Ảnh hưởng biến đổi khí hậu rừng Ngập Mặn

Các hoạt động của con người trong nhiều thập kỷ gần đây đã làm tăng đáng kể những tác nhân gây hiệu ứng nhà kính (nồng độ khí thải trong các hoạt động công nghiệp, giao thông, sự gia tăng dân số ), làm trái đất nóng dần lên, từ đó gây ra hàng loạt những thay đổi bất lợi và không thể đảo ngược của môi trường tự nhiên. Nếu chúng ta không có những hành động kịp thời nhằm hạn chế, giảm thiểu và thích nghi, hậu quả đem lại sẽ vô cùng thảm khốc. Theo dự báo của Ủy ban Liên Quốc gia về biến đổi khí hậu (IPCC), đến năm 2100 nhiệt độ toàn cầu sẽ tăng thêm từ 1,40 C tới 5,80 C. Sự nóng lên của bề mặt trái đất sẽ làm băng tan ở hai cực và các vùng núi cao, làm mực nước biển dâng cao thêm khoảng 90 cm (theo kịch bản cao), sẽ nhấn chìm một số đảo nhỏ và nhiều vùng đồng bằng ven biển có địa hình thấp. Theo dự báo cái giá mà mỗi quốc gia phải trả để giải quyết hậu quả của biến đổi khí hậu trong một vài chục năm nữa sẽ vào khoảng từ 5-20% GDP mỗi năm, trong đó chi phí và tổn thất ở các nước đang phát triển sẽ lớn hơn nhiều so với các nước phát triển Với ưu thế địa hình có đường bờ biển dài, Việt Nam là một trong số các quốc gia có hệ sinh thái rừng ngập mặn đa dạng và phong phú trên thế giới. Những dải rừng ven biển này là điểm dừng chân của những cánh chim di cư, nơi nuôi dưỡng các loài hải sản và là ngôi nhà sinh thái của nhiều loài động vật. Từ bao đời nay, cuộc sống của hàng triệu người dân nghèo vùng biển nương tựa và được che chở trước bão táp phong ba cũng nhờ rừng ngập mặn. Ấy vậy mà trong khi cả thế giới đang lo lắng về biến đổi khí hậu và sôi sục tìm kiếm những giải pháp hạn chế và trong khi Việt Nam được đặt trong cảnh báo đặc biệt của quốc tế về nguy cơ phải gánh chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu thì đôi lúc chúng ta lại quên rằng chúng ta có một cứu cánh đặc biệt, đó là những cánh rừng ngập mặn. A. Mở đầu 1 1. Biến đổi khí hậu 2 2. Sơ lược rừng ngập mặn 2 2.1 Khái niệm rừng ngập mặn . 2 2.2 Thành phần môi trường rừng ngập mặn . 3 2.3 Môi trường khí hậu trong rừng ngập mặn 4 2.4 Đa dạng sinh học rừng ngập mặn . 6 2.5 Vai trò rừng ngập mặn . 7 3. Nguyên nhân biến đổi khí hậu trong rừng ngập mặn . 11 4. Tác động biến đổi khí hậu . 14 5. Rừng ngập mặn thích nghi biến đổi khí hậu . 18 B. Kết luận . 21 Tài liệu tham khảo 22

doc25 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7795 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Ảnh hưởng biến đổi khí hậu rừng Ngập Mặn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHUYÊN ĐỀ: GVHD: GS. TSKH LÊ HUY BÁ LỚP: ĐHMT3B SVTH : TRẦN THỊ NGỌC THỊNH MSSV : 07705241 TP Hồ Chí Minh_Tháng 07/2009 MỤC LỤC A. Mở đầu 1 1. Biến đổi khí hậu 2 2. Sơ lược rừng ngập mặn 2 2.1 Khái niệm rừng ngập mặn 2 2.2 Thành phần môi trường rừng ngập mặn 3 2.3 Môi trường khí hậu trong rừng ngập mặn 4 2.4 Đa dạng sinh học rừng ngập mặn 6 2.5 Vai trò rừng ngập mặn 7 3. Nguyên nhân biến đổi khí hậu trong rừng ngập mặn 11 4. Tác động biến đổi khí hậu 14 5. Rừng ngập mặn thích nghi biến đổi khí hậu 18 B. Kết luận 21 Tài liệu tham khảo 22 A. MỞ ĐẦU Các hoạt động của con người trong nhiều thập kỷ gần đây đã làm tăng đáng kể những tác nhân gây hiệu ứng nhà kính (nồng độ khí thải trong các hoạt động công nghiệp, giao thông, sự gia tăng dân số…), làm trái đất nóng dần lên, từ đó gây ra hàng loạt những thay đổi bất lợi và không thể đảo ngược của môi trường tự nhiên. Nếu chúng ta không có những hành động kịp thời nhằm hạn chế, giảm thiểu và thích nghi, hậu quả đem lại sẽ vô cùng thảm khốc. Theo dự báo của Ủy ban Liên Quốc gia về biến đổi khí hậu (IPCC), đến năm 2100 nhiệt độ toàn cầu sẽ tăng thêm từ 1,40 C tới 5,80 C. Sự nóng lên của bề mặt trái đất sẽ làm băng tan ở hai cực và các vùng núi cao, làm mực nước biển dâng cao thêm khoảng 90 cm (theo kịch bản cao), sẽ nhấn chìm một số đảo nhỏ và nhiều vùng đồng bằng ven biển có địa hình thấp. Theo dự báo cái giá mà mỗi quốc gia phải trả để giải quyết hậu quả của biến đổi khí hậu trong một vài chục năm nữa sẽ vào khoảng từ 5-20% GDP mỗi năm, trong đó chi phí và tổn thất ở các nước đang phát triển sẽ lớn hơn nhiều so với các nước phát triển Với ưu thế địa hình có đường bờ biển dài, Việt Nam là một trong số các quốc gia có hệ sinh thái rừng ngập mặn đa dạng và phong phú trên thế giới. Những dải rừng ven biển này là điểm dừng chân của những cánh chim di cư, nơi nuôi dưỡng các loài hải sản và là ngôi nhà sinh thái của nhiều loài động vật. Từ bao đời nay, cuộc sống của hàng triệu người dân nghèo vùng biển nương tựa và được che chở trước bão táp phong ba cũng nhờ rừng ngập mặn. Ấy vậy mà trong khi cả thế giới đang lo lắng về biến đổi khí hậu và sôi sục tìm kiếm những giải pháp hạn chế và trong khi Việt Nam được đặt trong cảnh báo đặc biệt của quốc tế về nguy cơ phải gánh chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu thì đôi lúc chúng ta lại quên rằng chúng ta có một cứu cánh đặc biệt, đó là những cánh rừng ngập mặn. BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: (CLIMATE CHANGE) Trong mấy thập kỷ qua, nhân loại đã và đang trải qua các biến động bất thường của khí hậu toàn cầu. Trên bề mặt Trái đất, khí quyển và thủy quyển không ngừng nóng lên làm xáo động môi trường sinh thái, đã và đang gây ra nhiều hệ lụy với đời sống loài người. Và con người đã làm xáo trộn bầu khí quyển theo nhiều cách khác nhau đưa đến thảm họa cho hệ sinh thái và môi trường. “Biến đổi khí hậu”: “sự thay đổi về khí hậu gây ra trực tiếp hay gián tiếp từ hoạt động của con người làm thay đổi cấu thành của khí quyển trái đất mà, cùng với biến đổi khí hậu tự nhiên,đã được quan sát trong một thời kì nhất định”. (UNFCCC). “Biến đổi khí hậu (BĐKH) là sự biến động trạng thái trung bình của khí quyển toàn cầu hay khu vực theo thời gian từ vài thập kỷ đến hàng triệu năm (IPCC,2007)...” Những biến đổi này được gây ra do quá trình động lực của trái đất, bức xạ mặt trời, và có sự tác động từ các hoạt động của con người. BĐKH trong thời gian thế kỷ 20 đến nay được gây ra chủ yếu do con người, do vậy thuật ngữ BĐKH (hoặc còn được gọi là sự ấm lên toàn cầu – Global warming) được coi là đồng nghĩa với BĐKH hiện đại.) 2. SƠ LƯỢC RNM 2.1 Khái niệm RNM : Rừng nập mặn (RNM) (managrove forest) là một trong những hệ sinh thái đất ướt ( wetlands) đặc biệt của vùng nhiệt đới nói chung. Đất ướt được hiểu là vùng đầm lấy, nơi cư trú của nhiều loài chim nước và thực vật ngập hoặc bán ngập với sự phong phú đa dạng của nó. Ở hệ sinh thái RNM ngoài những đặc trưng trên nó còn là phân bố tự nhiên của một hệ thực vật rừng với các loài cây phổ biến như đước ( rhizophora ), vẹt ( bruguiera ), mắm ( avicennia ). Trong hệ thực vật này các lào thực vật, các loài động vật, chim thú hoang dã đã sinh sống và phát triển. Loài người ngày nay trở thành ngoại động lực ( exodynamic ) cực mạnh tác động đến môi trường, thúc đẩy nhanh qúa trình biến đổi cấu trúc và dẫn tới sự phá hủy tính cân bằng của thiên nhiên đó. Rõ ràng với nhiều lý do khác nhau, con người đã và đang gây nên những thiệt hại to lớn cho môi trường sống của mình : nạn ô nhiễm tới mức độ nguy hiểm trong không khí, nước, đất, sinh vật, làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên không thể phục hồi được, gây nhiễu loạn và phá vỡ tính đa dạng sinh học của các hệ sinh thái tự nhiên. Hệ sinh thái RNM cũng không tránh khỏi tình trạng này. Chúng đã và đang mất đi tính cân bằng vốn có và khó có thể khôi phục lại do sự tác động thường xuyên và không đúng qui luật của con người. Do phân bố tự nhiên trên vùng đầm lầy dọc theo bờ biển nên có thể coi RNM như một khu đệm sinh học tự nhiên, lien kết giữa các hệ sinh thái đất liền và hệ sinh thái biển. Vì là vùng đệm nên chịu ảnh hưởng của hai phía : hải dương và đất liền. Ngược lại, bản thân RNM cũng có tác dụng trở lại với môi trường sinh thái ngại cảm này. Do vậy RNM có giá trị đặc biệt không những về kinh tế mà còn có ý nghĩa lớn trên khía cạnh môi trường sinh thái. Do sự phát triển dân số của thế giới quá nhanh, do sức ép về kinh tế, các hệ sinh thái RNM ở nhiều nước đã và đang bị khai thác quá mức hoặc bị phá hủy để lấy đất trồng cây công nghiệp, nuôi thủy sản, xây dựng cảng và đô thị… cho nên diện tích RNM mặn bị thu hẹp, tài nguyên giảm rất nhanh chóng. Ngày nay, cùng với trào lưu mang tính toàn cầu ngăn chặn sự hủy hoại môi trường, nhiều tài liệu, hội thảo đã nghiên cứu, đề cập đến việc bảo vệ RNM, một bộ phận quan trọng của hệ sinh thái đất ướt. 2.2 Thành phần môi trường RNM + Môi trường đất : Môi trường đất của RNM cũng là một “thành phần môi trường sinh thái” trong hệ sinh thái môi trường RNM Đất ở đây là trầm tích phù sa do các song lớn vùng nhiệt đới mang ra biển và dòng hải lưu đưa đến, trong điều kiện môi trường thích ứng để lắng tụ, tạo nên một vùng sơ khai về bùn biển. Quá trình phát triển của RNM cũng làm đồng thời môi trường đất được ổn định dần: từ chỗ ban đầu chỉ là quá trình địa chất đơn thuần sau đó chuyển sang quá trình thổ nhưỡng và địa – hóa – sinh. Quá trình này càng được phát triển thì môi trường đất ở đây càng được ổn định dần. Tuy nhiên, đất chưa phân tầng rõ ràng nhưng bước đầu đã có kết cấu. Môi trường đất có thể có 3 dạng : - Đất bùn mặn : loại này nằm ở ngoải rìa RNM, mới được hình thành, chưa có nền ổn định, chưa có phân tầng. Trong thành phần chủ yếu của nó là các hạt sét, chưa có chất khoáng, một ít chất hữu cơ từ quá trình trầm tích mang lại . Chưa có sự tham gia của thực vật sống của RNM. Có chăng chỉ là tác dụng của bộ rễ cố định phù sa trong nước, nhưng chưa có sự trao đổi, chưa có quá trình sinh – địa – hóa hoàn chỉnh. - Loại đất ổn định dần : được tìm thấy với vùng tiếp giáp với đất bùn biển, nằm trong khu hệ của RNM. Đất đã có tầng, nhưng chưa rõ, chủ yếu là tầng hữu cơ trên mặt tầng sét bùn ở dưới. Thành phần cơ giới ở dưới là sét mịn. phản ứng môi trường thường là trung tính đến kiềm, độ mặn cao. Trong môi trường đất đã bắt đầu có hoạt động của một số vi sinh vật, sự trao đổi khí thông qua bộ rễ của mắm, bần, đước; bước đầu đã có hoạt động của động vật ven biển. Trong nước mặt đã có vi sinh vật phù du. - Loại đất đã có nền tương đối ổn định : phẩu diện đã có 3-4 tầng, trong tầng sâu có thể có tầng hữu cơ. Đó là sản phẩm của quá trình phân giải không hoàn toàn xác hữu cơ của rừng sú vẹt ở thời kỳ trước. Tuổi loại đất này thường khoảng trên 100 năm, có nơi đến vài nghìn năm. Loại đất này có thể chia làm 3 nhóm : nhóm đất mặn trong RNM, nhóm đất phèn tiềm tang, loại đất phèn hoạt động. 2.3 Môi trường khí hậu trong RNM Các nhà khoa học đang tranh cãi về vai trò của môi trường khí hậu- thành phần của hệ sinh thái môi trường ngập mặn. Một số tác giả cho rằng hệ sinh thái rừng ngập mặn độc lập độc lập với khí hậu. Nhưng một số tác giả khác đánh giá ngược lại, cho rằng khí hậu đóng vai trò rất lớn. Quan điểm của chúng tôi là các yếu tố khí hậu, đới khí hậu ảnh hưởng rất mạnh nhưng vùng khí hạu ảnh hưởng ít hơn, còn trong một vùng ( ví dụ Nam Bộ) thì ảnh hưởng yếu tố khí hậu không rõ lắm. 2.3.1 Nhiệt Độ - Nhiệt độ làm ảnh hưởng lên sự sinh trưởng và sản lượng các loài. Ở những vùng nhiệt độ bình quân trong năm cao, biên độ nhiệt giữa ngày và đêm, giữa các mà thấp( đồng thời có độ ẩm cao) thì RNM phát tiển cả về kích thước và sản loài. - Ở vùng có nhiệt độ trung bình trong năm thấp ( ≤ 16 0 C ), biên độ nhiệt độ trong ngày và trong năm lớn thì thực vật RNM giảm mạnh cả về thành phần và kích thước. - Ví dụ: ở Việt nam, rừng ngập mặn ở Cà Mau nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo phát triển tốt. Ngược lại, rừng ngập mặn ở Quảng Ninh chịu tác động của gió mùa Đông-Bắc, biên độ nhiêt trong ngày và năm vào mùa đông thay dổi nhiều, nên rừng kém phát triển về thành phần và chiều cao. 2.3.2 Lượng Mưa - Lượng mưa ở một khu vực chịu ảnh hưởng của địa hình và chế độ gió. Blasco (1983) nhận định: rừng ngập mặn phát triển mạnh về kích thước và thành phần ở những nơi có lượng mưa hằng năm cao và không có mùa khô. Nhận xét này phù hợp với tình hình phân bố ở vùng xích đạo. -Ở vùng nhiệt đới: lượng mưa phân bố không đồng đều trong năm. Ví dụ khu vực Đông Nam Á có một mùa mưa và một mùa khô. Mùa mưa cũng là thời kỳ cây ngặp mặn ra hoa hoặc phân tán hạt hoặc cây con nên rừng ngập mặn phát triển. - Từ đó, ta có nhận xét: trong các vùng nhiêt đới có mùa mưa trùng với thời kỳ sinh sản của cây ngập mặn thì nơi đó rừng phát triển, còn nơi nào tuy có sản lượng mưa lớn nhưng mùa khô trùng với mùa sinh sản thì không có rừng ( vì thiếu nước ngọt cây con không sinh trưởng được). - Rừng ngập mặn phát triển trên vùng đất thấp ven biển nhiệt đới và á nhiệt đới chịu tác động của cường độ ánh sang mạnh ở những khu vực chịu ảnh hưởng của khí hậu gió mùa thì về mùa khô, ánh sáng mạnh đã trở thành một yếu tố hạn chế sự dinh trưởng của cây ngặp mặn vì nó làm nhiệt độ không khí tăng dần, dẫn đến nước trong đất và trong cây bốc hơi là cây thiếu nước mà không phát triển được và cũng từ đó cây hình thành những đặc điểm thích nghi mới. 2.3.3 Mây - Từ trước đến nay ít tài liệu đề cập tới vai trò của mây. ở nơi nào mùa mưa lớn thì lớp mây cũng dầy làm giảm cường độ ánh sáng, giảm nhiệt độ không khí và đất, giữ độ ẩm cao, hạn chế lượng nước bốc hơi. Nước trong đất khan hiếm làm cho lượng mối trong đất không tăng, mặt khác cây cây giảm thóat hơi nước kéo theo sự hạ thấp lượng nước thừa xâm nhập cơ thể. 2.3.4 Gió - Chưa có nghiên cứu nào có tính hệ thống về vai trò của gió đối với sinh học rừng ngập mặn. Như gió cũng là một nhân tố ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự tồn tại và sự phân bố của cây rừng ngập mặn. - Gió mùa có tác dụng lớn làm tăng lượng mưa ở vùng ngập mặn. - Gió có thể mang cát từ bờ biển vào làm thay đổi các cửa song, các bãi biển. - Các loại gió thịnh hành ở bờ biển theo những hướng nhất định trong năm đã tạo nên những dòng chảy ven bờ vận chuyển phù sa, trầm tích, cát biển từ chỗ này đến chỗ khác. - Gió góp phần đáng kể trong việc đưa nước biển vào trong đất liền. - Gió mạnh và bão nhiệt đới làm thay đổi diện tích, tình trạng rừng ngập mặn nhiều nơi trên thế giới. - Gió mạnh làm thay đổi khí hậu địa phương - Gió làm xáo trộn độ mặn của lớp nước mặn trên song khiến cho qui luật phân bố mặn theo chiều sâu bị thay đổi. 2.4 Đa dạng sinh học RNM - Thực vật: khu hệ thực vật RNM Việt Nam bao gồm 47 họ thực vật. Số lượng biến đổi theo từng vùng khác nhau: vùng ven biển Bắc Bộ có 52 loài, vùng ven biển Trung bộ có 69 loài, vùng ven biển Nam Bộ có 100 loài. Vùng ven biển Cà Mau có hệ sinh thái RNM phong phú nhất về thành loài cây, sinh trưởng phát triển tốt nhất và đạy kích thước lớn nhất. Nơi đây gần với trung tâm hình thành và phân bố RNM ở Đông Nam Á là Indonesia và Malaysia. - Động vật : RNM bao gồm cả hai loại thủy sản nửa thủy sản và các cộng đồng sống trên cạn : 258 loài cá, 88 loài lưỡng cư, 21 loài bò sát, 67 loài chim, 4 loài có vú,28 loài giáp xác,10 loài nhuyễn thế, 4 loài côn trùng đã được báo cáo. - Thí dụ : kết quả nghiên cứu ở RNM Cần Giờ (Tp.HCM) chỉ cho thấy 22 loài động vật sống nổi trên mặt nước; 114 loài động vật đáy bao gồm 34 loại giun, 51 loại giáp sát, 29 loại thân mềm; 137 loài cá; 9 loài lưỡng cư; 31 bò sát; 130 loài chim, 19 loài động vật có vú (theo Vũ Trung Tạn, 1994; Lê Đức Tuấn, 1007) 2.5 Vai trò RNM Tình hình bão lụt phá hoại đê biển ở Việt Nam Việt Nam có bờ biển dài 3.260 km, nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, hàng năm hứng chịu từ 5 đến 8 cơn băo và triều cường gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế, xã hội và môi trường. Trước đây, nhờ có các dải rừng ngập mặn (RNM) tự nhiên hoặc rừng trồng ở ven biển, cửa sông nên đê điều ít khi bị vỡ, tính mạng và tài sản của người dân được bảo vệ. Trong nhiều năm qua, do việc phá rừng nội địa ngày càng tăng, tạo điều kiện cho lũ lụt hoành hành ở vùng hạ lưu ven biển. Nạn sụt lở đất xảy ra ở nhiều nơi, rửa trôi theo dòng lũ quét đổ về hạ lưu. Bên cạnh đó, việc phá RNM để lŕm đầm nuôi tôm, cua, mở rộng khu công nghiệp, đô thị, khu du lịch ngày càng tăng nên cuộc sống của cộng đồng ven biển luôn bị đe dọa bởi thiên tai. Năm 1992, phần lớn rừng phòng hộ bị phá để nuôi tôm nên vùng ven biển tỉnh Sóc Trăng đă bị triều cường cùng lốc xoáy tàn phá nặng nề, hơn 200 người chết. Sau đó, tỉnh đã phải đầu tư kinh phí để phục hồi rừng. Năm 2005, Việt Nam hứng chịu nhiều cơn bão hơn so với những năm trước, sức tàn phá của bão ngày càng mạnh và rộng hơn, gây ra những thiệt hại to lớn về người, tài sản, cơ sở hạ tầng. Nhiều đoạn đe biển bị vỡ hoặc sạt lở, nước mặn tràn vào nội đồng, lũ quét tàn phá một số vùng miền núi. Cơn bão số 2 đổ bộ vào các tỉnh ở ven biển Đông Bắc và đồng bằng Bắc Bộ ngày 1/8/2005 với sức gió cấp 8, 9, 10, giật cấp 12 kèm theo mưa lớn, thủy triều dâng cao làm cho nhiều tuyến đê hư hỏng nặng như đê Vĩnh Bảo, An Lão, Tiên Lãng (Hải Phòng), Nghĩa Hưng, Hải Hậu, Giao Thủy (Nam Định), Bắc Cửa Lục, Hoŕnh Bồ (Quảng Ninh). Ở đảo Cát Hải, bão kết hợp triều cường làm nước dâng cao 4,5 - 5m tràn qua mặt đê, làm cho đê vỡ nhiều đoạn. Tại Đồ Sơn, trên đê biển 1 có đoạn bị sụt sâu đến 2m, 2 đoạn từ km số 6 đến km 1 cũng bị nước biển tràn qua. Trong tháng 9/2005, cơn bão số 6 với sức gió mạnh cấp 8, 9, vùng gần tâm bão đi qua cấp 10, giật trên cấp 10 kèm theo mưa lớn kết hợp triều cường đã làm nước biển dâng cao gây đổ nhà cửa, ngập lụt nhiều nơi. Nhiều đoạn đê biển ở các huyện Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc (Nghệ An) bị sạt lở nặng. Khi các tuyến đê chưa kịp phục hồi thì sáng ngày 27/9/2005, cơn bão mạnh số 7 với sức gió trên cấp 12 đã đổ bộ vào một số tỉnh miền Bắc nước ta. Theo Ban Chỉ đạo Phòng chống lụt bão Trung ương, tổng thiệt hại ban đầu về vật chất do băo số 7 gây ra: làm vỡ 275m đê biển (Hải Phòng 50m, Nam Định 200m, Thanh Hóa 15m); sạt lở 54.055m (Nam Định 1.250m, Thái Bình 3.500m, Ninh Bình 725m, Thanh Hóa 18.850m, Nghệ An 30.000m), 966 căn nhà bị đổ sập, 9.468 căn nhà bị tốc mái. Ngoài ra, số phòng của các trường học, bệnh viện, trạm xá bị đổ, tốc mái, hư hỏng lên tới gần 260 phòng. Theo đánh giá của ông Đặng Quang Tính, Cục trưởng Cục Quản lý đê điều và Phòng chống lụt bão: "Qua việc đối phó với cơn bão số 7, chúng ta rút ra bài học trong công tác chỉ đạo và phối hợp lực lượng nhưng đồng thời cũng bộc lộ một số mặt tồn tại cần khắc phục như vấn đề đầu tư cho đę biển, vật tư, trang thiết bị phục vụ cứu hộ, cần phải từng bước tăng cường mới có thể đáp ứng yêu cầu đặt ra trong công tác phòng chống lụt bão. Trong công tác xây dựng và bảo vệ đê biển, Ban Phòng chống lụt bão ở Trung ương cùng nhiều địa phương mới chỉ chú ý đến bê tông hóa hoặc cứng hóa mái đê và kè mà chưa quan tâm đến việc trồng và bảo vệ các RNM, những bức tường xanh bảo vệ hiệu quả các vùng ven biển, làm giảm thiểu tác hại của bão, lụt. Nếu những vùng ven biển trên vẫn giữ được RNM và mái đê có thêm thảm cỏ che phủ như thời kỳ thập kỷ 60 của thế kỷ 20 thì tình hình thiệt hại có thể không lớn như thời gian vừa qua". Năm nay, vùng ven biển huyện Thái Thụy (Thái Bình), tuy không nằm trong tâm bão số 7 nhưng sóng cao ở sông Trà Lý đã làm sạt lở hơn 600m đê nơi không có RNM thôn Tân Bồi, xã Thái Đô, trong lúc phần lớn tuyến đê dài 5 km có RNM ở xã này không bị sạt lở vì thảm cây dày đặc đã làm giảm mạnh cường độ sóng. Qua trao đổi với một số người dân địa phương ở xã Bàng La - Hải Phòng và xã Giao Lạc - Giao Thủy sau cơn bão số 7, hầu hết những người được hỏi đều cho rằng nếu không có các dải RNM thì đê không thể tồn tại như hiện nay. Tác dụng của RNM trong việc bảo vệ vùng ven biển Từ đầu thế kỷ trước, nhân dân ở các vùng ven biển phía Bắc đã biết trồng một số loài cây ngập mặn như trang (Kandelia obovata) và bần chua (Sonneratia caseolaris) để bảo vệ đê biển và vùng cửa sông. Mặc dầu thời kỳ đó đê chưa được bê tông hóa và xây kè đá như bây giờ nhưng nhiều đê không bị vỡ khi có bão vừa (cấp 6 -8). Đó là nhờ các vành đai rộng RNM chắn sóng, thảm cỏ và dây leo dày đặc trên mái đê bảo vệ cho đê không bị xói lở. Mặt khác thân đê được đắp bằng loại đất thịt và nén chặt, không có tình trạng độn đê bằng cát và cành lá cây. Từ nửa cuối thế kỷ 20, do dân số vùng biển tăng nhanh, nhu cầu xuất khẩu các hàng hóa bằng cói sang Liên Xô và Đông Âu cao nên nhiều địa phương đã phá RNM để phát triển diện tích cói. Khi chế độ xă hội chủ nghĩa ở các nước này tan rã, với chủ trương đổi mới, mở rộng quan hệ quốc tế thì các đồng cói được chuyển sang nuôi tôm xuất khẩu vŕ phần lớn diện tích RNM chống sóng còn lại dọc ven biển Việt Nam đã biến thành các loại đầm tôm, đầm cua. Một số địa phương thực hiện nghiêm túc chương trình trồng rừng 327 của chính phủ và của các NGO thì đê điều, đồng ruộng được bảo vệ tốt. Năm 2001, một cơn bão lớn đổ bộ vào huyện Thạch Hà (Hà Tĩnh), nhờ các dải RNM trồng ở 9 xã vùng nước lợ nên hệ thống đê sông Nghèn không bị hư hỏng. Nhân dân thị xã Hà Tĩnh có nhận xét: Nếu không được Quĩ Cứu trợ Nhi đồng Anh (SCF-UK) giúp đỡ trồng RNM thì đê Đồng Môn đã bị vỡ và thị xã Hà Tĩnh đã bị ngập sâu, thiệt hại do cơn bão này sẽ khôn lường. Năm 1996, khi cơn bão số 2 đổ bộ vào huyện Thái Thụy (Thái Bình) nhờ có các dải RNM rộng nên đê biển, bờ nhiều đầm không bị hỏng, trong lúc huyện Tiền Hải do phá phần lớn RNM nên hầu hết các bờ đầm đều bị xói lở hoặc bị vỡ. Vai trò của RNM trong việc bảo vệ, đất bồi, chống xói lở, hạn chế xâm nhập mặn + Mở rộng diện tích đất bồi, hạn chế xói lở Sự phát triển của RNM và mở rộng diện tích đất bồi là hai quá trình luôn luôn đi kèm nhau (trừ một số trường hợp đặc biệt). Nhìn chung, những bãi bồi có điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu phù hợp, có nguồn giống và được bảo vệ đều có cây ngập mặn. Tác dụng của các dải RNM vùng ven biển, cửa sông đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong việc bảo vệ và phát triển đất bồi tụ, hạn chế xói lở bờ, làm giảm tốc độ gió, sóng và dòng triều vùng có đê ven biển và trong cửa sông. Rễ cây ngập mặn, đặc biệt là những quần thể thực vật tiên phong mọc dày đặc có tác dụng làm cho trầm tích bồi tụ nhanh hơn. Chúng vừa ngăn chặn có hiệu quả hoạt động công phá bờ biển của sóng, đồng thời là vật cản làm cho trầm tích lắng đọng. Mặt khác RNM có tác dụng hạn chế xói lở và các quá trình xâm thực bờ biển. Ở vùng hạ lưu và cửa biển, cửa sông lớn như hệ thống sông Hồng, sông Cửu Long, phù sa thường ngưng đọng ở trên lòng sông và ngoài cửa sông tạo nên những hòn đảo nổi. Trong điều kiện thuận lợi thế chỉ sau một thời gian, các loài cây ngập mặn tiên phong sẽ đến cư trú tạo môi trường cho nhiều loài cây đến sau và đất bồi được nâng dần lęn như Cồn Ngạn, Cồn Lu ở Nam Định, Cồn Trong và Cồn Ngoài ở Tây Nam mũi Cà Mau. Toàn bộ đất đai của Bến Tre là các "cù lao" hình thành do phù sa của các nhánh sông Tiền, trong đó cây ngập mặn đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ, nâng cao đất để dần dần trở thành vùng đất nông nghiệp và khu dân cư. + Hạn chế xâm nhập mặn Khi RNM chưa bị tàn phá nhiều thì quá trình xâm nhập mặn diễn ra chậm và phạm vi hẹp vì khi triều cao, nước đã lan tỏa vào trong những khu RNM rộng lớn, hệ thống rễ dày đặc cùng với thân cây đã làm giảm tốc độ dòng triều, tán cây hạn chế tốc độ gió. Nhưng trong những năm gần đây, do phá hầu hết RNM ở ven biển để đắp bờ làm ruộng sản xuất cây nông nghiệp, đặc biệt là việc đắp những dãy bờ lớn để lŕm đầm tôm quảng canh làm thu hẹp phạm vi phân bố của nước triều ở ven biển, cửa sông. Do đó mà nước mặn theo dòng triều lên, được gió mùa hỗ trợ đã lấn theo các dòng sông vào sâu trong đất liền với tốc độ lớn. Nước mặn vào sâu kèm theo sóng đã gây ra xói lở bờ sông và cả các chân đê. Mặt khác nước mặn sẽ thẩm thấu qua thân đê vào đồng ruộng khiến cho năng suất bị giảm, tình trạng thiếu nước ngọt ảnh hưởng đến sản xuất vŕ sử dụng trong sinh hoạt. 3. Nguyên nhân biến đổi khí hậu Rừng ngập mặn là nguồn tài nguyên quý giá của đất nước ta, rừng không những là cơ sở phát triển kinh tế - xã hội mà còn gĩư chức năng sinh thái cực kỳ quan trọng, rừng tham gia vào quá trình điều hoà khí hậu, đảm bảo chu chuyển oxy và các nguyên tố cơ bản khác trên hành tinh, duy trì tính ổn định và độ màu mỡ của đất, hạn chế lũ lụt, hạn hán, ngăn chặn xói mòn đất, làm giảm nhẹ sức tàn phá khốc liệt của các thiên tai, bảo tồn nguồn nước và làm giảm mức ô nhiễm không khí. Nhưng ngày nay, nguồn tài nguyên quý giá đó đang dần bị suy thoái. Những năm qua, nạn phá rừng, mất rừng ngày càng nghiêm trọng, hàng ngàn diện tích ha rừng càng bị thu hẹp lại. Mất rừng và suy thoái rừng gây nên hiện tượng sa mạc hoá và làm nghèo đất tại nhiều địa phương. Tình trạng đó đã tạo ra hàng loạt các tác động tiêu cực và thách thức sự phát triển kinh tế, xã hội và môi trường như gây lũ lụt, hạn hán gây khó khăn trong việc cung ứng lâm sản, làm giảm diện tích đất trồng khiến tình trạng nghèo đói và thất nghiệp ở nhiều khu vực càng đáng lo ngại hơn, đặc biệt suy thoái rừng làm phá vỡ các hệ sinh thái quan trọng… Vậy bắt nguồn từ những nguyên nhân nào mà nguồn tài nguyên rừng đang ngày càng bị suy thoái, và với rất nhiều nguyên nhân tác động trực tiếp nhưng có thể kể đến 5 nguyên nhân tiêu biểu sau đóng vai trò chính của việc góp phần làm suy thoái tài nguyên rừng Việt Nam, và những nguyên nhân trên tương đương với mức độ quan trọng của chính bản thân nó: Chuyển đổi mục đích sử dụng đất ; khai thác nguồn lâm sản quá mức cho phép; cháy rừng; sức ép dân số; tập quán du canh du cư Đi vào tìm hiểu 5 nguyên nhân trên chúng ta có thể nhìn nhận được suy thoái rừng ở Việt Nam đang là vấn đề đáng lo ngại. Chuyển đổi mục đích sử dụng đất : Chuyển đổi mục đích sử dụng đất chính là sự mở rộng đất nông nghiệp, đất sản xuất, là mở rộng đất canh tác nông nghiệp bằng cách lấn sâu vào đất rừng, là nguyên nhân quan trọng nhất làm suy thoái tài nguyên rừng, suy thoái đa dạng sinh học. Phá rừng ngập mặn để nuôi tôm là hậu quả làm suy thoái rừng Rừng ngập mặn đóng một vai trò quan trọng đối với cuộc sống của hàng triệu người dân nghèo ven biển Việt Nam. Đặc biệt rừng ngập mặn ở Nam Bộ là những căn cứ kháng chiến vững chắc, nơi cất giấu vũ khí chuyển từ miền Bắc vào trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai. Do vị trí chuyển tiếp giữa môi trường biển và đất liền, nên hệ sinh thái rừng ngập mặn có tính đa dạng sinh học rất cao. Lượng mùn bã phong phú của rừng ngập mặn là nguồn thức ăn dồi dào cho nhiều loài động vật ở nước. Do chưa hiểu hết giá trị nhiều mặt của hệ sinh thái rừng ngập mặn, hoặc do những lợi ích kinh tế trước mắt, đặc biệt là nguồn lợi từ tôm nuôi xuất khẩu nên rừng ngập mặn Việt Nam đã bị suy thoái nghiêm trọng. Hậu quả của việc phá rừng ngập mặn lấy đất nuôi tôm một cách bừa bãi như hiện nay là huỷ hoại môi trường, làm suy giảm mức sống của nhiều người dân nghèo ven biển, ảnh hưởng xấu đến chủ trương xoá đói giảm nghèo và phát triển bền vững của Chính phủ. Tác động của nghề nuôi tôm đối với hệ sinh thái rừng ngập mặn, "tôm đến, rừng tan". Trong gần hai thập kỷ qua, được Nhà nước hỗ trợ và khuyến khích nên nghề nuôi tôm nước lợ ở vùng cửa sông ven biển phát triển rất mạnh, vượt ra ngoài tầm kiểm soát và quản lý của ngành thuỷ sản và chính quyền một số địa phương. Mặt khác, do nguồn lợi nuôi tôm lớn hơn các loại sản xuất khác nhiều lần nên không những người dân địa phương mà rất nhiều người di cư bất hợp pháp ồ ạt kéo nhau đến các khu rừng ngập mặn ở Cà Mau, Bến Tre và một số nơi khác để phá rừng làm đầm tôm.. Nhiều người chưa hình dung được sự suy giảm rừng ngập mặn nghiêm trọng đến mức nào. Đối chiếu với tài liệu của Maurand (1943), ta thấy một sự giảm sút đáng báo động về diện tích rừng trong 60 năm qua. Vào thời gian trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, cả nước có 408.500ha rừng ngập mặn trong đó có 329.000ha ở Nam Bộ; Bến Tre có 48.000ha với độ che phủ rừng là 21,75%, nay chỉ còn 1,64%; Trà Vinh có 65.000ha, độ che phủ rừng 29,20%, nay còn 2,53%; Sóc Trăng có 41.000ha, độ che phủ 12,72%, nay chỉ còn 2,81%; Cà Mau có 140.000ha, độ che phủ 27%, nay chỉ còn 11,21%. Mất rừng ngập mặn là mất nơi sống, nơi sinh sản, vườn ươm của nhiều loài động vật dưới nước và trên cạn. Khai thác nguồn lâm sản quá mức cho phép. Khai thác nguồn lâm sản đang là tình trạng đáng lo ngại hiện nay đối với tài nguyên rừng Việt Nam. Đây là nguyên nhân quan trọng trực tiếp dẫn đến rừng bị suy thoái một cách nghiêm trọng làm cho sự đa dạng về hệ sinh thái tự nhiên, sự phong phú về các loài sinh vật, độ che phủ và chất lượng rừng bị giảm sút gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho sinh vật và cây trồng trên toàn cầu. Khai thác rừng là hành động do chính con người tạo ra là phần lớn, vì rất nhiều mục đích khác nhau mà con người đã sử dụng dưới nhiều hình thức để tác động và tàn phá tài nguyên rừng. Với các mục đích khác nhau cho nên hoạt động khai thác nguồn lâm sản ở đây được chia thành 3 hoạt động: khai thác gỗ, khai thác củi, khai thác lâm sản ngoài gỗ. Cháy rừng. Cháy rừng cũng là một nguyên nhân quan trọng làm suy thoái tài nguyên rừng một cách rất nhanh gây ảnh hưởng tới các hoạt động sống của sinh vật trên một diện tích rộng lớn và gây ra hậu quả xấu như xói mòn, lũ lụt, hạn hán đến cuộc sống con người. Ngày nay cháy rừng cũng do nhiều nguyên nhân gây ra, chúng ta có thể kể đến một số nguyên nhân như: hiện tượng elnino gây ra, do các hoạt động khai thác của con người như đốt lửa tìm mật ong, tìm mật gấu hay đốt hương tìm mộ liệt sĩ trong chiến tranh, do hoạt động đốt nưong làm rẫy của người dân tộc miền núi… những nguyên nhân này đều có thể khiến rừng bị cháy. Cháy rừng sẽ nhanh chóng lan ra trên một diện tích rộng lớn và rất khó dập tắt cho nên thiệt hại cũng rất nghiêm trọng. Sự phục hồi và tái tạo lại rừng trong điều kiện này là rất chậm vì thế mà tài nguyên rừng đang cạn kiệt dần đi. Do vậy, đòi hỏi ý thức bảo vệ của người dân và cần có sự quản lý chặt chẽ, sự quan tâm nguồn tài nguyên rừng của ngành kiểm lâm để hạn chế được sự suy giảm diện tích tài nguyên rừng Sức ép dân số Tăng dân số nhanh là một trong những nguyên nhân chính làm suy thoái đa dạng sinh học, suy thoái môi trường. Sự gia tăng dân số đòi hỏi tăng nhu cầu trong sinh hoạt và các nhu cầu thiết yếu khác, nhất là tài nguyên đất cho sản xuất nông nghiệp. Sự gia tăng về mật độ dân đã dẫn đến nạn phá rừng và sự suy thoái nghiêm trọng về các hệ sinh thái và tài nguyên thiên nhiên. Khi chưa có sự xuất hiện của con người, rừng che phủ hầu hết đất đai của các lục địa, trong lịch sử phát triển của loài người vào thời kì đồ đá cũ, con người sống hoàn toàn phụ thuộc vào rừng bằng các hoạt động săn bắt và hái lượm, các hoạt động này không gây thiệt hại gì cho rừng. Đến khi con người bắt đầu biết chăn nuôi và trồng trọt thì con người có những hoạt động tác hại đến rừng, mặc dù các tác động này có phần nào hạn chế sự phát triển của rừng nhưng cũng chưa đáng kể lắm. Tập quán du canh du cư. Du canh du cư là tập quán sản xuất nông nghiệp lâu đời của nhiều dân tộc ít người ở Việt Nam mà thường xuất hiện tại các vùng đồi núi và cao nguyên. nơi nhằm ổn định sản xuất và đời sống trong một phạm vi lãnh thổ cố định. Vào mùa khô và thường là cuối mùa đông( miền Bắc Việt Nam), người dân thường vào sâu trong rừng tìm một khoảnh đất rừng phù hợp, đốt cháy mảnh diện tích đủ rộng theo ý muốn( thường là không thể điều khiển theo mục đích người đốt vì lửa rừng bị tác động của gió và độ ẩm, nhiệt độ tại khoảnh rừng). Và đến đầu mùa mưa, người ta đi tra hạt( chủ yếu là ngô), hoặc ươm sắn, lợi dụng lượng nước ẩm do mưa, hạt giống sẽ nảy mầm, cây sinh trưởng rất tốt do đất dưới tán rừng có hàm lượng dinh dưỡng rất cao và cũng nhờ than tro của việc đốt rừng tiến hành. Nhưng người dân canh tác ở đây lại ít có tác động tới cây trồng mà chủ yếu là thoái mặc chúng cho tự nhiên và tới mùa thì thu hoạch. 4. Tác động biến đổi khí hậu. Biến đổi khí hậu toàn cầu là một trong những thách thức lớn nhất đối với nhân loại trong thế kỷ 21 và hiện đang đe dọa toàn bộ các hệ sinh thái trên trái đất. Rừng ngập mặn (RNM) là một trong những hệ sinh thái bị đe dọa nghiêm trọng nhất bởi tính nhạy cảm của chúng đối với mực nước biển dâng. Tuy vậy không phải tất cả RNM đều có khả năng chống chịu như nhau đối với biến đổi khí hậu. Do đó, các nhà quản lý cần phải nắm được kiến thức về những hệ sinh thái RNM có khả năng chống chịu tốt với những biến đổi này, từ đó khoanh vùng bảo vệ để biến những khu RNM đó thành nguồn giống cho các quần thể RNM trong tương lai. Những ý dưới đây nhằm chỉ ra những tác động của biến đổi khí hậu đối với RNM, -Biến đổi khí hậu đe dọa RNM như thế nào? Biến đổi khí hậu toàn cầu, đặc biệt là những biến đổi về nhiệt độ, nồng độ CO2, trầm tích, cường độ bão và mực nước biển sẽ đe dọa khả năng sống sót của RNM. Trong những nhân tố kể trên, mực nước biển dâng được cho là nguy cơ lớn nhất. Cũng cần phải lưu ý rằng những nhân tố này sẽ tác động cộng gộp với nhau, gây ra những hậu quả lớn hơn nhiều so với từng tác động riêng lẻ. Ảnh hưởng của biến đổi nhiệt độ Chủ yếu do hoạt động của con người, kể từ năm 1880, nhiệt độ Trái đất đã tăng 0.6-0.80C, và có khả năng tăng 2-60C cho tới năm 2100. Nhiệt độ khí quyển tăng có thể khiến RNM dịch chuyển lên những vùng vĩ độ cao hơn, và nếu tăng quá cao có thể khiến cây RNM không thể quang hợp được. Trong khi đó nhiệt độ nước biển tăng được cho là không gây ảnh hưởng lớn tới RNM. Ảnh hưởng của biến đổi nồng độ CO2 Từ năm 1880 đến năm 2000, nồng độ khí CO2 trong khí quyển đã tăng từ 280 ppm lên 370 ppm. Nồng độ CO2 tăng sẽ tăng cường quá trình quang hợp và do đó RNM sẽ sinh trưởng nhanh hơn. Mặt khác, kết hợp với nhiệt độ tăng, nồng độ CO2 tăng sẽ làm các rạn san hô suy thoái, và làm một số khu RNM suy thoái theo do không còn được che chắn trước sóng lớn. Ảnh hưởng của biến đổi lượng mưa Lượng mưa được dự đoán là sẽ tăng khoảng 25% cho đến năm 2050 do hiện tượng ấm lên toàn cầu. Tuy nhiên, sự phân bố lượng mưa sẽ không đều. Ở quy mô khu vực thì lượng mưa có thể tăng hoặc giảm, gây ra ảnh hưởng khác nhau đến RNM. Lượng mưa tăng có thể khiến RNM sinh trưởng nhanh, mở rộng, và tăng mức độ đa dạng và ngược lại. Ảnh hưởng của cường độ và tần suất bão tăng Theo một số nghiên cứu gần đây, có khả năng cường độ và tần suất xuất hiện các cơn bão sẽ tăng mà nguyên nhân chính là biến đổi khí hậu. Các cơn bão mạnh sẽ gây tác hại nghiêm trọng cho RNM, tương tự như trường hợp các cơn bão mạnh đã khiến 10 khu RNM ở vùng Ca-ri-bê chết hàng loạt trong 50 năm qua (Jimenez và cộng sự, 1985; Armentano và cộng sự, 1995). Các cơn bão cũng làm thay đổi thành phần loài của RNM vì khả năng tái sinh của từng loài trong RNM là rất khác nhau. Các trận lụt làm giảm khả năng tiếp cận với ô-xy của rễ cây RNM, thay đổi độ mặn và thành phần trầm tích, làm giảm quang hợp và nếu kéo dài thì sẽ phá hủy hệ sinh thái RNM. Ảnh hưởng của mực nước biển dâng Theo dự đoán, trong thế kỷ 21, mực nước biển sẽ tăng trung bình từ 0.09-0.88m. Đây sẽ là tác động lớn nhất của biến đổi khí hậu gây ra cho RNM. Các dữ liệu địa chất cho thấy những lần tăng mực nước biển trước đây có tác động cả xấu lẫn tốt đối với RNM. Nếu mực nước biển tăng đủ chậm, RNM có thể thích ứng bằng cách thay đổi cấu trúc rễ, mọc cao hơn hoặc xa hơn về hướng đất liền, hay tạo nhiều than bùn hơn thông qua quá trình trầm tích. Có một loạt các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến cân bằng sinh thái RNM và do đó có thể làm thay đổi tác động của mực nước biển dâng đến RNM như dạng cơ chất, các quá trình bờ, hoạt động kiến tạo địa phương, lượng nước ngọt và trầm tích, độ mặn của đất và nước ngầm. Vùng triều và lượng trầm tích là hai chỉ thị quan trọng nhất về khả năng thích ứng của RNM đối với mực nước biển dâng. Những khu RNM ở vùng triều lớn nhiều trầm tích (ví dụ ở phía bắc Ốt xtơrây-li-a) có khả năng sống sót cao hơn khi mực nước biển dâng so với những khu RNM sống ở vùng triều nhỏ ít trầm tích (ví dụ ở các đảo vùng Ca-ri-bê). Tại các vùng đá vôi hay các vòng cung đảo và san hô, lượng trầm tích thường thấp, RNM khó có khả năng dịch chuyển về phía bờ nên thường rất dễ bị đe dọa khi mực nước biển dâng. Mặc dù trầm tích là một điều kiện thiết yếu để RNM có thể thích ứng với mực nước biển dâng, nhưng quá nhiều trầm tích, chẳng hạn do canh tác nông nghiệp không đúng cách gây ra, sẽ làm bộ rễ hô hấp của cây ngập mặn bị ngạt. Năm tác dụng của rừng ngập mặn khi mực nước biển dâng cao - Thứ nhất, RNM có tác dụng làm chậm dòng chảy và phát tán rộng nước triều. Nhờ có hệ thống rễ dày đặc trên mặt đất như hệ rễ chống của các loài đước, rễ hình đầu gối của các loài vẹt, rễ thở hình chông của các loài mắm, và bần, cản sóng các tích lũy phù sa cùng mùn bã thực vật tại chỗ cho nên chúng có tác dụng làm chậm dòng chảy và thích nghi với mực nước biển dâng. Nhờ các trụ mầm (cây con) và quả, hạt có khả năng sống dài ngày trong nước cho nên cây ngập mặn có thể phát tán rộng vào đất liền khi nước biển dâng làm ngập các vùng đất đó. - Thứ hai, RNM có tác dụng làm giảm mạnh độ cao của sóng khi triều cường. Nghiên cứu của Y.Mazda và cộng sự ở xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình trong thời gian có triều cường từ ngày 17 đến 21/11/1994 cho kết quả: rừng trang trồng sáu tuổi với chiều rộng 1,5 km đã giảm độ cao của sóng từ 1 m ở ngoài khơi xuống còn 0,05 km khi vào tới bờ đầm cua và bờ đầm không bị xói lở. Còn nơi không có RNM ở gần đó, cùng một khoảng cách như thế thì độ cao của sóng cách bờ đầm 1,5 km là 1 m, khi vào đến bờ vẫn còn 0,75 m và bờ đầm bị xói lở. - Thứ ba, RNM bảo vệ đê biển, có thể lấy thí dụ ở huyện Thái Thụy. Huyện có hai tuyến đê số bảy dài 45,1 km, đê số tám dài 41,5 km bao quanh huyện. Hầu hết các tuyến đê điều được xây dựng từ lâu đời, việc đắp đê chủ yếu bằng lao động thủ công. Các cơn bão số 6 và số 7 năm 2005 đúng vào lúc triều cường, sóng lớn nhưng các tuyến đê ở Thái Thụy không bị xói lở, đó là nhờ các dải RNM trồng từ sau khi đê Xuân Hải bị vỡ (1996). - Thứ tư, RNM hạn chế xâm nhập mặn và bảo vệ nước ngầm. Nhờ có nhiều kênh rạch cùng với hệ rễ cây chằng chịt trên mặt đất làm giảm cường độ của sóng nên hạn chế dòng chảy vào nội địa khi triều cường. Ở TP Hồ Chí Minh, trong thời gian gần đây triều cường đã gây ngập nhiều khu dân cư, trong đó có một nguyên nhân là hầu hết các kênh rạch có những dải cây dừa nước và nhiều loài cây ngập mặn khác như bần, mắm, su, trang... ở các quận Nhà Bè (nhiều nhất là ở Phú Xuân), quận Bình Chánh đã bị chặt phá và lấp đất để xây dựng các khu công nghiệp, khu dân cư cho nên không có chỗ cho nước thoát. Ngược lại, ở các rừng phòng hộ như ở Thạch Phú, Bến Tre và một số nơi khác, nhờ có rừng rậm, khi triều lên, sóng yếu, tiêu nước tốt cho nên nước mặn không vào sâu. - Thứ năm, RNM và đa dạng sinh học. RNM còn là nơi bảo vệ các động vật khi nước triều dâng và sóng lớn. Nhiều loài động vật đáy sống trong hang hoặc trên mặn bùn, khi thời tiết bất lợi, nước triều cao, sóng lớn đã trèo lên cây để tránh sóng như cá lác, các loài còng, cáy, ốc. Khi lặng gió và triều xuống thấp chúng trở lại nơi sống cũ. Do đó mà tính đa dạng sinh học trong hệ sinh thái RNM tương đối ổn định. Nhờ các mùn bã được phân hủy tại chỗ và các chất thải do sông mang đến được phân giải nhanh tạo ra nguồn thức ăn phong phú, thuận lợi cho sự hồi phục và phát triển của động vật sau các thiên tai. - Từ những phân tích nói trên, các cấp có thẩm quyền cần xác định và bảo vệ những khu vực RNM quan trọng, chiếm vị trí chiến lược trong đối phó với biến đổi khí hậu. Những khu RNM có xu hướng tiến về phía bờ cần được đặc biệt chú ý bảo vệ do chúng rất dễ chịu tác động của con người. Kiểm soát những tác động của con người đối với RNM. Bảo vệ và nhân giống những loài hoặc hệ sinh thái RNM tiêu biểu để dự phòng mỗi khi có thảm họa thiên nhiên xảy ra. Những mẫu tốt nhất cần được giữ trong hệ thống khu bảo tồn. Phục hồi những khu vực có RNM đã và đang bị suy thoái, tạo ra nguồn sinh kế ổn định cho cộng đồng địa phương, giảm áp lực lên các khu RNM lân cận. - Thiết lập những vành đai xanh và vùng đệm cho phép RNM có thể dịch chuyển đến khi nước biển dâng, giảm nhẹ tác động do các hoạt động sử dụng đất liền kề gây ra. Nghiên cứu cấu trúc thảm thực vật, mật độ, mức độ phong phú và đa dạng của các loài thực vật và thân mềm vùng RNM, năng suất sơ cấp, cơ chế thủy văn, tốc độ quá trình trầm tích và mực nước biển dâng. Xây dựng quan hệ đối tác với các bên tham gia để tạo một nguồn tài chính hỗ trợ cho việc đối phó với biến đổi khí hậu. 5. Thích nghi biến đổi khí hậu Dưới đây là mười chiến lược các nhà quản lý có thể áp dụng để tăng cường khả năng thích ứng của RNM Để đưa ra các kế hoạch tăng cường khả năng chống chịu của RNM, các nhà quản lý cần xác định và bảo vệ những khu RNM có khả năng thích ứng tốt với mực nước biển dâng. Một khi đã xác định được những khu RNM này, có ít nhất 10 chiến lược có thể áp dụng để giúp RNM tăng khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu bất lợi. Đó là: 1) Áp dụng các chiến lược dàn trải rủi ro để bảo vệ những hệ sinh thái RNM tiêu biểu Nhà quản lý cần xác định, bảo vệ và nhân giống những loài hoặc hệ sinh thái tiêu biểu để dự phòng mỗi khi có thảm họa thiên nhiên xảy ra. Những mẫu tốt nhất cần được giữ trong hệ thống khu bảo tồn, và được phân loại theo mức độ đa dạng hoặc chức năng sinh thái. 2) Xác định và bảo vệ những khu vực quan trọng, chiếm vị trí chiến lược trong đối phó với biến đổi khí hậu Nhà quản lý cần bảo vệ những hệ sinh thái RNM đã chứng tỏ khả năng thích ứng cao với biến đổi khí hậu, ví dụ như những khu RNM giàu trầm tích, nguồn nước ngọt dồi dào, có nhiều cây trưởng thành để cung cấp nguồn giống tốt... Những khu RNM như vậy cần được đưa vào hệ thống khu bảo tồn hoặc khu vực áp dụng phương pháp quản lý tổng hợp đới bờ. Những khu RNM có xu hướng tiến về phía bờ cần được đặc biệt chú ý bảo vệ do chúng rất dễ chịu tác động của con người. 3) Kiểm soát những tác động của con người đối với RNM. Có tới hơn một nửa RNM trên thế giới chỉ cách khu đô thị (trên 100.000 dân) dưới 25 km, và do đó bị đe dọa rất lớn bởi các hoạt động của con người. Các hoạt động của con người đe dọa RNM được dự đoán là sẽ tăng khi mực nước biển dâng, do con người có thể xây để biển hoặc tường chắn sóng để tránh xói lở đất. Những công trình này sẽ cản trở RNM tiến về phái bờ khi mực nước biển dâng. Đồng thời dân số vùng bờ tăng cũng làm cho con người phá hủy RNM nhiều hơn để lấy đất sản xuất hoặc cư ngụ, hoặc để lấy gỗ chống sạt lở. Nhà quản lý phải xác định những và giải quyết vấn đề này, và phải lên kế hoạch trong đó tính tới việc những tác động xấu sẽ tăng lên cùng với những tác động của biến đổi khí hậu. 4) Thiết lập những vành đai xanh và vùng đệm cho phép RNM có thể dịch chuyển đến khi nước biển dâng, giảm nhẹ tác động do các hoạt động sử dụng đất liền kề gây ra Vành đai xanh phải dày ít nhất 100m (nên dày khoảng 500m – 1km) đối với bờ biển mở, 30-50 m đối với vùng bờ sông, và >10m đối với các đảo, kênh dẫn nước...Theo nghiên cứu tiến hành tại châu thổ sông Hồng, sau mỗi 5 năm thì hệ thống đê biển bằng đá lại phải được tu sửa một lần do bị sóng đánh hỏng, trong khi hệ thống đê tương tự được che chắn bởi 100m RNM tự nhiên sẽ tồn tại đến 50 năm. Những vùng đệm cũng cần được thiết lập xung quanh các RNM để giảm tác động trực tiếp của con người vào vùng bảo vệ, trong đó vùng đệm về phía đất liền rất quan trọng để RNM có thể dịch chuyển tới khi mực nước biển dâng. 5) Phục hồi những khu vực có khả năng thích ứng tốt với biến đổi khí hậu nhưng đã và đang bị suy thoái. Phục hồi những vùng bị suy thoái sẽ giúp tạo ra nguồn sinh kế ổn định cho cộng đồng địa phương, giảm áp lực lên các khu RNM lân cận. Hơn nữa, việc trồng nhiều loại cây để phục hồi RNM còn giúp tăng khả năng thích ứng của RNM và đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn so với các khu RNM kém đa dạng về loài. 6) Nắm được và bảo tồn mối liên kết giữa RNM và những nguồn nước ngọt và trầm tích, giữa RNM và những hệ sinh thái liên quan như rạn san hô và cỏ biển Cần duy trì nguồn nước ngọt ở các khu vực cao hơn để cung cấp nước ngọt và trầm tích cho RNM. Những khu RNM nối với các dòng chảy tới những khu vực có khả năng chống đỡ với mực nước biển dâng cần được chú ý bảo vệ. Nếu được bảo vệ tốt, RNM sẽ giúp ổn định trầm tích, giữ chất dinh dưỡng, tăng cường chất lượng nước cho các rạn san hô, cỏ biển và các quần thể cá. 7) Thiết lập cơ sở dữ liệu nền và quan trắc các phản ứng của RNM đối với biến đổi khí hậu Dữ liệu nền về RNM là rất cần thiết và phải bao gồm các yếu tố như cấu trúc thảm thực vật, mật độ, mức độ phong phú và đa dạng của các loài thực vật và thân mềm, năng suất sơ cấp, cơ chế thủy văn, tốc độ quá trình trầm tích và mực nước biển dâng tương đối. Cần liệt kê những mối đe dọa của con người hay các biện pháp quản lý hiện tại. Những thông tin này sẽ được dùng để đánh giá mức độ nhạy cảm của RNM đối với biến đổi khí hậu. RNM cũng cần được quan trắc để đánh giá mức độ phản ứng trước các tác động tự nhiên và nhân tạo. Các thay đổi về hóa học (CO2 và độ muối), thủy văn (mực nước biển, dòng chảy, dòng triều, sóng) và nhiệt độ cần được quan trắc theo thời gian đủ dài để xác định những xu hướng biến đổi khí hậu. 8) Thực hiện các chiến lược thích ứng để đối phó với những biến đổi về thành phần loài và điều kiện môi trường. Cần có kế hoạch lâu dài để bảo vệ một cách bền vừng RNM trước các biến đổi toàn cầu, trong đó có phải dự báo những địa điểm mà các hệ sinh thái RNM tương lai có thể phát triển, quy hoạch bảo vệ những địa điểm này, đồng thời dự báo sự thay đổi về thành phần loài trong những hệ sinh thái đó. 9) Phát triển các nguồn sinh kế thay thế cho các cộng đồng vốn sống dựa vào RNM nhằm giảm thiểu phá RNM. Nên khuyến khích cộng đồng địa phương chuyển sang các sinh kế ít gây hại cho RNM hơn, đồng thời bảo vệ các loài thủy sản quan trọng như cá hoặc tôm. Các sinh kế đó có thể là làm than củi từ vỏ dừa hay thu mật ong từ RNM. Ở Việt Nam, trồng cỏ biển đã trở thành một nguồn thu nhập thay thế quan trọng thay cho việc phá RNM. Nhờ có những sinh kế thay thế, cộng đồng cũng trở nên linh hoạt hơn khi thích ứng với những thay đổi về kinh tế, chính trị và xã hội. 10) Xây dựng quan hệ đối tác với các bên tham gia để tạo một nguồn tài chính hỗ trợ cho việc đối phó với biến đổi khí hậu. Đối phó với biến đổi khí hậu luôn đòi hỏi sự hợp tác và những giải pháp sáng tạo. Việc cần thiết là huy động các nguồn hỗ trợ cấp địa phương, khu vực và toàn cầu. Xây dựng quan hệ đối tác giữa các ngành (nông nghiệp, du lịch, quản lý tài nguyên nước….) kết hợp với bảo tồn và phát triển cơ sở hạ tầng sẽ giúp giảm bớt gánh nặng tài chính để đối phó với mối đe dọa lớn này. KẾT LUẬN Biến đổi khí hậu là mối đe doạ thực sự đối với sự phát triển kinh tế - xã hội đang tiếp tục diễn ra. Lượng mưa ngày càng thất thường và luôn biến đổi, nhiệt độ cao hơn, tình hình thời tiết ngày càng khốc liệt hơn, như bão, hạn hán và lượng mưa lớn gây ngập lụt và mực nước biển dâng cao, tất cả chắc chắn sẽ có những tác động đáng kể đến rừng ngập mặn. Mối đe doạ về biến đổi khí hậu bắt đầu được ghi nhận, nhưng thông tin và nhận thức vẫn còn ở mức thấp. Mặc dù Việt Nam có nhiều chính sách và chiến lược phát triển liên quan, nhưng Việt Nam chưa có các chiến lược toàn diện thích ứng với biến đổi khí hậu quốc gia và địa phương. Xây dựng năng lực quốc gia và địa phương là rất cấp thiết để đảm bảo các biện pháp đối phó về chính sách là thích đáng và hữu hiệu. Cần phải có điều phối rất tốt giữa các Bộ ngành và tăng cường hợp tác với các cơ quan quốc tế và các tổ chức NGO quốc tế để có thể giải quyết biến đổi khí hậu một cách có lồng ghép với các nỗ lực lâu dài để giảm thiểu thiệt hại cho RNM. REFERENCES LÊ HUY BÁ – Môi trường học cơ bản – NVB Đại học Quốc Gia TP.HCM www.thiennhien.net

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docẢnh hưởng biến đổi khí hậu rừng ngập mặn.doc