Ảnh hưởng của ngôn ngữ nói đến ngôn ngữ viết của học sinh trung học phổ thông (trên cứ liệu những bài làm văn của học sinh trường trung học phổ thông Lương Thế Vinh - Thành phố Thái Nguyên)

Luận văn có những đóng góp nhất định về mặt lí luận ngôn ngữ, và có thể là tài liệu tham khảo phục vụ cho bộ môn phân tích lỗi. Luận văn góp phần đưa ra những định hướng đối với việc dạy học tiếng Việt ở phổ thông, đó là khẳng định vai trò của các kĩ năng nói – viết. Đặc biệt chú trọng phát triển năng lực viết của học sinh, nâng cao nhận thức của các em trong sự phân biệt giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết viết. Luận văn góp phần thúc đẩy những thảo luận tiếp theo về tầm quan trọng của công nghệ thông tin và truyền thông đại chúng trong g iáo dục ngôn ngữ, cũng như những lo ngại về những tác đông tiêu cực của truyền thông di động đối với hệ thống chữ viết của tiếng Việt

pdf77 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3914 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Ảnh hưởng của ngôn ngữ nói đến ngôn ngữ viết của học sinh trung học phổ thông (trên cứ liệu những bài làm văn của học sinh trường trung học phổ thông Lương Thế Vinh - Thành phố Thái Nguyên), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các ví dụ trên, lẽ ra học sinh phải đánh dấu chấm ở những chỗ người viết đặt kí hiệu#. + Đánh dấu ngắt câu ở chỗ câu chưa kết thúc Là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ caViệt Nam hiện đại. # Thơ Huy Cận hàm súc, giàu chất suy tưởng, triết lí # nhiều bài thơ của ông nằm trong số những bài thơ hay nhất trong phong trào thơ mới. (tương ứng với dấu # phải là dấu phẩy và dấu;) Tiểu kết Dựa trên những khảo sát cụ thể, chương 2 đã chỉ ra những đặc điểm về ngôn ngữ viết của học sinh THPT Lương Thế Vinh ở cả ba phương diện: chữ viết, từ và câu. Xem xét ở từng phương diện, luận văn chỉ ra những tác động của ngôn ngữ nói đối với ngôn ngữ viết trong các bài văn của học sinh. Về phương diện chữ viết, đáng chú ý là hiện tượng nhầm lẫn về mặt chính tả có 44 xu hướng ngày càng phổ biến trong bài viết của học sinh. Lỗi về chính tả chủ yếu do sự không khớp nhau giữa âm và chữ, rõ ràng ở đây có sự ảnh hưởng của cách phát âm đối với chữ viết. Về phương diện từ vựng, luận văn tập trung khảo sát và thống kê những lỗi dùng từ của học sinh dưới tác động của ngôn ngữ nói để đi đến nhận định rằng: trong văn viết của học sinh có sự xâm nhập của những từ ngữ khẩu ngữ. Mặt khác, hiện tượng lặp từ, thừa từ vốn đặc trưng cho ngôn ngữ nói lại cũng thấy trong các bài văn viết của các em. Về phương diện ngữ pháp, chúng tôi tiến hành khảo sát cấu trúc cú pháp quen dùng của học sinh, từ đó thấy rằng, có những cấu trúc của ngôn ngữ nói cũng xuất hiện trong bài viết của các em. Đặc biệt là sự xuất hiện những câu văn dài lê thê, không có dấu chấm câu có một phần nguyên nhân từ chính thói quen nói năng hàng ngày của học sinh. Chính thói quen này cũng khiến cho cách tổ chức văn bản ở nhiều bài văn lộn xộn và không mạch lạc. Như vậy, ngôn ngữ nói đã và đang xâm nhập vào ngôn ngữ viết của học sinh và đáng chú ý là, sự xâm nhập của văn nói vào văn viết không chỉ ở mặt hình thức chữ viết mà còn ở cả hệ thống từ vựng và cấu trúc câu của tiếng Việt. Sự xâm nhập này là nguyên nhân gây ra phần lớn các lỗi trong bài văn của học sinh mà chúng tôi đã tiến hành khảo sát ở trên. 45 Chƣơng 3 NHỮNG NHÂN TỐ TẠO RA ẢNH HƢỞNG CỦA NGÔN NGỮ NÓI ĐỐI VỚI NGÔN NGỮ VIẾT VÀ CÁCH KHẮC PHỤC Qua những khảo sát ở chương 2, luận văn đã chỉ ra những tác động của ngôn ngữ nói đến ngôn ngữ viết ở các cấp độ chữ viết, từ và câu. Sự tác động này dẫn đến một số lỗi thường gặp ở các bài viết của học sinh. Trong chương này, người viết thử đi tìm hiểu xem những nhân tố nào tạo ra ảnh hưởng của ngôn ngữ nói đến ngôn ngữ viết, và thử lí giải mối quan hệ giữa những ảnh hưởng này với vấn đề lỗi trong văn viết của học sinh. Trên cơ sở đó, người viết mạnh dạn đề xuất một số biện pháp khắc phục. 3.1 Những nhân tố tạo ra ảnh hƣởng của ngôn ngữ nói đối với ngôn ngữ viết Như đã biết, nói - viết không tạo ra một thế lưỡng phân rạch ròi mà chúng là những biến thể của cùng một hệ thống ngôn ngữ. Do vậy sự hoà trộn văn nói trong văn viết hoặc văn viết trong văn nói là điều không tránh khỏi. Sự hoà trộn văn nói trong văn viết ở một khía cạnh nào đó có thể coi là tích cực (như trong tác phẩm văn học nhà văn thường đưa nhiều khẩu ngữ vào để tái hiện cuộc sống chân thực hơn), nhưng trong bài văn của học sinh nó thường gây ra nhiều lỗi. Có thể kể đến một số nguyên nhân tạo ra những ảnh hưởng này như sau:. 3.1.1 Học sinh không phân biệt được ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết Như đã phân tích, sự khác biệt giữa ngôn ngữ nói và viết không chỉ giới hạn ở những khác biệt có tính hình thức (chất liệu âm thanh/chữ viết, dạng thức tồn tại hoặc kênh giao tiếp), mà còn là những khác biệt thuộc về cấu trúc, về phong cách ngôn ngữ, đã được hình thành trong quá trình tạo lập diễn ngôn. 46 Bước vào cấp THPT, trải qua mười năm học tiếng Việt, học sinh đã được cung cấp những tri thức cơ bản nhất về tiếng Việt. Tốt nghiệp THCS, học sinh phải đạt được các yêu cầu: nói, viết đúng với chuẩn ngữ âm, chính tả, đúng quy tắc ngữ pháp tiếng Việt. Tuy nhiên trong thực tế, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà các em không đạt được những yêu cầu này. Khi các em mới bước vào lớp 10, người viết đã tiến hành khảo sát năng lực sử dụng tiếng Việt của học sinh qua những năm ở cấp 1,2 (có so sánh với lớp 11 sau một năm được rèn giũa trong nhà trường phổ thông). Kết quả thu được như sau: Lỗi Lớp 10 Lớp 11 Chữ viết 21 10 Từ 69 11 Ngữ pháp 6 6 Tổng số 96 27 Ở lớp 10, chúng tôi tiến hành khảo sát 72 bài thì có 96 lỗi, trong đó lỗi về chữ viết là 21 lỗi; về từ: 69 lỗi; về ngữ pháp: 6 lỗi. Ở lớp 11 chỉ có 27 lỗi trên tổng số 70 bài. Kết quả này chứng tỏ kiến thức tiếng Việt ở lớp dưới của học sinh bị hổng rất nặng nề, đặc biệt về vốn từ tiếng Việt. Lỗi dùng từ chiếm tới 71% tổng số lỗi và phổ biến nhất là lỗi dùng từ sai phong cách, thừa từ, lặp từ… Cũng qua việc khảo sát này, người viết nhận thấy vốn từ của các em rất nghèo nàn nên rất khó khăn trong việc diễn đạt (nói/viết). Chính vì vậy, các em thường rất bí từ và rơi vào tình trạng diễn đạt luẩn quẩn, không thoát ý. Sự không phân biệt được ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết của học sinh dẫn đến tình trạng “viết như nói” có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau: 47 Về sách giáo khoa: Trong chương trình phổ thông, để hình thành cho học sinh tri thức về tiếng Việt, người giáo viên có thể lựa chọn hai phương thức: hoặc là thông qua thực hành, giúp học sinh hình thành tri thức hoặc là “đi thẳng vào vấn đề” tức là giới thiệu lí thuyết trước rồi thông qua thực hành để củng cố vững chắc hơn. Cách thứ nhất thường áp dụng khi trình độ học sinh còn thấp, còn cách thứ hai được sử dụng khi học sinh đã có trình độ cao hơn, thường là những lớp cuối của bậc trung học cơ sở và trung học phổ thông. Nhìn vào chương trình tiếng Việt phổ thông ta thấy: ở 3 lớp đầu cấp tiểu học, các kiến thức tiếng Việt chưa được dạy thành bài riêng mà được lồng vào bài thực hành kĩ năng. Các kiến thức đưa vào giảng dạy ở các lớp này thuộc về các nội dung của năng lực ngữ pháp, năng lực văn bản và năng lực hành ngôn. Ở các lớp 4 và 5, ngoài kiến thức về năng lực ngữ pháp và năng lực văn bản còn có kiến thức về ngôn ngữ - xã hội. Ở các lớp của bậc Trung học cơ sở, nội dung của môn tiếng Việt tập trung vào các năng lực ngữ pháp, năng lực văn bản (liên kết và hội thoại) và năng lực ngôn ngữ - xã hội (lí thuyết giao tiếp và phương ngữ địa phương và xã hội). Ở các lớp của bậc Trung học phổ thông, các nội dung tiếng Việt tập trung chủ yếu vào việc củng cố năng lực ngữ pháp (thông qua thực hành nhận diện và chữa lỗi) và năng lực văn bản. Như vậy về tổng thể có thể thấy rằng các nội dung chương trình tiếng Việt ở cả 12 lớp của 3 bậc phổ thông của ta hiện nay dành sự chú ý và thời lượng khá nhiều vào việc phát triển các năng lực ngữ pháp và năng lực văn bản cho học sinh. Năng lực hành ngôn mới chỉ tập trung phát triển kĩ năng nói một số nghi thức chào hỏi, xin lỗi ở dạng rất đơn sơ…ở 3 lớp đầu của bậc Tiểu học. Năng lực ngôn ngữ - xã hội cũng đã được chú ý phát triển nhưng nội dung mới chỉ giới hạn ở việc giới thiệu khái quát về giao tiếp ngôn ngữ và các chương trình địa phương với thời lượng rất ít ỏi. Và đặc biệt trong cả 2 48 cấp Tiểu học và Trung học cơ sở, không có một tiết nào dành cho việc hình thành ở học sinh tri thức về những khác biệt giữa ngôn ngữ viết và nói. Điều này giải thích vì sao học sinh thường lẫn lộn hai phong cách này với nhau dẫn đến tình trạng mắc nhiều lỗi trong bài viết. Việc hình thành tri thức tiếng Việt bằng con đường thực hành là một phương pháp dạy học đúng đắn, phù hợp với tư duy của học sinh nhất là khi trình độ của các em còn non yếu. Tuy nhiên khi việc thực hành thuần thục đạt đến một mức độ nào đó thì cần đưa lí thuyết vào để giúp học sinh có cái nhìn khái quát và khắc sâu kiến thức. Nhưng khi đưa lí thuyết vào thì quá muộn (lớp 10 mới có một bài nói về sự khác biệt giữa ngôn ngữ nói và viết), do vậy để sửa cho các em thói quen đã hình thành trong nhiều năm (lẫn lộn hai phong cách này) là một điều không mấy dễ dàng. Có thể nói rằng, sự không phân biệt được ngôn ngữ nói và viết là nguyên nhân cơ bản nhất của việc mắc nhiều lỗi trong bài văn như chúng tôi đã thống kê ở trên. Sự thiếu chú ý của giáo viên: Nguyên tắc dạy học là giáo viên phải bám sát chương trình tức là dạy theo nội dung sách giáo khoa. Với chương trình sách giáo khoa còn nhiều bất cập như đã trình bày ở trên, sự thiếu chú ý của giáo viên trong việc giúp học sinh phân biệt sự khác nhau giữa ngôn ngữ nói và viết là điều không tránh khỏi. Khi phát biểu trên lớp, học sinh trình bày dài dòng, phức tạp; khi viết văn các em lại đưa cả khẩu ngữ vào bài viết. Trong quá trình giảng dạy cũng như khi chấm bài, giáo viên không chú ý uốn nắn kịp thời nên học sinh thường lẫn lộn hai phong cách này với nhau. Điều này đưa đến thực trạng “viết như nói” của học sinh. 3.2.2 Môi trường giao tiếp Các nghiên cứu về ngôn ngữ đều khẳng định vai trò quan trọng của môi trường giao tiếp cũng như ảnh hưởng của nó đến việc hình thành năng lực ngôn ngữ và năng lực giao tiếp của con người. 49 Có tác giả đã tiến hành điều tra về khả năng sử dụng ngôn ngữ giữa những người sống ở những môi trường giao tiếp khác nhau và đi đến nhận định rằng, trong các gia đình công nhân, khi bố mẹ giáo dục con cái thường dùng lời lẽ đơn giản, dùng nhiều câu mệnh lệnh tạo cho trẻ thích dùng mã hữu hạn. Đó là những câu có cấu trúc đơn giản, phạm vi từ ngữ hẹp, nội dung biểu đạt thường là khá cụ thể, mang tính trần thuật, miêu tả. Còn ở các gia đình trung lưu, bố mẹ dạy con thường nói nhiều về những điều mang tính giáo lí, tạo cho trẻ làm quen và sử dụng mã phức tạp: câu có cấu trúc dài, dùng từ chạt chẽ, sử dụng ngôn ngữ theo hướng quy nạp, suy lí. Như vậy có thể thấy rằng, chính sự “giáo dục ngôn ngữ” khác nhau này đã ảnh hưởng đến ngôn ngữ của trẻ em khi đến trường. Do yêu cầu của nhà trường là tất cả học sinh phải dùng mã phức tạp nên đã thực sự tạo cho trẻ em tầng lớp trung lưu có nhiều lợi thế. Trong khi đó, trẻ em thuộc tầng lớp công nhân do thiếu được rèn luyện về mặt này nên rơi vào tình thế không mấy thuận lợi. Qua điều tra này có thể thấy rằng năng lực ngôn ngữ cũng như năng lực giao tiếp của con người không phải là thiên phú mà nó chịu tác động rất lớn của môi trường giao tiếp. Chúng tôi đã tiến hành khảo sát ở đối tượng học sinh lớp 11 để tìm hiểu xem môi trường giao tiếp có ảnh hưởng như thế nào đến năng lực nói và viết của các em. Với kết quả khảo sát là 35 bài chia ra bốn mức độ khác nhau, chúng tôi thu được kết quả như sau: + nói tốt-viết tốt: 6 bài + nói tốt-viết kém: 5 bài + nói kém-viết tốt: 9 bài + nói kém-viết kém:15 bài Sự đánh giá “tốt” hay “kém” ở đây chỉ mang tính tương đối bởi lẽ ngay những bài viết của học sinh được cho là tốt thì cũng không thể coi đó là chuẩn mực mà còn mắc nhiều lỗi. Vì thế, theo quan niệm của người viết trong bài 50 khảo sát này: nói tốt tức là trình bày tương đối lưu loát bằng ngôn ngữ nói nội dung muốn chuyển tải; viết tốt là sử dụng ngôn ngữ viết tuân thủ tương đối tốt các quy tắc về chữ viết, từ vựng, ngữ pháp. Qua kết quả khảo sát này, chúng tôi nhận thấy cùng một môi trường giáo dục (học cùng một lớp, cùng một giáo viên dạy) nhưng năng lực nói và viết của học sinh lại rất khác nhau. Cụ thể là chia thành 4 cấp độ như trên. Sự khác biệt này có thể là do các em đến từ những hoàn cảnh gia đình khác nhau. Thử đi sâu tìm hiểu môi trường giao tiếp này chúng tôi thấy rằng những bài viết tốt thường là của những học sinh có bố mẹ là giáo viên, bác sĩ,…tức là thuộc tầng lớp trí thức. Còn những bài viết kém và có nhiều lỗi sai về từ vựng thì học sinh thường sống trong gia đình có bố/mẹ hoặc cả bố và mẹ là công nhân hoặc buôn bán tự do. Những khảo sát này còn cho thấy mối quan hệ mật thiết giữa ngôn ngữ viết và nói của học sinh. Những học sinh nói tốt thì khả năng viết của các em cũng tương đối tốt. Ngược lại học sinh nói kém thì khi viết thường gặp nhiều khó khăn. Qua tìm hiểu, chúng tôi còn thấy một vấn đề đáng quan tâm là hoàn cảnh gia đình cũng ảnh hưởng đến văn phong nói, viết của học sinh. Những em sống trong gia đình không hạnh phúc, văn viết thường khô khan và có xu hướng dùng câu cụt, câu thiếu thành phần. Những học sinh vì nhiều lí do không có bố, sống với mẹ từ nhỏ, giọng văn của các em thường uỷ mị và bài viết của các em thường rất giàu cảm xúc. Những em sống cùng ông bà lại có giọng văn rất già dặn… Như vậy, cùng học một lớp, cùng một thầy cô dạy, nhưng học sinh đến từ những gia đình khác nhau thì năng lực nói và viết của các em cũng không giống nhau. Kết quả khảo sát này một lần nữa khẳng định ảnh hưởng to lớn của môi trường giao tiếp đến năng lực ngôn ngữ và năng lực giao tiếp của con người. Năng lực ngôn ngữ là cái có trong đầu mỗi người, nhưng khi chuyển sang năng lực giao tiếp (nói/viết) nó lại bị chi phối bởi nhiều nhân tố, trong đó 51 môi trường giao tiếp là nhân tố quan trọng, nó có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến năng lực nói, viết của con người. 3.2.3 Ảnh hưởng của ngôn ngữ chat Sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông di động đã cho ra đời một hình thức giao tiếp chưa từng có ở các thời đại trước và đã làm lu mờ ranh giới giữa hai phong cách nói và viết. Giao tiếp bằng chữ viết qua mạng điện thoại di động (tin nhắn SMS), hoặc kênh giao tiếp trực tuyến với các máy tính nối mạng, vừa cho phép cá nhân giao tiếp xuyên thời gian như trong giao tiếp bằng ngôn ngữ viết, vừa cho phép hai (hay nhiều bên) ở cách xa nhau về mặt địa lí có thể tiếp xúc trực tiếp như trong giao tiếp bằng ngôn ngữ nói. Ngôn ngữ được sử dụng trong giao tiếp trực tuyến là ngôn ngữ nói theo phong cách khẩu ngữ, nhưng có bao gồm một số yếu tố của ngôn ngữ viết do người phát ngôn chỉ chịu sức ép một cách tương đối về thời gian. Do “người nói” cùng một lúc cũng có thể là “người nghe” bằng cách đọc các lời đối thoại trên màn hình, nên họ có thể đủ thời gian để sửa chữa hoặc thậm chí xoá bỏ lượt lời vừa mới biên soạn trên màn hình. Xu hướng chung của các hình thức giao tiếp này là việc sử dụng lối viết tắt để giảm kí tự. Cách giải thích thường gặp nhất là để rút ngắn số chữ phải gõ trên bàn phím, gia tăng tốc độ chát ( việc sử dụng nhiều cửa sổ chát cùng một lúc buộc người chát phải thường xuyên viết tắt, chưa kể SMS còn bị giới hạn trong 160 kí tự). Ngày nay chát trực tuyến đã trở thành một hình thức giải trí đặc biệt hấp dẫn giới trẻ, trong đó số đông là học sinh. Sẽ không có gì đáng nói nếu học sinh không đem những từ ngữ của thế giới ảo ấy vào các bài viết, bài kiểm tra ở trường học. Việc sử dụng từ viết tắt và các kí hiệu đã ảnh hưởng không nhỏ đến cách viết ở nhà trường của học sinh không chỉ ở nước ta mà còn ở nhiều nơi trên thế giới. Ở Mĩ, một số giáo viên trung học đã lên tiếng cảnh báo về hiện tượng ngôn ngữ chát “bình dân” đang xâm nhập vào trong các bài tiểu luận của học sinh. Ở Việt Nam, trong vài năm trở lại đây, đã xuất 52 hiện nhiều bài viết phản ánh quan điểm của công chúng đối với tình hình sử dụng ngôn ngữ “bí hiểm”, ngôn ngữ mạng, ngôn ngữ @...Thực tế thì , ngôn ngữ chát đang đi vào đời sống như một thói quen và gây nên những nhầm lẫn, rối loạn. Bài kiểm tra của học sinh thường mắc lỗi chính tả, lỗi viết tắt một cách không thể lí giải. Trong ngôn ngữ chát, người ta có thể chấp nhận những từ viết tắt theo quy ước. Nhưng việc lạm dụng và biến tướng nó tới mức làm méo mó, biến dạng cả ngôn ngữ là điều không thể chấp nhận được. Bên cạnh đó, chính thứ ngôn ngữ này tạo cho các em thói quen lười suy nghĩ để tìm từ hay ý đẹp, không nhận biết được giá trị văn hoá của ngôn ngữ, miễn sao viết cho nhanh. Cũng vì thói quen này mà khi làm văn không ít em thản nhiên đưa cả chữ viết kiểu này vào bài. Tiến hành khảo sát 35 bài văn của học sinh lớp 11, chúng tôi nhận thấy tình trạng viết tắt trong bài văn của học sinh thực sự đáng báo động. Có tới 21/35 bài sử dụng chữ viết tắt trong đó có những bài mật độ viết tắt dày đặc. Những chữ mà các em hay viết tắt do ảnh hưởng của ngôn ngữ chát có thể kể ra như: +không=>ko +ph=>f +qua=>wa +khác=># +và=>& Ngoài ra, một số lỗi chính tả mà chúng tôi nhận thấy ở bài văn của học sinh là hiện tượng: ngh=>ng (vd: nge, ngĩ…); gh=>g (vd: gế, gập gềnh…). Những lỗi này có thể được giải thích là do thói quen tiết kiệm kí tự, thời gian trong khi chát. Ban đầu, có thể học sinh đó biết phân biệt trong trường hợp nào thì dùng g hay gh, ng hay ngh. Nhưng do khi chát hay nhắn tin, để tiết kiệm thời gian và kí tự, các em thường lựa chọn g, ng thay cho gh, ngh. Cứ như vậy lâu dần thành thói quen khiến các em không còn phân biệt được chính tả nữa và nhầm lẫn những con chữ này là khó tránh khỏi. 53 3.2 Cách khắc phục 3.2.1 Giúp học sinh nhận biết được sự khác biệt giữa ngôn ngữ nói và viết Như trên đã phân tích, nguyên nhân cơ bản nhất của những lỗi mà học sinh mắc phải trong bài văn chính là do bản thân các em không phân biệt được sự khác biệt giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Bởi vậy muốn hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của ngôn ngữ nói tới ngôn ngữ viết của học sinh thì trước hết phải làm cho các em thấy được những điểm khác biệt này. -Về sách giáo khoa: Sách giáo khoa hiện nay, bài “Đặc điểm của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết” được đưa vào giảng dạy ở đầu năm lớp 10. Theo chúng tôi, việc cung cấp những kiến thức này là quá muộn. Bởi học sinh đã phải tập viết những bài văn hoàn chỉnh từ năm lớp 4, vậy mà sau 5 năm các em mới được biết thế nào là ngôn ngữ viết, ngôn ngữ nói. Sự không phân biệt được giữa nói và viết dẫn đến tình trạng “viết như nói” ở các lớp dưới đến khi bước vào cấp học Trung học phổ thông sẽ tạo thành thói quen rất khó sửa. Với những bất cập như vậy, chúng tôi mạnh dạn đề xuất cần phải đưa bài học lí thuyết về ngôn ngữ nói và viết vào sách giáo khoa sớm hơn, có thể là từ lớp 6, lớp 7. -Về phía giáo viên, nhất là đối với giáo viên trung học cơ sở khi chưa có bài học về ngôn ngữ nói và viết, thì cần chú ý giúp học sinh phân biệt hai kiểu ngôn ngữ này. Trong những tiết trả bài, giáo viên cò thế làm thống kê những lỗi về ngôn ngữ nói xuất hiện trong bài văn của học sinh để từ đó giúp các em nâng cao ý thức phân biệt nói và viết, khắc phục lỗi này ở những bài viết sau. 3.2.2. Rèn kĩ năng nói - viết cho học sinh Với môn Ngữ văn, cái đích hướng tới là rèn luyện cho học sinh kĩ năng nói, viết theo chuẩn mực văn hoá trung bình từng cấp về kiểu loại văn bản. Ở Tiểu học và Trung học cơ sở, có thể chỉ là tập nói đúng, viết đúng những câu, 54 những bài nói, bài viết ngắn gọn, phù hợp ở mức ban đầu. Ở cấp Trung học phổ thông, ngôn ngữ, vốn sống, tư duy đã phát triển, việc tập nói, tập viết đã có thể hướng tới văn bản tương đối hoàn chỉnh. Giáo dục trong nhà trường Trung học phổ thông hiện nay đang xảy ra thực trạng: một giờ dạy học chỉ có giáo viên nói, viết lên bảng ; học sinh chỉ biết nghe và ghi chép vào vở. Giáo viên đặt ra vài câu hỏi và cho dù học sinh trả lời được hay không thì giáo viên vẫn nói lại y như bài của mình đã chuẩn bị. Vậy thì đâu là cơ hội để học sinh trình bày ý kiến của mình? Rõ ràng khả năng nói của các em bị hạn chế. Với cấp học Trung học phổ thông, kĩ năng nói không được chú ý thường xuyên trong các giờ học. Giờ học Ngữ văn thường chỉ thấy một vài học sinh khá giỏi phát biểu, số còn lại có khi cả học kì, cả năm không đưa ra được ý kiến nào trong các giờ học. Có những giáo viên chú ý đến việc phát triển kĩ năng nói cho học sinh, nhưng khi gọi học sinh lên phát biểu thì do vốn từ nghèo nàn, các em rất khó khăn trong việc diễn đạt điều mình định nói. Hơn nữa, cách thức thi cử của chúng ta vẫn chú trọng kĩ năng viết cho nên kĩ năng nói thường bị xem nhẹ và không được chú trọng ở phổ thông. Hai kĩ năng nói và viết có ảnh hưởng qua lại với nhau. Từ thực tiễn giảng dạy ở phổ thông, người viết nhận thấy rằng những em có kĩ năng nói tốt thì khả năng viết văn cũng tốt hơn nhiều những em có kĩ năng nói kém.Chính vì thế để nâng cao năng lực viết tiếng Việt, cần thiết phải chú ý rèn luyện kĩ năng nói cho các em, cụ thể bằng những biện pháp như: - Khuyến khích học sinh nói nhiều hơn, không chê trách phê phán khi các em phát biểu sai. Ngay trong lớp khi học sinh nhận xét lẫn nhau cũng phải hướng dẫn cách nói: không bảo “bạn sai rồi” mà nói: “nếu tôi là bạn, tôi sẽ bổ sung…”. Cứ như thế, dần dần học sinh sẽ thích nói hơn. - Ở một số tiết học, thay vì giáo viên thuyết trình, hãy để học sinh làm việc đó. Có thể cử ra một cá nhân hoặc một nhóm đảm nhận việc thuyết trình 55 trước lớp. Các học sinh khác có thể đặt câu hỏi hoặc nêu nhận xét với nhóm thuyết trình. Trong các bài học tiếng Việt, giáo viên có thể giúp học sinh phát triển kĩ năng nói bằng cách đặt các đơn vị kiến thức cần tìm hiểu vào các tình huống giao tiếp cụ thể mà các em hay gặp trong cuốc sống. - Trong các tiết học, tăng cường thảo luận nhóm, trả lời câu hỏi. 3.2.3 Dạy học tiếng Việt hướng vào hoạt động giao tiếp Nói đến kĩ năng ngôn ngữ của học sinh phổ thông là nói đến năng lực giao tiếp bằng ngôn ngữ với tất cả yêu cầu về văn hoá giao tiếp ở mặt bằng dân trí phù hợp. Không thể đòi hỏi năng lực ấy ở mức văn chương nghệ thuật, nhưng phải nắm được và vận dụng những quy luật giao tiếp ngôn ngữ thông thường. Học sinh sẽ được hướng dẫn có lí luận đến mức độ nhất định ở nhà trường qua môn tiếng Việt: tính mục đích của giao tiếp, sự tôn trọng và khai thác đúng các mối quan hệ đối ngôn phù hợp với hoàn cảnh cho phép với tất cả những gì là tiền giả định chung, là “văn hoá nền” giữa người nói và người nghe. Chính vì vậy dạy tiếng Việt là dạy học sinh cách nói một ngôn bản hay cách viết một văn bản đáp ứng chiến lược giao tiếp và phù hợp với quy luật giao tiếp. Cái đích cuối cùng là qua các giờ tập nói, tập viết, học sinh sẽ có được năng lực tạo lập ngôn bản, văn bản phù hợp, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống ở trường học hiện nay và trường đời sau này. Mặt khác, muốn hình thành các kĩ năng và kĩ xảo ngôn ngữ, học sinh phải trực tiếp tham gia vào hoạt động giao tiếp. Để đạt được mục đích ấy, cần thiết phải đề ra những biện pháp cụ thể: - Tạo tình huống giao tiếp “có vấn đề”: phương hướng tốt nhất để dạy các đơn vị ngôn ngữ trong hoạt động hành chức là phải tìm mọi cách hướng học sinh vào hoạt động nói năng. Hoạt động giao tiếp vừa là phương tiện, vừa là mục đích của việc dạy học tiếng Việt. Học tiếng Việt, học sinh không chỉ nghiên cứu về nó mà phải biết cách sử dụng nó thành thạo vũ khí này vào tư duy và giao tiếp. Muốn đạt được điều đó, cần phải tạo ra được các hoàn cảnh 56 giao tiếp, tình huống giao tiếp khác nhau để kích thích động cơ giao tiếp, tạo cho các em có nhu cầu giao tiếp. Các hình thức hoạt động ngoại khoá, các cuộc tranh luận, thảo luận… là các hình thức tạo tình huống giao tiếp, kích thích nhu cầu và động cơ giao tiếp cho học sinh. Muốn thế cần phải tạo một môi trường giao tiếp thoải mái để học sinh có thể tự do nói lên ý kiến, quan điểm của mình.. Có thể nói trường học là nơi thuận tiện để can thiệp có ý thức xã hội vào hoạt động và sự phát triển ngôn ngữ của học sinh, dạy tiếng Việt ở nhà trường phổ thông chính là giúp các em biết nói, viết đúng chuẩn ngôn ngữ tiếng Việt. Môi trường giao tiếp đó cần được xây dựng theo nguyên tắc “tương tác đa chiều, đa đối tượng”. Trong phương pháp giảng dạy ở các trường phổ thông hiện nay, hình thức tác động từ người dạy đến người học được sử dụng phổ biến. Nhưng đấy thường lại là tác động một chiều “thầy  trò”. Trong xu hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay cần phải “tương tác đa chiều, đa đối tượng” nghĩa là dạy học là sự tác động qua lại không chỉ một chiều giữa thầy với trò ( thầy  trò) mà còn có sự tác động trở lại của trò với thầy (trò  thầy) và giữa người học với nhau (trò  trò). - Thiết kế bài tập tiếng Việt hướng vào hoạt động giao tiếp Hiện nay hầu hết hệ thống bài tập tiếng Việt ở các sách giáo khoa Ngữ văn chương trình phổ thông chủ yếu được dùng để minh hoạ lí thuyết về tiếng Việt mà học sinh vừa học. Hệ thống bài tập tiếng Việt này vưa nặng về thực hành ngôn ngữ học lại chưa thể hiện được rõ nét các nguyên tắc giáo dục học trong dạy học thực hầnh tiếng Việt. Theo quan niệm của lí thuyết hoạt động giao tiếp, hệ thống bài tập tiếng Việt được xác định là phương tiện thực hành nhằm tạo dựng và phát triển năng lực sử dụng tiếng Việt của học sinh. Học sinh phổ thông ở các lứa tuổi khác nhau, trình độ khác nhau thì yêu cầu về năng lực sử dụng ngôn ngữ cũng khác nhau. Việc thiết kế bài tập tiếng Việt phải đảm bảo phục vụ cho việc phát triển khả năng giao tiếp cho học sinh. 57 Thực hành với bài tập tiếng Việt là một khâu trọng yếu có ý nghĩa nhất định đối với việc hình thành kĩ năng sử dụng tiếng Việt và Ứng dụng tiếng Việt trong đời sống của học sinh. Bởi vậy bài tập tiếng Việt khi được thiết kế dưới ánh sáng của lí thuyết giao tiếp sẽ thiết thực hơn, hiệu quả hơn đối với học sinh phổ thông. - Trong hệ thống bài tập tiếng Việt, cần phải chỉ rõ cho học sinh hướng vào hoạt động giao tiếp khi tiến hành áp dụng các tri thức tiếng Việt sẽ thực hành nhằm định hình trước cho các em tác dụng của việc thực hiện các bài tập tiếng Việt trong hoạt động giao tiếp của bản thân. Điều này có nghĩa là: với một bài tập tiếng Việt cụ thể sau khi thực hành, các em sẽ rút ra hoặc củng cố một tri thức tiếng Việt hoặc một lĩ năng sử dụng tiếng Việt cụ thể. Tri thức, kĩ năng ấy được các em sử dụng để nói và viết. Mục đích của dạy học là qua các giờ tập nói, tập viết học sinh sẽ có được năng lực tạo lập ngôn bản, văn bản phù hợp đáp ứng yêu cầu của cuộc sống ở trường học hôm nay và trường đời sau này. Tiểu kết Trong chương ba, luận văn tìm hiểu những nguyên nhân tạo ra ảnh hưởng của ngôn ngữ nói đối với ngôn ngữ viết, phân tích và lí giải nguyên nhân tại sao bài văn của học sinh lại mắc những lỗi như đã thống kê ở chương hai. Qua đây, chúng tôi nhận thấy sự thiếu hiểu biết của chính bản thân học sinh về những khác biệt giữa ngôn ngữ nói và viết là nguyên nhân cơ bản nhất. Mặt khác, môi trường giao tiếp cũng ảnh hưởng to lớn đến năng lực ngôn ngữ và năng lực giao tiếp của các em. Bên cạnh đó, trong thời đại thông tin di động và truyền thông ngày nay, chúng tôi cũng nhận thấy ảnh hưởng không nhỏ của ngôn ngữ chat đến việc sử dụng ngôn ngữ trong bài văn của học sinh, đó là hiện tượng viết tắt và nhiều khi nó làm méo mó, biến dạng cả tiếng Việt. Đây thực sự là vấn đề đáng lo ngại bởi nó gây nhiều khó khăn trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Từ việc chỉ ra những nguyên 58 nhân nêu trên, luận văn mạnh dạn đề xuất một vài biện pháp nhằm khắc phục thực trạng này, trong đó cần thiết nhất là phải giáo dục cho học sinh nhận thức được sự khác biệt giữa văn nói và văn viết, muốn vậy, cần xem lại cách sắp xếp chương trình của sách giáo khoa và đặc biệt là vai trò quan trọng của người giáo viên. 59 KẾT LUẬN Về mặt lí luận và thực tiễn, luận văn đã thu được những kết quả như sau: 1. Về việc nghiên cứu ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết Luận văn thừa nhận quan điểm cho rằng, dạng nói của ngôn ngữ đã tồn tại với tư cách là cái có trước so với dạng viết, mặc dù việc nghiên cứu ngôn ngữ nói đã gặp không ít khó khăn để đạt được những thành tựu to lớn như ngày hôm nay. Bên cạnh đó, với tư cách là cái xuất hiện về sau, nhưng ngôn ngữ viết đã phát triển để trở thành hệ thống hoàn chỉnh và có cái riêng bản thể của nó mà ngôn ngữ nói không có được. Ngôn ngữ viết là nhân chứng của lịch sử và chuẩn mực. Luận văn đã hệ thống hóa và giới thiệu các quan điểm của các nhà khoa học về bản chất của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết cũng như mối quan hệ không thể tách rời giữa hai mặt nói và viết. Những thông tin nghiên cứu mà luận văn giới thiệu đã được sưu tầm, tìm hiểu trong phạm vi tương đối rộng, nhằm hạn chế cách nhìn chủ quan, phiến diện của chúng tôi đối với đề tài nghiên cứu. Luận văn đã làm sáng tỏ những đặc điểm cơ bản nhất của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết cũng như những khác biệt cơ bản giữa hai dạng tồn tại của hệ thống ngôn ngữ. Sự khác biệt giữ nói và viết không chỉ giới hạn ở những khác biệt có tính hình thức, mà là những khác biệt thuộc về cấu trúc, về phong cách ngôn ngữ. 2.Về năng lực sử dụng tiếng Việt của học sinh trung học phổ thông Từ kết quả khảo sát về tình hình sử dụng tiếng Việt của học sinh Trường trung học phổ thông Lương Thế Vinh, Thành phố Thái Nguyên, luận văn đã chỉ ra đặc điểm ngôn ngữ viết của học sinh, đặc biệt chú ý những lỗi 60 mà các em thường mắc phải khi viết văn. Từ đó thấy được ảnh hưởng của ngôn ngữ nói đến ngôn ngữ viết của học sinh. Trải qua hơn mười năm học tiếng Việt trong nhà trường phổ thông, về mặt lí thuyết, học sinh phải nắm được những quy tắc cơ bản nhất của tiếng Việt trong dùng từ, đặt câu, tạo lập văn bản… Song trong thực tế do nhiều nguyên nhân khác nhau, học sinh không đạt được yêu cầu này. Luận văn đã tiến hành khảo sát rất cụ thể và chi tiết những lỗi học sinh thường hay mắc phải trong bài viết dưới ảnh hưởng của ngôn ngữ nói ở cả phương diện chữ viết, từ và câu. Đây là cơ sở để luận văn đi tới khẳng định, tình trạng “viết như nói” đang diễn ra phổ biến trong các bài viết văn của học sinh, đáng lo ngại ở chỗ là nó làm cho tiếng Việt – thứ của cải lâu đời và quý báu của dân tộc trở nên méo mó, biến dạng. Thực trạng này ảnh hưởng không nhỏ tới việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Ngôn ngữ được coi là linh hồn của dân tộc. Vậy nên chăng việc giữ gìn và phát triển ngôn ngữ nói và viết phải được xem như một trọng trách của tất cả các thành viên trong trong cộng đồng ngôn ngữ? 3. Xem xét những nhân tố tạo ra ảnh hưởng của ngôn ngữ nói đối với ngôn ngữ viết, luận văn đã chỉ ra những nhân tố như: sự thiếu hiểu biết của học sinh về những khác biệt giữa ngôn ngữ nói và viết; ảnh hưởng của môi trường giao tiếp và ngôn ngữ chat tới ngôn ngữ viết của các em. Trong các nhân tố này, việc không nhận biết được những khác biệt giữa ngôn ngữ nói và viết là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng “viết như nói” đã nêu ra ở trên. Việc thiếu nhận thức về những đặc điểm khác nhau của ngôn ngữ nói và viết sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng về cách viết dễ dãi, lạc phong cách, không phù hợp với yêu cầu giao tiếp của một xã hội ngày càng phát triển. Tình trạng này lại phổ biến ở chính học sinh – đối tượng giữ vai trò quan trọng trong việc bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt 61 4. Luận văn đã đề xuất một số biện pháp nhằm khắc phục những ảnh hưởng của ngôn ngữ nói đối với ngôn ngữ viết của học sinh. Trong việc hình thành và phát triển năng lực ngôn ngữ cho học sinh cần quan tâm đến việc phát triển ngôn ngữ nói – điều mà trước đây chưa được chú trọng trong nhà trường phổ thông. Mặt khác việc dạy viết ở nhà trường cần chú ý hơn đến các yếu tố như tính truyền thống, tính chính xác và tính thẩm mĩ. Trong việc dạy học tiếng Việt hướng vào hoạt động giao tiếp cần phải nhận thức được rằng, viết cũng là một hình thức giao tiếp quan trọng do vậy cần phải chú ý đến mục đích, phương tiện, nội dung và đối tượng của hình thức giao tiếp này. Khả năng ứng dụng và những vấn đề có thể tiếp tục nghiên cứu Luận văn có những đóng góp nhất định về mặt lí luận ngôn ngữ, và có thể là tài liệu tham khảo phục vụ cho bộ môn phân tích lỗi. Luận văn góp phần đưa ra những định hướng đối với việc dạy học tiếng Việt ở phổ thông, đó là khẳng định vai trò của các kĩ năng nói – viết. Đặc biệt chú trọng phát triển năng lực viết của học sinh, nâng cao nhận thức của các em trong sự phân biệt giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết viết. Luận văn góp phần thúc đẩy những thảo luận tiếp theo về tầm quan trọng của công nghệ thông tin và truyền thông đại chúng trong giáo dục ngôn ngữ, cũng như những lo ngại về những tác đông tiêu cực của truyền thông di động đối với hệ thống chữ viết của tiếng Việt Những vấn đề có thể tiếp tục nghiên cứu: - Đặc điểm ngôn ngữ nói của học sinh phổ thông - Ngôn ngữ nói và viết của học sinh trong thời đại thông tin di động. Tóm lại, ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của xã hội loài người, chính vì vậy người sử dụng ngôn ngữ không chỉ cần rèn luyện những kĩ năng ngôn ngữ cần thiết mà phải biết vận dụng chúng sao cho phù hợp với từng hoàn cảnh giao tiếp riêng biệt. 62 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Diệp Quang Ban, Giao tiếp văn bản mạch lạc liên kết đoạn văn, Nxb. KHXH, 2002. 2. Diệp Quang Ban, Văn bản và liên kết trong tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, 1998. 3. Bùi Đăng Bình, Năng lực chính tả của học sinh tiểu học và trung học cơ sở hiện nay, TCNN số 9/2006. 4. Nguyễn Thị Thanh Bình, Một số xu hướng lí thuyết của việc dạy tiếng mẹ đẻ trong nhà trường, TCNN số 4/2006. 5. Nguyễn Thị Thanh Bình, Tác động của hoàn cảnh giao tiếp đến ngôn ngữ trẻ em 2 – 3 tuổi ở Hà Nội: Ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp gia đình người Việt, Nxb. Văn hóa – Thông tin, 1996. 6. Vũ Kim Bảng, Về năng lực sử dụng dấu câu tiếng Việt của học sinh trung học cơ sở hiện nay, TCNN số 4/2006. 7. Đỗ Hữu Châu, Đại cương ngôn ngữ học tập hai: Ngữ dụng học, Nxb. Giáo dục, 2001. 8. Đỗ Hữu Châu, Từ vựng – ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, 198 9. Hoàng Thị Châu, Phương ngữ học tiếng Việt, Nxb. KHXH, 1989. 10. Mai Ngọc Chừ - Vũ Đức Nghiệu – Hoàng Trọng Phiến, Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, 2006. 11. Nguyễn Đức Dân, Ngữ dụng học, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1998. 12. Đinh Văn Đức, Vài suy nghĩ bước đầu về ngữ pháp lí thuyết và ngữ pháp thực hành trong dạy tiếng Việt, TCNN số 4/1991 13. Nguyễn Thiện Giáp, Dụng học Việt ngữ, Nxb.ĐHQGHN, 2004. 14. Cao Xuân Hạo, Tiếng Việt - văn Việt - người Việt, Nxb Trẻ, 2001. 63 15. Đỗ Việt Hùng, Từ khái niệm năng lực ngôn ngữ đến vấn đề dạy học tiếng Việt trong nhà trường phổ thông, Nxb. Giáo dục, 1999. 16. Vũ Thị Thanh Hương, Từ khái niệm “năng lực giao tiếp” đến vấn đề dạy và học tiếng Việt Trong nhà trường phổ thông hiện nay, TCNN số 4/2006. 17. Nguyễn Văn Khang, Ngôn ngữ học xã hội, Nxb. KHXH, 1999. 18. Nguyễn Văn Khang, Từ ngoại lai trong tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, 2007. 19. Nguyễn Văn Khang, Tiếng lóng Việt Nam, Nxb. KHXH, 2001. 20. Đinh Trọng Lạc-Nguyễn Thái Hòa, Phong cách học tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, 1998. 21. Trần Thị Nhàn, Vấn đề dạy và học kiểu câu đặc biệt, câu rút gọn trong trường phổ thông hiện nay, TCNN số 4/2006. 22. Nguyễn Khắc Phi, Dạy học tiếng Việt trong nhà trường phổ thông, TCNN, số 8/2001. 23. Bùi Minh Toán- Lê A- Nguyễn Quang Ninh, Phương pháp dạy học tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, 2008. 24. Bùi Minh Toán- Lê A- Đỗ Việt Hùng, Tiếng Việt thực hành, Nxb Giáo dục, 2008. 25. Trần Ngọc Thêm, Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, 2002. 26. Cù Đình Tú, Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, 2002. 27. Nguyễn Thị Thìn, Câu tiếng Việt và nội dung dạy – học câu ở trường phổ thông, Nxb. ĐHQGHN, 2003. 28. Nguyễn Đức Tồn, Mấy vấn đề lí luận và phương pháp dạy-học từ ngữ tiếng Việt trong nhà trường, Nxb ĐHQGHN, 2003. 29. Ferdinand de Sausure, Giáo trình ngôn ngữ học đại cương (bản dịch tiếng Việt của Cao Xuân Hạo), Nxb.KHXH, 2005. 30. Gllian Brown- George Yle, Phân tích diễn ngôn, Nxb. ĐHQGHN, 2002. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên PHỤ LỤC LỖI VỀ CHỮ VIẾT 1. Lúc dọn khu đất đó, họ phải trặt đi cây mít mà anh tôi yêu thích. 2. Tôi sẽ mãi mãi ghi nhớ và không bao giờ quên được những gì mà bố đã giành cho tôi. 3. Anh ấy biết dất nhiều cách chơi hoa 4. Thời thơ ấu của tôi được lớn nên trong tình yêu thương của ông bà, cha mẹ. 5. Tình cảm của tôi đối với bà không sao kể siết 6. Tôi khao khát cháy bỏng một gia đình chọn vẹn 7. Tôi nắm lấy bàn tay mẹ 8. Cả cuộc đời này mẹ sống vì tôi, rành hết tình yêu thương cho tôi 9. Không những chỉ lái xe, mà thời gian dảnh bố tôi đi tìm việc làm thêm để kiếm tiền nuôi gia đình 10. Tôi chạy đến ôm trầm lấy bố tôi 11. Mặc dù bố mẹ tôi đã tạo điều kiện tốt nhất để cho tôi học hành nhưng tôi lại không biết chân trọng 12. Đăm San là một người anh hùng được dân làng kính trọng và thần linh tre trở 13. Hình ảnh “cánh bèo” gợi đến những kiếp người trôi nổi bấp bênh, bị sô đẩy bơ vơ tội nghiệp 14. “Củi một cành khô lạc mấy dòng”, câu này hoàn toàn tả thực không xa vào ước lệ sáo mòn. một cành củi khô nhỏ bé chôi dạt lênh đênh trên sông nước 15. Nghe tiếng trống canh dồn dập mà sót xa bẽ bàng 16. Hồ Xuân Hương trực tiếp bộc lộ tâm trạng chán trường buồn tủi 17. Khi mẹ mắng tôi có những câu hơi lạng lời làm cho tôi trạnh lòng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18. Đối với tôi hình ảnh mẹ suất thân từ những điều hết sức đơn giản 19. Khi Đăm San đánh nhau với Mtao Mxây cành thể hiện sự dũng cảm của mình, tỏ thái độ bình tĩnh, không giun sợ trước kẻ thù 20. Em mong ước sau này em trở thành một người tài giỏi 21. Em không thể quên được những hàng cây xanh, những hàng ghế đá dưới gốc cây râm mát để những bạn học sinh ngồi chơi trò truyện 22. Đăm San là một người có ý trí và nghị lực 23. Nhìn những người bạn mới, thầy cô giáo mới, trong lòng em không thể dấu nổi sự bâng khuâng lo sợ xen lẫn sự hứng khởi và tràn đầy hạnh phúc 24. Đăm San như một vị thần hòa bình luôn canh giữ và bảo vệ dân làng khỏi các thế lực sấu khác 25. Hình ảnh cánh chim chiều xuất hiện trên nền trời cao rộng hơn nữa cánh chim chiều càng cô đơn, lẻ loi bởi dường như nó trở cả bóng chiều xa trên đôi cánh nhỏ bé. 26. Tràng giang là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Huy cận dó là nỗi buồn, nỗi sầu nỗi ảo lão bậc nhất trong các nhà thơ mới. 27. Tràng Giang của Huy Cận tiêu biểu cho hồn thơ của ông dó là nỗi buồn, nỗi sầu, nỗi ảo não bậc nhất trong các nhà thơ mới xong qua đó ta vẫn nhận thấy tình yêu cuộc sống, niềm khao khát giao cảm với cuộc đời. 28. “Thơ mới” xuất hiện như một giàn đồng ca đa sầu đa cảm 29. Hai câu đầu của khổ thơ tiếp theo làm nổi bật sự đìu hiu, vắng nặng của cảnh chiều 30. Từ “dạt” cho thấy cánh beo bị sô đẩy bị tác động gợi thân phận bơ vơ, tội nghiệp. 31. Câu thơ là lời mời gọi tha thiết ân cần của người con gái sứ Huế 32. Câu thơ trên chứa đựng những tình cảm thắm thiết nhớ nhung cũng chen lẫn sự giận hờn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 33. Con đường chải dài vô tận: đường bằng phẳng thì ít mà đường ghê sợ thì nhiều 34. Đến triều Nguyễn, con đường ấy đã trở nên nỗi thời không còn đủ sức hấp dẫn nữa. 35. Không gian được mở ra rộng mênh mông với những bãi cát dài lối tiếp nhau 36. Hình ảnh người đi đường được khắc họa qua tri tiết những bước đi mải miết mệt mỏi nặng lề. 37. Thời gian của thiên nhiên của đất trời cứ tuần hoàn mà tuổi xuân của con người qua đi không trở lại, sự dở dang của duyên tình làm tăng thêm sự sót xa đau đớn 38. Câu thơ tiếp tả tác giả một mình trơ chọi cô độc trước không gian rộng lớn 39. Tự tình là tự bày tỏ tự dãi bày những tâm sự của nhà thơ 40. Bài thơ nằm trong trùm “Tự tình” gồm 3 bài 41. Âm thanh “văng vẳng” là những tiếng kêu rai rẳng tạo nên một không gian yên tĩnh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên LỖI VỀ TỪ VỰNG 1. Tình cảm của mẹ làm cho tôi cực kì cảm động sau này dù có đi đâu về đâu cũng nhớ đến ơn dạy dỗ chăm sóc của mẹ 2. Đối với tôi hình ảnh mẹ suất thân từ những điều hết sức đơn giản 3. Sau khi về anh liền tặng tôi một con diều, không nghĩ ngợi gì nữa tôi liền cầm lấy nó và chạy vụt lên tầng và thả cho nó bay lên, nhìn cánh diều bay tôi rất thích, nó làm cho tôi có cảm giác đang được bay trên chân không 4. Khi ngủ dậy tôi liền gọi anh khắp nhà 5. Từ khi còn bé tôi đã ý thức được ý nghĩa của mẹ 6. Khi đó tôi còn quá nhỏ để hiểu được câu nói đó và giờ đây tôi đã thấm thía được câu nói đó 7. Lúc đó tôi mới biết bà rất yêu thương tôi rất nhiều 8. …những lúc đó em không biết phải giải quyết như thế nào, nhiều lúc em cảm chừng như bó tay 9. Tuy còn đang công tác nhưng mẹ em vẫn chăm sóc em từng li từng tí một. 10. Còn cả cách dạy học ôi thật tuyệt biết bao mẹ chỉ bảo cho em từng li từng tí một. Từ các câu dễ đến các câu khó, mẹ đều bảo và giảng dạy em hết 11. Nhưng không vì vậy em tự ti mặc cảm, vì học dưới mái trường Lương Thế Vinh đều là các thầy cô giáo dạy tốt cả 12. Nhiều khi tôi hay khóc thầm vì sự thương mẹ 13. Từ xa xưa hình ảnh người mẹ đã đi sâu vào thơ ca, những bài văn câu hát 14. Tấm lòng của mẹ thì cao cả như là sông là biển 15. Không hiểu do đâu mà chúng tôi lại chơi thân với nhau, chắc tại hai thằng có tính cách hợp nhau cũng nên 16. Anh em tôi rất hay cùng nhau chia sẻ, giúp đỡ nhau trong học tập và trong cuộc sông Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17. Tôi vẫn nhớ năm tôi lên tám tuổi, tôi bị ốm suốt một tuần rời 18. Từ khi bố tôi mất, mẹ tôi phải chạy đôn chạy đáo vất vả kiếm tiền nuôi tôi ăn học 19. Mỗi lần như vậy thì tôi cảm thấy rất thương mẹ 20. Đăm San là một anh hùng luôn thắng bại trước kẻ thù với tư thế ung dung, luôn cho chúng ta những kỉ niệm tốt về chàng 21. Khi mới bước vào trường, người đầu tiên em gặp là bác bảo vệ, bác rất hài hòa và làm việc rất nghiêm khắc 22. Hành động của chàng thì rất mạnh mẽ áp đảo kẻ thù 23. Đăm San là một tù trưởng hết sức tài giỏi có thể mang no ấm cho những người dân của mình 24. Năm nay em đã học lớp 10 rồi, nhanh thật đấy 25. Lần này khi vừa bước vào cánh cổng cấp III nó cho em một cái cảm giác, ấn tượng rất là sâu sắc 26. Em nhìn bạn nào cũng thấy lạ chẳng nhìn thấy người quen đâu cả 27. Bạn bè nhìn nhau ngơ ngác dường như không bạn nào quen bạn nao cả 28. Đăm San là một người anh hùng khỏe mạnh là một tráng sĩ oai liệt kiên cường 29. Lúc đầu thì em cũng thấy hơi run sợ, nhưng sau sau đó em cảm thấy tự tin hơn nhờ sự giúp đỡ của các bạn trong lớp 30. Qua câu chuyện nó đã thể hiện lên Đăm San là một người anh hùng dân tộc đem lại sự giàu có phồn vinh và hạnh phúc cho dân tộc mình 31. Đó là một ngày đẹp trời của mua thu hòa vào dòng người đầy tấp nập kia với những chiếc áo trắng khoác trên người chúng tôi cũng bắt đầu đi tới trường để bắt đầu năm học mới 32. Trong số các nhân vật trong truyện này thì Đăm San là một nhân vật được nói đến nhiều 33. Buổi bước chân vào trường THPT đã để lại cho em quá nhiều ấn tượng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 34. Các thầy cô giáo thì rất vui vẻ đón tất cả các em học sinh 35. Em bước vào ngôi trường này với tiếng trống trường, với những tiết học thật là nhộn nhịp 36. Từ khi bước vào trường THPT, em thấy đó là một môi trường giáo dục tốt với những thầy giáo, cô giáo thật là nghiêm khắc 37. Khung cảnh ở đây thật là nhộn nhịp với những phòng học thật là rộng lớn 38. Đăm San nghiễm nhiên trở thành một vị anh hùng được toàn bộ nhân dân Ê đê biết đến 39. Ngày đầu tiên bước vào trường THPT, chưa bao giờ tôi lại có cái cảm giác lâng lâng và kì lạ như vậy 40. Cái buổi đầu tiên đi học mọi thứ đều gần như là mới lạ với em 41. Đăm San là một người anh hùng dũng cảm kiên cường chống lại những cái tội ác mà Mtao Mxây gây ra, là một người anh hùng được tất cả dân làng kính trọng và thần linh tre trở 42. Tóm lại vẻ đẹp của Đăm San là không thể kể được là một người anh hùng là một tù trưởng giàu có, được mọi người quý trọng 43. Mặc dù tôi đã qua hai lần trải nghiệm cái cảm xúc bồi hồi bỡ ngỡ khi bước vào mái trường mới. Nhưng đến lần thứ ba này lại khác. Khi đặt bước chân đầu tiên vào mái trường THPT cái cảm giác bồi hồi bỡ ngỡ nó lại trỗi dậy, nhưng lần này cái cảm giác bồi hồi bỡ ngỡ lại không giống hai lần trước 44. Trên đương đi tới trường, em đã có suy nghĩ, không biết ngôi trường này thế nào nhỉ, có to không, lớp học như thế nào, quanh cảnh trong trường ra sao 45. Có một cái gì đó đã quấn hút em vào trường THPT Lương Thế Vinh 46. Cách ông gieo vần “eo” rất là đặc biệt 47. Tiếp đến tác giả vẽ lên không gian xa vắng, tĩnh lặng và cô đọng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 48. Bài thơ được sáng tác năm 1938 lấy khơi gợi chủ yếu từ cảnh sông Hồng 49. Hình ảnh “củi một cành khô” đã nhấn mạnh, khẳng định, tô đận cái nhỏ nhoi đơn độc của cành củi giữa dòng nước mênh mông vô tận 50. Hai câu thơ đầu làm nổi bật sự dịu dàng vắng lặng của cảnh chiều. Đứng trong cảnh không gian đó, con người lại càng cô đơn, càng khát khao được nghe những tiếng vọng thân thiện của cuộc đời 51. Đăm San là một người anh hùng, một người tài ba, một tù trưởng xứng đáng của nhân dân, là một vị anh hùng của nhân dân 52. Trong sử thi có rất nhiều những câu chuyện kể về những người anh hùng 53. Nhưng đối với em niềm cảm xúc khi bước vào trường là rất lo sợ và run 54. Đăm San hiện ra với hình ảnh một con người khỏe mạnh, bắp chân chàng to vật vã, cả bắp đùi của chàng thì khỏi phải phải nói, sức của chàng to như sức con voi đực. 55. Em không thể quên được cái cái buổi đầu tiên , cái ngày mà mình đặt chân đến mái trường THPT với bao điều mới lạ 56. Xa trường học và phải xa cả bạn bè cũ lúc đầu thì em rất buồn 57. Tác giả đã vẽ lên không gian vắng vẻ tĩnh lạng và cô đọng 58. Hình ảnh hàng cau nó tượng trưng cho thôn Vĩ 59. Câu thơ đầu tiên như một câu hỏi, vừa nhắc nhở trách móc, vừa mời mọc ân cần tha thiết. Câu hỏi thấm thía một niềm tiếc nuối day dứt vọng lên từ trong lòng bài thơ. 60. Không gian được mở ra rộng mênh mông với những bãi cát nối tiếp nhau, đó là con đường rất là dài, vô tận 61. Hình ảnh bãi cát tượng chưng cho con đường danh lợi đầy trông gai, nhọc nhằn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 62. Nhịp điệu bài thơ góp phần diễn tả thành công những cảm xúc suy tư của nhân vật chữ tình 63. Qua âm thanh này Hồ Xuân Hương giường như rất có ấn tượng và bị ám ảnh bởi âm thanh này 64. Câu thơ tả cảnh đêm khuya không gian tĩnh lặng. Một quang cảnh im lặng, tĩnh lặng đến nỗi tiếng trống rừ xa mà vẫn nghe thấy 65. “Hồng nhan” là nhan sắc của người phụ nữ đẹp lại kết hợp với từ “cái” để chỉ ra sự rẻ rúm mỉa mai về thân phận 66. Trong bài thơ “Câu cá mùa thu” của Nguyễn Khuyến thì ông đã qua sát bằng mắt sắc màu, hình dáng, động thái của sự vật hiện tượng 67. Âm thanh “văng vẳng” là âm thanh vọng từ xa tới, nó gợi một không gian yên lặng tuyệt tình 68. Từ đây ta có thể kết luận rằng; 2 câu đề đã thể hiện nỗi niềm buồn tủi, xót xa, thân phận đơn phương của người phụ nữ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên LỖI VỀ CÂU 1. Trong văn bản “Chiến thắng Mtao M xây” đã toát lên vẻ đẹp anh hùng, phi thường của nhân vật Đăm San 2. Qua “Chiến thắng Mtao Mxây” đã cho thấy vẻ đẹp tài năng phi thường của người anh hùng Đăm San 3. Trong câu chuyện “Chiến thắng Mtao Mxây” thì được nói nhiều nhất là nhân vật Đăm San là một vị anh hùng. 4. Là một nhà thơ có hồn thơ ảo não bậc nhất, thơ Huy Cận thấm đượm một nỗi buồn sâu sắc và thấm thía 5. Qua hoàn cảnh sáng tác này đã cho em biết nội dung của bài thơ là một bức tranh phong cảnh đẹp về một miền quê đất nước đó là xứ Huế và sông Hương thơ mộng 6. Là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Việt Nam hiện đại. Thơ Huy Cận hàm súc, giàu chất suy tưởng, triết lí nhiều bài thơ của ông nằm trong số những bài thơ hay nhất trong thơ mới 7. Bằng sự kết hợp giữa ngôn ngữ cổ điển tả cảnh ngụ tình, đã nêu bật được sự cô đơn lẻ loi của Huy Cận 8. Với từ láy “lớp lớp” như tạo nên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, tầng tầng lớp lớp những núi mây. 9. Trong văn học thường dùng hình ảnh cánh bèo dạt để biểu tượng cho những kiếp người nhỏ bé, trôi nổi, Huy cận cũng dùng nói để gợi lên một thân phận bơ vơ tội nghiệp 10. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử là một nhà thơ lớn của phong trào thơ mới. 11. Trong hai câu thơ đầu đã vẽ lên một khung cảnh thiên nhiên sóng nước. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12. Với câu đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” nắm bắt được hồn thơ của bài thơ Tràng giang vừa thâu tóm được cái tình bâng khuâng thương nhớ vừa vẽ lên khung cảnh thiên nhiên dài vô tận. 13. Qua đó thấy được tâm hồn đang thèm khát sự sống, sự ấm cúng 14. Ngay mở đàu bài thơ là một lời tự vấn của tác giả “sao anh không về chơi thôn vĩ?” 15. Trong bài thơ “Câu cá mùa thu” sử dụng những từ ngữ cách gieo vần “eo” phù hợp với việc miêu tả không gian mùa thu nhỏ hẹp 16. Qua những từ ngữ nêu trên nó góp phần làm tăng vẻ đẹp của nghệ thuật sử dụng từ ngữ 17. Trong những tá phẩm ở học kì I lớp 11, thì tác phẩm “Tự tình II” của Hồ xuân Hương. Vì ở tác phẩm này là Hồ Xuân Hương tự bày tỏ nỗi lòng, sự éo le trong tình duyên 18. Sách là kho tàng tri thức vô giá mà con người có được. Sách mang lại những hiểu biết cho con người. Tầm quan trọng của sách là một điều mà không ai có thể phủ nhận. Tuy nhiên sự lựa chọn sách để đọc là một điều rất quan trọng. Nếu lựa chọn sách không phù hợp có thể dẫn đến những sai lệch về ý nghĩa của sách. Sách mang lại tầm hiểu biết cho con người, sách cho con người những hiểu biết về đất nước, lịch sử, về các loài động thực vật… 19. Qua mẹ em học được rất nhiều điều, luôn biết nhường nhịn, quan tâm giúp đỡ, chia sẻ buồn vui và cố gắng học tập không để phụ lòng cha mẹ 20. Ai sinh ra cũng đều có mẹ. Mẹ là người sinh ra ta, cùng cha nuôi nấng dạy dỗ ta. Khi ta vấp ngã, mẹ là người luôn lo lắng ủng hộ động viên em bước tiếp. Mẹ là người thân thiết nhất của tôi luôn cho tôi niềm tin và sự dũng cảm. Tôi rất cảm ơn mẹ vì đã sinh ra tôi cho tôi cuộc sống

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkldf_1097.pdf