cả các quy định khác của Hợp đồng. Như vậy, Các Điều kiện đặc biệt sẽ là cơ sở để trọng tài xem xét giải quyết bất đồng này của các bên.
Uỷ ban trọng tài thừa nhận đây là một điều khoản không mấy rõ ràng. Tuy nhiên điều khoản này không thể được hiểu là cho phép người được bảo hiểm chỉ trả tiền phí bảo hiểm sau khi đã xảy ra sự kiện được bảo hiểm; điều khoản này chỉ có thể được hiểu một cách thiện chí và trung thực, phù hợp với ý chí của các bên, là có thể trả phí bảo hiểm sau ngày hợp đồng có hiệu lực, tức là sau ngày 10 tháng 11 năm 1988, thời điểm bắt đầu thời hạn bảo hiểm, nhưng phải trước ngày xảy ra sự kiện được bảo hiểm. Bản chất của hợp đồng bảo hiểm là tính không thể dự đoán trước. Điều này cũng được Nguyên đơn thừa nhận. Nếu các Nguyên đơn được phép thanh toán phí bảo hiểm sau khi sự kiện được bảo hiểm đã xảy ra thì rõ ràng là hợp đồng bảo hiểm mất đi tính chất "không thể dự đoán trước được" này.
Do vậy, trọng tài cho rằng : phí bảo hiểm được thanh toán vào ngày 7/2/1989, sau khi thời hạn 2 tháng để người mua ký phát các chứng từ lấy hàng đã kết thúc (vào ngày 25/1/1989), tức là sau thời điểm xuất hiện sự kiện được bảo hiểm, do đó Bị đơn không có nghĩa vụ thực hiện việc bảo hiểm, và khiếu kiện của các Nguyên đơn là không có căn cứ.
4. Về trách nhiệm nộp phí trọng tài:
Khi đơn kiện bị bác thì phí trọng tài và các phí khác đương nhiên sẽ do các nguyên đơn trả. Tuy nhiên, việc Y đang trong giai đoạn tiền phá sản đặt ra một vấn đề đặc biệt mà trọng tài xử lý như sau :
Các Nguyên đơn hoàn toàn không có cơ sở khởi kiện yêu cầu Bị đơn thanh toán tiền bảo hiểm, do đó, phải chịu trách nhiệm trả toàn bộ phí trọng tài. Tuy nhiên, vì Nguyên đơn Y đang trong giai đoạn tiến hành thủ tục phá sản nên uỷ ban trọng tài không thể buộc các Nguyên đơn trả các phí xét xử (Phán quyết của Toà Dân sự Toà Phá án ngày 8 tháng 3 năm 1988 trong vụ Công ty Thinet kiện Labrely, Tạp chí Trọng tài năm 1989, trang 473).
Do đó, uỷ ban trọng tài quyết định các Nguyên đơn (X và Y) phải chịu trách nhiệm chung và liên đới đối với toàn bộ phí trọng tài nhưng không ra quyết định buộc các Nguyên đơn phải trả ngay khoản phí này.
ý kiến bảo lưu:
1. Về quyền khởi kiện của Công ty Y:
Đây là một trường hợp ít gặp trong thực tiễn xét xử: trong số hai nguyên đơn, một người hành động với tư cách là nguyên đơn phụ trợ trong khi nguyên đơn chính lại đưa ra một khiếu kiện hoàn toàn không có cơ sở.
Thực tế trong vụ việc này, chính Công ty Y và Ngân hàng X cũng lưỡng lự về quyền khởi kiện đòi người bảo hiểm thanh toán tiền bảo hiểm mà hai chủ thể này tin là họ có quyền được hưởng sau khi người mua không thanh toán tiền hàng.
Ngân hàng, người được bảo hiểm và người bảo hiểm trên thực tế đều nhất trí rằng trong trường hợp có sự cố, tiền bồi thường sẽ được trả trực tiếp cho ngân hàng. Điều này thể hiện sự cẩn trọng hợp lý của bên cấp tài chính, người đã ứng trước số tiền mà bên mua phải trả cho bên bán. Qui định này thường đi đôi với việc chuyển cho ngân hàng quyền thụ hưởng đối với tín dụng chứng từ mà người mua phát hành để thanh toán tiền hàng. Nhưng, trong một trường hợp như thế này, việc chuyển dịch đó có dẫn tới việc chuyển dịch luôn quyền khởi kiện không ? Liệu đây có thể được coi là một hình thức thế quyền (tương đối hoặc tuyệt đối), một trường hợp ký kết hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba hay một uỷ nhiệm thanh toán (giữa Y và X) như qui định tại Điều 1277 Bộ luật Dân sự Pháp không?
Do còn phân vân về điều này nên ngân hàng và người được bảo hiểm đã cùng khởi kiện, để cho trọng tài quyết định xem việc khởi kiện của ai là hợp lý, đơn kiện của ngân hàng với tư cách là bên khởi kiện chính hay đơn của người Công ty Y với tư cách là bên khởi kiện phụ trợ. Trọng tài rõ ràng đã chọn phương án đầu tiên, bởi vì họ cho rằng giữa người được bảo hiểm và người bảo hiểm không còn mối quan hệ hợp đồng nữa.
Cách giải quyết này của uỷ ban trọng tài gây nhiều tranh cãi bởi việc ký kết một hợp đồng bảo hiểm cho bên thứ ba hưởng lợi vốn được coi như là một hình thức ký kết hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba (Xem H.L. và J. Mazeaud, F. Chabas Giáo trình Luật dân sự, Tập 2: Nghĩa vụ, trang 907), tức là người ký hợp đồng bảo hiểm vẫn được coi là một bên trong hợp đồng dù không được nhận tiền bảo hiểm, và do đó người ký bảo hiểm vẫn có quyền kiện người bảo hiểm nếu có tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm. Nhưng đúng là sự khác nhau giữa hình thức thế quyền và ký hợp đồng vì quyền lợi của người thứ ba là rất nhỏ, thế quyền tồn tại khi "khi bên thứ ba tham gia vào việc ký kết hợp đồng vì lợi ích của mình và chấp nhận việc hưởng lợi bắt đầu từ thời điểm ký kết đó" (Giáo trình luật Dân sự đã dẫn, trang 1270). Điều này đã xảy ra trong vụ việc đang xét bởi chính ngân hàng đã tham gia vào việc ký kết hợp đồng bảo hiểm cùng với công ty Y và hãng bảo hiểm Z đồng thời cam kết sẽ tự mình trả phí bảo hiểm. Do đó, người được bảo hiểm ban đầu đã mất hoàn toàn mọi quyền khởi kiện đối với người bảo hiểm.
2. Hợp đồng bảo hiểm thông thường hay Bảo hiểm tín dụng?
Trong khoản 3, Điều L.111-1 của Bộ luật Bảo hiểm có quy định rằng ba đề mục đầu tiên của quyển I Bộ luật Bảo hiểm, liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, không áp dụng cho các giao dịch về bảo hiểm tín dụng.
Để quyết định rằng hợp đồng bảo hiểm đang xem xét này không phải là một hợp đồng bảo hiểm tín dụng, trong khi nó rất giống như vậy, trọng tài đã phải tiến hành hai bước:
Thứ nhất, xác định xem luật nào trong bản thân hệ thống pháp luật nội địa của Pháp có thể áp dụng cho hợp đồng đang xét (điều này có vẻ hơi lạ vì thông thường việc lựa chọn luật áp dụng chỉ được tiến hành khi có xung đột pháp luật giữa hai hay nhiều nước). Trọng tài đã quyết định rằng bản hợp đồng này được điều chỉnh bởi Bộ luật Bảo hiểm bởi vì các bên muốn như vậy chứ không xác định bản chất của hợp đồng trên cơ sở các đặc điểm của hoạt động bảo hiểm mà các bên thoả thuận. Mong muốn này của các bên được thể hiện thông qua việc dẫn chiếu đến hai điều khoản của Bộ luật Bảo hiểm trong bản hỏi đáp mẫu và là một bộ phận không tách rời của hợp đồng bảo hiểm, hoàn toàn giống như từ việc một số điều khoản của Bộ luật dân sự Pháp được nêu lên trong một bản hợp đồng quốc tế, một trọng tài có thể suy đoán là các bên muốn dùng luật của Pháp để điều chỉnh hợp đồng đó. Việc làm này của trọng tài nhằm xác định ý chí của các bên là hoàn toàn đúng đắn, nhưng liệu trong một hệ thống pháp luật nội địa các bên vẫn có quyền tự do lựa chọn áp dụng luật này hay luật khác để áp dụng cho hợp đồng của mình giống như trong một hợp đồng quốc tế không? Trong hệ thống pháp luật nội địa, quan hệ hợp đồng do các bên thiết lập phải tuân thủ các qui phạm bắt buộc không phụ thuộc vào việc xác định bản chất của quan hệ đó. Vì vậy, việc các bên tự thoả thuận trước với nhau về bản chất của quan hệ hợp đồng phải hết sức thận trọng. Tuy nhiên, trong phán quyết này, các trọng tài lại cho điều này là thứ yếu và từ việc phân tích hợp đồng bảo hiểm bị tranh chấp, uỷ ban trọng tài đã đi đến kết luận rằng đây không phải là một bảo hiểm tín dụng. Quan niệm về hợp đồng tín dụng của trọng tài theo đó bảo hiểm tín dụng chỉ giới hạn ở các hợp đồng bảo hiểm khi người phải thanh toán nợ mất khả năng thanh toán có vẻ là quá hẹp. Trong vụ việc này uỷ ban trọng tài đã đi đến kết luận rằng hợp đồng phải được điều chỉnh bởi Bộ luật bảo hiểm Pháp. Nhưng liệu kết luận này của trọng tài có cần thiết không khi thực ra một hợp đồng bảo hiểm tín dụng vẫn có thể thuộc phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Bảo hiểm Pháp, hoặc chính xác hơn là một phần của Bộ luật này (trừ phần không áp dụng cho bảo hiểm tín dụng).
3. Về tính không thể dự đoán trước của hợp đồng bảo hiểm:
Trọng tài khẳng định chắc chắn rằng hợp đồng bảo hiểm là một hợp đồng không thể dự đoán trước được (việc thực hiện bảo hiểm phụ thuộc vào sự xuất hiện của sự kiện được bảo hiểm). Tuy nhiên tính chất này không phải là tuyệt đối, ít nhất là từ phía người bảo hiểm bởi khi nhận bảo hiểm người bảo hiểm phải có những số liệu thống kê và những tính toán về xác suất xảy ra sự cố làm căn cứ để tính phí bảo hiểm (CF. J. Carbonnier, Luật dân sự, T.4, số 11, trang 38).
Tuy vậy, nếu so với các loại hợp đồng khác thì rõ ràng là trong hợp đồng bảo hiểm, yếu tố ngẫu nhiên có vai trò quan trọng và do đó tính không thể dự đoán trước vẫn được coi là một đặc tính của loại hợp đồng này. Vì thế quan điểm cho rằng người thụ hưởng bảo hiểm có thể làm cho hợp đồng có hiệu lực sau khi xảy ra sự kiện được bảo hiểm bằng cách thanh toán phí bảo hiểm là không thể chấp nhận được. Trong trường hợp này, yếu tố ngẫu nhiên không còn tồn tại đối với người được bảo hiểm cũng như đối với người bảo hiểm.
4. Về quyết định liên quan đến việc nộp phí trọng tài:
Khi một bên tham gia vụ kiện mà đang trong giai đoạn tiến hành các thủ tục phá sản, bên đó không thể bị các trọng tài buộc thanh toán một khoản tiền. Như P. Ancel đã nhấn mạnh trong phần nhận định của mình tại bản án của Toà Phá án ngày 8 tháng 3 năm 1988 (Tài liệu đã dẫn, trang 473) và được uỷ ban trọng tài nhắc lại trong phán quyết của mình, khi một bên đương sự đang trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản, quyết định của trọng tài về một khoản nợ đối với bên đó (trong vụ việc này là khoản phí trọng tài) chỉ có thể quyết định trên nguyên tắc và xác định về mức tiền, chứ không bắt buộc phải thanh toán. Toà Phá án trên thực tế đã cho rằng nguyên tắc về việc hoãn các khoản truy nợ đối với cá nhân do phá sản không chỉ là trật tự công cộng quốc gia mà còn là một nguyên tắc của trật tự công cộng quốc tế. Do đó, có thể nói cách giải quyết của các trọng tài viên trong trường hợp này là hoàn toàn đúng về mặt nguyên tắc. Tuy nhiên, điểm khác biệt trong quyết định này là ở chỗ trọng tài đã quyết định rằng phí trọng tài sẽ thuộc trách nhiệm chung và liên đới giữa công ty Y và Ngân hàng X và không quyết định về việc phải thanh toán phí này vì có vấn đề thủ tục phá sản. Quyết định này của trọng tài cũng gây tranh cãi bởi trong số hai nguyên đơn, Ngân hàng X không ở trong tình trạng phá sản, như vậy liệu việc Ngân hàng X cũng được đối xử như Công ty Y có phải là công bằng không?
PHÁN QUYẾT SỐ 49
TRANH CHẤP TRONG LIÊN DOANH
Các bên:
Nguyên đơn : Một công ty Trung Quốc
Bị đơn : Một công ty Pháp
Các vấn đề được đề cập:
- Thành lập một phòng ban trong Liên doanh
- Hành động của Chủ tịch Hội đồng quản trị mà không có sự nhất trí của toàn bộ thành viên Hội đồng quản trị
- Thiệt hại
Tóm tắt vụ việc:
Ngày 16 tháng 5 năm 1992, Nguyên đơn, Bị đơn và hai bên khác ký hợp đồng Liên doanh thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn Thượng Hải chuyên sản xuất quần áo. Văn bản chấp thuận thành lập Liên doanh được ban hành ngày 21 tháng 5 năm 1992 và giấy phép kinh doanh được cấp ngày 2 tháng 6 năm 1992. Ngày 25 tháng 8 năm 1992, Liên doanh bắt đầu hoạt động.
Ngày 15 tháng 10 năm 1992, Chủ tịch Hội đồng quản trị của Liên doanh, một thành viên Hội đồng quản trị do Bị đơn chỉ định và một số người khác đến Phòng kinh doanh của Liên doanh lấy đi giắc cắm điện thoại và tuyên bố Liên doanh ngừng hoạt động để tiến hành một số điều chỉnh. Họ cũng niêm phong két an toàn và ba ngăn kéo bên trái bàn làm việc của nhân viên phụ trách tài chính, giữ chìa khoá ô tô của Liên doanh và bằng lái xe của người lái xe. Sáng ngày 16 tháng 10 năm 1992, Chủ tịch Hội đồng quản trị cử đại diện đến ngân hàng để đóng tài khoản của Liên doanh nhưng đã bị ngân hàng từ chối. Ngày hôm sau, tài khoản của Liên doanh ở Chi nhánh Thượng Hải - Ngân hàng Đầu tư Trung Quốc đã bị đóng. Vì vậy, mọi hoạt động của Liên doanh bị ngừng lại.
Nguyên đơn kiện Bị đơn vi phạm hợp đồng và gây thiệt hại 960.000 Nhân dân tệ cho Liên doanh. Theo Điều 43 của Hợp đồng Liên doanh, bất kỳ bên nào cản trở việc thực hiện các điều khoản hợp đồng và các phụ lục kèm theo sẽ bị coi là vi phạm hợp đồng. Điều 54 của Điều lệ Liên doanh quy định Nguyên đơn được hưởng lợi nhuận từ hoạt động của liên doanh theo tỷ lệ đóng góp vào vốn điều lệ của Liên doanh, tức 15% lãi thu được của Liên doanh. Vì vậy, hành vi của Bị đơn gây thiệt hại cho Nguyên đơn 144.000 Nhân dân tệ và Nguyên đơn đã kiện Bị đơn ra Văn phòng Thượng Hải của Uỷ ban trọng tài thương mại và kinh tế quốc tế Trung Quốc (CIETAC) theo Điều 46 của Hợp đồng Liên doanh yêu cầu:
Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn 144.000 Nhân dân tệ.
Phí trọng tài do Bị đơn chịu.
Bị đơn phải trả 3.700 Nhân dân tệ chi phí pháp lý.
Bị đơn lập luận rằng Phòng kinh doanh của Liên doanh thực tế đã được Tổng giám đốc và một thành viên Hội đồng quản trị thành lập một cách bất hợp pháp. Tổng giám đốc và thành viên Hội đồng quản trị đó đều do Nguyên đơn chỉ định. Việc thành lập Phòng kinh doanh không chỉ vi phạm Hợp đồng Liên doanh, Điều lệ Liên doanh mà còn vi phạm các bộ luật và quy định thương mại và công nghiệp của Trung Quốc. Hơn nữa, hành động của Chủ tịch Hội đồng quản trị Liên doanh (do chính Nguyên đơn chỉ định) vào ngày 15 tháng 10 năm 1992 và những ngày sau đó không phải chỉ là hành động đơn phương của Bị đơn. Hành động này được tiến hành theo quyết định chung của năm thành viên Hội đồng quản trị trên cơ sở yêu cầu khẩn cấp của hơn 1/3 số thành viên Hội đồng quản trị. Quyết định này của các thành viên Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc Liên doanh (tất cả những người này đều do Bị đơn chỉ định) được đưa ra do họ đã bị mua chuộc và vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ được giao. Những hành vi này của họ gây tổn thất cho Liên doanh nhưng đã được thực hiện và được Hội đồng quản trị phê chuẩn sau đó bằng quyết định ngày 21 tháng 10 năm 1992.
Phán quyết của trọng tài:
Phòng kinh doanh của Liên doanh là một bộ phận nội tại chứ không phải là một chi nhánh của Liên doanh. Theo Quy định về quản lý thương mại và công nghiệp và ý kiến của Sở thương mại và công nghiệp Thượng Hải, không cần thẩm tra, phê chuẩn và cũng không cần đăng ký với sở thương mại và công nghiệp địa phương khi thành lập một phòng ban của Liên doanh.
Hành động của Chủ tịch Hội đồng quản trị do Nguyên đơn chỉ định vào ngày 15 tháng 10 năm 1992 và những ngày sau đó không được toàn bộ hội đồng quản trị thông qua, mà chỉ được sự đồng ý của một số thành viên hội đồng quản trị. Sau đó, hành động này đã được thông qua bằng một nghị quyết của Hội đồng quản trị vào ngày 21 tháng 10 năm 1992 nhưng chỉ có một vài thành viên Hội đồng quản trị tham dự cuộc họp. Vì hành động đã không được toàn bộ thành viên Hội đồng quản trị thông qua nên nó hoàn toàn trái với các điều khoản trong Hợp đồng Liên doanh và Điều lệ Liên doanh.
Trong thời gian từ 28 tháng 8 năm 1992 (khi Liên doanh bắt đầu hoạt đồng) cho đến ngày bắt đầu tố tụng trọng tài, Liên doanh không chính thức sản xuất hay ký kết hợp đồng với bất kỳ khách hàng nào. Vì vậy, yêu cầu của Nguyên đơn đòi bồi thường 144.000 Nhân dân tệ không có đủ chứng cứ và đã bị Uỷ ban trọng tài bác.
Xét thấy cả Nguyên đơn và Bị đơn đều không yêu cầu huỷ Hợp đồng Liên doanh, Uỷ ban trọng tài đề nghị cả Nguyên đơn và Bị đơn và hai bên kia tuân thủ các điều khoản của Hợp đồng Liên doanh và Điều lệ Liên doanh, Luật Liên doanh với nước ngoài của Nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Quy định về việc thi hành Luật Liên doanh với nước ngoài của Nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, tất cả các vấn đề của Liên doanh phải được xem xét và quyết định bởi Hội đồng quản trị Liên doanh. Nếu tranh chấp phát sinh thì phải báo cáo cho cơ quan chính phủ có liên quan hoặc giải quyết thông qua tư vấn hay hoà giải của bên thứ ba.
Phí trọng tài sẽ do cả Nguyên đơn và Bị đơn trả. Nguyên đơn trả 35% phí trọng tài và phần còn lại do Bị đơn trả.
Các loại chi phí pháp lý của Nguyên đơn sẽ do Nguyên đơn tự trả.
Phán quyết:
Bác khiếu kiện của Nguyên đơn đòi Bị đơn bồi thường 144.000 Nhân dân tệ.
Phí trọng tài do cả Nguyên đơn và Bị đơn trả. Nguyên đơn trả 35% phí trọng tài và phần còn lại do Bị đơn trả.
Bác khiếu kiện của Nguyên đơn đòi Bị đơn thanh toán về phí pháp lý.
Phán quyết này có giá trị chung thẩm.
PHÁN QUYẾT SỐ 50
TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC LỰA CHỌN TƯ PHÁP HAY CÔNG PHÁP LÀM LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP ĐỒNG
Các bên:
Nguyên đơn : Người bán Italia
Bị đơn : Người mua Hàn Quốc
Các vấn đề được đề cập:
Luật công quốc gia (public national law) và giá trị pháp lý của hợp đồng
Luật điều chỉnh hợp đồng
Quy tắc cạnh tranh của Cộng đồng châu Âu
Tóm tắt vụ việc:
Tranh chấp phát sinh sau khi "Hợp đồng cung cấp và mua hàng" có hiệu lực vào ngày 11 tháng 11 năm 1976. Thủ tục tố tụng trọng tài được tiến hành tại Toà án trọng tài ICC và Toà án này đã phê chuẩn việc chỉ định trọng tài viên duy nhất ở Hague.
Phán quyết này giải quyết hai vấn đề: sự thừa kế của Người bán Italia đối với các quyền và nghĩa vụ của một công ty đã sáp nhập với Người bán Italia và điều này đã được Bị đơn thừa nhận; yêu cầu của Người mua Hàn Quốc đề nghị uỷ ban trọng tài ra phán quyết tạm thời tuyên bố huỷ bỏ Hợp đồng năm 1976 do hợp đồng này không thể thực hiện được trên cơ sở luật công Hàn Quốc (Luật chống độc quyền, Luật giá cả và Luật thương mại công bằng).
Uỷ ban trọng tài cho rằng trong tố tụng trọng tài, công ty Italia là người thừa kế hợp pháp của công ty đã sáp nhập với nó và rằng Hợp đồng ngày 11 tháng 11 năm 1976 được điều chỉnh bởi luật tư pháp Hàn Quốc. Uỷ ban trọng tài đã bác yêu cầu tuyên bố Hợp đồng không thể thực hiện được và quyết định tiếp tục tố tụng trọng tài.
Phán quyết của trọng tài:
1. Về khả năng áp dụng luật công pháp của Hàn Quốc cho việc thực hiện hợp đồng
Uỷ ban trọng tài tiến hành phân biệt giữa luật tư điều chỉnh Hợp đồng và các quy tắc khác của luật công có thể áp dụng cho Hợp đồng. Các bên thừa nhận Hợp đồng chủ yếu được thực hiện trên lãnh thổ Hàn Quốc. Vì vậy, cho dù luật tư pháp của bất cứ quốc gia nào điều chỉnh Hợp đồng, Hợp đồng vẫn thuộc phạm vi điều chỉnh của luật công Hàn Quốc. Do đó, Uỷ ban trọng tài phải xác định liệu luật Hàn Quốc như Bị đơn đã viện dẫn có áp dụng cho Hợp đồng không, cho dù luật này không điều chỉnh Hợp đồng.
Tuy nhiên, trong vụ này, luật công quốc gia như Nguyên đơn viện dẫn (Luật chống độc quyền, Luật giá cả, Luật thương mại công bằng) về bản chất là các quy tắc chung. Thông thường, việc áp dụng các quy tắc này phải trên cơ sở chính sách của nhà nước. Vì vậy, Uỷ ban trọng tài không thể tự do áp dụng công pháp Hàn Quốc như yêu cầu của Bị đơn nếu việc áp dụng này đòi hỏi trọng tài phải đánh giá, giải thích các chính sách của Nhà nước.
Mặt khác, Uỷ ban trọng tài được quyền áp dụng luật công pháp quốc gia chừng nào Uỷ ban trọng tài thấy rằng trong vụ kiện này, theo như thực tiễn tư pháp đã được công bố của các toà án quốc gia có thẩm quyền và/hoặc các chính sách đã được ban hành và công bố của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì các bộ luật mà Uỷ ban trọng tài đang xem xét đều bị coi là vô hiệu và không thể thực hiện được do bị công pháp của các quốc gia có liên quan cấm.
Do vậy, bên tham gia tố tụng trọng tài muốn áp dụng luật công pháp quốc gia phải chứng minh công pháp quốc gia thực sự có thể áp dụng được trong vụ kiện này và nếu áp dụng thì ở mức độ nào.
Bởi Bị đơn không cung cấp đủ chứng cứ về tình hình thị trường Hàn Quốc và vị trí của Nguyên đơn ở thị trường đó, Uỷ ban trọng tài cho rằng vào thời điểm đó, Nguyên đơn không thể giữ vị trí chi phối thị trường để có thể lạm dụng thị phần của mình, và bí quyết kỹ thuật liên quan tới sản xuất một loại sản phẩm và việc cung cấp nguyên liệu thô để sản xuất sản phẩm đó không phải là hai mục độc lập dẫn đến quy định hạn chế hoạt động của các bên ký kết hợp đồng trong Điều 4 của bản Thông báo nói trên.
Vì vậy, quan điểm của Uỷ ban trọng tài là Bị đơn không chứng minh được Điều 1 và Điều 2 của Hợp đồng có các điều khoản hạn chế hoạt động của các bên ký kết hợp đồng bị cấm bởi luật công pháp Hàn Quốc.
Bị đơn cũng viện dẫn Đạo luật thương mại công bằng và chống độc quyền Hàn Quốc năm 1980, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 4 năm 1981. Theo quan điểm của Bị đơn, đạo luật này cũng áp dụng cho Hợp đồng. Tuy nhiên, trên thực tế Bị đơn đã huỷ Hợp đồng vào ngày 19 tháng 5 năm 1980 hoặc ngày 25 tháng 11 năm 1980.
Do Bị đơn đã không chỉ ra được rằng Đạo luật mới có hiệu lực hồi tố và Hợp đồng mặc dù bị huỷ vào năm 1980, nhưng vẫn có hiệu lực sau ngày 31 tháng 3 năm 1981, Uỷ ban trọng tài cho rằng Đạo luật mới của Hàn Quốc không liên quan tới vụ kiện này.
Trên cơ sở các văn bản đệ trình của hai bên, các cuộc thảo luận trong các phiên xét xử và các câu trả lời của Bị đơn đối với các câu hỏi về đối tượng của công pháp Hàn Quốc mà Uỷ ban trọng tài đưa ra, Uỷ ban trọng tài không chấp nhận áp dụng luật công pháp Hàn Quốc cho Hợp đồng.
2. Về việc áp dụng Điều 85 của Hiệp ước Rôma:
Cũng như công pháp quốc gia, các quy tắc cạnh tranh (Điều 85) của Hiệp ước Rôme là các quy tắc chung và là một phần chính sách chung của Cộng đồng châu Âu. Vì việc áp dụng các quy tắc về cạnh tranh của Hiệp ước Rôme có liên quan tới vụ kiện, Uỷ ban trọng tài phải xem xét kỹ vấn đề này.
Từ thực tiễn tư pháp của Toà án Cộng đồng châu Âu, Điều 85 hoàn toàn có thể áp dụng trực tiếp đối với công dân của các quốc gia thành viên (tức là công dân của các quốc gia thanh viên có quyền căn cứ vào điều khoản này để yêu cầu tòa án quốc gia của họ để bảo vệ quyền lợi). Theo đoạn 2 Điều 85 của Hiệp ước, tất cả thoả thuận được ký kết vi phạm Điều 85 của Hiệp ước đều bị cấm và sẽ tự động vô hiệu.
Nếu Uỷ ban trọng tài thấy rằng toàn bộ hoặc một phần Hợp đồng đang xem xét vi phạm Điều 85 của Hiệp ước Rôme, thì một số điều khoản của hợp đồng hoặc toàn bộ hợp đồng sẽ bị coi là vô hiệu và không có giá trị thi hành.
Vì vậy, Uỷ ban trọng tài phải xem xét liệu Hợp đồng có bị cấm theo đoạn 1 Điều 85 của Hiệp ước Rôme không.
Theo các quyết định của Toà án tư pháp Cộng đồng châu Âu liên quan tới Điều 85 Hiệp ước Rôme, qui định cấm trong Điều này chỉ áp dụng cho các hợp đồng, thoả thuận được ký kết nhằm mục đích tạo ra sự ngăn cản, hạn chế hoặc bóp méo cạnh tranh ở thị trường chung Cộng đồng châu Âu và có thể ảnh hưởng tới thương mại giữa các quốc gia thành viên của Cộng đồng châu Âu.
Bởi đây là Hợp đồng giữa một công ty Italia và một công ty Hàn Quốc và chủ yếu được thực hiện ở Hàn Quốc, Uỷ ban trọng tài cho rằng Hợp đồng không thể ảnh hưởng tới thương mại giữa các quốc gia thành viên Cộng đồng châu Âu và Hợp đồng, đặc biệt là điều 2, không có mục đích tạo ra sự ngăn cản, hạn chế hoặc bóp méo cạnh tranh ở thị trường chung Cộng đồng châu Âu. Vì vậy, Uỷ ban trọng tài không chấp nhận áp dụng Điều 85 Hiệp ước Rôme cho Hợp đồng.
3. Về luật điều chỉnh hợp đồng:
Hợp đồng đã được thực hiện cả ở Italia và Hàn Quốc. Vào thời điểm ký kết Hợp đồng, các bên không nói rõ luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng của họ. Vì các bên không lựa chọn luật điều chỉnh cũng như không thoả thuận về các nhân tố để xác định luật điều chỉnh hợp đồng nên trong tài quyết định việc xác định luật áp dụng cần dựa trên "trung tâm" của hợp đồng.
Mặc dù tên của Hợp đồng là Hợp đồng cung cấp và mua hàng, Hợp đồng này không chỉ đơn thuần là một hợp đồng cung cấp và mua hàng. Nguyên đơn đã trao cho Bị đơn quyền độc quyền sử dụng các bí quyết kỹ thuật liên quan đến sản xuất một loại sản phẩm ở Hàn Quốc. Bị đơn mua của Nguyên đơn nguyên liệu thô để sản xuất sản phẩm đó ở Hàn Quốc.
Xem xét các nhân tố đặc biệt này của Hợp đồng, Uỷ ban trọng tài thấy Hợp đồng chủ yếu thực hiện ở Hàn Quốc và có "trung tâm" ở Hàn Quốc. Do đó, luật tư pháp Hàn Quốc sẽ là luật điều chỉnh hợp đồng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50 phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc.doc