Cải tạo cơ cấu thị trường sản phẩm nội địa. Tạo ra một thị trường
có khả năng đáp ứng những nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng chính là
chìa khóa để kích thích tiêu dùng nội địa, tăng tổng cầu, mở rộng GDP,
chống giảm phát. Muốn vậy một mặt các doanh nghiệp phải tập trung sản
xuất vào những sản phẩm trọng yếu, xây dựng nhãn hiệu và uy tín thương
trường, tránh tình trạng chạy theo quy mô làm tăng nợ, giàn mỏng chuyên
môn, tạo sản phẩm kém cạnh tranh.
48 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3219 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Ảnh hưởng của lạm phát đối với tăng trưởng kinh tế trong công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam -Một số giải pháp kiểm soát lạm phát để đảm bảo tăng trưởng trong thời gian sắp tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
huyển sang phải đến AD2. Trước tiên trong một thời
gian rất ngắn, nền kinh tế có thể chuyển động đến điểm 1’, sản phẩm có thể
tăng lên trên mức tỷ lệ tự nhiên Y’. Nhưng kết quả giảm thất nghiệp xuống
dưới mức tỷ lệ tự nhiên sẽ làm lượng tăng lên, đường tổng cung nhanh
chóng di chuyển vào. Nó sẽ dừng di chuyển khi nào đạt đến AS2. Tại đó
nền kinh tế quay trở lại mức tự nhiên của sản phẩm trên đường tổng cung
dài hạn. Tại điểm thăng bằng nối (điểm 2), mức gia tăng từ P1 lên P2.
P1
P2
P3
P4
1’
2
3
4
Tổng sản phẩm
Y
Yn
AD1 AD2 AD3 AD4
AS4 AS3 AS2 AS1
Y’
1
2’
3’
Tổng
mức giá
cả P
9
Nếu năm sau đó cung tiền tệ tăng lên, đường tổng cầu sẽ lại di
chuyển sang phải đến AD3, đường tổng cung di chuyển vào từ AS2 đến
AS3, nền kinh tế sẽ chuyển động sang điểm 2’ sau đó sang 3, mức gia tăng
lên P3. Cứ như vậy nếu cung tiền tệ tiếp tục tăng thì nền kinh tế sẽ tiếp tục
chuyển động đến những mức giá càng cao hơn nữa. Khi cung tiền tệ còn
tăng thì quá trình này sẽ tiếp tục và lạm phát sẽ xảy ra.
Như vậy cách phân tích của phái tiền tệ chỉ ra rằng lạm phát nhanh là
do sự tăng cao của cung tiền tệ thúc đẩy.
d. Quan điểm của phái Keynes:
Giống như kết luận của phái tiền tệ, phái Keynes cho rằng việc tăng
nhanh cung tiền tệ sẽ làm mức giá cả tăng kéo dài với tỷ lệ cao do vậy gây
nên lạm phát. Cách phân tích của phái Keynes chỉ ra rằng cung tiền tệ kéo
dài sẽ có ảnh hưởng như nhau đối với đường tổng cầu và tổng cung. Phái
Keynes cũng không cho rằng có nhân tố nào khác ngoài tiền tệ có thể gây
nên lạm phát mặc dù Keynes cho phép những nhân tố khác ngoài những
thay đổi trong cung tiền tệ ảnh hưởng đến đường tổng cầu và tổng cung
như chính sách tài chính và các cú sốc cung tiền tệ.
Trong cách phân tích của Keynes, chính sách tài chính tự nó không
thể gây nên lạm phát.
AD2
AS1
AS2
Tổng
mức giá
cả P
P1
P2
2 1’
10
Ảnh hưởng của việc tăng thường xuyên từng đợt trong chi tiêu của
chính phủ đối với tổng sản phẩm và mức giá cả: Lúc đầu ở điểm 1, tại đó
sản phẩm ở mức tỷ lệ tự nhiên và mức giá cả P1. Đường tổng cầu di
chuyển đến AD2 khi tăng lên trong chi tiêu của chính phủ làm chuyển đến
điểm 1’. Tại đó sản phẩm ở trên mức tỷ lệ tự nhiên tại Y1. Đường tổng
cung di chuyển vào đến A2. Ở đó sản phẩm lại ở mức tỷ lệ tự nhiên và mức
giá cả tăng lên P2. Kết quả ròng của việc tăng thường xuyên trong chỉ tiêu
chính phủ là việc tăng thường xuyên từng đợt của mức giá cả. Tuy nhiên
với tỷ lệ lạm phát, khi ta chuyển từ điểm 1 đến 1’ rồi đến 2, mức giá cả
tăng và ta có tỷ lệ lạm phát dương. Nhưng khi tới điểm 2 thì tỷ lệ lạm phát
lại quay về số 0. Như vậy việc tăng từng đợt trong chi tiêu của chính phủ
chỉ đưa đến sự tăng tạm thời của tỷ lệ lạm phát chứ không phải là mức lạm
phát mà trong đó mức giá cả tăng kéo dài. Tuy nhiên nếu chi tiêu của chính
phủ tăng kéo dài thì có thể có mức giá cả tăng kéo dài. Nó thể hiện rằng
cách phân tích của phái Keynes có thể bác bỏ ý kiến của Fridman rằng lạm
phát lúc nào cũng là một hiện tượng tiền tệ. Nhưng vấn đề là ở chỗ việc chi
11
tiêu của chính phủ tăng lên kéo dài không phải là một chính sách có thể
thực hiện được bởi có một giới hạn đối với tổng số tiền chính phủ có thể
chi. Chính phủ không thể chi hơn 100% GDP.
Mặt khác của chính sách tài chính: đó là thuế. Việc kéo dài cắt giảm
thuế cũng không thể đưa đến lạm phát. Tương tự như trên sẽ có một sự
tăng duy nhất một lần trong mức giá cả nhưng sự tăng lên trong tỷ lệ lạm
phát sẽ chỉ là tạm thời. Ta có thể tăng mức giá cả bằng cách cắt giảm thuế
hơn nữa, nhưng quá trình này phải dừng lại khi thuế ở mức số không, khi
đó không thể giảm thuế được nữa.
Hiện tượng về phía cung tự nó cũng không thể gây ra lạm phát.
Giả sử có một cú sốc tiêu cực của cung như cấm vận dầu mỏ làm
tăng giá dầu hay công nhân đòi tăng lương thắng lợi làm đường tổng cung
di chuyển vào từ AS1 đến AS2. Nếu cung tiền tệ không thay đổi để cho
Yn
AS1
AS2
Y1 Tổng s.p Y
Tổng
mức giá
cả P
P1
P2 1’
1
12
đường tổng cầu ở tại AD1 thì nền kinh tế ở tại điểm 1’ tại đó sản phẩm ở
dưới mức tỷ lệ tự nhiên Y1 và mức giá cả là cao hơn P2. Đường tổng cung
sẽ di chuyển trở lại AS1 bởi thất nghiệp là trên tỷ lệ tự nhiên, nên kinh tế
chuyển từ điểm 1’ xuống điểm 1. Kết quả của cú sốc cung là quay trở lại
tình trạng công ăn việc làm đầy đủ ở mức giá cả ban đầu và không xảy ra
lạm phát mặc dù có thể có mức giá cả tạm thời tăng.
Như vậy việc phân tích tổng cung và tổng cầu cho thấy các quan
điểm của phái Keynes và phái tiền tệ về quá trình lạm phát không khác
nhau lắm. Thừa nhận lạm phát là một sự tăng kéo dài của mức giá cả với tỷ
lệ nhanh, đại đa số các nhà kinh tế đều đồng ý với Milton Friedman rằng
“lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện tượng tiền tệ”.
2. Các nguyên nhân của lạm phát:
a. Lạm phát cầu kéo:
Lạm phát cầu kéo xảy ra khi tổng cầu tăng lên mạnh mẽ tại mức sản
lượng đã đạt hoặc vượt quá tiềm năng. Khi xảy ra lạm phát cầu kéo người
ta thường nhận thấy lượng tiền không lưu thông và khối lượng tín dụng
tăng đáng kể và vượt quá khả năng có giới hạn của mức cung hàng hóa.
Bản chất của lạm phát cầu kéo là chi tiêu quá nhiều tiền để mua một lượng
cung hạn chế về hàng hóa có thể sản xuất được trong điều kiện thị trường
lao động đã đạt cân bằng.
13
Chính sách tiền tệ lạm phát có thể xảy ra khi mục tiêu công ăn việc
làm cao. Ngay khi công ăn việc làm đẩy đủ, thất nghiệp lúc nào cũng tồn
tại do những xung đột trên thị trường lao động. Tỷ lệ thất nghiệp khi có
công ăn việc làm đẩy đủ (tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên) sẽ lớn hơn 0. Nếu ấn
định một chỉ tiêu thất nghiệp thấp dưới tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên sẽ tạo ra
một địa bàn cho một tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao hơn và lạm phát phát sinh.
Nếu những nhà hoạch định chính sách có chỉ tiêu thất nghiệp (giả sử
4%) thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên (6%) thì họ sẽ cố gắng đạt được
P1
P2
P3
P4
1’
2
3
4
Tổng sản phẩm
Y
Yn
AD1 AD2 AD3 AD4
AS4
AS3
AS2
AS1
Y’
1
2’
3’
Tổng
mức giá
cả
14
một chỉ tiêu sản phẩm lớn hơn mức tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm ký hiệu Y1.
Giả sử ban đầu ở điểm 1, nền kinh tế ở mức tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm
nhưng dưới mức chỉ tiêu sản phẩm Y1. Để đạt chỉ tiêu thất nghiệp 4%, các
nhà hoạch định chính sách ban hành các chinh sách để tăng tổng cầu làm
đường tổng cầu di chuyển đến AD2, nền kinh tế chuyển đến điểm 1’, sản
phẩm ở tại Y1 và đạt mục tiêu thất nghiệp 4%. Vì tại Y1 tỷ lệ 4% thất
nghiệp là dưới mức tỷ lệ tự nhiên nên lương sẽ tăng lên và đường tổng
cung di chuyển vào đến AS2, đưa nền kinh tế từ điểm 1’ sang điểm 2. Nền
kinh tế lại sẽ tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên 6% nhưng ở mức giá cả P2 cao hơn.
Do thất nghiệp lại cao hơn mức chỉ tiêu, các nhà hoạch định chính sách sẽ
di chuyển đường tổng cầu đến AD3 để đạt chỉ tiêu sản phẩm đến điểm 2’,
toàn bộ quá trính ẽ tiếp tục đẩy nền kinh tế đến điểm 3 và xa hơn. Kết quả
là mức giá cả tăng đều dần và lạm phát. Các nhà hoạch định chính sách
không thể tiếp tục di chuyển đường tổng cầu thông qua chính sách tài chính
do những giới hạn trong việc chi tiêu của chính phủ và giảm thuế. Do đó họ
phải áp dụng chính sách tiền tệ bành trướng, do đó gây nên tỷ lệ tăng
trưởng tiền tệ cao.
Như vậy theo đuổi một chỉ tiêu sản phẩm quá cao hay tương đương
là một tỷ lệ thất nghiệp quá thấp là nguồn gốc sinh ra chính sách tiền tệ lạm
phát.
b. Lạm phát chi phí đẩy:
15
Ngay cả khi sản lượng chưa đạt mức tiềm năng nhưng vẫn có thể xảy
ra lạm phất ở nhiều nước, kể cả ở những nước phát triển cao. Đó là một đặc
điểm của lạm phát hiện tại. Kiểu lạm phát này gọi là lạm phát chi phí đẩy,
vừa lạm phát vừa suy giảm sản lượng, tăng thêm thất nghiệp nên cũng gọi
là “lạm phát đình trệ”.
Các cơn sốc giá cả của thị trường đầu vào, đặc biệt là các vật tư cơ
bản: xăng, dầu, điện... là nguyên nhân chủ yếu đẩy chi phí lên cao, đường
AS dịch chuyển lên trên. Tuy tổng cầu không thay đổi nhưng giá cả lại tăng
lên và sản lượng giảm xuống. Giá cả sản phẩm trung gian (vật tư) tăng đột
biến thường do các nguyên nhân như thiên tại, chiến tranh, biến động chính
trị kinh tế...
Lạm phát chi phí cũng có thể là kết quả của chính sách ổn định năng
động nhằm thúc đẩy một mức công ăn việc làm cao. Nó xảy ra do những cú
sốc cung tiêu cực hoặc do việc các công nhân đòi tăng lương cao hơn gây
nên.
P4
P3
P2
P1 1
2
3
4
1’
2’
3’
AD1 AD2 AD3 AD4
AS4
AS3
AS2 AS1
Tổng sản phẩm Y
Tổng
mức giá
cả
16
Lúc đầu nền kinh tế ở tại điểm 1. Giả định công nhân đòi tăng lương
do họ muốn tăng lương thực tế hoặc do họ dự đoán lạm phát sẽ lên cao nên
đòi tăng lương để khớp với mức lạm phát. Ảnh hưởng của việc tăng đó
tương tự như một cú sốc cung tiêu cực làm đường tổng cung di chuyển vào
đến AS2. Nếu chính sách tài chính, tiền tệ không thay đổi thì nền kinh tế
chuyển tới điểm 1’ sản phẩm sẽ giảm xuống dưới mức tỷ lệ tự nhiên trong
khi giá cả tăng lên. Khi đó do sản phẩm giảm, thất nghiệp tăng, các nhà
hoạch định chính sách sẽ thức hiện chính sách nhằm tăng đường tổng cầu
đến AD2, quay trở lại mức tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm tại điểm 2 và mức
giá cả P2. Nếu việc tăng lương lại tiếp tục thì đường tổng cung lại di
chuyển vào đến AS3, thất nghiệp lại phát triển khi chuyển đến điểm 2’, các
chính sách năng động lại được sử dụng để di chuyển đường tổng cầu đến
AD3 và đưa nền kinh tế trở lại tình hình công ăn việc làm đầy đủ với mức
giá cả P3. Nếu quá trình này tiếp tục thì kết quả sẽ là việc tăng liên tục của
mức giá cả, nghĩa là gây lạm phát. Nếu lạm phát cầu kéo đi liền với thời kỳ
mà thất nghiệp thấp hơn mức tỷ lệ tự nhiên thì lạm phát chi phí đấy lại lại
đi liền với những thời kỳ mà thất nghiệp cao hơn mức tỷ lệ tự nhiên. Khi
lạm phát cầu kéo gây nên tỷ lệ lạm phát cao hơn thì lạm phát dự tính cuối
cùng sẽ tăng lên làm cho công nhân đòi tăng lương, nên tiền lương thực tế
Y’ Yn
17
của họ không giảm xuống. Vì vậy cuối cùng lạm phát cầu kéo có thể gây
nên lạm phát phí đẩy.
c. Lam phát do thâm hụt Ngân sách:
Chính phủ có thể trang trải thâm hụt ngân sách bằng cách bán trái
khoản cho công chúng hoặc tạo ra tiền tệ (hay in tiền). Bán trái khoán cho
công chúng không có ảnh hưởng trực tiếp đến cơ sở tiền tệ và do đó đến
cung tiền tệ, vì vậy nó sẽ không có ảnh hưởng rõ ràng đến tổng cầu và sẽ
không có lạm phát. Ngược lại việc tạo ra tiền tệ có ảnh hưởng đến tổng cầu
và có thể gây ra lạm phát. Thâm hụt ngân sách được trang trải bằng in tiền
sẽ gây ra lạm phát nếu ngân sách thâm hụt trong một thời kỳ khá dài. Trong
thời kỳ đầu nếu thiếu hụt được trang trải bằng tạo ra tiền tệ thì cung tiền tệ
sẽ tăng làm đường tổng cầu dịch sang phải và mức giá cả tăng lên. Nếu
thâm hụt ngân sách vẫn xảy ra trong thời kỳ sau, cung tiền tệ sẽ lại tăng lên
và đường tổng cầu lại di chuyển sang phải làm mức giá cả tăng hơn nữa.
Khi thâm hụt còn dai dẳng và chính phủ phải tin tiền để trang trải thâm hụt
đó thì quá trình này sẽ tiếp tục và đưa đến lạm phát kéo dài.
Tuy nhiên nếu là thâm hụt tạm thời thì nó sẽ không gây nên lạm phát
trong thời kỳ thâm hụt xảy ra, tiền tệ sẽ tăng lên để trang trải thâm hụt.
Việc di chuyển ra của đường cầu sẽ làm mức giá cả tăng lên trong thời kỳ
sau không còn thâm hụt thì không còn nhu cầu in tiền nữa. Đường tổng cầu
sẽ không di chuyển nữa, mức giá cả sẽ không tiếp tục tăng. Như vậy sự
18
tăng lên một đợt trong cung tiền tệ do thâm hụt tạm thời chỉ gây nên sự
tăng lên một đợt trong mức giá cả và lạm phát không mở rộng.
Mặc dù kết quả là lạm phát nhưng chính phủ vẫn thường xuyên trang
trải thâm hụt dai dẳng bằng tạo thêm tiền. Nếu các nước đang phát triển bị
thâm hụt ngân sách, họ không thể trang trải bằng phát hành trái khoán do
không có một thị trường vốn phát triển nên phải dùng đến cách in tiền. Kết
quả là khi bị thâm hụt nghiêm trọng so với GNP của họ thì cung tiền tệ
tăng trưởng với tỷ lệ cao và gây nên lạm phát. Ngược lại ở những nước
phát triển đặc biệt là Mỹ do có thị trường chứng khoán nhà nước phát triển
tốt nên có thể phát hành nhiều trái khoán để tài trợ thâm hụt. Tuy nhiên
không phải thâm hụt tại Mỹ không có nguy cơ lạm phát bởi Fed có thể có
mục tiêu ngăn chặn lãi suất cao. Khi chính phủ phát hành trái khoán để tài
trợ thâm hụt có thể gây nên áp lực với lãi suất. Khi đó Fed có thể mua trái
khoán để nâng giá trái khoán và ngăn chặn lãi suất tăng, kết quả là cung
tiền tăng lên và gây phát sinh lạm phát.
3. Ảnh hưởng của lạm phát đối với tăng trưởng kinh tế.
Giữa tăng trưởng kinh tế và lam phát thường tồn tại một quan hệ tỷ
lệ chế ước lẫn nhau. Lạm phát chỉ có thể ở một mức nhất định mới phù hợp
cho tăng trưởng kinh tế. Vì thế kiểm soát lạm phát là một trong nhiều mục
tiêu quan trọng của chính sách kinh tế vĩ mô. Về lý thuyết, nếu lạm phát ở
19
mức có thể kiểm soát được thì nền kinh tế có thể tránh được mọi hậu quả
xấu. Nếu không sẽ xảy ra những hậu quả như:
- Lạm phát cao sẽ kìm hãm sự tăng trưởng vì nó làm lệch lạc cơ cấu
giá cả, kéo theo tài nguyên, nguồn lực không được phân bố hiệu quả, kết
cục là tăng trưởng chậm.
- Lạm phát là kẻ thù của tăng trường và đầu tư dài hạn. Nếu các nhà
đầu tư không biết chắc chắn mức giá cả trong tương lại, kéo theo không
biết lãi suất thực thì không ai dám liều lĩnh đầu tư nhất là đầu tư vào các dự
án dài hạn. Lạm phát sẽ đẩy lãi suất lên cao do chủ nợ muốn có sự đảm bảo
cho mức rủi ro lớn. Lãi suất cao kìm hãm đầu tư do đó làm chậm tốc độ
tăng trưởng.
- Lạm phát cao khuyến khích mọi người quan tâm đến lợi ích trước
mắt.
- Lạm phát cao gây khó khăn trong cân đối thu chi ngân sách nhà
nước.
Những nước đã từng trải qua lạm phát cao đều cho rằng không kiểm
soát được lạm phát là điều đáng sợ nhất, toàn bộ hoạt động kinh tế sẽ bị
méo mó, biến dạng nghiệm trọng, tâm lý xã hội phức tạp, lãng phí ghê gớm
tiềm lực trong sản xuất. Mặt khác từ khi rơi vào lạm phát cao cho đến khi
kiểm soát được lạm phát đòi hỏi một phí tổn rất lns cho nền kinh tế.
20
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát là sự biểu hiện tập
trung nhất về các cân đối vĩ mô của nền kinh tế như: cân đối giữa sản xuất
và tiêu dùng, tiết kiệm, đầu tư, thu chi ngân sách, thanh toán quốc tế... Nếu
một trong những cân đối này bị vi phạm sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống
cấn đối vĩ mô của nền kinh tế, đến mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
lạm phát. Khi đó hoặc:
Một là: lạm phát gia tăng. Hậu quả là đầu tư quá mức, hiệu quả thấp,
lãng phí vốn, giá cả tăng, nhu cầu có khả năng thanh toán giảm sút, tốc độ
sản xuất chậm lại, thất nghiệp nảy sinh.
Hai là: lạm phát quá thấp (thiểu phát) khi đầu tư trong nước giảm
sút, một phần vốn đáng kể di chuyển ra ngoài hoặc rút về tích trữ, sản xuất
và lưu thông đình trệ, thất nghiệp gia tăng.
Cả hai trường hợp trên đều ảnh hưởng tiêu cực đến nhịp độ tăng
trưởng của nền kinh tế. Về vấn đề ảnh hưởng của lạm phát đối với vấn đề
tăng trưởng kinh tế tồn tại 2 hệ quan điểm cơ bản.
Quan điểm thứ nhất cho sự ổn định về giá cả (lạm phát bị kiềm chế
giữ vững ở mức 0%) là nền tảng tốt nhất cho sự tăng trưởng nhanh. Những
nhà chính trị và kinh tế theo quan điểm này cho rằng sự ổn định giá trị tiền
tệ là vấn đề cần phải bảo vệ và duy trì. Họ đã đưa ra các lý lẽ tác hại của
lạm phát đối với toàn bộ nền kinh tế và cho rằng chỉ có sự ổn định như vậy
mới thúc đẩy sự tăng trưởng cao và bền vững.
21
Quan điểm thứ 2 với tư tưởng “lạm phát vừa phải” sẽ có tác dụng
khuyến khích sản xuất phát triển với tốc độ cao thông qua lạm phát. Những
người theo quan điểm này cho rằng suy thoái kinh tế còn gây hậu quả
nghiêm trọng hơn nhiều so với vấn đề lạm phát. Ở một mức độ vừa phải,
lạm phát cũng cần cho nền kinh tế để giảm bớt gánh nặng nợ nần và do đó
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trở lại. Họ lập luận rằng lạm phát vừa phải
đóng vai trò như chất bôi trơn, đó là điều lành mạnh giúp kinh tế phát triển.
Hơn nữa cái giá phải trả để giảm lạm phát xuống gần số 0 còn lớn hơn cái
giá phải trả cho việc chấp nhận một ít lạm phát.
Trên thực tế ngày nay chính phủ các nước hầu hết đều công nhận
lạm phát thấp là điều kiện cần thiết cho sự tăng trưởng. Họ cho rằng lạm
phát một chút và giảm một chút thất nghiệp có thể chấp nhận được trong
ngắn hạn. Tuy nhiên áp dụng giải phát này trong dài hạn là không thể chấp
nhận được, nó chỉ làm cho lạm phát ngày càng tăng.Do vậy chỉ còn cách
giữa lạm phát ở mức thấp. Chẳng hạn New Zealand đã đề ra mục tiêu lạm
phát từ 0 đến 2% vào năm 1993, Canada 2% năm 1995, Anh từ 1 đến 4%.
Đối với các nước đang phát triển do xem tăng trưởng kinh tế là mục tiêu
hàng đầu nên họ hầu như không đưa ra mục tiêu duy trì lạm phát thấp như
ở các nước phát triển. Mục tiêu lạm phát của Trung Quốc là dưới
40%/năm, của các nước NIC và ASEAN là 5 đến 10%, Hàn Quốc trong
giai đoạn 1988 – 1993 từ 4,5 đến 9,3%. Do đó mức lạm phát vừa phải trên
22
thực tế là tùy hoàn cảnh, nhiệm vụ, điều kiện cụ thể ở mỗi giai đoạn phát
triển của mỗi nước. Nhưng xu thế phổ biến vẫn là ổn định mức lạm phát.
Tuy nhiên một câu hỏi cần đặt ra là các nước có mức lạm phát cao sẽ
có sự tăng trường kinh tế nhanh hơn hay chậm hơn so với các nước có mức
lạm phát thấp. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng trong giai đoạn 1955 – 1973 (lạm
phát vừa), sự tăng trưởng kinh tế gần như cùng chiều với lạm phát đặc biệt
là Nhật Bản. Những giai đoạn sau thì ngược lại, các quốc gia có mức lạm
phát thấp có khuynh hướng tăng trưởng nhanh hơn. Nhóm các nước có
mức lạm phát trung bình dưới 6%/năm thì mức tăng GDP/đàu người trung
bình là 2,1%/năm, các nước có lạm phát từ 6 – 10%/năm thì mức tăng
trưởng GDP/đàu người là 1,9%, còn những nước có mức lạm phát trên
10%/năm thì mức tăng trưởng GDP/đầu người là dưới 1%.
Qua phân tích các nước phát triển cho thấy mối liên hệ giữa tăng
trưởng và lạm phát trên phương diện chỉ số là không vững chắc và không
trở thành quy luật chung cho các nước.
Lạm phát và tăng trưởng của các nước công nghiệp phát triển.
a. Giá trị tổng sản phẩm trong nước (GDP) (%).
1991 1992 1993 1994 1995
- Mỹ
- Nhật Bản
- 1,2
4,0
2,1
1,3
2,8
- 0,5
3,1
0,5
2,7
2,3
23
- Đức
- Pháp
- Italia
- Anh
- Canada
- G7
- Các nước OECD ở Châu Âu
- Các nước toàn bộ OECD
3,7
0,7
1,3
- 2,2
- 1,7
0,8
1,3
0,8
2,0
1,4
0,9
- 0,5
0,7
1,8
1,1
1,7
- 1,5
- 0,9
- 0,1
2,0
2,5
1,2
- 0,2
1,1
0,8
1,1
1,7
2,0
3,7
2,1
1,5
2,1
2,2
2,7
2,3
2,9
4,1
2,0
2,6
2,7
b. Tỷ lệ lạm phát (%).
1991 1992 1993 1994 1995
- Mỹ
- Nhật Bản
- Đức
- Pháp
- Italia
- Anh
- Canada
- G7
- Các nước OECD ở Châu Âu
- Các nước toàn bộ OECD
2,6
2,1
3,9
3,0
7,4
6,6
2,5
3,9
5,3
4,8
2,9
1,9
5,4
2,3
4,7
4,4
1,1
3,1
4,4
4,0
2,8
1,0
4,0
2,3
3,8
2,0
1,0
2,4
3,2
3,3
2,4
0,7
2,9
1,9
4,1
3,0
1,8
2,2
3,0
3,2
2,8
0,7
2,0
1,6
2,9
3,0
1,9
2,1
2,5
3,1
24
Trong thực tế cũng có trường hợp:
- Khi kinh tế tăng trưởng cao, nhu cầu tài chính mở rộng kéo theo chỉ
số giá tăng. Chỉ số giá ở đây là hệ quả chứ không phải là động lực.
- Khi lạm phát cao buộc phải thu hẹp tín dụng thì lạm phát giảm,
mức tăng GDP danh nghĩa có xu hướng chậm lại làm mức tăng GDP danh
nghĩa gắn với mức tăng thực tế.
Mặc dù còn nhiều điểm chưa thống nhất nhưng các nhà kinh tế đều
thừa nhận sự thành công về sự tăng trưởng nhanh nhất trong giai đoạn dài
là việc tạo ra môi trường kinh tế – tài chính ổn định, thuận lợi, trong đó duy
trì mức lạm phát trung bình 8%, thấp hơn nhiều so với mức trung bình 18%
ở các nước đang phát triển khác trong 30 năm qua. Thực tế trong mấy thập
kỷ qua cho thấy nước nào có tỷ lệ lạm phát cao hơn tốc độ tăng trưởng thì
nền kinh tế không phát triển được, điển hình là Philippin. Ngược lại những
nước như Hàn Quốc, Thái Lan, Singapo, Malaysia luôn kiểm soát được
lạm phát và giữ tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ lạm phát nên đã phát
triển nhanh chóng.
25
PHẦN II. LẠM PHÁT VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
TRONG THỰC TIỄN KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1. Lạm phát và trăng trưởng kinh tế trong những năm qua.
Trong những năm qua, nền kinh tế Việt Nam đã chuyển sang một
gian đoạn mới, đó là nhờ kinh tế tăng trưởng cao trong khi lạm phát bị đẩy
lùi, khống chế ở mức hợp lý. Liên tục từ năm 1988, mọi nỗ lực của chính
phủ được tập trung vào kiềm chế, đẩy lùi lạm phát từ mức 3 chữ số xuống
còn 1 chữ số. Đây là kết quả của quá trình đổi mới và phát triển kinh tế ở
Việt Nam. Trong khi lạm phát được kéo xuống thì kinh tế vẫn tăng trưởng
cao và khá ổn định, bình quân hàng năm tăng 7 – 8%.
Tăng trưởng kinh tế và lạm phát (tỷ lệ %)
Năm 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995
Tăng trưởng 5,1 8,0 5,1 6,0 8,6 8,1 8,8 9,5
Lạm phát 410,9 34,8 67,2 67,4 17,2 5,2 14,4 12,7
Công cuộc chống lạm phát ở Việt Nam tập trung chủ yếu vào những
vấn đề: Nối lỏng cơ chế kiểm soát giá cả, phi tập trung hóa tiến trình ra các
quyết định về kinh tế, thống nhất điều hành tỷ giá theo quan hệ cung cầu
ngoại tệ, khuyến khích xuất khẩu đồng thời thi hành một chính sách lãi suất
26
thực dương, kết hợp thắt chặt đúng mức việc cung ứng tiền trung ương.
Các giải pháp lúc đầu được tiếp nối với sử dụng từng bước có hiệu quả các
công cụ tài chính đã nhanh chóng đem lại nhiều thành quả đáng khích lệ
trong điều kiện kiểm soát được lạm phát. Cụ thể:
- Lòng tin của dân chúng vào đồng tiền Việt Nam đã từng bước được
khôi phục. Tiền tệ ổn định khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài
tăng nhanh. Tích lũy đầu tư của cả nước năm 1993 bằng 17,6% GDP, tăng
đáng kể so với tỷ lệ tích lũy 11 – 12% những năm trước.
Năm GDP/người
(Tr đồng)
Tốc độ tăng
GDP (%)
Tốc độ tăng
tiêu dùng
(%)
Tỷ lệ tích
lũy/GDP
(%)
Tỷ lệ để
dành/GDP
(%)
1989
1990
1991
1992
1993
95
98
109
131
163
8,0
5,1
6,0
8,6
8,1
8,1
8,3
3,6
5,4
4,4
11,6
12,6
15,0
17,6
20,5
7,2
-
-
6,9
15,0
Nguồn: Tổng cục thống kê 1994
- Trong tổng số tích lũy năm 1993, tích lũy Nhà nước chiếm 43%,
đầu tư trực tiếp nước ngoài 40%. Tỷ lệ đầu tư nước ngoài này tương đương
27
tỷ lệ đầu tư nước ngoài vào Singapo một nền kinh tế được coi là mở cửa
rộng nhất ở Châu Á hiện nay.
- Tỷ lệ tiền để dành của cả nền kinh tế trên GDP năm 1992 là 6,9%,
năm 1993 là 15% GDP. Đây là một bước ngoặt lớn về tích lũy so với trước
đây.
- Năm 1989, khi các cơ sở sản xuất nông nghiệp được phi tập trung
hóa và giá nông sản được thả nổi, cùng với tác động của các yếu tố khác,
chỉ trong vòng 1 năm Việt Nam đã từ chỗ phải nhập khẩu gạo đã trở thành
một nước xuất khẩu gạo, thu nhập của nông dân tăng lên.
- Công cuộc chống lạm phát và đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế đã
được tạo điều kiện hết sức thuận lợi qua việc môi trường pháp lý đã từng
bước được kiện toàn, đầu tư trong nước và nước ngoài tăng mạnh số doanh
nghiệp làm ăn thu lỗ đã giảm hơn, tỷ trọng GDP của khu vực kinh tế nhà
nước không ngừng được nâng cao.
Mức độ phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong năm qua có được
là nhờ kinh tế tăng trưởng cao trong khi lạm phát bị đẩy lùi và bị khống chế
ở mức hợp lý. Điều này trái ngược hẳn với một số quốc gia khi chống lạm
phát thường làm kinh tế suy thoái.
Bên cạnh những thành tựu đạt được cũng nảy sinh nhiều khó khăn
mới:
28
- Lạm phát giảm trong điều kiện nhập siêu vốn nước ngoài (chủ yếu
là vay nợ) đã làm cho đồng tiền Việt Nam có xu hướng lên giá so với một
số đồng tiền khác, ảnh hưởng bất lợi đến việc khuyến khích đẩy mạnh xuất
khẩu, thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong khi đó sản xuất
trong nước bị chèn ép, cạnh tranh mảnh bời hàng nhập đặc biệt là hàng
nhập lậu. Năm 1992 tỷ lệ hàng tích lũy phải nhập lên tới 63,7%, tỷ lệ sản
phẩm trung gian dùng trong sản xuất phải nhập lên tới 25%. Cán cân
thương mại do đó tiếp tục thâm hụt trong điều kiện đó việc tăng trưởng
kinh tế cao hơn sẽ kích thích lạm phát gia tăng, gây khó khăn cho việc duy
trì thành quả đạt được. Do đó giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lạm phát
và tăng trưởng kinh tế phải được tiếp tục. Năm 1994, mức lạm phát do
quốc hội thông qua là 10% nhưng do một số nguyên nhân khách quan như
giá cả thị trường thế giới tăng ảnh hưởng đến trong nước, thiên tai, bội chi
ngân sách... đã khiến lạm phát vượt mức dự kiến 14,4%. Pphân tích đã chỉ
ra rằng năm 1994 lạm phát tăng chủ yếu thuộc về khâu cung ứng hàng hóa,
trong đó lương thực chiếm phần quan trọng. Trong một thời gian dài giá
lương thực đã đứng mở mức thấp so với giá cả các mặt hàng khác nên gía
lương thực tăng lên ở chừng mực nhất định là hợp lý và phản ánh đúng
thực tế.
Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi gắn với nhiều
bất ổn nên mức lạm phát có thể vượt quá so với mức dự kiến hàng năm.
Mức lạm phát năm 1994 tuy không đạt kế hoạch nhưng có yếu tố có thể
29
chấp nhận được. Nhiều nhà kinh tế cho rằng cần phải xác lập một tỷ lệ nhất
định giữa tăng trưởng và lạm phát. Có ý kiến cho rằng phải kiềm chế lạm
phát thấp, ổn định giá cả để phát triển kinh tế dù ở nhịp độ thấp nhưng ổn
định lâu dài (các nước nhân NICS). Ngược lại có ý kiến lại cho rằng
khuyến khích lạm phát mới tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển mạnh
mẽ. Tuy nhiên nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi cơ
cấu và xuất phát điểm rất thấp so với các nước khác nên để tránh khỏi tụt
hậu, kinh tế Việt Nam phải đạt tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm.
Muốn vậy, Việt Nam có thể phải duy trì tỷ lệ lạm phát vài năm đầu cao hơn
mức tăng trưởng trong nước một chút, kéo dần xuống những năm sau. Tuy
nhiên nói như vậy không có nghĩa là chúng ta thả nổi hoàn toàn lạm phát.
Tỷ lệ lạm phát ở mức dự tính hợp lý và có khả năng kiểm soát được để làm
cơ sở cho việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ hàng năm nhằm
giải quyết cùng lúc 2 mục tiêu là ổn định tiền tệ và đảm bảo tăng trưởng
kinh tế cao, liên tục, lâu dài.
2. Vấn đề mới nảy sinh: Giảm phát và ảnh hưởng của nó đối với
tăng trưởng kinh tế:
a. Thực trạng vấn đề giảm phát:
Một điều có vẻ không bình thường là trong khi đang là giai đoạn
phục hồi của các nền kinh tế bị khủng hoảng nặng ở Châu á thì kinh tế Việt
Nam lại đang trên đà đi xuống. Việc đi xuống này rất khó hãm lại và việc
30
đưa nền kinh tế trở lại mức tăng trưởng dù chỉ ở mức trên dưới 6% đã rất
khó khăn. Tốc độ tăng GDP 6 tháng đầu năm 1999 chỉ đạt 4,3 % trong khi
chỉ số giá giảm liên tục. Mức lạm phát 9 tháng chỉ là 0,2% trong 6 tháng
đầu năm 1999, trừ 2 tháng 1 và 2 là hai tháng giáp tết, giá cả diễn biến hợp
quy luật, 4 tháng còn lại chỉ số giá tiêu dùng CPI liên tiếp mang dấu âm.
Tình hình 6 tháng cuối năm cũng không khả quan hơn.
Tháng 1: 1,7%, tháng 2: 1,9%; tháng 3: - 0,7%; tháng 4: - 0,6%,
tháng 5: - 0,4%, tháng 6: - 0,3%.
Mức lạm phát 6 tháng đầu năm 1999 là 1,6% thấp hơn nhiều cùng kỳ
năm 1998 (6%). Giảm phát xuất hiện đã gây thêm khó khăn cho nền kinh tế
vốn đang trì trệ. Trong khoảng 7/99, các hoạt động kinh tế chưa có sự
chuyển biến tích cực. Chỉ số giá cả tháng 7 tiếp tục giảm 0,4% làm cho tỷ
lệ lạm phát 7 tháng đầu năm 1999 chỉ ở mức 1,2%.
Trong 10 nhóm hàng hóa hình thành CPI thì giá hầu hết các mặt
hàng đều giảm, giảm mạnh nhất là lương thực. Đây là nguyên nhân cơ bản
làm giảm mức thu nhập bằng tiền do đó làm giảm sức mua của 76,5% dân
số là nông dân là 1 trong những nguyên nhân gây giảm phát.
Đối với một nền kinh tế có hiện tượng giảm phát, điều dễ nhận thấy
là tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất gồm sản xuất – phân phối – trao
đổi, tiêu dùng đều ở trạng thái trì trệ. Các doanh nghiệp chỉ sản xuất cầm
chừng, sản phẩm làm ra ứ đọng, sức cạnh tranh trên thị trường yếu ớt, hoạt
31
động xuất nhập khẩu bị thu hẹp. Nhiều nước trong khu vực phá giá đồng
tiền tung ra thị trường khối lượng lớn hàng hóa rẻ gây cạnh tranh gay gắt
về giá và chất lượng với hàng sản xuất trong nước. Trong nội địa sức mua
xã hội dường như bão hòa trong khi tại các cửa khẩu biên giới hàng lậu
đươcj tuôn vào tràn lan với giả rẻ.
Giảm phát sẽ gây ra nguy hại cho nền kinh tế nếu nguyên nhân do
mức cầu giảm năng lực sản xuất dư thừa và mức cung ứng tiền thu hẹp.
Khi ấy giảm phát sẽ gây ra những tác hại to lớn. Người tiêu dùng sẽ trì
hoãn việc mua hàng với hy vọng giá ngày mai sẽ thấp hơn giá hôm nay.
Tâm lý này sẽ làm giảm mức cầu xã hội buộc các nhà sản xuất phải liên tục
giảm giá hàng. Nếu kéo dài, nhiều doanh nghiệp sẽ phải ngừng sản xuất
hoặc sập tiệm. Giá hàng hạ làm tăng mức dư nợ thực tế của các doanh
nghiệp không trả được nợ ngân hàng kéo ngân hàng đến bờ phá sản. Nó
còn làm các khoản thu ngân sách giảm sút, kìm hãm tốc độ trăng trưởng
kinh tế. Nguy hại hơn là giảm phát có thể vô hiệu quá chính sách lãi suất
một công cụ quan trọng để điều hành chính sách tiền tệ quốc gia.
b. Nguyên nhân giảm phát.
Giảm phát là hiện tượng thị trường bị chi phối bởi hai yếu tố cung và
cầu. Thực chất của nó trong trường hợp Việt Nam tại thời điểm năm 1999
là tình trạng cung ngày càng vượt xa cầu.
* Các nguyên nhân về phía cung:
32
Trước hết cần khẳng định rẳng không hề có sự dư thừa cung nói
chung mà chỉ là sự dư thừa cung trong cơ cấu. Tình trạng ứ đọng sản phẩm
sản xuất cầm chừng không xảy ra đối với toàn bộ nền kinh tế, với tất cả các
ngnàh, tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi khu vực mà chỉ xảy ra cho một
số sản phẩm, một số ngành hẹp và tập trung vào một số doanh nghiệp thuộc
một vài khu vực nhất định. Khi bị đẩy tới mức nghiêm trọng thì hiệu ứng
của nó lan tỏa sang toàn bộ nền kinh tế khi đó nó gaay ra cảm giác dư thừa
cung toàn bộ. Cụ thể nhiều sản phẩm bị tồn kho nhiều nhât chính là những
ngành được ưu tiên phát triển trong những năm gần đây như xi măng,
đường, thép, gạch ốp lát. Những ngành sản phẩm bắt đầu bị ứ đọng từ năm
1988 thì sang 1999 duy trì mức tăng trưởng thuộc loaị cao nhất, làm cho
cung cầu thị trường đối với chúng trở nên gay gắt hơn. Hầu hết những
doanh nghiệp chịu hậu quả nặng nền nhất thuộc khu vực kinh tế nhà nước.
HIện tượng “thừa cung” trong lĩnh vực dịch vụ là hậu quả trực tiếp của tình
trạng “thiếu cầu” do mức thu nhập dân cư trong nước giảm và do tác động
của khủng hoảng. Như vậy nguyên nhân ách tắc thị trường năm 1999 là do
sự mất cân đối mang tính cơ cấu, chiến lược đầu tư không phù hợp, phản
ứng chính sách chưa kịp thời vẫn tiếp tục duy trì mức đầu tư, tăng trưởng
cao cho những sản phẩm khó tiêu thụ, làm gia tăng thêm tình trạng mất cân
đối cung cầu.
Ngoài ra cũng có những nguyên nhân bên ngoài như xu hướng giảm
giá toàn cầu trong đó có giá các sản phẩm xuất khẩu và thay thế nhập khẩu
33
chủ yếu của Việt Nam là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây nên
tình trạng giảm phát của nước ta trong năm 1999.
* Các nguyên nhân về phía cầu:
Tổng cầu suy giảm là nguyên nhân làm tăng thêm tình trạng mất cân
đối thị trường. Nó bắt nguồn từ một số lý do.
Thứ nhất: số lao động thất nghiệp, thiếu việc làm tăng nhanh là yếu
tố quan trọng hàng đầu làm giảm thu nhập dân cư đặc biệt là trong ngành
than (8 vạn lao động không đủ việc làm) và ngành mía đường (40 vạn lao
động bị ảnh hưởng về việc làm và thu nhập ).
Thứ hai: mức giá nông sản nội địa giảm nhan hơn mức tăng sản
lượng làm chi phí sản xuất của nông dân tăng nhanh hơn thu nhập. Cả tổng
thu nhập và hiệu quả hoạt động trong nông dân đều giảm.
Thứ ba: sự giảm sút thu nhập làm cho việc chi tiêu của dân cư có xu
hướng tăng tỷ phần chi tiêu vào các mặt hàng tiêu dùng tối thiểu với giá rẻ,
chất lượng phải chăng làm giảm sức mua đối với các sản phẩm cao cấp
hoặc mang tính đầu tư, mua hàng nhập lậu tăng.
Thứ tư: trong điều kiện thu nhập giảm người dân vẫn giữ tiền tiết
kiệm vào các ngân hàng hơn là giữ lại ddể chi tiêu. Do lòng tin vào triển
vọng kinh tế ít sáng sủa trong thời gian tới thúc đẩy dân cư gửi tiền như các
bảo đảm cho tương lai hơn là mua hàng để tiêu dùng hiện tại.
34
Ngoài những nguyên nhân kể trên, một nguyên nhân khác không
kém phần quan trọng đó là việc đề ra và thực hiện các giải pháp để đối phó
với tình trạng giảm phát nêu trên thường ít chú ý đến tính hệ thống và phản
ứng daay chuyền, dễ triệt tiêu lẫn nhau. Vì vậy tình hình không được khắc
phục mà tiếp diễn trong suốt thời gian khá dài. Điểm này sẽ được xem xét
kỹ hơn trong mục tiếp theo: “Các giải pháp kích cầu và hiệu quả áp dụng”.
c. Các giải pháp “kích cầu” và hiệu quả áp dụng:
Trong năm 1999, nỗ lực chính sách lớn nhất là áp dụng các giải pháp
“kích cầu” nhằm khắc phục tình trạng giảm phát. Những giải pháp được coi
là mạnh nhất trong số đó là 4 lần giảm lãi suất, tăng đầu tư nhà nước, tưang
lương cho người lao động trong khu vực nhà nước bằng cách giảm ngày
làm việc. Tuy nhiên thực tế cho thấy hiệu quả áp dụng các giải pháp này là
rất thấp. Thị trtường hầu như không có phản ứng gì tích cực đối với các
giải pháp vốn được coi là hết sức nhạy cảm trong điều kiện bình thường
của kinh tế thị trường.
* Giải pháp hạ lãi suất:
Năm 1999, ngân hàng nhà nước đã hạ lãi suất trần 4 lần và nới lỏng
các điều kiện tín dụng. Mục đích của hành động này về cơ bản là xuất phát
từ động cơ kích cầu (khuyến khích vay để chi tiêu và đầu tư). Mặt khác hạ
lãi suất trước hết là phản ứng thuần túy thị trường khi mức lạm phát giảm
mạnh. Vì vậy việc hạ lãi suất bị động cơ khách quan (giảm mức lạm phát)
35
triệt tiêu sức kích thích của động cơ chủ quan (khuyến khích vay). Đây là
lý do đầu tiên giải thích tại sao sau những lần hạ lãi suất kết luận vay ngân
hàng của các doanh nghiệp hầu như không tăng, vốn vẫn ùn đọng trong hệ
thống ngân hàng, dân chúng vẫn tiếp tục gửi tiền vào ngân hàng.
Về phía các doanh nghiệp đa số doanh nghiệp đang thực sự thiếu cơ
hội đầu tư hơn là thiếu vốn. Sự ách tắc thị trường đã đến mức làm triệt tiêu
đáng kể cơ hội và mong muốn gia tăng đầu tư để thoát khỏi tình thế bế tắc
trong kinh doanh của các doanh nghiệp. Như vậy điều cần suy nghĩ là giảm
lãi suất có phải là một công cụ mạnh để tăng cơ hội đầu tư của doanh
nghiệp hay không. Việc ngân hàng hạ lãi suất trần 4 lần song kết quả vẫn
chưa thu được là bao chứng tỏ nguyên nhân không phải ở lĩnh vực tiền tệ,
do đó công cụ lãi suất hoạt động không có hiệu quả.
Về phía các ngân hàng, một mặt gánh nặng nợ quá hạn đã đạt đến
con số khổng lồ làm các ngân hàng phải chịu rủi ro rất lơns do không thu
hồi được vốn (chương trình mía đường nợ 4500 tỷ đồng, ngành xi măng và
cao su mỗi ngành nợ 3000 tỷ đồng, chương trình nhà ở đồng bằng sông
Cửu Long, chương trình khắc phục hậu quả cơn bão số 5... nợ hơn 4000
tỷ...). Mặt khác dường như các ngân hàng đang lâm vào tình trạng bội thực
về vốn: huy động vốn tiết kiệm nhiều nhưng ngân hàng lại không thể cho
vay (vì nhiều doanh nghiệp không dám) và không dám cho vay (vì rất
nhiều doanh nghiệp muốn vay là doanh nghiệp thua lỗ và có nguy cơ phá
36
sản). Tình hình kinh tế đã trở nên trì trệ đến mức giảm lãi suất hầu như
không có tác dụng kích thích đầu tư. Tuy nhiên nguyên nhân sâu sa của vấn
đề lại là tình trạng cơ cấu bởi đối tượng cho vay chính của các ngân hàng
hiện nay vẫn là các doanh nghiệp nhà nước, nhiều trường hợp được vay
theo chỉ định. Vì vậy hạ lãi suất không chỉ nhằm mục tiêp kích cầu mà còn
chủ yếu nhừam tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp nhà nước hoạt
động kém hiệu quả.
Việc giảm lãi suất nhằm vào những mục tiêu không hoàn toàn đồng
hướng với nhau vì thế tạo ra xu hướng triệt tiêu tác dụng, làm cho công cụ
phát huy được hiệu quả thậm chí còn tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn định.
* Giải pháp chi tiêu và đầu tư ngân sách nhà nước:
Trong lĩnh vực ngân sách có 2 giải pháp quan trọng đã được áp dụng
trong năm 1999 là thuế VAT và phát hành công trái với khối lượng 4000 tỷ
đồng.
- Về giải pháp VAT: Về nguyên tắc việc áp dụng thuế VAT là một
bước đi đúng đắn hướng tới hình thành một môi trường kinh doanh lành
mạnh rõ ràng hơn trong nền kinh tế và trong cơ chế vận hành ngân sách.
Nó là một khâu quan trọng trong chương trình cơ cấu lại nền kinh tế. Tuy
nhiên việc triển khai VAT một phần do chuẩn bị chưa hoàn toàn chu đáo,
bước đi chưa thật đồng bộ với sự thay đổi trong toàn bộ hệ thống thuế
nhưng các doanh nghiệp phản ứng khá mạnh. Trong thực tế việc áp dụng
37
VAT 10% là cao làm tổng mức đóng góp ngân sách của nhiêù doanh
nghiệp tăng lên trong khi dknh doanh gặp nhiều khó khăn thì việc áp dụng
VAT như vậy không góp gì vào việc tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp
như mục tiêu nỗ lực kích cầu của chính phủ. Mặt khác điều chỉnh mức
VAT lại giải quyết theo từng trường hợp có khả năng làm phục hồi cơ chế
xin – cho trong quan hệ giữa nhà nước và doanh nghiệp, gây thêm trở ngại
thể chế chứ không phải đẩy mạnh cải cách theo cơ chế thị trường.
- Về việc phát hành công trái: mục tiêu là nhà nước vay tiền nhàn rỗi
của dân cư để tài trợ cho các chương trình đầu tư. Nhưng mua công trái
chính phủ có nghĩa là thu hẹp chi tiêu dân cư. Điều này là một giải pháp đi
ngược với nỗ lực kích cầu của chính phủ.
Trên thực tế kết quả của công việc này cũng cho thấy tuyệt đại bộ
phận vốn huy động qua phát hành công trái là từ khu vực doanh nghiệp
(trong đó đa số là doanh nghiệp nhà nước) và các tổ chức. Như vậy một
mặt huy động công trái lần này thực chất chỉ là hình thức chuyển vốn từ
“túi” này của nhà nước (doanh nghiệp nhà nước) sang “túi” khác của nhà
nước (ngân sách) và nhà nước lại phải trả lãi suất cao cho chính nguồn vốn
của mình. Mặt khác phát hành công trái là để có vốn cho chương trình đầu
tư cho 1000 xã đói nghèo. Tuy nhiên trên độ giải ngân rất chậm làm giảm
hiệu quả của vốn vay. Nhìn chung các giải pháp tài chính trong năm 1999
đã hướng vào nhiều mục tiêu, nếu xét tách biệt thì chúng đều tích cực
38
nhưng khi đặt trong tổ hợp thì chúng lại hạn chế, triệt tiêu lẫn nhau, vì vậy
đã không đạt được kết quả mong muốn.
PHẦN III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP.
1. Những giải pháp chung để kiểm soát lạm phát, ổn định tăng
trưởng kinh tế trong những năm sắp tới:
a. Nhóm những giải pháp cấp bách:
a1. Về tiền tệ tín dụng:
- Tiếp tục phát triển thị trường vốn ngắn hạn, củng cố thị trường đấu
thầu tín phiếu kho bạc và triển khai thị trường mua bán tín phiếu đó.
-Tái cấp vốn đối với các tổ chức tín dụng tối đa không vượt quá mức
cung ứng dành chyo mục tiêu tăngphương tiện thanh toán đã dự kiến. Lãi
suất tái cấp vốn xần thực hiện theo hướng thắt chặt tín dụng. NHTW phải
triệt để thu nợ đến hạn và quá hạn của các tổ chức tín dụng.
- Tiếp tục khống chế hạn mức tín dụng đối với các NHTM trên cơ sở
vừa đáp ứng nhu cầu tín dụng cho tăngtrưởng kinh tế, vừa kiếm chế lạm
phát. Tổ chức kiểm tra, thanh tra các hàng hoá tín dụng của các NHTM để
nâng cao hiệu quả tín dụng, thu hồi vốn và lãi suất đúng hạn, giảm tỷ trọng
nợ quá hạn. Kiên quyết xử phạt đối với NHTM vi phạm hạn mức tín dụng.
- Kiểm soát chặt việc chấp hành mức dự trữ bát buộc.
39
- Tiến hành sơ kết họat động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
để bổ sung quy chế nhằm nâng cao hiệu quả họat động của thị trường này.
Hạn chế việc sử dụng tiền phát hành để mua ngoại tệ cho quỹ điều hoà.
Khuyến khích các NHTM mua ngoại tệ bằng tiền huy động của dân cư để
bán cho các cơ sở sản xuất kinh doanh có nhu cầu nhập khẩu. NHTW sử
dụng quỹ kinh doanh để mua ngoại tệ góp phần ổn định tỷ guía đồng Việt
Nam với ngoại tệ.
a2. Vể ngân sách Nhà nước.
- Đổi mới quản lý tài chính doanh nghiệp theo luật donh nghiệp Nhà
nước và chế độ ké toán mới, đảm bảo nguyên tắc tốc độ tăng tiền lương
phải thấp hơn tốc độ tăng trưởng năng suất lao động.
- Không bố trí các khoản chi chưa có nguồn thu, thu không đạt kế
hoạch phải giảm chi tương ứng. Việc sửa đổi bổ sung hoặc ban hành chế độ
mớilàm tăng chi trong năm chỉ được thực hiện khi có nguồn thu chắc chắn.
Sử dụng qũy dự phòng cho các nhu cầu chi ngoài kế hoạch phải được cấp
có thẩm quyền phê duyệt.
- Bảo đảm trả các khoản nợ theo kế hoạch, không vì khó khăn của
ngân sách mà chuyển nợ sang năm sau.
a3- Về cung ứng hàng hoá.
Phải đảm bảo trên thị trường có đầy đủ hàng hoá, đáp ứng tốt nhất
nhu cầu có khả năng thanh toán của các tầnglớp dân cư không chỉ trên tổng
40
thể mà còn về cơ cấu hàng hoá nhất là các mặt hàng thiết yếu. Đối với mặt
hàng quan trọng thường có những cơn sốt giá trong năm cần tính toán rà
soát kỹ để xác định mức bán ra cần thiết như đối với lương thực, xi măng,
sắt thép, đường, phân bón, giấy viết...
a4- Về chỉ đạo điều hành:
- Chính phủ các bộ ngành, địa phương, tổng công ty kinh doanh
những mặt hàng quan trọng thiết yếu đối với sản xuất và đời sống phải xây
dựng phương án kiềm chế lạm phát. Các phương án đó phải được phê
duyệt, tổ chức thanh tra kiểm tra thường xuyên.
- Các công ty kinh doanh các mặt hàng trọng thiết yếu phải chịu
trách nhiệm trước bộ quản lý về tình hình giá cả các mặt hàng do mình phụ
trách. Bộ Thương mại, Ban vật giá chính phủ phải phối hợp chặt chẽ với
các Bộ chuyên ngành trong việc ổn định tình hình giá cả trên thịt trường cả
nước.
- Việc chống buôn lậu phải có sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan
có liên quan (Bộ Thương mại, thuế, hải quan, công an, quân đội...)
b. Nhóm những giải pháp cơ bản và lâu dài: có liên quan đến việc
đổi mới các chính sách kinh tế và công tác điều hành phù hợp với cơ chế
thị trường.
b1. Về cơ chế chung của nền kinh tế:
41
- Các doanh nghiệp thực sự và buộc phải cạnh tranh bình đẳng trong
kinh doanh. Sự can thiệp hành chính làm méo mó môi trường kinh doanh
phải hạn chế ở mức cần thiết.
- Các biện pháp quản lý mang tính quá độ phải được thay thế bằng
các công cụ kinh tế thị trường như tình trạng 2 mức lãi suất tín dụng, ngân
hàng nhà nước quy định mức lãi suất.
- Các loại thị trường phải được thiết lập một cách đồng bộ, kể cả thị
trường tiền tệ, thị trường vốn.
b2. Về doanh nghiệp nhà nước:
- Tiếp tục sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp nhà nước để nâng cao
hiệu quả, chống thất thoát lãng phí vốn và tài sản nhà nước.
- Sửa đổi quy chế giao vốn và quản lý vốn đối với doanh nghiệp nhà
nước, phân biệt doanh nghiệp kinh doanh và doanh nghiệp công ích theo
luật doanh nghiệp. Thực hiện đánh giá lại tài sản doanh nghiệp nhà nước
theo giá thị trường.
- Sửa đổi chế độ phân phối lợi nhuận doanh nghiệp tạo điều kiện và
buộc doanh nghiệp bảo toàn được vốn và dành phần lợi nhuận thích đáng
để tái đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh.
42
b3. Về ngân sách nhà nước: cần sử dụng hợp lý và có hiệu quả nguồn
vốn của ngân sách nhà nước đi đối với tiếp tục đổi mới hệ thống thuế và tổ
chức thu thuế để tăng được nguồn thu.
- Đấu thầu trong việc mua sắm các tài sản, vật tư từ nguồn vốn ngân
sách nhà nước.
- Tiến tới chấm dứt hẳn các hoạt động bao cấp của ngân sách nhà
nước cho khu vực doanh nghiệp nhà nước thông qua việc cấp vốn bổ sung
hoặc trợ giá, hay các bao cấp gián tiếp khác.
- Đầu tư vào các công trình kinh tế phải dựa trên tính toán hiệu quả
và khả năng hoàn vốn.
b4. Việc chính sách tiền tệ và tín dụng:
- Không phát hành tiền theo kế hoạch mà theo tín hiệu của thị trường
là chủ yếu. Việc tính toán lượng tiền phát hành thêm (căn cứ vào tốc độ
tăng trưởng và tốc độ lạm phát dự kiến) chỉ nên coi là một phương tiện chủ
động chứ không thể là căn cứ cho chính sách tiền tệ.
- Phải tiến tới tự do hóa lãi suất và thực hiện cơ chế một lãi suất thị
trường. Muốn vậy cần hình thành thị trường tín dụng, khắc phục tình trạng
độc quyền của các ngân hàng thương mại quốc doanh hiện nay.
- Thúc đẩy nhanh quá trình hình thành và áp dụng các công cụ của
thị trường mở để điều hành lưu thông tiền tệ.
43
- Cải tiến để mở rộng diện tính toán không dùng tiền mặt để giảm
bớt chi phí giao dịch trong thanh toán bằng tiền mặt.
b5. Cơ chế xuất nhập khẩu và thuế quan:
Chính sách thuế quan và các chính sách thương mại khác chỉ nhằm
hạn chế nhập khẩu đối với một số hàng hóa cần thiết phải bảo hộ sản xuất
trong nước (các hàng hóa sản xuất trong nước đã đáp ứng được nhu cầu,
hàng hóa có nhiều tiềm năng phát triển nhanh chóng, các mặt hàng mới áp
dụng công nghệ hiện đại, tạo nguồn thu lớn cho ngân sách hay tạo nhiều
chỗ làm việc). Còn với đa số các mặt hàng khác cần nghiên cứu xóa bỏ
từng bước các hạn chế nhập khẩu hiện nay như các quy chế về hạn ngạch,
các thủ tục hành chính trong việc nhập khẩu.
2. Giải pháp khắc phụ giảm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
trong thời điểm hiện nay:
Như đã trình bày trong phần trước, năm 1999 nhà nước đã thực hiện
một số biện pháp kích cầu để khắc phục giảm phát song vẫn không đưa lại
mấy kết quả. Vì vậy vấn đề đặt ra hiện nay là cần phải đề ra được những
giải pháp mới. Có thể kể đến một số giải pháp như sau:
- Giảm thuế và tăng chi tiêu của chính phủ khi cần phải kích cầu.
Đây không bao giờ là bài học cũ. John M.Keynes đã nói “thuế là công cụ
trực tiếp nhất, mãnh liệt nhất, quan trọng nhất trong việc tăng hay giảm tiêu
dùng”. Thuế tăng sẽ bóp ngặt tiêu dùng, giảm tổng cầu và kéo giá cả
44
xuống. Điều này đúng ở mọi nơi mọi lúc. Bài học này đã được nhiều nước
áp dụng và mang lại kết quả rất đáng khả quan đặc biệt là Nhật Bản và
Trung Quốc.
- Thực hiện việc nới lỏng chính sách tiền tệ. Vai trò hàng đầu của
chính sách tiền tệ hiện nay là làm dịu bớt suy giảm tổng cầu, tạo sự an toàn
về niềm tin sản xuất, tái cung ứng vốn với lãi suất tối thiểu cho hệ thống tài
chính, chấp tăng một mức lạm phát nhỏ để đổi lấy tăng trưởng thực. Mặt
khác, việc cắt giảm lãi suất và nới lỏng tiền tệ phải được tiến hành song
song với việc cải thiện chính sách cho vay. Vì nếu không khó mà khuyến
khích giới kinh doanh vay tiền. 9 tháng đầu năm 1999, cho vay từ cửa sổ
ngân hàng thương mại không tăng, dư nợ quá lớn trong khi đầu tư vào
nông nghiệp và tín dụng nông thôn lại thấp.Tất cả đều xuất phát từ sự
chồng chéo của quy định cho vay, thế chấp, thủ tục.Vì vậy sản xuất vẫn sẽ
tiếp tục đối vốn, cho dù lãi suất hạ, tiền tệ mở rộng, nếu chính sách đầu tư
của hệ thống ngân hàng thương mại vẫn không được cải cách nhanh chóng
và quyết liệt.
- Chú trọng phát triển xuất khẩu sang cả thị trường có tổng cầu cao
và ổn định. Kích thích tổng cầu, quan tâm đến thị trường trong nước là
cách làm cơ bản và lâu dài cho sự tăng trưởng ổn định.Tuy nhiên, vì Việt
Nam là một nước đang phát triển nên vẫn phải chú trọng đến thị trường bên
ngoài. Thị trường khu vực hiện nay đang suy thoái. Vì vậy Bắc Mỹ vẫn là
45
thị trường có tổng cầu cao và ổn định nhất. Phát triển được xuất khẩu vào
thị trường có tổng cầu cao và ổn định có nghĩa là bảo vệ được giá xuất
khẩu, chống giảm phát. Hơn thế nữa, nó còn tạo được sự ổn định cho đầu ra
và công việc của lao động trong nước, gián tiếp kích thích tổng cầu nội địa.
- Cải tạo cơ cấu thị trường sản phẩm nội địa. Tạo ra một thị trường
có khả năng đáp ứng những nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng chính là
chìa khóa để kích thích tiêu dùng nội địa, tăng tổng cầu, mở rộng GDP,
chống giảm phát. Muốn vậy một mặt các doanh nghiệp phải tập trung sản
xuất vào những sản phẩm trọng yếu, xây dựng nhãn hiệu và uy tín thương
trường, tránh tình trạng chạy theo quy mô làm tăng nợ, giàn mỏng chuyên
môn, tạo sản phẩm kém cạnh tranh. Mặt khác cần xóa bỏ nhanh chóng cơ
chế độc quyền hiện nay trên thị trường. Đây là trợ lực lớn cho việc xây
dựng một thị trường sản phẩm tốt vì nó làm tăng chi phí một cách giả tạo
và vô lý.Tình trạng đắt giá giả tạo do độc quyền gây ra làm giảm tiêu dùng,
không kích thích được cạnh tranh và phát triển sản xuất.
- Cần có những định hướng cần thiết trong chính sách kinh tế quốc tế
của ta. Cơ cấu phụ thuộc quốc tế buộc những chính sách vĩ mô của một
nước phải được xây dựng trong sự tương quan với chính sách vĩ mô của
các nước đối tác nhất là những đối tác mạnh.Đây là cơ chế của sự phối hợp
quốc tế về chính sách vĩ mô.Cơ chế này tạo ra những khả năng duy trì và
phát triển quyền lợi của các bên trên cơ sở của việc chấp nhận liên tục. Nếu
46
hai nước đối tác đều không quan tâm đến chính sách của nhau, cạnh tranh
kinh tế sẽ đưa đến thiệt hại cho cả hai bên.Chỉ có hợp tác tốt mới làm tăng
quyền lợi lẫn nhau, làm tăng hiệu quả của chính sách nội bộ như kích cầu
và tăng trưởng.
KẾT LUẬN
Lạm phát và tăng trường kinh tế là 2 vấn đề có quan hệ chế ước lẫn
nhau rất chặt chẽ, phức tạp.Vì vậy giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lạm
phát và tăng trưởng kinh tế phải cần được coi là nền tảng trong sự phát
triển ổn định, liên tục và lâu dài củaViệt Nam trong giai đoạn chuyển sang
kinh tế thị trường. Nếu xem nhẹ vấn đề này sẽ dẫn đến tăng trưởng kinh tế
và kiểm soát lạm phát chỉ đem lại những kết quả hết sức hạn chế, thậm chí
là nguyên nhân đưa đến khủng hoảng. Bởi vậy bất cứ giải pháp nào có lợi
cho tăng trưởng kinh tế cũng cần phải đi kèm với những giải pháp nhằm
tránh những cú sốc do kích thích mạnh lạm phát thái quá gây bất lợi cho
nền kinh tế. Tuy vậy cũng cần tránh những biện pháp cứng nhắc tuy có thể
kiềm chế được lạm phát nhưng lại làm chậm đà phát triển kinh tế. Hiểu rõ
và giải quyết được tốt vấn đề này sẽ góp phần không nhỏ cho công cuộc
đổi mới và phát triển kinh tế ở nước ta.
47
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Frederic S. Mishkin – Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính –
NXB Khoa học và kỹ thuật – Hà Nội – 1995.
2. Tập thể tác giả- Đổi mới chính sách tài chính tiền tệ và kiểm soát
lạm phát ở Việt Nam –
NXB Chính trị Quốc gia – Hà nội – 1997.
3. Kinh tế vĩ mô -
NXB Thống kê - Hà nội 1998.
4. Các Tạp chí :
- Thị trường tài chính tiền tệ .
- Phát triển kinh tế.
- Phân tích kinh tế.
48
- Tạp chí Cộng sản.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận Văn- Ảnh hưởng của lạm phát đối với tăng trưởng kinh tế trong công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam.pdf