Ảnh hưởng của chính sách thương mại tới việc xuất khẩu một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của Việt Nam

MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƯƠNG I 3 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI VÀ MẶT HÀNG XUẤT KHẨU CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM 3 I. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG, VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI 3 1. Khái niệm chính sách thương mại 3 2.Nội dung của chính sách thương mại ở nước ta. 4 3. Vai trò của chính sách thương mại đối với nền kinh tế quốc dân nói chung và đối với hoạt động xuất khẩu nói riêng. 5 II. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MẶT HÀNG XUẤT KHẨU 8 CHỦ LỰC 8 1. Khái niệm 8 2. Quá trình hình thành và đặc điểm 9 3. Ý nghĩa của việc xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực. 10 4. Một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ lực của Việt Nam những năm gần đây 11 4.1 Dệt may. 11 4.2 Da giày. 14 4.3. Sản phẩm gỗ. 17 4.4 Sản phẩm nhựa. 20 4.5 Dây và cáp điện. 21 CHƯƠNG II 23 THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI TỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU MỘT SỐ MẶT HÀNG CÔNG NGHIỆP CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM. 23 I. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU SẢN PHẨM CÔNG NGHIỆP CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1996 – 2008. 23 II. TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI 27 TỚI VIỆC XUẤT KHẨU SẢN PHẨM CÔNG NGHIỆP CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM 27 1. Tác động của một số chính sách thương mại 27 1.1 Tác động của chính sách cơ cấu mặt hàng. 27 1.1.1 Nội dung của chính sách cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. 27 1.1.2 Tác động của chính sách cơ cấu mặt hàng tới hoạt động xuất khẩu một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của Việt nam trong thời gian qua. 29 1.1.3 Đánh giá kết quả đạt được. 33 1.2 Tác động của chính sách thị trường. 36 1.2.1 Chính sách và phương hướng phát triển thị trường xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chủ lực. 37 1.2.1 Tác động của chính sách thị trường đối với việc xuất khẩu một số mặt hàng công nghiệp chủ lực của Việt Nam 43 1.3 Hội nhập kinh tế quốc tế. 52 2. Đánh giá chung. 54 2.1 Kết quả đạt được. 54 2.2 Bất cập về chính sách. 60 CHƯƠNG III 64 MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ THẾ GIỚI 64 I. ĐỊNH HƯỚNG CHUNG CỦA NƯỚC TA VỀ ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU MỘT SỐ SĂN PHẨM CÔNG NGHIỆP CHỦ LỰC 64 II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI VIỆT NAM . 67 1. Xây dựng cơ chế điều hành xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp chủ lực 67 2. Đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực thương mại 67 3. Loại bỏ những quy định không phụ hợp với bối cảnh mới 68 4. Vận dụng linh hoạt các định chế của WTO trong phát triển xuất khẩu 68 5. Ưu tiên nguồn lực nhằm phát triển xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chủ lực những năm tiếp theo. 69 KẾT LUẬN 70 TÀI LIỆU THAM KHẢO 71

doc80 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2796 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Ảnh hưởng của chính sách thương mại tới việc xuất khẩu một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản cho các doanh Việt Nam và các thông tin về thị trường Việt Nam cho cácdoanh nghiệp Nhật Bản. Hạ giá thành nâng cao chất lượng sản phẩm, bám sát các khách hàng cũ, phát triển các khách hàng mới. Hiện nay, một số mặt hàng công nghiệp chủ lực của Việt Nam như hàng dệt may, đồ gỗ, dây cáp điện đang được khách hàng Nhật Bản ưa chuộng. Cần phải phát huy xuất khẩu các mặt hàng này. Khu vực EU: Ngày 1/05/2004 Liên minh Châu Âu (EU) bắt đầu mở rộng bao gồm 25 nước thành viên với dân số trên 450 triệu dân, GDP khoảng 11.777 tỷ USD (khoảng 9.700 tỷ Euro), chiếm khoảng 28,7% GDP và 19,8% lượng thương mại thế giới. EU coi trọng vai trò và vị trí của Việt Nam trong khu vực Đông Nam á, trong quan hệ hợp tấc á -Âu tại các diễn đàn quốc tế và Việt Nam là một đối tác có tiền năng về kinh tế, thương mại, đầu tư… trong tương lai. Khi buôn bán với khu vực này cần chú ý 5 đặc tiểm chính sau: Thứ nhất, EU là thị trường rộng lớn, có sức mua lớn và đây là thị trường tự do lưu thông hàng hoá nhất thế giới. Thứ hai, người dân Châu Âu ưu chuộng hàng hoá có nhãn hiệu nổi tiếng. Do vậy giá cả không phải là giải pháp cạnh tranh tối ưu. Thứ ba, thị trưòng EU là thị trường khó tính coi trọng mẫu mã và thời trang. Người tiêu dùng luôn tỏ ra thận trọng và bảo thủ. Thứ tư, hàng hoá đưa vào thị trường EU theo hai kênh: tập đoàn và không tập đoàn. Thứ năm, thị trường EU luôn bảo vệ người tiêu dùng, họ xây dựng các tiêu chuẩn quốc gia và khu vực để buộc các nước xuất khẩu phải thực hiện. Thị trường EU đưa ra các yêu cầu khá khắt khe đối với hàng nhập khẩu. Mặc dù thuế quan thấp nhưng là thị trường bảo hộ chặt chẽ bởi rào cản kỹ thuật rất nghiêm ngặt như tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường, tiêu chuẩn về lao động và trách nhiệm xã hội (không sử dụng lao động cưỡng bức, lao động trẻ em …). Chẳng hạn, hiện nay EU đã khởi xướng Hiệp định “Tăng cường thực thi Luật lâm nghiệp, quản trị rừng và buôn bán gỗ” (FLEGT). Theo Hiệp định này, tất cả các chuyến hàng xuất khẩu vào thị trường này sẽ được cơ quan thẩm quyền cấp phép sau khi kiểm tra tính hợp pháp của các lô hàng thông qua các bằng chứng gốc. Cơ quan cấp phép cũng sẽ kiểm tra từng doanh nghiệp cụ thể xem hệ thống kiểm soát các chứng từ gốc của doanh nghiệp có đảm bảo tính hợp pháp hay không. Tất cả những hành động này nhằm chống lại việc khai thác gỗ lậu, huỷ hoại môi trường sinh thái. Việt Nam khi xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chủ lực sang khối EU có những thuận lợi và khó khăn nhất định. Về thuận lợi, EU là một trong những thị trường tiêu thụ lớn trên thế giới, có nhu cầu rất đa dạng và phong phú về hàng hoá, nhu cầu nhập khẩu hàng năm của EU về những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là rất lớn và chính sách thương mại của EU đối với Việt Nam đang dần hoàn thiện. Việt Nam và EU đã dành cho nhau chế độ đãi ngộ tối huệ quốc (MFN) và EU cam kết dành cho hàng hoá xuất xứ từ Việt Nam chế độ ưu đãi phổ cập (GSP), EU cũng đã bãi bỏ quy định chế độ hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam. Bên cạnh những thuận lợi cũng có những khó khăn. Quy mô thị trường rộng lớn, khó mà đáp ứng được hết. Đặc biệt, từ đầu năm 2009, hàng giày dép Việt Nam xuất khẩu vào thị trường này không còn được hưởng chế độ đãi ngộ GSP. Hàng dệt may Việt Nam và các nước khác sẽ phải cạnh tranh gay gắt nhất là với hàng Trung Quốc do EU đã bãi bỏ hạn ngạch vơi nước này, hơn nữa, Trung Quốc có năng lực cạnh tranh lớn, chủ động được nguồn nguyên liệu và có khả năng đáp ứng nhiều loại phẩm cấp hàng hoá. Tóm lại EU là một thị trường khó tính, khó thâm nhập. Để thúc đẩy hơn nữa việc xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp chủ lực của ta sang thị trường này, chúng ta cần phải năng động hơn, đa dạng mặt hàng, tăng chất lượng, tìm hiểu luật lệ của EU, nắm bắt cơ hội tốt, cập nhật thông tin về thị trường và bạn hàng. Ngoài ra, phải tranh thủ sự giúp đỡ, hỗ trợ của các cơ quan xúc tiến thương mại của ta ở thị trường này để mở rộng hơn nữa thị phần hàng hoá nói chung và hàng công nghiệp chủ lực Việt Nam nói riêng. Hoa Kỳ: Từ khi Việt Nam và Hoa Kỳ thiết lập quan hệ ngoại giao đến nay (12/7/1995), buôn bán giữa hai nước đã có những bước nhảy vọt, đặc biệt là xuất khẩu hàng hoá từ Việt Nam sang Hoa Kỳ. Nếu năm 1995, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam mới đạt 130 triệu USD thì đến năm 2000, năm Hiệp định Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA) được ký kết, đã tăng lên 733 triệu USD; tiếp đến năm 2001, năm BTA có hiệu lực (10/12/2001), tăng lên 1.065 triệu USD và đến năm 2003 đạt gần 4.555 triệu USD. Việt Nam trở thành bạn hàng thương mại lớn thứ 40 của Hoa Kỳ (tính riêng xuất khẩu, Việt Nam là nước xuất khẩu thứ 35 và Hoa Kỳ). Hoa Kỳ trở thành thị trường lớn nhất cho hàng xuất khẩu của Việt Nam. Chủng loại hàng công nghiệp xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ chủ yếu là may mặc, giày dép, ngoài ra còn có sản phẩm nhựa, sản phẩm gỗ… Thách thức doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt tại thị trường Hoa Kỳ. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đang vấp phải hàng rào bảo hộ (dệt may bị hạn chế bởi hạn ngạch, sản phẩm gỗ gặp phải đạo luật Lacey-đạo luật nhằm thắt chặt hơn việc kiểm soát nguồn gốc sản phẩm gỗ. Căn cứ đạo luật này, hành động lấy gỗ, khai thác, sở hữu, vận chuyển, bán hoặc xuất khẩu không tuân thủ quy định của luật pháp ở bất cứ quốc gia nào cùng được xem là vi phạm tại Mỹ). Năng lực cung và khả năng tiếp thị xuất khẩu của Việt Nam còn yếu, đặt biệt do quy mô sản xuất nhỏ, nên khó đáp ứng các đơn đặt hàng lớn của Hoa kỳ. Việt Nam mới chỉ thực sự thâm nhập thị trường Hoa Kỳ năm 2002 sau khi BTA có hiệu lực, trong khi đó các nước khác đã có hệ thống bạn hàng nhập khẩu và phân phối tài thị trường này từ lâu. Nhiều mặt hàng của Việt Nam nhập khẩu vào Hoa Kỳ phải chịu mức thuế nhập khẩu cao hơn so với nhập khẩu từ các nước được hưởng GSP, ưu đãi thương mại của Hoa Kỹ hoặc có hiệp định thương mại tự do Hoa Kỳ. Các phí vận chuyển hàng từ Việt Nam sang Hoa Kỳ thường cao và lâu hơn so với từ các nước khác. Hệ thống pháp luật thương mại và hàng rào kỹ thuật của Hoa Kỳ rất phức tạp. Chúng ta cần phải có nhiều cố gắng mới có thể thâm nhập được thị trường này. 1.2.1 Tác động của chính sách thị trường đối với việc xuất khẩu một số mặt hàng công nghiệp chủ lực của Việt Nam Cùng với sự tăng trưởng nhanh kim ngạch xuất khẩu, sự chuyển biến tích cực cơ cấu hàng xuất khẩu, thị trường xuất khẩu của Việt nam những năm gần đây đã có sự phát triển mở rộng, cơ cấu các khu vực thị trường và nước “bạn hàng” đã có những thay đổi lớn, hiện nay thị trường xuất khẩu sản phẩm công nghiệp chủ lực chủ yếu của Việt Nam là EU, Mỹ, Nhật, ASEAN. Nếu năm 1994 thị trường Châu á chiếm tới 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt nam thì năm 1997 giảm xuống còn 75,8 %, năm 2001 chỉ còn chiếm 61,3% (trong đó khu vực ASEAN chiếm 24,3%) và năm 2007 chỉ là 43,2%. Thị trường xuất khẩu Việt nam phát triển theo hướng mở rộng sang Châu âu, đặc biệt là Tây Bắc Âu, thị trường Liên Bang Nga và các nước Đông Âu có dấu hiệu phục hồi. Nếu năm 1994 thị trường Châu Âu mới chỉ chiếm tỷ trọng 9,79% trong tổng kim nghạch xuất khẩu của Việt nam thì đến năm 1997 đã tăng lên gấp 2 đạt 17,16 % và năm 2000 tiếp tục tăng lên 21,5%. Năm 2001 là 27,7% ( trong đó EU là 22,5% ). Châu Mỹ và đặc biệt là Hoa Kỳ là một hướng mới trong phát triển mở rộng thị trường xuất khẩu của Việt nam. Nếu năm 1994 Châu Mỹ mới chỉ chiếm tỷ trọng 0,16% trong tổng kim ngạch của Việt nam thì năm 1997 đã tăng lên 2,76% năm 2000 chiếm tới 4,48%, và năm 2006 chiếm 21.5%. Thị trướng xuất khẩu của Việt Nam cũng đang được mở rộng đáng kể sang Châu Phi và Trung Đông. Năm 1995 xuất khẩu từ Việt Nam sang thị trường châu Phi mới chỉ đạt 38 triệu USD nhưng đến năm 2005 đã tăng lên 681 triệu USD. Đồ thị: Kim ngạch xuất khẩu phân theo thị trường thời kỳ 1986-2005 Đặc điểm và xu hướng chuyển dịch cơ cấu khu vực thị trường xuất khẩu của Việt nam từ năm 1994 đến nay cho thấy: một mặt quan hệ buôn bán và phạm vi không gian thị trường xuất khẩu không ngừng mở rộng đồng thời Việt nam không chỉ phát triển thị trường gần mà đã vươn nhanh đến các thị trường xa ( Tây Bắc Mỹ, Bắc Mỹ, Châu Đại Dương ). Việt nam đã chuyển dần cơ cấu từ các nước Châu á - Thái Bình Dương là chủ yếu sang các khu vực thị trường khác phù hợp với chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá kinh tế đối ngoại. Trong đó đáng chú ý là đã củng cố và mở rộng thị trường Liên minh Châu Âu (EU) bắt đầu đi vào thi trường Bắc Mỹ, Trung Cận Đông và Châu Phi. Mặc khác Việt nam không chỉ phát triển mà còn mở rộng thị trường xuất khẩu tới toàn bộ các nước công nghiệp phát triển , các thị trường được coi là khó tính, khó len chân và có mật độ cạnh tranh cao. ASEAN được đánh giá là thị trường tiềm năng cho các doanh nghiệp ngành công nghiệp Việt Nam. Hàng dệt may và giày dép do trùng hợp về cơ cấu sản xuất nêm ta khó có khả năng thâm nhập mạnh mặt hàng này vào ASEAN. Tuy nhiên, năm 2007 nước ta đã xuất khẩu được khoảng 175 triệu USD vào khu vực này. Trong năm 2008 và các năm tiếp theo, tận dụng những ưu đãi thuế để tăng cường xuất khẩu dệt may, giầy dép sang các nước ASEAN. Dự báo kim ngạch xuất khẩu năm 2008 đạt khoảng 202 triệu USD, tăng 15% so với năm 2007. Hàng điện tử và linh kiện: Đây là mặt hàng chủ yếu do các công ty liên doanh tại Việt Nam xuất khẩu sang Philippines, Malaisia, Indonesia. Kim ngạch xuất khẩu năm 2008 dự đoán đạt 950 triệu USD, tăng 40% so với năm 2007. Thị trường Singapore mặc dù chỉ chiếm 10,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang châu A, nhưng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tới Singapore đang có chiều hướng tăng rất mạnh (kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam tới Singapore năm 2007 tăng 37,5% so với năm 2006, đạt 2,2 tỷ USD). Đặc biệt các mặt hàng chúng ta xuất khẩu sang nước này chủ yếu là các mặt hàng công nghiệp chủ lực của ta như dệt may, da giày, đồ gỗ, dây cáp điện. Thị trường Malaysia cũng thuận lợi không kém đối với các mặt hàng công nghiệp chủ lực của Việt Nam. Xuất khẩu các mặt hàng đồ gỗ liên tục tăng trong những năm gần đây và hiện đứng thứ 6 trong các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của ta sang thị trường này. Một số mặt hàng công nghiệp khác như giày dép, dệt may, nhựa, giấy, hoá chất… vẫn tăng mạnh. Dự báo, kim ngạch các mặt hàng này sẽ đạt từ 15-20% trong vài năm tới. Nhật Bản: Các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản có kim ngạch lớn gồm hàng dệt may, dây cáp điện, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa. Nhật Bản là một trong những nước có kim ngạch nhập khẩu dây cáp điện hàng năm tương đối cao, chiếm tới 4,56% thì phần nhập khẩu dây cáp điện của thế giới vào năm 2005. Nhu cầu nhập khẩu dây, cáp điện của Nhật Bản ổn định và có xu hướng tăng cao qua các năm. Dây và cáp điện đang nổi lên là mặt hàng xuất khẩu đầy tiềm năng của Việt Nam. Mặt hàng dây và cáp điện có khả năng gia tăng xuất khẩu rất lớn do xu hướng đầu tư của doanh nghiệp trong nước và nước ngoài vào sản xuất mặt hàng này khá mạnh mẽ. Nắm bắt được những điều kiện thuận lợi này, Việt Nam đang cố gắng phát triển ngành dây cáp điện và thị trường số một nhập khẩu dây cáp điện Việt Nam là Nhật Bản (hơn 90% dây cáp điện Việt Nam được xuất sang Nhật). Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này tăng khá nhanh trong thời gian qua. Nếu năm 2001 kim ngạch xuất khẩu dây và cáp điện của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản chỉ đạt145 triệu USD, chiếm 6,4% tổng kim ngạch xuất khẩu vào Nhật bản thì chỉ 4 năm sau đã tăng gấp trên 3 lần, đạt 472,7 triệu USD năm 2005, chiếm 10,5% tổng kim ngạch xuất khẩu vào Nhật Bản (trong khi tổng kim ngạch xuất khẩu dây cáp điện năm 2005 đạt 523 triệu USD) và năm 2006 đạt 588,0 triệu USD. Thị trường Nhật Bản cũng đã và đang nhập khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam với số lượng ngày càng lớn, tăng từ 137,9 triệu USD năm 2003 lên 286,6 triệu USD năm 2006. Kim ngạch xuất khẩu nhựa của ta sang thị trường này trong cả năm 2008 đạt 192,8 triệu USD, tăng 54,1% so với cùng kỳ năm 2007 và chiếm 21% tổng kim ngạch. Dự báo, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm nhựa của Việt Nam sang Nhật Bản trong năm 2009 đạt khoảng gần 200 triệu USD, tăng 54% so với năm 2007. Tuy nhiên xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này cũng gặp không ít khó khăn. Trong năm 2008, thuế xuất của hàng dệt may Việt Nam vào đây vẫn phải chịu 10% trong khi 6 nước ASEAN khác (Singapore, Malaysia, Philippinm Indonesia, Brunei và Thái Lan) đã được hạ xuống 0% do đáp ứng được tiêu chí xuất xứ “hai công đoạn”. Trong thời gian tới Việt Nam chưa được hưởng ưu đãi này vì nguồn nguyên liệu của ta trên 80% là hàng nhập khẩu ngoài Nhật và ASEAN. Khi đó, chúng ta phải chấp nhận cuộc cạnh tranh, đưa ra giải pháp thích hợp mới thắng thế được. EU: Hiện nay, EU vẫn là thị trường lớn nhất tiêu thụ giày dép của Việt Nam, mặc dù thuế chống bán phá giá 10% áp dụng với giày mũ da sản xuất tại Việt Nam từ ngày 6 tháng 10 năm 2006. Hết năm2007, kim ngạch xuất khẩu giày dép của ta sang EU đạt 2,6 tỷ USD, tăng 33,9% so với năm 2006 và chiếm 54% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng giày dép của Việt Nam. Từ đầu năm 2009, da giày của Việt Nam không còn được hưởng ưu đãi thuế quan của EU, nhưng mặt hàng này vẫn có nhiều khả năng để gia tăng kim ngạch xuất khẩu thông qua việc mở rộng sản xuất, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và tăng cường hàm lượng giá trị gia tăng của sản phẩm xuất khẩu bằng cách tập trung vào khâu thiết kế kiểu dáng tạo mẫu sản phẩm… Thị trường EU vẫn sẽ là thị trường trọng tâm trong năm này. Sản phẩm gỗ Việt Nam cũng đã có một vị trí nhất định tại khu vực này. Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ vào thị trường EU tăng từ 160 triệu USD năm 2003 lên 500 triệu USD năm 2006. Tuy nhiên kể từ năm 2009 ngành chế biến gỗ Việt Nam cũng sẽ đối mặt với khó khăn do Hiệp định “Tăng cường thực thi Luật lâm nghiệp, quản trị rừng và buôn bán gỗ” (FLEGT). Trong năm 2008, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm nhựa của nước ta sang khối EU đạt 241,3 triệu USD, tăng 31,6% so với cùng kỳ năm 2007 và chiếm 26,4% tỷ trọng. Đây là mức tăng trưởng kim ngạch cao hơn so tốc độ tăng trưởng của toàn ngành. Trong đó, xuất khẩu nhựa sang Hà Lan đạt trên 5,2 triệu USD, tăng 154% so cùng kỳ năm 2007, sang Anh đạt 3,46 triệu USD, tăng 48,1%... Hoa Kỳ: Chủng loại hàng công nghiệp xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang Hoa Kỳ chủ yếu là hàng may mặc, giày dép… Hiện nay Mỹ vẫn là bạn hàng lớn nhất của hàng dệt may Việt Nam, thị trường Mỹ chiếm khoảng 55% tổng kim ngạch xuất khẩu và có tốc độ tăng trưởng đều hàng năm. Việt Nam cũng đang đứng thứ 3 trên thế giới và thứ nhất trong các nước ASEAN về xuất khẩu hàng dệt may vào Hoa Kỳ. Năm 2007, tổng khối lượng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ ước đạt khoảng 2,5 tỷ USD. Tuy nhiên xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ cũng gặp không ít khó khăn. Đặc biệt, khi Bộ thương mại Hoa Kỳ đặt ra chương trình giám sát hàng dệt may xuất xứ từ Việt Nam, khởi động điều tra chống bán phá giá hàng dệt may Việt Nam đã tạo ra lo ngại thực sự cho các nhà sản xuất. Như vậy, Việt Nam đã bị sai sót như thế nào? Chúng ta cần phải giám sát để biết mình xuất hàng nhiều hay ít, và làm thế nào để khống chế vấn đề giá cả, không suất những lô hàng với giá quá thấp. Tuy nhiên, hiện giờ việc xuất khẩu hàng dệt may từ Việt Nam sang Hoa Kỳ là do các doanh nghiệp xuất, các doanh nghiệp gồm doanh nghiệp tư nhân và đầu tư nước ngoài là chủ yếu, và họ có cái quyền xuất khẩu. Nếu họ úo khách hàng thì họ có quyền xuất khẩu. Chỉ có vấn đề là hiện chính phủ Việt Nam khuyến cáo các doanh nghiệp không nên xuất sang Hoa Kỳ các lô hàng có giá trị thấp để tránh bị Hoa Kỳ hiểu nhầm là bán phá gí. Bởi vì giá cả thì lệ thuộc vào đẳng cấp, thương hiệu, chất lượng… Bây giờ nếu xuất một lô hàng giá thấp thì có thể là do đẳng cấp của nó thấp, có thể là do thương hiệu không có, chứ chưa hẳn đó là bán phá giá. Nhưng dù sao chính phủ Việt Nam cũng muốn rằng các doanh nghiệp hãy tập trung để làm những lô hàng có giá trị cao và thương hiệu tốt. Song le, đấy chỉ là khuyến cáo của chính phủ, còn các doanh nghiệp Việt thực chất vẫn chưa thể cải thiện tình hình ngay được. Đó cũng chính là lý do tại sao Chủ tịch phòng thương mại Mỹ tại Việt Nam, ông Christopher Muesse, đã phải cảnh báo Việt Nam là các nhà nhập khẩu hàng dệt may lớn của Hoa Kỳ có thể sẽ có kế hoạch rút khỏi Việt Nam, nếu phía Việt Nam không có hành động thích hợp trong việc điều hành cơ chế hàng dệt may xuất sang Hoa Kỳ. Mỹ cũng là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của toàn ngành da giày. Năm 2004, Việt Nam đã vượt Italy trở thành nhà cung cấp lớn thứ tư sau Trung Quốc, Brazil, Indonesia. Trong năm 2007, xuất khẩu vào Mỹ đạt 995 triệu USD, tăng 30% so với năm 2006. Hiện nay và trong những năm tới, Mỹ sẽ là thị trường xuất khẩu mục tiêu đối với sản phẩm giày dép của Việt Nam và các sản phẩm xuất khẩu chính sẽ là giày thể thao, giày da nam nữ. Tuy nhiên cũng có rất nhiều thách thức đối với ngành giày dép Việt Nam khi chinh phục thị trường này. Thách thức trước hết phải kể đến là sự cạnh tranh khốc liệt của Trung Quốc, một đất nước có thế mạnh về mặt hàng giày dép. Gần đây Trung Quốc lại có thêm lợi thế với việc gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO). Mặt hàng giày dép xuất khẩu của Trung Quốc có ưu thế hơn giày dép xuất khẩu cảu Việt Nam do trình độ công nghệ của Trung Quốc tiên tiến hơn, mẫu mã của họ đẹp và đa dạng hơn. Xuất khẩu vào thị trường Mỹ tăng mạnh trong những năm gần đây nhưng thị phần cảu Việt Nam cũng mới chỉ chiếm 2,1% về số lượng so với 83,5% của Trung Quốc. Ngoài ra, thị trường Mỹ cũng tiêu thụ không ít sản phẩm nhựa xuất xứ Việt Nam. Tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm nhựa của nước ta sang thị trường này trong năm 2008 đạt 164,16 triệu USD, tăng 20,2% so với năm 2007 và chiếm 17% tỷ trọng. Mỹ cũng là thị trường tiêu thụ mạnhđồ gỗ. Hàng năm, người tiêu dùng Mỹ tiêu thụ khoảng 75 tỷ USD cho đồ gỗ. Theo số liệu của Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ, Việt Nam xếp thứ 5 trong các quốc gia xuất khẩu đồ gỗ vào Mỹ, sau các nước Trung Quốc, Canada, Mehico và Italia. Riêng 5 quốc gia đứng đầu về xuất khẩu gỗ sang Mỹ đã chiếm đến 80% tổng kim ngạch nhập khẩu đồ gỗ của quốc gia này. Đối với đồ gỗ xuất khẩu Việt Nam, Mỹ là thị trường lớn, tốc độ tăng trưởng nhanh, đặc biệt từ sau thời điểm Hiệp định Thương mại Viêt – Mỹ có hiệu lực (ngày 10/12/2001). Nếu như năm 2002, Việt Nam xuất khẩu đồ gỗ sang mỹ chỉ đạt 44,7 triệu USD thì đến năm 2007, con số này đã lên đến 1,1 tỷ USD, tức là tăng 27 lần sau 6 năm. Tuy rằng trong vài năm gần đây, tốc độ tăng trưởng của thị trường này có chậm lại nhưng vẫn đạt tốc độ tăng cao hơn các thị trường quan trọng khác như Nhật và EU. Năm 2007, đồ gỗ đứng thứ 3 trong các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ. Thị trường này hiện nay chiếm gần 50% tổng kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam. Hội nhập kinh tế quốc tế Cho đến nay, Việt Nam đã tham gia, hội nhập vào nhiều tổ chức, diễn đàn kinh tế thương mại khu vực và quốc tế, ký kết nhiều Hiệp định thương mại song phương và đẩy nhanh tiến trình hội nhập hơn nữa. Đến nay hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt ở trên 224/255 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ. Trong số các Hiệp định song phương đã đàm phán và ký kết, việc bình thường hoá quan hệ, lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ tháng 7-1995 và việc ký kết Hiệp định Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ đóng vai trò khá quan trọng trong tiến trình mở cửa thị trường và hội nhập của Việt Nam. Tháng 9/1996 Việt Nam và Hoa Kỳ bắt đầu đàm phán, ngày 13/7/2000 Hiệp định thương mại Việt Nam Hoa Kỳ được ký kết và Hiệp định này chính thức có hiệu lực từ ngày 10/12/2001. Đây là một bản Hiệp định mang tính tổng thế và bao quát nhất từ trước tới nay mà Việt Nam tham gia ký kết, đề cập tới hầu hết các vấn đề về thương mại hàng hoá, những điều khoản về thương mại dịch vụ, đầu tư và sở hữư trí tuệ trên cơ sở các nguyên tắc của WTO. Quyết định số 35/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 12/3/2002 về Chương trình hành động tổng thể và toàn diện được ban hành nhằm đáp ứng những đòi hỏi, yêu cầu về thực thi cam kết của Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ. Như chúng ta đã biết, Hoa Kỳ vẫn luôn là bạn hàng lớn với Việt Nam kể từ đó đến nay, là thị trường nhập khẩu lớn các sản phẩm công nghiệp chủ lực của ta. Khắc phục được tình trạng phân biệt đối xử, tạo dựng được thế và lực trong thương mại quốc tế, hoạt động hợp tác kinh tế quốc tế của Việt Nam đã được triển khai một cách toàn diện trên nhiều lĩnh vực đã tạo thuận lợi cho các mặt hàng công nghiệp chủ lực của ta thâm nhập thị trường mới, mở rộng quan hệ buôn bán, trao đổi, nhận được các ưu đãi thuế quan và phi thuế quan của các nước, chằng hạn việc dành cho nhau chế độ đãi ngộ Tối huệ quốc (MFN) giữa Việt Nam và EU, giữa Việt Nam và Nhật Bản. Điều này đã góp phần để kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ngày càng tăng cao, tăng nhanh. Tính từ năm 1988 đến hết tháng 5/2005, cả nước đã cấp giấy phép đầu tư cho trên 6.400 dự án ĐTNN với tổng số vốn đăng ký kể cả tăng vốn 60,5 tỷ USD, trong đó có 5.412 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký là 48,49 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện đạt trên 226,1 tỷ USD. Cho tới nay, công ty và tập đoàn lớn có tiềm lực kinh tế – công nghệ góp phần làm thay đổi trình độ sản xuất, kinh nghiệp quản lý và đào tạo nghề cho người lao động Việt Nam. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh đã phát huy những lợi thế xuất khẩu mà Việt Nam đạt được trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, tác động mạnh mẽ tới tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam: tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của khu vực này trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước năm 1990 chỉ chiếm có 19,5%, năm 2005 đã lên tới 57%, trong đó nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã chiếm trên 35% giá trị sản xuất công nghiệp. Vị thế của đất nước được nâng cao, nhiều mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ lực đã có chỗ đứng vững chắc trên thị trường thế giới, như dệt may, da giày…. Việc khôi phục quan hệ bình thường với IMF, WB, ADB đã thúc đẩy sự hỗ trợ tài chính thường xuyên nhận của các tổ chức này. Năm 1995, Việt Nam đã gia nhập ASEAN, từ 1/1/1996 chính thức tham gia khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA). Đây được coi là những bước đột phá về hành động, biến chủ trương đường lối đối ngoại của Đảng ta từ trước đến nay thành hành động thực tế. Việc Việt Nam gia nhập ASEAN đã chấm dứt một thời kỳ dài khu vực Đông Nam Á bị chia rẽ thành hai nhóm đối lập nhau, tạo điều kiện để Việt Nam tham gia và nâng cao hình ảnh của mình trong cộng đồng khu vực, mở rộng qua hệ hợp tác kinh tế sang các nước này. Tiếp đó, Việt Nam tham gia sáng lập ASEM năm 1996, được kết nạp vào APEC tháng 11/1998, quan trọng hơn là thành viên chính thức của WTO tháng 1/2007. Quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế nước ta theo hướng tích cực: tăng dần tỷ trọng giá trị công nghiệp, giảm dần tỷ trọng giá trị nông nghiệp trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Cơ cấu kinh tế ngành và vùng đã có sự chuyển biến theo định hướng về lợi thế năng lực cạnh tranh khu vực và quốc tế, hình thành các khu kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp và khu chế xuất tập trung để hạ giá thành sản phẩm và tạo điều kiện áp dụng khoa học – công nghệ hiện đại hơn trong sản xuất và đầu tư. Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng từ 36,7% năm 2000 lên 40,1% năm 2004. Hiện tại cơ cấu dịch vụ và công nghiệp của Việt Nam chiếm gần 80% tổng GDP. Những thay đổi này cho thấy Việt Nam đã và đang xây dựng được một nền kinh tế hướng về xuất khẩu với hàng loạt các ngành hàng có năng lực cạnh tranh và kim ngạch xuất khẩu nhanh chóng như hàng dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ… Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần nâng cao một bước trình độ của lực lượng lao động nước ta, tạo ra tư duy mới trong sản xuất kinh doanh, cạnh tranh quốc tế, đòi hỏi các doanh nghiệp phải vươn lên bằng chính sức mình. Phương châm lấy chất lượng, hiệu quả làm thước đo của doanh nghiệp đã được hình thành, ngày càng củng cố, ăn sâu vào hành động của doanh nghiệp Việt Nam. Sự chuyển mình sang một cơ chế mới nhằm đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thích ứng với xu thế phân công chuyên môn hoá và hiện đại hoá trên quy mô sản xuất lớn đang diễn ra trên toàn cầu và khu vực. Đánh giá chung Kết quả đạt được Trong quá trình đổi mới kinh tế, Đảng, Nhà nước luôn coi nhiệm vụ đẩy mạnh xuất khẩu là nhiệm vụ chiến lược. Đẩy mạnh xuất khẩu góp phần tăng nguồn thu ngoại tệ nhằm đáp ứng nhu cầu nhập khẩu thiết bị, vật tư nguyên liệu phục vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, tạo đầu ra cho các ngành sản xuất trong nước phát triển. Đặc biệt chúng ta đã coi trọng hơn các sản phẩm công nghiệp chế biến chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô. Đổi mới cớ chế chính sách xuất khẩu đã góp phần không nhỏ vào việc thực hiện nhiệm vụ tăng trưởng kinh tế. Chúng ta đã gặt hái được những thành công sau: - XK nói chung đạt nhịp độ tăng trưởng cao do cơ cấu XK được đổi mới, tỷ trọng XK các sản phẩm qua chế biến đã tăng lên đáng kể, giảm dần tỷ trọng XK các sản phẩm sơ chế và thô, tỷ trọng công nghiệp tăng lên nhanh chóng và nông nghiệp giảm mạnh. Năm 2008, nhóm hàng nông lâm thuỷ sản chiếm tỷ trọng 20,6% trong tổng kim ngạch xuất khẩu; nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản chiếm 20%; nhóm hàng chế biến, công nghiệp và thủ công mỹ nghệ chiếm gần 60%. - Là một trong những nước XK hàng dệt may lớn nhất thế giới. Dệt may hiện nay đang chiếm khoảng một phần tư kim ngạch xuất khẩu trong nước. Với thành tích xuất khẩu này, ngành dệt may đã vươn lên là mặt hàng đứng đầu trong danh mục hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và đưa Việt Nam đứng trong danh sách 10 quốc gia và vùng lãnh thổ có kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới. Nếu như năm 1995 xuất khẩu dệt may chỉ đạt 850 triệu USD đến năm 2002 con số đã tăng lên là 2,752 tỷ USD, và năm 2008 xuất khẩu hàng may mặc cuối cùng đã lên đến 9 tỷ USD, tăng 17% so với một năm trước. - Chính phủ Việt Nam đã có nhiều nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, thể hiện bằng việc ban hành những luật mới nhằm minh bạch hoá môi trường đầu tư, kinh doanh, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh và đẩy mạnh hoạt động XNK ( Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp, Luật chứng khoán…), tạo điều kiện mở rộng kinh doanh (Bộ Luật dân sự 2005 và Nghị định số 163/2006/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ Luật dân sự…), tạo ra những cơ chế phân cấp rõ ràng, đẩy nhanh quá trình cải cách hành chính… Những nỗ lực này đã cải thiện được môi trường đầu tư, thúc đẩy lượng vốn đầu tư nước ngoài gia tăng kể cả trên lĩnh vực giải ngân và thu hút vốn. Nhờ đó mà hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian qua rất sôi động. Chúng ta đã thu hút được hàng tỷ đô la vốn đầu tư nước ngoài với hàng nghìn dự án. Bảng 7: Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam những năm gần đây Năm FDI đăng ký (tỷ USD) Tốc độ tăng so với năm trước (%) 2003 2,9 + 6,4 2004 4,2 + 44,8 2005 6,8 + 61,9 2006 10,2 + 50,0 2007 20,3 + 69,3 Nguồn: Tổng hợp của NCEIF Tính đến hết tháng 11/2007, vốn FDI thu hút đạt 15 tỷ USD, tăng 38,4% so với cùng kỳ và vượt kế hoạch đề ra (13 tỷ USD) và lượng vốn FDI thu hút của cả năm 2006 (10,2 tỷ USD). Trong số này có 1.283 dự án cấp mới với 13,4 tỷ USD (tăng 35,2% về số dự án và 67,3% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước) và 314 dự án tăng vốn đạt 1,67 tỷ USD. Công nghiệp vẫn là nhóm ngành dẫn đầu về nguồn vốn đầu tư nước ngoài với trên 7,55 tỷ USD (chiếm 56,4% tổng số vốn FDI). Việt Nam đã trở thành một trong những điểm thu hút vốn hấp dẫn nhất trong khu vực và trên thế giới. Mức độ thân thiện của nền kinh tế Việt Nam đã được cải thiện trong mắt các nhà đầu tư nước ngoài (theo Báo cáo “Môi trường kinh doanh 2008” của WB và IFC, Việt Nam xếp hạng 104/175 quốc gia). Tuy vậy, sự khác biệt về môi trường kinh doanh của Việt Nam so với các nước trong khu vực còn khá lớn (vị trí của các nước cùng khu vực trong bảng xếp hạng này là Xingapo: thứ 1, Thái Lan: thứ 15, Malaixia: thứ 24). Đóng góp của các thành phần kinh tế vào kim ngạch xuất khẩu được chuyển dịch theo hướng tích cực: Khu vực doanh nghiệp có vốn FDI ngày càng khẳng định vai trò quan trọng, trở thành một động lực cơ bản thúc đẩy xuất khẩu của cả nước, nếu loại trừ dầu thô, kim ngạch xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp này năm 2005 (từ chỗ hoàn toàn không có gì năm 1986) vẫn đạt trên 11 tỷ USD, chiếm 45% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước; Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh 100% vốn trong nước tham gia ngày càng sâu rộng vào hoạt động xuất khẩu, có thể trở thành những hạt nhân quan trọng giúp nâng cao kim ngạch xuât khẩu cả nước trong thời gian tới. - Cơ cấu mặt hàng được mở rộng, các mặt hàng có giá trị XK cao tăng nhanh. Tính đến năm 1990 Việt Nam mới có trên 60 mặt hàng XK nhưng chỉ có 35 mặt hàng đạt giá trị từ 5 triệu USD trở lên, trong đó có 4 mặt hàng đạt kim ngạch trên 100 triệu USD: dầu thô, gạo, hàng may sẵn và tôm đông, thì đến năm 2008 Việt Nam đã có hàng trăm mặt hàng xuất khẩu, trong đó có nhiều mặt hàng đạt kim ngạch trên 500 triệu USD, đặc biệt có 4 mặt hàng công nghiệp đạt trên 1 tỷ USD: dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ, điện tử và linh kiện máy tính. - Thị trường xuất nhập khẩu được mở rộng qua đó, không những ta khắc phục được tình trạng khủng hoảng thị trường do việc Liên Xô và hệ thống XHCN tan rã gây nên mà còn mở rộng được thị trường xuất khẩu, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, tạo thêm việc làm, tăng thu ngân sách. Nếu như vào những năm 90 do sự bao vây cấm vận kinh tế của Mỹ buộc chúng ta phải chuyển hướng thị trường từ Âu sang A. KNXK sang châu A chiếm 22.6% năm 1986 lên 72.4% năm 1995; năm 1995 châu Âu chỉ chiếm 18% tổng giá trị XK của Việt Nam thì năm 2001, sau khi Mỹ tuyên bố bình thường hoá quan hệ với Việt Nam và Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ được thông qua; Việt Nam là thành viên chính thức của nhiều tổ chức quốc tế và khu vực như ASEAN, ASEM, APEC, WTO,..., khu vực này và Mỹ chiếm 33.2% và châu A chiếm khoảng 60% tổng KNXK của Việt Nam. Như vậy, từ chỗ lệ thuộc hoàn toàn vào thị trường Liên Xô và các nước XHCN, cơ cấu thị trường xuất khẩu đã được cải thiện rõ rệt. Đến nay, thị trường xuất khẩu Việt Nam rất đa dạng. Đến hết năm 2004, hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam đã vươn tới trên 221 thị trường trên thế giới, các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ lực nói riêng và nhiều hàng hoá Việt Nam khác đã có chỗ đứng và khả năng cạnh tranh trên nhiều thị trường khó tính như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ… Chất lượng hàng hoá công nghiệp xuất khẩu của Việt nam đã được nâng lên đáng kể, bước đầu tạo sức cạnh tranh của hàng Việt nam trên thị trường thế giới, đồng thời gây tác động tích cực với chất lượng sản phẩm trong nước. Hàng may mặc, giầy dép xuất khẩu từ Việt nam đã được thừa nhận đạt chất lượng quốc tế. Đi theo hàng xuất khẩu và để chống lại sự cạnh tranh của hàng nhập khẩu, các nhà sản xuất hàng tiêu dùng trong nước cũng nâng cao chất lượng khá nhanh. Nhìn chung, trong hơn 20 năm qua hoạt động xuất khẩu nói chung và hoạt động xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp chủ lực của Việt Nam nói riêng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, về cơ bản đã thực hiện được những chủ trương đề ra trong ‘Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội’, góp phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Những thành tựu đó có được là nhờ một số nguyên nhân chủ yếu sau: Công cuộc đổi mới đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, cơ cấu sản xuất chuyển dịch dần, từ đó thúc đẩy xuất khẩu và cải thiện cơ cấu xuất khẩu. - Xuất khẩu được coi là nhiệm vụ trọng tâm, sản xuất gắn liền với lưu thông và xuất khẩu; các cơ chế chính sách ngày càng phù hợp, thông thoáng, tạo thuận lợi cho các ngành sản xuất, các địa phương, các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu. Chính sách đối ngoại, độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá, từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới đã góp phần đẩy lùi chính sách bao vây, cấm vận, mở rộng thị trường xuất khẩu. Chính sách cơ cấu hàng xuất khẩu ngày càng tích cực. Coi xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp có hàm lượng trí tuệ cao là mũi nhọn, giảm dần xuất khẩu các mặt hàng có giá trị thấp nhằm mang lại nguồn thu lớn hơn. Tóm lại, chính sách thương mại của Việt Nam đã thực sự đóng góp một vai trò không thể thiếu trong giai đoạn đổi mới toàn diện vừa qua. Các chính sách luôn được cải cách, biến chuyển theo hướng tự do hoá và hội nhập hoá, do vậy đã làm thay đổi căn bản cơ chế thương mại của Việt Nam, đồng thời giải quyết và xúc tiến được mối quan hệ giữa thương mại và phát triển kinh tế. Thương mại giờ đây đã dành được vị trí xứng đáng của mình trong nền kinh tế, đã góp phần hình thành nên các quyết định SX và tiêu dùng trong nước, chứ không còn đơn thuần là việc mở rộng quan hệ đối ngoại. Tuy vậy đây mới chỉ là một trong vô vàn công việc mà Việt Nam phải tiến hành để có thể hoàn thiện được công cuộc đổi mới và chính sách quốc gia. Bất cập về chính sách Các biện pháp khuyến khích SX và XK trên thực tế chưa chú trọng đến chất lượng và hiệu quả của sự tăng trưởng. Kết hợp giữa tăng trưởng số lượng và tăng trưởng chất lượng không phải là vấn đề của riêng Việt Nam. Mọi quốc gia đều mong muốn có mức tăng trưởng cao về số lượng, duy trì liên tục, kèm theo những yếu tố nâng cao chất lượng tăng trưởng như phát triển xã hội, môi trường, pháp luật, thể chế để đảm bảo được phát triển bền vững của quốc gia. Thành tích về tăng trưởng số lượng của Việt Nam thời gian gần đây là rất khả quan. Tuy nhiên với mức thu hút vốn chiếm trên 40% GDP, hệ số ICOR của Việt Nam là khoảng gần 5. Hệ số này cao hơn rất nhiều so với của Trung Quốc cách đây 10 năm (ICOR của Trung Quốc giai đoạn 1991-2003 là 4,1). Với cùng tỷ lệ đầu tư so với GDP tương đương của Việt Nam, Trung Quốc đạt được mức tăng trưởng 9-10%, trong khi Việt Nam chỉ có thể duy trì ở mức xung quanh 8%. Điều này có nghĩa là với quy mô nền kinh tế hiện tại, hàng năm, Việt Nam “mất đi” khoảng 1 tỷ USD. Nếu so sánh với các nước Đông Bắc A khác như Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan thì hệ số ICOR cảu Việt Nam còn cao hơn rất nhiều. Bảng 8: Đầu tư, tăng trưởng và hệ số ICOR của một số nước châu A Nước và vùng lãnh thổ Đầu tư(%GDP) Tăng trưởng GDP (%) ICOR Việt Nam (2000-2007) 38,0 7,6 5,0 Trung Quốc (1991-2003) 39,1 9,5 4,1 Đài Loan (1981-1990) 21,9 8,0 2,7 Hàn Quốc (1981-1990) 29,6 9,2 3,2 Nhật Bản (1961-1970) 32,6 10,2 3,2 Nguồn: Thống kê của các nước và tính toán của NCEIF - Đầu tư của Việt Nam trong thời gian qua tuy đạt được nhiều thành tích nhưng cũng còn tồn tại nhiều vấn đề như tình trạng quy hoạch treo, tốc độ giải ngân nguồn vốn còn thấp, nhiều công trình xây dựng dở dang kéo dài… làm giảm chất lượng và hiệu quả đầu tư. Tăng trưởng của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào đầu tư, hiệu quả đầu tư thấp sẽ làm giảm sút chất lượng tăng trưởng. Những nguyên nhân chủ quan dẫn đến chậm tiến độ thực hiện là còn có sự chồng chéom không thống nhấtm chưa kịp thời; sự chỉ đạo điều hành của một số bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp còn thiếu quyết liệt. Công tác quản lý, thực hiện dự án còn nhiều hạn chế, nhất là năng lực tư vấn, lập dự án, tư vấn thiết kế còn yếu; công tác giải phóng mặt bằng còn chậm. Các nguyên nhân khách quan dẫn đến việc chậm trễ trong thực hiện nhiều dự án đầu tư xây dựng trong thời gian qua là giá cả nguyên vật liệu tăng mạnh, trong khi đó, các cơ quan chức năng lại chưa đưa ra được phương án giải quyết thống nhất, khiến nhiều nhà thầu không muốn tiếp tục dự án để tránh thua lỗ. - Hiện nay Việt Nam đang đối mặt với tình trạng nhập siêu lớn. Trong năm 2007, giá trị nhập siêu hàng hoá của Việt Nam ước tính là 12,4 tỷ USD, gấp 2,5 lần mức nhập siêu của năm 2006. Hàng hoá nhập khẩu chủ yếu vẫn là các sản phẩm công nghiệp, đặc biệt là nhóm hàng máy móc, thiết bị, phụ tùng, nguyên, nhiên liệu phục vụ cho sản xuất. Dẫn đầu về tăng tốc độ nhập khẩu là ôtô (tăng 101%), tiếp theo là thép thành phẩm (tăng 66,2%) và máy móc, thiết bị, phụ tùng (tăng 56,5%). Có thể thấy tình trạng gia tăng nhập siêu của Việt Nam bắt nguồn từ những nguyên nhân chính như: Các điều kiện thương mại trở nên thuận lợi, việc giảm thuế quan theo cam kết với WTO, cùng với việc thúc đẩy các hoạt động thương mại và đầu tư trong nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nhập khẩu; Hay là do nhiều dự án công nghiệp lớn được triển khai nên nhu cầu nhập máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất rất lớn; Ngoài ra do các nhóm hàng công nghiệp xuất khẩu chủ lực của ta lại phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu nên để tăng được kim ngạch xuất khẩu thì nhập khẩu cũng phải tăng. Từ thực tế này cho thấy rằng: (i) sức cạnh tranh của các mặt hàng nội địa còn kém, nhiều mặt hàng xuất khẩu cao nhưng không thể phục vụ thị trường nội địa, chẳng hạn hàng dệt may Việt Nam được công nhận chất lượng trên nhiều nước nhưng người dân Việt vẫn dùng các sản phẩm rẻ tiền nhập khẩu, hay sản phẩm gỗ xuất khẩu của Việt Nam khó dùng ở nội địa do nhà ở Việt Nam thường là nhà ống,…; (ii) Cơ cấu công nghiệp Việt Nam còn nặng về gia công (70% hàng nhập khẩu là nguyên liệu tái xuất khẩu và phục vụ sản xuất trong nước); (iii) Các ngành công nghiệp phụ trợ hỗ trợ xuất khẩu hầu như chưa phát triển khiến hiệu quả xuất khẩu giảm sút do phải phụ thuộc vào các trung gian xuất khẩu. - Mặc dù cơ cấu hàng xuất khẩu có chuyển biến tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng hàng chế biến và chế taọ, tới nay, xuất khẩu nguyên liệu thô và hàng sơ chế vẫn là chủ yếu ( hàng nguyên liệu thô còn chiếm tới 70% kim ngạch xuất khẩu ). Khả năng cạnh tranh của hàng hoá còn thấp do giá thành cao, chất lượng, mẫu mã không đáp ứng được đòi hỏi của thị trường. - Việc tạo lập môi trường pháp lý cho hoạt động XNK còn chưa hoàn thiện, thiếu tính đồng bộ thống nhất, chưa rõ ràng và chưa bình đẳng cho giới DN, làm nản lòng giới đầu tư. Theo Báo cáo “Môi trường kinh doanh 2008” của WB và IFC, nhiều lĩnh vực của Việt Nam bị đánh tụt hạng, đó là lĩnh vực bảo vệ nhà đầu tư, giải thể doanh nghiệp và đóng thuế. - Mặc dù những năm qua chất lượng hàng xuất khẩu Việt nam không ngừng được cải thiện, song khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt nam trên thị trường thế giới vẫn còn yếu kém. - Hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại, xúc tiến xuất khẩu, xúc tiến đầu tư của các tổ chức, đoàn thể hỗ trợ DN chưa cao, sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương - Cơ sở hạ tầng còn yếu và thiếu, chưa thật sự thuận lợi cho hoạt động SX, kinh doanh; chi phí để duy trì SX kinh doanh ở Việt Nam còn cao hơn một số nước trong khu vực như cước vận chuyển, giá điện, cước viễn thông... - Công tác quản lý của Nhà nước còn lỏng lẻo, vẫn xuất hiện cơ chế “xin, cho”, tệ tham nhũng, quan liêu, làm thất thoát vốn đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội. Trong đánh giá “Cảm nhận tham nhũng” năm 2007 do Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) công bố, tuy số điểm giữ nguyên ở mức 2,6/10 điểm tối đa, nhưng vị trí của Việt Nam đã tụt từ hạng 111 vào năm 2006 xuống hạng 123 trong năm 2007. Kết quả trên cho thấy Việt Nam còn kém thành công so với các nước khác để “nâng điểm” trong mắt của cộng đồng quốc tế, mặc dù chủ trương chống tham nhũng và lãng phí đã được phát động, và thúc đẩy mạnh mẽ trong vài năm gần đây. CHƯƠNG III MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ THẾ GIỚI ĐỊNH HƯỚNG CHUNG CỦA NƯỚC TA VỀ ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU MỘT SỐ SĂN PHẨM CÔNG NGHIỆP CHỦ LỰC Nhân tố quyết định qui mô và nhịp độ xuất khẩu là cơ cấu hàng XK, đặc biệt là hàng XK chủ lực. Bởi vì hàng XK chủ lực là hàng chiếm vị trí quyết định trong KNXK do có thị trường ngoài nước và điều kiện SX trong nước thuận lợi. Ngoài ra, việc xây dựng các mặt hàng XK chủ lực còn có ý nghĩa rất lớn đối với việc mở rộng qui mô SX trong nước, góp phần giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, trên cơ sở đó kéo theo việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH nhằm nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, mở rộng và làm phong phú thị trường nội địa, tạo điều kiện giữ vững và ổn định thị trường XNK, góp phần tăng nhanh KNXK, tạo cơ sở vất chất để mở rộng các quan hệ hợp tác kinh tế khoa học- kỹ thuật với nước ngoài. Những năm gần đây, nhất là năm 2009 trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, chúng ta đang tập trung mũi nhọn vào các sản phẩm công nghiệp chủ lực với mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu. Định hướng các mặt hàng có thể hình dung như sau: - May mặc và giày dép vẫn là mặt hàng xuất khẩu chính với KNXK tương ứng mỗi mặt hàng phải đạt 11.5 tỷ USD và 5-6 tỷ USD, với mức tăng tương ứng là 14% và 15-16 %/năm. Để đạt được mục tiêu trên, trước hết cần có biện pháp đối phó với đối thủ cạnh tranh lớn như Trung Quốc. Nhất là trong bối cảnh khủng hoảng như hiện nay, chúng ta vẫn tập trung các thị trường truyền thống như Mỹ, Nhật, EU, song vẫn phải tiếp tục củng cố và mở rộng thêm thị trường mới như Trung Đông, châu Phi. Chuyển dần từ hình thức gia công là chính sang nội địa hoá trên cơ sở tăng cường đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu đầu vào, xây dựng các trung tâm nguyên phụ liệu, trước mắt sẽ đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, sau đó từng bước phát triển ngành nguyên liệu Việt Nam. Tiếp tục mở rộng đổi mới đầu tư sản xuất, đổi mới thiết bị và công nghệ để nâng cao năng lực thực hiện tốt mục tiêu xuất khẩu. Đổi mới mẫu mã, thiết kế để nâng cao hơn nữa sức cạnh tranh, cần có sự đầu tư đồng bộ, trong đó việc đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực thiết kế một cách bài bản, theo hướng chuyên nghiệp hoá. Đầu tư cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh cải cách hành chính. Đầu tư vốn cho công tác đào tạo nhân lực, cán bộ quản lý. Tăng cường những giải pháp chống rào cản thương mại, đối phó hiệu quả với cơ chế giám sát, chống bán phá giá. Tăng cường hoạt động xúc tiến, quảng bá hình ảnh dệt may, da giày Việt Nam ra thị trường thế giới. Tạo thương hiệu hàng hoá có uy tín, chuyển mạnh sang bán FOB, thu hút FDI, đặc biệt từ EU, Mỹ, Nhật...để tăng cường năng lực thâm nhập thị trường và mở rộng thị trường mới...Chính sách thương mại của Nhà nước mà cụ thể là chính sách thuế, chính sách thị trường cần hỗ trợ đắc lực cho tiến trình này. - Sản phẩm gỗ là mặt hàng đã khảng định được vụ trí vững chắc trong cơ cấu xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Ngoài các thị trường tiềm năng như Nhật Bản, EU đồ gỗ Việt Nam có khả năng thâm nhập vào thị trường Mỹ do thuế suất nhập khẩu vào Mỹ thấp. Tuy nhiên năm 2009 cũng sẽ gặp khó khăn do Đạo luật Lacey được ban hành, bắt đầu có hiệu lực vào cuối năm 2008 trong đó sẽ thắt chặt hơn việc kiểm soát nguồn gốc sản phẩm gỗ. Dự kiến kim ngạch tăng khoảng 8% so với năm 2008. Khó khăn lớn nhất hiện nay là nguyên liệu thường xuyên mất ổn định do phụ thuộc vào nhập khẩu (chiếm 60-70% cơ cấu giá thành), khai thác trong nước chỉ đáp ứng 20% nhu cầu xuất khẩu. Để phát triển ngành hàng này cần tập trung đầu tư thoả đáng vào khâu trồng rừng và đơn giản hoá thủ tục trong xuất khẩu sản phẩm gỗ, nhất là sản phẩm gỗ rừng tự nhiên. Cần xem xét giảm thuế tài nguyên và thuế xuất khẩu các mặt hàng gỗ xuất khẩu từ nguồn gỗ nhập khẩu. Bên cạnh đó các doanh nghiệp cũng cần có sự đầu tư vào công nghệ, dây truyền sản xuất tiết kiệm nhiên liệu, chủ động có đội ngũ thiết kế mẫu mã của mình để tận dụng nguyên liệu một cách hợp lý nhất. Phấn đâu hầu hết các DN chế biến gỗ VN đều có chứng chỉ FSC (Forest Stewardship Council). Nếu chúng ta có những giải pháp tích cực để giải quyết các vấn đề trên, ngành gỗ Việt Nam sẽ là một trong những ngành hàng đầu mang lại kim ngạch xuất khẩu lớn cho đất nước. - Sản phẩm nhựa: Kết quả XK sản phẩm nhựa trong những năm gần đây là đáng khích lệ, từ chỗ đáp ứng chủ yếu nhu cầu trong nước, chúng ta đã XK sang Campuchia, Lào, Trung Quốc và các nước Nam A như Ân Độ, Srilanka với mặt hàng chủ yếu là bạt nhựa và đồ gia dụng. Ngoài đồ nhựa gia dụng, chúng ta chú ý phát triển nhựa công nghiệp và đồ chơi bằng nhựa. Trong những năm tới cần có đầu tư thoả đáng vào khâu chất lượng và mẫu mã để mở rộng thị phần trên thị trường hiện có, tăng cường thâm nhập các thị trường mới. Nếu làm tốt việc này, kim ngạch có thể vượt ngưỡng 1 tỷ USD năm 2009, bởi lẽ sản phẩm này đã thâm nhập được vào thị trường khó tính như Mỹ, EU Nhật (tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm nhựa của nước ta sang thị trường Mỹ trong năm 2008 đạt 164,16 triệu USD, tăng 20,2% so với năm 2007 và chiếm 17% tỷ trọng) - Dây và cáp điện: Dây và cáp điện đang nổi lên là mặt hàng xuất khẩu đầy tiềm năng của Việt Nam, có khả năng gia tăng xuất khẩu rất lớn. Tốc độ tăng trưởng trung bình đạt khoảng 35-40%/ năm. Thị trường lớn nhất là Nhật Bản ( chiếm 90% tổng kim ngạch xuất khẩu dây cáp điện của VN) với lợi thế cạnh tranh về nguồn tài nguyên, nguồn nhân lực, xu hướng đầu tư của các doanh nghiệp sản xuất trong nước và nước ngoài vào sản xuất dây và cáp điện khá mạnh là những điều kiện vô cùng thuận lợi cho việc phát triển sản xuất và xuất khẩu mặt hàng dây, cáp điện của Việt Nam. Tuy nhiên, để tăng kim ngạch xuất khẩu, ngành sản xuất dây và cáp điện còn phải nỗ lực vượt qua những khó khăn mà trong đó, khó khăn lớn nhất vẫn là vấn đề về thuế nhập khẩu nguyên liệu và đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài.Trên cơ sở đó, các chuyên gia dự báo kim ngạch xuất khẩu mặt hàng dây và cáp điện cả nước tăng trung bình khoảng 31%/ năm trong giai đoạn 2006-2010 và đạt khoảng 1,85 tỷ USD vào năm 2010; trong đó, xuất khẩu sang Nhật Bản sẽ tăng khoảng 800 triệu USD. II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 1. Xây dựng cơ chế điều hành xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp chủ lực Để đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh doanh xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chủ lực, công tác quản lý, hội nhập kinh tế quốc tế, trên cơ sỏ pháp lý của pháp luật hiện hành nhất là Luật Thương mại năm 2005, lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế đang thực hiện việc xuất khẩu các mạt hàng công nghiệp chủ lực liên tục phát triển với tốc độ cao, ổn định, kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh… Phải triển khai gấp việc xây dựng cơ chế điều hành xuất khẩu hàng hoá ổn định lâu dài cho những năm tiếp theo. 2. Đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực thương mại Nguyên tắc cơ bản xây dựng cơ chế quản lý xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chủ lực và tiếp tục đẩy mạnh cơ chế hành chính theo hướng xoá bỏ các thủ tục phiền hà, công khai minh bạch ổn định môi trường pháp lý, phù hợp với luật pháp Việt Nam, khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ hợp lý có chọn lọc hàng sản xuất trong nước bằng các công cụ bảo hộ hợp lệ phù hợp với các cam kết quốc tế, nâng cao khả năng hàng sản xuất trong nước. 3. Loại bỏ những quy định không phụ hợp với bối cảnh mới Rà soát lại các quy định hiện hành nhằm loại bỏ những quy định không còn phù hợp, chồng chéo thay thế băng các quy định mới; xây dựng các danh mục hàng hoá xuất khẩu đầy đủ rõ ràng, phù hợp với quy định của WTO và các cam kết quốc tế nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp và các cơ quan quản lý. 4. Vận dụng linh hoạt các định chế của WTO trong phát triển xuất khẩu Vận dụng linh hoạt các định chế của WTO về hàng rào kỹ thuật, chống trợ cấp, chống bán phá giá, tự vệ trong việc ban hành các văn bản quy phạm về tự vệ, về chống bán phá giá hàng hoá, về đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế. Ban hành các chính sách hỗ trợ xuất khẩu phù hợp với quy định của WTO về trợ cấp xuất khẩu. Rà soát hàng rào kỹ thuật liên quan đến thương mại của các nước đối với hàng công nghiệp xuất khẩu chủ lực của Việt Nam; tuyên truyền nâng cao nhận thức của các nhà sản xuất, xuất khẩu về các loại rào cản của các nước nhập khẩu nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, cải thiện chất lượng hàng hoá tránh rủi ro cho doanh nghiệp khi thực hiện các hợp đồng xuất khẩu. 5. Ưu tiên nguồn lực nhằm phát triển xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chủ lực những năm tiếp theo Một là, tập trung vào các mặt hàng lớn vì các mặt hàng này tăng trưởng sẽ tạo ra giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn, giải quyết nhiều lao động và các vấn đề xã hội khác, các mặt hàng thuộc nhóm này là hàng dệt may, giầy dép, linh kiện điện tử, sản phẩm gỗ. Hai là, các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tuy chưa thật lớn nhưng vừa qua có tốc độ tăng trưởng nhanh, có tiềm năng, không bị hạn chế hoặc chưa bị hạn chế về thị trường, hạn ngạch. Các mặt hàng thuộc nhóm này là sản phẩm nhựa, dây cáp điện… KẾT LUẬN Thông qua đề tài này, em cũng mong muốn phần nào cung cấp được những thông tin tổng quát nhất về chính sách thương mại của Việt Nam, những tác động của công cuộc đổi mới chính sách thương mại đến hoạt động xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp chủ lực của ta trong những năm gần đây, thành tựu và hạn chế còn tồn tại. Đồng thời qua việc nghiên cứu những kết quả của hoạt động xuất khẩu những năm qua phần nào cho chúng ta thấy vai trò quản lý, điều hành của chính sách thương mại không chỉ quan trọng và cần thiết đối với hoạt động xuất khẩu hàng hoá nói chung, hoạt động xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp chủ lực nói riêng, mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Do thời gian có hạn và trình độ của người viết còn hạn chế, khóa luận không tránh được những sai sót và khiếm khuyết nhất định. Cuối cùng cho phép em được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình đến các thầy cô giáo trường Đại học Ngoại thương, những người đã chỉ bảo em trong quá trình nghiên cứu, đặc biệt là Th.S Vũ Đức Cường, người trực tiếp hướng dẫn em hoàn thành khóa luận. Hà Nội, tháng 6 năm 2009 Sinh viên thực hiện Nguyễn Như Quỳnh TÀI LIỆU THAM KHẢO Bùi Xuân Lưu, (2006), Giáo trình Kinh tế ngoại thương, NXB Lao động – xã hội, Hà Nội. Lê Danh Vĩnh, (2006), 20 năm đổi mới cơ chế chính sách thương mại Việt Nam những thành tựu và bài học kinh nghiêm, NXB Thế giới, Hà Nội. Nguyễn Công Liêm, Nguyễn Huy Anh, Dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong bối cảnh xu thế phát triển của kinh tế thế giới đến năm 2020, Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế-xã hội quốc gia, Hà Nội. Chính sách thương mại, đầu tư và sự phát triển một số mặt hàng công nghiệp chủ lực của Việt Nam - NXB Khoa học Xã hội – 1998 Chu Văn Cấp, (2003), Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, NXB Chính trị Quốc gia. Nguyễn Thị Hường, Chính sách XNK của Việt Nam trong xu thế tự do hóa thương mại, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Mã số: 5.02.05, Học viện Hành chính Quốc gia Hồ Chính Minh. Lê Đình Ân, Bối cảnh trong nước, quốc tế và việc nghiên cứu xây dựng chiến lược 2011-2020, Bộ kế hoạch và đầu tư, Hà Nội. Các Website dùng tham khảo và tìm kiếm tài liệu: MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docẢnh hưởng của chính sách thương mại tới việc xuất khẩu một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của Việt Nam.doc
Luận văn liên quan