Cho cá ăn 7 ngày và gián đọan 3 ngày cho tốc độ cá tăng trưởng cao nhất,
FCR thấp nhất, và PER cao nhất vì vậy có thể áp dụng phương thức này trong
việc nuôi cá tra thâm canh, góp phần giảm chi phí sản xuất, hạn chế ô nhiễm
môi trường, đem lại hiệu quả kinh tế cao.
34 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3443 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Ảnh hưởng của phương pháp cho ăn gián đoạn lên sự tăng trưởng của cá tra ( pangasianodon hypophthalmus) giống, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăn có nguồn gốc động vật sẽ giúp cá lớn nhanh hơn.
Tính ăn của cá ổn định khi cá có hình dạng và cấu tạo như cá trưởng thành
(khỏang 3 tuần tuổi). Hệ tiêu hóa của cá đã hòan chỉnh, dạ dày đã có đủ các hệ
men tiêu hóa do đó cá sử dụng được nhiều loại thức ăn khác nhau. Nhưng những
lọai thức ăn có nguồn gốc động vật vẫn đươc cá ưa thích hơn, đặc biệt những lọai
thức ăn là các xác chết động vật đang thối rữa.
Tuy nhiên, những lọai thức ăn có nguồn gốc thực vật như các lọai bèo, rau
muống cá vẫn có khả năng sử dụng tốt nhưng sinh trưởng của cá chậm hơn so với
những cá sử dụng thức ăn có sử dụng thức ăn có nguồn gốc động vật. Ngòai ra, cá
tra còn sử dụng rất tốt những loại thức ăn do con người cung cấp.
2.2.4. Đặc điểm sinh trưởng
Cá còn nhỏ tăng nhanh về chiều dài, cá sẽ bước vào thời kỳ tích lũy mỡ
khi đạt 2,5 kg. Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng của cá tra phụ thuộc nhiều vào
điều kiện môi trường, mật độ thả nuôi, đặc biệt là chất lượng của thức ăn sử dụng
(theo Dương Nhựt Long, 2003).
Cá lớn nhanh khi nuôi trong ao, sau một năm nuôi cá đạt trọng lượng 1 –
1,5kg /con, trong những năm sau cá lớn nhanh hơn. Cá nuôi trong ao có thể đạt
đến 25kg/con ở cá mười tuổi. Sau khỏang 3 – 4 năm nuôi cá có thể đạt tới trọng
lượng 2,5 – 3,5 kg/con. Và lúc này sự sinh trưởng về chiều dài có sự giảm xuống
do cá bắt đầu có sự tích lũy cho quá trình thành thục sinh dục.
10
Một điều khá đặc biệt ở cá tra là hầu như cá không có hiện tượng bị chai,
tức là còi. Trong trường hợp cá có thể trọng nhỏ do thiếu thức ăn trong thời gian
dài, nhưng nếu cung cấp thức ăn đủ trở lại cá vẫn sinh trưởng bình thường
(Nguyễn Văn Kiểm, 1999).
2.3. Nhu cầu dinh dưỡng của cá
2.3.1. Nhu cầu về chất đạm (protein)
Chất đạm là chất dinh dưỡng được đặc biệt chú ý trong thức ăn. Nó là
thành phần chủ yếu cấu tạo nên cơ thể động vật.
Chất đạm là một chất hữu cơ chính chiếm khoảng 65-75% khối lượng khô
của cơ thể (Halver, 1989, trích bởi Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2004). Nhiệm vụ
chính của chất đạm chính là xây dựng cấu trúc cơ thể. Chất đạm trong thức ăn
cung cấp các amino acid qua quá trình tiêu hóa và thủy phân. Trong ống tiêu hóa,
các amino acid được hấp thụ vào máu và đi đến các mô, cơ quan, tham gia vào
quá trình sinh tổng hợp chất đạm của cơ thể phục vụ cho quá trình sinh trưởng,
sinh sản và duy trì cơ thể. Nếu thức ăn không cung cấp đầy đủ nhu cầu chất đạm
cá sẽ chậm hoặc ngừng tăng trưởng, thậm chí có thể giảm khối lượng. Mặt khác,
nếu hàm lượng chất đạm trong thức ăn vượt quá nhu cầu thì chỉ một phần được sử
dụng để tạo thành chất đạm mới, phần còn lại sẽ được chuyển hóa dạng năng
lượng, điều này làm giá thành thức ăn tăng lên là không cần thiết (Trần Thị Thanh
Hiền và ctv., 2004)
Nhu cầu chất đạm là lượng chất đạm tối thiểu có trong thức ăn nhằm
thỏa mãn nhu yêu cầu các amino acid để đạt tăng trưởng tối đa (NRC, 1993).
Theo Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2004 cá tra giống (2 – 3 gam) nhu cầu chất
đạm tối ưu là 38%.
2.3.2. Nhu cầu về năng lượng (energy)
Mọi họat động sống của một động vật đều cần năng lượng. Nhu cầu năng
lượng thực sự của cá rất khó xác định mà người ta dựa vào tỷ lệ và chất đạm tối
ưu. Tỷ lệ tối ưu này rất quan trọng bởi vì thức ăn vượt quá nhu cầu năng lượng sẽ
giảm sự bắt mồi của cá, ngược lại nếu thức ăn thiếu năng lượng thì chất đạm
trước tiên sẽ được dùng để cung cấp năng lượng thỏa mản nhu cầu của cơ thể
(Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2003).
Nhu cầu năng lượng (thô) trong thức ăn cho cá Trơn là 2750 – 3100
kcal/kg. Ở cá Trơn, 1kg thức ăn cho 12,2 Mj thì cho cá tăng trọng 22,7 Mj (Trần
Thị Thanh Hiền và ctv., 2004).
11
2.3.3. Nhu cầu về chất béo (lipid)
Chất béo là nguồn dinh dưỡng cung cấp năng lượng tốt nhất cho động vật
thủy sản. Việc bổ sung chất béo thích hợp sẽ giảm nhu cầu cầu chất đạm. Ngòai
ra, chất béo còn tham gia vào cấu trúc của màng tế bào, cung cấp các acid béo
thiết yếu. Đối với cá, hàm lượng chất béo thay đổi theo lòai, tuy nhiên mức độ đề
nghị từ 6 – 10%. Ở cá tra, mức độ sử dụng tối đa chất béo trong thức ăn là 4 – 8%
(Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2004).
2.3.4. Nhu cầu về chất bột đường (carbohydrate)
Carbohydrate được xem là nguồn nguyên liệu cung cấp năng lượng rẻ tiền
nhất cho động vật thủy sản. Carbohydrate chiếm tỷ lệ trên 75% ở thực vật trong
khi ở động vật hiện diện với số lượng nhỏ và tồn tại chủ yếu dưới dạng glucogen
(Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2004).
Ở cá da trơn, trong việc phối chế thức ăn thì carbohydrat được sử dụng để
làm nguồn cung cấp năng lượng và bổ sung một tỷ lệ nhỏ chất béo vừa cung cấp
năng lượng vừa cung cấp axit béo thiết yếu (Trần Thanh Hùng, 2000).
Theo Hùynh Thị Tú và Nguyễn Thanh Phương (2000), thức ăn chứa 26%
chất bột đường cho sinh trưởng tốt nhất ở cá tra bần (Pansasius kynyit), còn cá
basa (Pangasius bocourti) là 35,5%. Đối với cá tra (2,9g) thì khả năng sử dụng
chất bột đường nằm trong khỏang 30-45% thì cho tăng trưởng tốt (Trần Thị
Thanh Hiền và ctv., 2004).
2.4. Một số nghiên cứu về phương pháp cho ăn và tăng trưởng của cá
Thức ăn là vật chất cơ bản cung cấp năng lượng giúp cho động vật nuôi
sinh trưởng, phát triển, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.
Nhưng quyết định năng suất và hiệu quả kinh tế của việc nuôi cá phần lớn
phụ thuộc vào kỹ thuật cho ăn có hợp lý hay không. Cách cho ăn hợp lý tức là
trong các điều kiện ngọai cảnh khác nhau, vừa thỏa mản đều đặn nhu cầu dinh
dưỡng của vật nuôi vừa đạt được sự chuyển hóa thức ăn cao nhất.
Theo Võ Thị Cúc Hoa (1997), nhiều kinh nghiệm cho thấy nếu cho cá ăn
với số lượng bằng 13,5% trọng lượng thân, sau đó nếu đột nhiên giảm thấp còn
10% thì thể trọng cá giảm không giữ được trọng lượng như trước. Điều đó cho
thấy thể trọng của cá thay đổi theo sự biến động của số lượng thức ăn.
Đặng Đình Tám (1995) đã nghiên cứu về nhịp cho ăn của cá bống tượng
(Oxyeleotris marmoratus), thí nghiệm được tiến hành với nhịp cho ăn như sau:
cho cá ăn từ 6 đến 18 giờ, 18giờ đến 8 giờ sáng hôm sau, cho cá ăn cả ngày và
đêm. Kết quả cho thấy cá ăn cả ngày và đêm cho tăng trưởng cao nhất.
12
Phạm Văn Huy (1996) khi nghiên cứu về ảnh hưởng của khẩu phần ăn lên
sinh trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn của cá basa giống (Pangasius bocourti)
với bố trí với 5 nghịêm thức tương đương với các khẩu phần ăn theo trọng lượng
thân 1%, 3%, 6%, 9%, 12%. Kết quả là cá tăng trưởng cao nhất với khẩu phần
9%.
Trần Bình Tuyên (2000), nghiên cứu về sự ảnh hưởng của các phương
thức và tần số cho ăn đối với sự tăng trưởng của cá tra bần (Pangasius kunyit). Về
phương pháp cho ăn, thí nghiệm được bố trí như sau: cá được cho ăn theo ban
ngày (từ 6 giờ sáng đến 18 giờ chiều cùng ngày), ban đêm (từ 18 giờ chiều đến 6
giờ sáng hôm sau), cả ngày và đêm. Kết quả cho thấy, phương thức cho ăn ban
đêm và ngày đêm cho cá tăng trưởng cao nhất. Về tần số cho ăn với nhịp 2, 3 và 4
lần/ngày cho kết quả nghiệm thức 3 lần/ngày cho cá tăng trưởng cao nhất.
Nguyễn Kim Thùy (2008) khi nghiên cứu về ảnh hưởng của tần số cho
ăn lên sự tăng trọng của cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) giai đọan giống,
thí nghịệm được tiến hành với 4 nghiệm thức với tần số cho ăn 2, 3, 4, 8 lần/ngày.
Kết quả cho thấy tốc độ tăng trưởng cao nhất ở nghiệm thức 3lần/ngày. Tuy
nhiên, tốc độ tăng trưởng ở nghiệm thức cho ăn 2 và 3 lần/ngày không có ý nghĩa
về mặt thống kê, vì vậy cho ăn 2 lần/ ngày có hiệu quả kinh tế nhất.
Cá được cho ăn dưới nước. Nếu thức ăn không được sử dụng trong một
khỏang thời gian nào đó không chỉ có nghĩa là hao tốn chi phí mà còn giảm chất
lượng nước (Tom Levell, 1989). Vì vậy, khẩu phần ăn, phương thức cho ăn là
những yếu tố mà người nuôi cần chú ý để đầu tư thức ăn đúng mức mang lại hiệu
quả kinh tế, góp phần làm giảm ô nhiễm môi trường. Hiện nay, đã có nhiều
nghiên cứu về tần số cho ăn, khẩu phần ăn theo trọng lượng. Nhưng phương pháp
cho ăn gián đọan chưa được nghiên cứu nhiều.
Theo Davies el at., (2006) tần số cho ăn là yếu tố quan trọng ảnh hưởng
đến tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ sống và thành phần filê. Cho ăn tối ưu ở một tần số
nhất định sẽ tiết kiệm được chi phí. Chi phí thức ăn chiếm 30-70% tổng chi phí
điều hành của một doanh nghiệp, khi cho ăn quá mức sẽ không mang lại hiệu quả
kinh tế, còn gây ảnh hưởng đến chất lượng nước. Xác định tần xuất cho ăn thích
hợp là cần thiết để tối ưu cho tăng trưởng, và tỷ lệ sống tốt hơn. Giảm mức độ cho
ăn nhưng v ẫn đãm bảo tốc độ tăng trưởng của cá điều đó chỉ thực hiện ở việc cho
ăn gián đọan.
Theo Lê Thanh Hùng (2008), số lần cho ăn trong ngày ảnh hưởng đến
tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn. Để đạt tăng trưởng tối ưu, số lần cho ăn
thay đổi theo giống loài thủy sản, trọng lượng cá, môi trường nuôi và chất lượng
thức ăn. Và khi cho cá ăn gián đoạn trong khoảng thời gian giới hạn, liệu có ảnh
hưởng đến tăng trưởng và sự thay đổi thành phần hoá học bên trong cơ thể cá.
13
Theo Wootton, (2003), khi cho cá ăn gián đọan thì tốc độ tăng trưởng
của cá sẽ có 4 khả năng xảy ra. Một là tăng trưởng của cá có thể phục hồi lại đầy
đủ như tăng trưởng bình thường. Hai là tăng trưởng của cá có thể tăng trưởng
nhanh hơn tăng trưởng lúc đầu. Ba là tăng trưởng của cá chỉ phục hồi lại một
phần so với tăng trưởng lúc đầu. Và cuối cùng là cá không có khả năng phục hồi
tăng trưởng khi cho ăn gián đọan một thời gian.
Theo Amin et al,. (2005) trọng lượng mất đi trong khỏang thời gian
gián đọan đó sẽ tăng cân trở lại hay có khả năng phục hồi tăng trưởng sau khi
bị giới hạn nguồn thức ăn ăn vào.
Singh and Balange (2005) thí nghiệm trong 8 tuần trên cá chép Ấn Độ
(Cirrhinus mrigala) ở giai đoạn giống, so sánh tăng trưởng và thành phần cơ thể
của cá giữa các chế độ cho ăn: cá được cho ăn hằng ngày (2 lần) và cá cho ăn
gián đoạn 1, 2 hoặc 4 tuần sau đó được cho ăn trở lại theo nhu cầu của cá. Kết quả
cho thấy, cá cho ăn gián đoạn 2 tuần có trọng lượng cơ thể cao hơn và FCR thấp
hơn cá được cho ăn hằng ngày. Các thành phần chất đạm, chất béo, tro, độ ẩm sau
khi kết thúc thí nghiệm không có sự khác nhau giữa các chế độ cho ăn (trừ thành
phần chất đạm trong cá cho ăn gián đoạn 4 tuần thì thấp hơn).
Theo kết quả nghiên cứu của Wang et al., (2008) khi nghiên cứu cho ăn
gián đọan ở cá rô phi (Oreochromis niloticus) có trọng lượng trung bình 6,6g sau
12 tuần thí nghiệm cá được cho ăn 2 lần một ngày ở các chế độ cho ăn: 1 tuần
không cho cá ăn: 2 tuần cho ăn trở lại, 2 tuần không cho cá ăn: 4 tuần cho ăn trở
lại, 4 tuần không cho cá ăn: 8 tuần cho ăn trở lại thì trọng lượng cơ thể thấp hơn
cá được cho ăn hằng ngày nhưng có SGR cao hơn. Không có sự khác biệt về hiệu
quả sử dụng chất đạm và thành phần hóa học trong cơ thể cá giữa các chế độ cho
ăn so với các được cho ăn hằng ngày.
Nghiên cứu về cho cá ăn gián đoạn trên bể được thực hiện bởi Chatakondi
et al ., (2001) với cá nheo Mỹ (I. punctatus) giai đoạn giống, cá được cho ăn hằng
ngày (đối chứng) theo nhu cầu và so sánh tăng trưởng với cá được cho ăn gián
đoạn 1, 2 và 3 ngày sau đó cho ăn trở lại thì tiêu thụ thức ăn cao hơn cá được cho
ăn hằng ngày. Sau 10 tuần thí nghiệm, nhịp độ tăng trưởng trung bình của cá ở
các nghiệm thức cho ăn gián đoạn là 40%, 180% và 191% tương ứng với các
nghiệm thức cho ăn gián đoạn 1, 2 và 3 ngày, cao hơn cá trong nghiệm thức đối
chứng. Hơn nữa, khối lượng cuối của cá chu kì gián đoạn cho ăn 3 ngày cao hơn
so với các nghiệm thức khác và các nghiệm thức có hiệu quả sử dụng thức ăn cao
hơn nghiệm thức đối chứng. Như vậy, thí nghiệm cho cá ăn gián đoạn trong ao
làm gia tăng sản lượng, hiệu quả sử dụng thức ăn tăng thì người nuôi cá có thể
giảm chi phí thức ăn và những vấn đề về chất lượng nước.
Wu et al., (2004) nghiên cứu ảnh hưởng của thời gian cho cá nheo Mỹ
(Ictalurus punctatus) trong ao đất, cá được ăn 1 lần/ngày, 2 lần/ ngày, cho ăn 1
14
lần/ ngày liên tục 6 ngày sau đó bỏ đói cá 1 ngày, khẩu phần ăn là 5% khối lượng
thân thì sau 5 tháng kết quả cho thấy tốc độ tăng trưởng, hệ số thức ăn, tỉ lệ sống
không có sự khác biệt giữa các nghiệm thức.
Kim and Lovell (1995) khi nghiên cứu trên cá nheo Mỹ (I. punctatus) thì
khi không cho cá ăn 0, 3, 6, 9 tuần sau đó tiếp tục cho cá ăn trở lại hằng ngày theo
nhu cầu thì sau 18 tuần thí nghiệm, cá ở nghiệm thức không cho ăn 3 tuần cho kết
quả khối lượng như cá ở nghiệm thức được cho ăn hằng ngày và tăng trưởng cao
hơn các nghiệm thức còn lại.
Nghiên cứu của Li et al., (2005) cho thấy không có sự khác nhau về năng
suất nuôi cá nheo Mỹ (I. punctatus) giai đoạn giống giữa các chế độ cho ăn theo
chu kì 1: 6, 1: 4 và 2:5 (ngày không cho cá ăn: ngày cho cá ăn) so với cá đối
chứng được cho ăn hằng ngày thì thấy không có sự khác biệt về các thông số môi
trường nước giữa các nghiệm thức và điều này cho thấy cho ăn gián đoạn không
ảnh hưởng đến tăng trưởng và góp phần giảm chi phí sản xuất và ô nhiễm môi
trường.
Ali el at.,(2006) thí nghiệm trên cá Labeo rohita giống trong thời gian 90
ngày với chế độ cho ăn như sau cho ăn hàng ngày (1lần/1ngày, với 3% trọng
lượng thân); 5 ngày cho ăn: 5 ngày không cho ăn; 10 ngày cho ăn và 10 ngày
không cho ăn. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt về thành phần hóa học của
cơ thể cá giữa các chế độ cho ăn khác nhau. Nghiên cứu này khẳng định có sự
phục hồi trăng trưởng ở cá Labeo rohita.
Thí nghiệm của Amin et al., (2005) kéo dài 18 tuần được thực hiện trên cá
tra (Pangasius hypophthalmus). So sánh tăng trưởng, nhu cầu thức ăn hằng ngày,
hệ số thức ăn của cá được cho ăn hằng ngày theo nhu cầu với nhóm cá được cho
ăn gián đoạn theo chu kì: 1 ngày cho ăn:1 ngày không cho ăn, 2 ngày cho ăn:2
ngày không cho ăn, 5 ngày cho ăn/5 ngày không cho ăn. Kết quả cho thấy trọng
lượng cơ thể, tốc độ tăng trưởng của cá ở chế độ cho ăn 1 ngày cho ăn:1 ngày
không cho ăn không có khác biệt so với cá được cho ăn hằng ngày và lớn hơn các
chế độ cho ăn còn lại trong thí nghiệm. Hơn nửa, cá được cho ăn hằng ngày có
FCR lớn nhất. Từ kết quả thí nghiệm cho thấy nuôi cá tra có thể giảm được chi
phí thức ăn với chế độ cho ăn 1 ngày cho ăn:1 ngày không cho ăn nhưng vẫn đảm
bảo tăng trưởng, hạn chế ô nhiễm môi trường.
Nghiên cứu của Eroldogan et al., (2008) về ảnh hưởng của các chế độ cho
ăn khác nhau trên cá Trác vàng (Sparus aurata) giai đoạn giống. Sau 48 ngày thí
nghiệm kết quả cho thấy với các chế độ cho cá ăn như: cho cá ăn 2 ngày:nghỉ 1
ngày, giảm 50% lượng thức ăn 2 ngày:2 ngày cho ăn bình thường theo nhu cầu,
giảm 50% lượng thức ăn 6 ngày:6 ngày cho ăn bình thường theo nhu cầu thì tăng
trưởng và tốc độ tăng trưởng đặt biệt của cá thấp hơn cá được cho ăn hằng ngày
theo nhu cầu. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng chất đạm và hệ số thức ăn của cá được
15
cho ăn giảm 50% lượng thức ăn 2 ngày:2 ngày cho ăn bình thường là tốt nhất.
Thành phần chất đạm của cá cho ăn chế độ giảm 50% lượng thức ăn 6 ngày:6
ngày cho ăn bình thường, ít hơn các chế độ cho ăn khác, trong khi các thành phần
lipit, tro, độ ẩm không có sự khác nhau giữa các chế độ cho ăn so với đối chứng.
Theo báo cáo của Li và Robinson (2006) trong mùa vụ sinh trưởng của cá
nheo Mỹ Ictalurus punctatus, người nuôi cá cho cá ăn 7 ngày trong tuần, nhưng
cũng có một số người họ thường cho cá ăn 6 ngày (ngày chủ nhật cá không được
cho ăn) hoặc 5 ngày trong tuần (ngày thứ 7 và ngày chủ nhật cá không được cho
ăn). Những tài liệu cho thấy, cá được cho ăn 6 ngày một tuần giảm 3,3% sản
lượng, và cá được ăn 5 ngày một tuần giảm 6,9% sản lượng so với cá được cho ăn
7 ngày một tuần trong mùa vụ tăng trưởng. Hệ số thức ăn giảm 4,8% và 7,9%
tương ứng cho cá được cho ăn 6 ngày và 5 ngày mỗi tuần so với cá được cho ăn
7 ngày mỗi tuần. Tuy nhiên, sản lượng cá cho ăn gián đoạn 1, 2 ngày/tuần và 1
ngày không cho ăn/5 ngày cho ăn không có sự khác nhau so với cá được cho ăn
hằng ngày. Tương tự khi tác giả thí nghiệm trên bể với các chế độ cho cá ăn gián
đoạn 0, 1, 2, 3, 4 ngày/tuần, 1:4, 3:7 (không cho ăn: cho ăn), cho thấy cá không
được cho ăn 1 ngày trong tuần tăng trưởng như cá được cho ăn hằng ngày, FCR
thấp nhất khi cá được cho ăn gián đoạn 2 ngày trong tuần. Kết quả này cho thấy
nuôi cá nheo Mỹ có thể cho cá ăn 5 hoặc 6 ngày trong tuần nhất là trong giai đoạn
kinh tế khó khăn có thể giảm được chi phi sản xuất.
Với những kết quả nghiên cứu trên cho thấy, phương thức cho ăn gián
đọan làm tăng hiệu quả khả năng sử dụng thức ăn, có sự đền bù hay phục hồi tăng
trưởng sau một khỏang thời gian ngắn gián đọan, góp phần giảm chi phí thức ăn
trong sản xuất và giảm sự biến động chất lượng nước môi trường ao nuôi.
16
Phần 3
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Chuẩn bị thí nghiệm
3.1.1. Cá thí nghiệm
Cá thí nghiệm có nguồn gốc sinh sản nhân tạo. Kích cỡ cá được chọn đồng
đều với khối lượng ban đầu 26-27 (g/con). Các không có dấu hiệu nhiễm bệnh
hay dị tật, xây xát,....
Hình 3.1. Cá tra thí nghiệm.
3.1.2. Thuần cá trước thí nghiệm
Cá được thuần trong bể thí nghiệm một tuần trước khi thí nghiệm chính
thức được tiến hành để cá quen với môi trường sống mới. Trước khi thí nghiệm
thì xác định lại trọng lượng cá thí nghiệm.
3.1.3. Bể thí nghiệm
Bể thí nghiệm là 12 bể nhựa có thể tích tổng là 500 lít/bể, mỗi bể chứa 400
lít nước với chiều cao cột nước là 700 cm. Các bể được đánh số từ 1 đến 12 để bố
trí thí nghiệm và tiện theo dõi. Trước thí nghiệm bể được vệ sinh sạch bằng
chlorine và xà phòng rồi rửa lại bằng nước sạch. Bể sau đó được lắp đặt sục khí
17
và cho nước vào và sục khí liên tục một tuần cho bay hết chlorine. Nước cấp cho
bể là nước giếng.
3.1.4. Thức ăn thí nghiệm
Thức ăn sử dụng trong thí nghiệm là thức ăn viên nổi phổ hiệu Cargill, đây
là một trong những lọai thức ăn được sử dụng phổ biến trong nuôi cá tra. Thức ăn
có kích cỡ viên là 2li.
Bảng 3.1. Thành phần hoá học của thức ăn thí nghiệm (theo nhà sản xuất).
Chỉ tiêu Thành phần hoá học
Ẩm độ
Tro
Đạm
Chất béo
Xơ
Năng lượng (KJ/kg)
11
2,5
30
2,5
6
2.800
Hình 3.3. Thức ăn thí nghiệm (trên) và hệ thống bể thí nghiệm (dưới).
18
3.1.5. Các vật liệu thí nghiệm khác
Máy đo oxy, nhịêt độ, pH.....
Các hóa chất: chlorine, formon,....
Hệ thống bơm và sục khí.
Tủ nung, tủ sấy, tủ đông,...
Dụng cụ phân tích mẫu trong phòng thí nghiệm.
Dụng cụ dùng trong thí nghiệm: vợt, xô,...
3.2. Bố trí thí nhiệm
Thí nghiệm được bố trí hòan tòan ngẫu nhiên với 3 lần lập lại cho mỗi
nghiệm thức (NT). Thí nghiệm được bố trí như sau:
Nghiệm thức 1 (đối chứng): cá được cho ăn hàng ngày
Nghiệm thức 2: cho cá ăn hàng ngày và liên tục 7 ngày sau đó không
cho ăn 2 ngày rồi tiếp tục cho ăn lại liên tục 7 ngày.
Nghiệm thức 3: cho cá ăn hàng ngày và liên tục 7 ngày sau đó gián
đoạn 3 ngày.
Nghiệm thức 4: cho cá ăn hàng ngày và liên tục 7 ngày sau đó gián
đoạn 4 ngày.
Khi cho ăn thì cho cá ăn 5-7%, nhưng theo dõi khi cá ăn no thì dừng lại
(cho ăn đến no). Mật độ cá bố trí là 50 con/bể và tổng thời gian thí nghiệm là 12
tuần.
3.3. Chăm sóc theo dõi
Trong quá trình thí nghiệm, cá được cho ăn 2 lần/ngày (sáng 9 giờ, chiều 17 giờ).
Lượng thức ăn cho cá với các khẩu phần định sẵn từ 5-7% và còn căn cứ thêm
vào khả năng sử dụng của cá. Hàng ngày theo dõi họat động của cá và đặc bịêt là
quản lí chặt chẽ thức ăn để tính chính xác lượng thức ăn mà cá sử dụng. Thức ăn
thừa được vớt ra khỏi bể và đếm số viên thức ăn. Xác định khối lượng bình quân
của 1 viên thức ăn bằng cách cân 30-50 viên thức ăn khô để tính ra khối lượng
trung bình của 1 viên thức ăn.
Môi trường: nhiệt độ đo 2 ngày/ lần và pH và Oxy thì đo hàng tuần.
Thay nước: nước trong bể được thay 20-30% hàng ngày bằng phương pháp
chảy tràn trước khi cho cá ăn vào buổi sáng và trước khi cho ăn vào buổi chiều.
19
Định kỳ (2-3 ngày) vệ sinh đáy bể thí nghiệm bằng cách dùng ống siphone cặn ở
đáy bể.
3.4. Phương pháp thu mẫu và ghi nhận kết quả
Sinh trưởng: thu mẫu mỗi 30 ngày. Khối lượng cá được xác định bằng cân
điện tử và chiều dài được xác định bằng thước đo, giấy kẻ mỗi ô 1 mm. Chiều dài
được tính là chiều dài chuẩn (từ chóp mõm đến cuống đuôi).
Thành phần hóa học: trước khi bố trí thí nghiệm bắt ngẫu nhiên 10 con cá
để phân tích thành phần sinh hóa. Sau khi thí nghiệm thu 5-7 con/bể để phân tích
thành phần sinh hóa. Mẫu cá được giữ đông lạnh và và bảo quản ở nhiệt độ (-
200C) cho đến khi phân tích.
Thành phần hóa học của cơ thể cá và thức ăn thí nghiệm được phân tích
theo phuơng pháp AOAC (2000) gồm ẩm độ, chất đạm, chất béo, tro và năng
lượng.
Ẩm độ: xác định bằng cách sấy mẫu trong tủ sấy ở nhiệt độ 1050C khoảng
4- 5giờ (đối với mẫu khô), 24 giờ (mẫu tươi).
Tro: xác định bằng cách đốt cháy mẫu và nung trong tủ nung ở nhiệt độ
5600C trong 4 giờ đến khi mẫu có màu trắng hoặc màu xám.
Chất đạm: xác định theo phương pháp Kjieldah qua 3 công đọan gồm,
công phá, chưng cất và chuẩn độ. Mẫu được công phá đạm trong 1,5 giờ ở nhiều
mức độ 110–3700 nhờ xúc tác H202 và H2S04 đđ. Sau khi công phá mẫu được
chưng cất giải phóng N2 trong dung dịch kiềm (Na0H) và hấp thu trong dung dịch
acid boric có sự hiện diện của chất chỉ thị metyl red. Sau đó chuẩn độ để xác định
hàm lượng đạm trong mẫu bằng H2S04 0,1N.
Chất xơ: được xác định bằng dung dịch thủy phân trong dung dịch axid và
bazơ, xơ thô là phần còn lại trong 2 dung dịch này.
Chất béo: xác định bằng phương pháp thủy phân trong hệ thống Soxlet
với dung môi là chloroform. Chất béo trong mẫu được chiết xuất nhờ quá trình
rửa tuần hòan của chloroform (nóng).
Carbohydrate ( NFE): NFE = 100 – (đạm + chất béo + xơ + tro + độ ẩm).
Năng lượng: đo bằng máy đo năng lượng Parr.
3.5. Tính tóan một số chỉ tiêu
20
Tỷ lệ sống (%) (survival rate - SR)
SR (%) = 100 x (số cá thu họach/số cá ban đầu).
Tăng khối lượng (weight gain - WG)
WG (g/con) = Khối lượng cuối (g/con) – Khối lượng đầu (g/con).
Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối (daily weight gain - DWG)
DWG (g/ngày) = (W2–W1)/T
Trong đó: W1: Khối lượng trung bìng của cá ban đầu.
W2: Khối lượng trung bình của cá kết thúc thí nghiệm.
T: ngày thí nghiệm
Hệ số thức ăn (feed conversion rate - FCR)
FCR = Lượng thức ăn sử dụng (kg)/tăng trọng của cá (kg).
Hiệu quả sử dụng thức ăn (feed conversion efficiency – FCE)
F = 1/FCR
Hiệu quả sử dụng đạm (protein efficiency ratio - PER)
PER = (W2 – W1)/đạm ăn vào.
Trong đó: W1: Khối lượng cá trước thí nghiệm
W2: Khối lượng trung bình của cá kết thúc thí nghiệm.
Hệ số lấy thức ăn (Food intake - FI)
FI = Lượng thức ăn sử dụng/số ngày thí nghiệm
3.6. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được xử lí bằng chương trình Excel version 5.0 và Statistica. So
sánh trung bình giữa các nghiệm thức dựa vào phân tích ANOVA và phép thử
DUNCAN.
21
22
Phần 4
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1 Kết quả theo dõi các chỉ tiêu môi trường
Trong thời gian thí nghiệm các yếu tố môi trường khá ổn định và không có
sự chênh lệch lớn giữa các nghiệm thức. Nhiệt độ thấp nhất ghi nhận được là
27,9oC và cao nhất là 29,9oC, dao động nhiệt độ trong ngày dưới 2oC. pH ít thay
đổi, từ 8,27-8,46. Trong điều kiện có sục khí thì oxy luôn >5 mg/L. Các yếu tố
môi trường của thí nghiệm rất thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của cá
tra.
Bảng 4.1. Sự biến động của yếu tố môi trường trong quá trình thí nghiệm
Nghiệm
thức
Nhiệt độ
(oC)
Oxy
(ppm) pH
S C S C S C
Ăn liên tục 28,2±0,80 29,8±1,14 5,92±0,80 6,43±0,91 8,27±1,14 8,40±0,28
GĐ 2 ngày 27,9±0,91 29,4±1,35 6,20±0,91 6,23±1,12 8,27±1,35 8,34±0,29
GĐ 3 ngày 28,2±0,86 29,7±1,05 6,31±0,86 6,28±1,32 8,34±1,05 8,46±0,28
GĐ 4 ngày 28,2±0,99 29,9±1,14 6,14±0,99 6,16±1,43 8,31±1,14 8,41±0,30
Ghi chú: GĐ: Gián đọan
- Tất cả các số liệu được trình bày dạng số trung bình ± độ lệch chuẩn.
4.2 Tỷ lệ sống (SR)
Sau 84 ngày thí nghiệm thì tỷ lệ sống của cá đạt cao, dao động từ 88,7-
99,3%. Trong đó, tỷ lệ sống ở nghiệm thức cho ăn gián đoạn 3 ngày là cao nhất
(99,3%) và thấp nhất ở nghiệm thức cho ăn gián đoạn 2 ngày (88,7%). Tuy nhiên,
qua phân tích thống kê thì sự khác biệt về tỷ lệ sống của cá giữa các nghiệm thức
không có ý nghĩa (p>0,05). Như vậy, tỷ lệ sống của cá tra trong thí nghiệm này
không bị ảnh hưởng bởi sự cho ăn gián đoạn.
Bảng 4.2. Tỷ lệ sống của cá thí nghiệm
Nghiệm thức SR(%)
Ăn liên tục (đối chứng) 93,3±1,16a
Gián đọan 2 ngày 88,7±6,43a
Gián đọan 3 ngày 99,3±1,15a
Gián đọan 4 ngày 98,7±1,15a
Ghi chú:
- Tất cả các số liệu được trình bày dạng số trung bình ± độ lệch chuẩn.
- Số liệu cùng một cột có cùng chữ thì khác biệt không có ý nghiã thống kê (p>0.05).
23
4.3 Tăng trưởng của cá
Khối lượng ban đầu của cá ở các nghiệm thức không chênh lệch nhiều
(26-27g/con), sau 84 ngày nuôi thì khối lượng cá dao động trong khoảng 52,5-
67,1 g/con. Khối lượng cá cao nhất ở nghiệm thức cho ăn gián đoạn 3 ngày
(67,1g) và thấp nhất ở nghiệm thức gián đoạn 4 ngày (52,5g). Tăng trọng cá thể
và tăng trưởng theo ngày của nghiệm thức cho ăn gián đoạn 3 ngày cao nhất (lần
lượt là 39,8g/con và 0,47g/con/ngày) và thấp nhất là ở nghiệm thức gián đoạn 4
ngày (tương tự là 25,1g/con và 0,3g/con/ngày). Kết quả phân tích thống kê thấy
khác biệt có ý nghĩa giữa nghiệm thức gián đoạn 4 ngày với các nghiệm thức còn
lại.
Kết quả nghiên cứu cho thấy cá tra có khả năng phục hồi tăng trưởng sau
khi gián đoạn cho cá ăn. Tuy nhiên, điều quan trọng là mức độ phục hồi tăng
trưởng có sự khác nhau theo số ngày gián đoạn. Nghiệm thức cho ăn gián đoạn 3
ngày (cho ăn 7 ngày và ngừng cho ăn 3 ngày) có sự phục hồi tăng trưởng cao nhất
so cả với nghiệm thức được cho ăn hàng ngày. Tốc độ tăng trưởng được đền bù
trong khỏang thời gian thiếu nguồn dinh dưỡng cung cấp và khả năng này có thực
hiện hoàn chỉnh không là còn phụ thuộc vào các yếu tố như khối lượng, thời gian
gián đọan, độ tuổi cá hoặc các kiểu gián đoạn áp dụng (theo Greeff et al.,1986
trích bởi Ali et al., 2006). Ali et al., (2006) cho rằng một số lòai cá có khả năng
chịu đựng gián đọan trong một khoảng thời gian kéo dài với nguồn dự trữ năng
lượng trong cơ thể, chủ yếu là dạng béo (lipid) được sử dụng như là nguyên liệu
để chuyển hóa.
Kim and Lovell (1995) quan sát thấy ngưỡng dành cho cá da trơn trưởng
thành được nuôi trong ao có thể bồi thường mất mát sau thời gian gián đọan
nguồn cung cấp thức ăn và đạt được khối lượng cuối cùng tương đương với cho
ăn hàng ngày. Cá được ăn no sau khi gián đọan cho ăn 3 tuần và sau đó cho ăn lại
3 tuần nhưng tăng lượng thức ăn ăn vào và cá đạt khối lượng như cá được cho ăn
với chế độ bình thường.
Bảng 4.3. Khối lượng ban đầu (Wi), khối lượng cuối (Wf), tăng khối
lượng (WG), tăng trọng ngày (DWG).
Nghiệm thức Wi(g) Wf(G) WG(g) DWG (g/ngày)
Ăn liên tục 26,7±0,46 65,1±5,94a 38,4±6,02a 0,46±0,07a
Gián đọan 2 ngày 27,1±0,61 58,4±1,67ab 31,4±1,49ab 0,37±0,02ab
Gián đọan 3 ngày 27,3±0,46 67,1±4,80a 39,8±5,03a 0,47±0.06a
Gián đọan 4 ngày 27,5±0,23 52,5±5,79b 25,1±5,66b 0,30±0,07b
Ghi chú:
- Tất cả các số liệu được trình bày dạng số trung bình ± độ lệch chuẩn.
- Giá trị cùng cột có cùng chữ thì khác biệt không có ý nghiã thống kê (p>0.05).
24
0,00
10,00
20,00
30,00
40,00
50,00
60,00
70,00
80,00
NT1 NT2 NT3 NT4
Nghiệm thức
K
hố
i l
ư
ợ
ng
(g
/c
on
)
0 30 ngày 60 ngày 84 ngày
Hình 4.1. Khối lượng của cá thí nghiệm (NT1: cho ăn liên tục; NT2 gián
đoạn 2 ngày, NT3: gián đoạn 3 ngày và NT4: gián đoạn 4 ngày).
Ở 30 ngày đầu thí nghiệm thì khối lượng ở các nghiệm thức đều tăng đáng
kể. Tăng cao nhất ở nghiệm thức đối chứng (ăn liên tục), kế đến là nghiệm thức
gián đoạn 3 ngày và khác biệt không có nghĩa thống kê giữa hai nghiệm thức.
Nghiệm thức đối chứng (ăn liên tục) và nghiệm thức gián đoạn 3 ngày khác biệt
có ý nghĩa với nghiệm thức gián đoạn 2 ngày và gián đoạn 4 ngày về tăng trọng.
Từ ngày 60 thì thấy rõ sự sai khác về tăng khối lượng ở các nghiệm thức. Cao
nhất theo thứ tự các nghiệm thức (NT) 1, 3, 4 và 2 (Hình 4.1). Tuy nhiên, sự khác
biệt này không có ý nghĩa về mặt thống kê. Kết thúc thí nghiệm (84 ngày) thì
nghiệm thức cho ăn gián đọan 3 ngày có khối lượng cao nhất so với các nghiệm
thức còn lại, nhưng sự khác biệt này không có nghĩa về mặt thống kê (trừ nghiệm
thức 4 cho tăng trọng thấp nhất và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với
nghiệm thức 1 và 3).
Như vậy, cá tra có khả năng phục hồi tăng trưởng sau một thời gian gián
đoạn nhất định, khả năng này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong nuôi trồng thủy
sản. Sự đền bù tăng trưởng là một giai đọan tăng trưởng nhanh chóng của cá, tăng
trưởng nhanh hơn tăng trưởng bình thường hoặc tăng trưởng ngang bằng với tăng
trưởng bình thường, sau khi cho ăn đầy đủ lại thức ăn sau một khỏang thời gian
không cung cấp nguồn thức ăn (Weatherley and Gill, 1981). Khả năng thích nghi
đó như là một tiềm năng vốn có trong vòng đời của động vật, rất nhiều sinh vật có
sự phục hồi tăng trưởng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng từ việc cho ăn gián đoạn
sau một thời gian rồi cho ăn lại hàng ngày. Khi thức ăn được cung cấp trở lại sau
khoảng thời gian gián đoạn thì cá có thể tăng trưởng trở lại, thường được gọi là
25
đuổi kịp tốc độ tăng trưởng hay sự phục hồi tăng trưởng (Bulow,1970; Dodson
and Holmes,1984; Weatherley and Gill, 1981).
Tốc độ tăng trưởng đền bù của cá cho ăn gián đọan 3 ngày đã đuổi kịp với
tốc độ tăng trưởng của cá được cho ăn hàng ngày, và có thể cho tăng trưởng tối
ưu hơn cá được cho ăn bình thường. Một vài nghiên cứu cho thấy cá được cho ăn
hàng ngày có tốc độ tăng trưởng tối ưu nhất với các chế độ cho ăn khác nhau
nhưng vẫn không tách rời nguồn thức ăn cung cấp hàng ngày. Nguyễn Kim Thùy
(2008), khi nghiên cứu ảnh hưởng của tần số cho ăn lên tăng trưởng của cá tra
(Pangasianodon hypophthalmus) giống (18g), kết quả cho thấy cho cá tra ăn 2
lần/ngày (3-5% trọng lượng thân, đạm 35,2%) cho tốc độ tăng trưởng là 0,34
g/ngày. Đào Thanh Phú (1997) nghiên cứu ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng
khác nhau lên sinh trưởng cá basa (Pangasius bocourti) giống (16-17g/con), thức
ăn có hàm lượng đạm 28% cho tốc độ tăng trưởng là 0,94 g/ng ày. Cá basa có
trọng lượng từ 25-27g với hàm lượng đạm là 42% thì tốc độ tăng trưởng là
0,95g/ngày (Trần Minh Đức, 1996). Một nghiên cứu khác của Nguyễn Tân Định
(2000), ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng khác nhau lên sinh trưởng cá tra bần
(Pangasius kunyit) giống (14-15g) thì thức ăn có hàm lượng đạm 30% ; 35%
tương ứng với tốc độ tăng trưởng là 0,19 g/ngày; 0,21 g/ngày.
Tóm lại, cùng một thời gian nuôi, cùng điều kiện môi trường sống, cá được
cho ăn gián đọan 3 ngày và cá được cho ăn hàng ngày có sự tăng khối lượng và
tốc độ tăng trưởng như nhau mặc dù nguồn thức ăn cung cấp cho cá ăn hàng ngày
lớn hơn rất nhiều so với cá cho ăn gián đọan 3 ngày. Từ đó, nên cân nhắc lại
phương pháp cho ăn và các yếu tố khác mà lựa chon phương pháp cho ăn hữu
hiệu nhất để đạt tăng trưởng tối ưu mang lại hiệu quả kinh tế nhất.
4.4 Hệ số thức ăn (FCR), hiệu quả sử dụng thức ăn (PCE) và thức ăn ăn
vào (FI).
Hệ số thức ăn (FCR) là chỉ số quan trọng trong đánh giá chất lượng thức
ăn. Khi FCR thấp đồng nghĩa với hiệu quả sử dụng thức ăn cao và chất lượng thải
ra môi trường ít.
Kết quả nghiên cứu cho thấy FCR dao động trong khỏang 1,32-1,68. FCR
cao nhất được tìm thấy ở nghiệm thức cho ăn gián đoạn 2 ngày (1,68) và thấp
nhất ở nghiệm thức cho ăn gián đoạn 3 ngày (1,32). Bảng 4.5 cho thấy nghiệm
thức cho ăn gián đoạn 3 có FCR thấp nhất, đồng thời hiệu quả sử dụng thức ăn là
cao nhất so với các nghiệm thức còn lại và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
so với các nghiệm thức còn lại. Kết quả cho thấy khoảng cách giữa chế độ cho ăn
: gián đoạn cho ăn : cho ăn lại có ảnh hưởng đến hệ số chuyển hóa thức ăn.
Nghiệm thức cho ăn gián đọan 2 ngày thì khoảng cách đó không có ý nghĩa so
với nghiệm thức cho ăn hàng ngày, vẫn lãng phí nguồn thức ăn cho ăn. Tuy
nhiên, ở chế độ gián đoạn 4 ngày thì khác biệt có ý nghĩa so với nghiệm thức cho
26
ăn gián đọan 3 ngày. Có thể nói cho ăn gián đọan 3 ngày mang lại ý nghĩa rất lớn
trong việc tiết kiệm chi phí thức ăn mà vẫn đảm bảo sự tăng trưởng tốt của cá tra.
Lượng thức ăn ăn vào (FI) dao động trong khỏang 0,48-0,74 và hiệu quả
sử dụng thức ăn (FCE) dao động từ 0,60-0,81. Lượng thức ăn ăn vào cao nhưng
hiệu quả sử dụng thức ăn lại thấp (Nghiệm thức cho ăn liện tục), trong khi
nghiệm thức cho ăn gián đoạn 3 ngày thì lượng thức ăn ăn vào thấp nhưng hiệu
quả sử dụng thức ăn rất cao. Kết quả này phù hợp với nhận định của Trần Thị
Thanh Hiền và ctv.(2004) là khối lượng thức ăn càng lớn tốc độ tiêu hóa càng
chậm, sự hấp thu chất dinh dưỡng giảm và thức ăn cũng không được sử dụng một
cách triệt để.
Thí nghiệm của Amin et al. (2005) trên cá tra (Pangasius hypophthalmus)
cho thấy tăng trưởng, nhu cầu thức ăn hằng ngày, hệ số thức ăn của cá được cho
ăn hằng ngày theo nhu cầu với nhóm cá được cho ăn gián đoạn theo chu kỳ là 1
ngày cho ăn: 1 ngày không cho ăn (A), 2 ngày cho ăn: 2 ngày không cho ăn (B)
và 5 ngày cho ăn : 5 ngày không cho ăn (C) thí thấy cá được cho ăn hằng ngày có
FCR lớn nhất và cho ăn 2 ngày nghỉ 2 ngày có FCR thấp nhất. Tuy nhiên, không
có sự khác biệt với chế độ 1 ngày cho ăn, 1 ngày gián đoạn và 5 ngày cho ăn và 5
ngày gián đoạn. Singh and Amjad (2005) thí nghiệm trong 8 tuần trên cá chép Ấn
Độ (Cirrhinus mrigala) ở giai đoạn giống thì thấy nếu cá cho ăn gián đoạn 2 tuần
có FCR thấp hơn cá được cho ăn hằng ngày.
Một vài nghiên cứu cho thấy cá được ăn hàng ngày thì lượng thức ăn ăn vào
rất lớn dẫn tới FCR rất cao. Nguyễn Kim Thùy (2008), khi nghiên cứu ảnh hưởng
của tần số cho ăn lên tăng trưởng của cá tra (Pangasianodon hypophthalmus)
giống (18g), kết quả cho thấy cho cá tra ăn 2 lần/ngày (3-5% trọng lượng thân,
đạm 35,2%) có FCR là 1,84. Đào Thanh Phú (1997) nghiên cứu ảnh hưởng của
thức ăn có hàm lượng khác nhau lên sinh trưởng cá basa (Pangasius bocourti)
giống (16-17g/con), thức ăn có hàm lượng đạm 28% có FCR là 2,19. Cá basa có
trọng lượng từ 25-27g, với hàm lượng đạm là 42% có FCR là 1,62 (Trần Minh
Đức, 1996). Một nghiên cứu khác của Nguyễn Tân Định (2000), ảnh hưởng của
thức ăn có hàm lượng khác nhau lên sinh trưởng cá tra bần (Pangasius kunyit)
giống (14-15g) thì thức ăn có hàm lượng đạm 30% ; 35% tương ứng với FCR là
1,76 và 1,65. FCR của nghiệm thức 1 (cho cá ăn liên tục) cũng nằm trong qui luật
này, tuy nhiên ở nghiệm thức gián đọan 3 ngày cho FCR thấp nhất. Từ đó, cân
nhắc lại cách cho cá ăn như thế nào để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
Lượng thức ăn ăn vào (FI) cao nhất ở nghiệm thức cho ăn liên tục, tức là
cá được cho ăn hằng ngày. Kết quả này chứng minh rằng có khả năng nhiều lãng
phí thức ăn cung cấp cho cá hàng ngày. Tất nhiên, đây là hình thức cho ăn phổ
biến trong nuôi trồng thủy sản. Vì vậy, ở cá chưa khai thác hết tiềm năng để tăng
trưởng. Sự phục hồi tốc độ tăng trưởng của cá được thể hiện ở sự tận dụng thức
27
ăn, vừa có thể đảm bảo giảm nguồn cung cấp thức ăn bị mất vừa đảm bảo sử dụng
hiệu quả nguồn thức ăn được cung cấp..
Bảng 4.4. Hệ số thức ăn (FCR), hiệu quả sử dụng thức ăn (PCE)
Nghiệm thức FCR FI PCE
Ăn liên tục 1,62±0,14a 0,74±0,08a 0,62±0,05a
Gián đọan 2 ngày 1,68±0,03a
0,63±0,04a
0,60±0,01a
Gián đọan 3 ngày
1,32±0,07b 0,62±0,07a 0,81±0,04b
Gián đọan 4 ngày
1,64±0,17a 0,48±0,06b 0,61±0,07a
Ghi chú:
- Tất cả các số liệu được trình bày dạng số trung bình ± độ lệch chuẩn.
- Giá trị cùng cột có cùng chữ thì khác biệt không có ý nghiã thống kê (p>0.05).
4.5 Hiệu quả sử dụng đạm (PER)
Bảng 4.5 cho thấy hiệu quả sử dụng đạm cao nhất ở nghiệm thức cho ăn
gián đoạn 3 ngày (2,53) và thấp nhất ở nghiệm thức cho ăn gián đoạn 2 ngày
(1,99). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê giữa nghiệm thức gián đoạn 3 ngày
so với các nghiệm thức còn lại. Kết quả này cho thấy hiệu quả sử dụng đạm của
cá tra bị ảnh hưởng bởi sự cho ăn gián đọan. Cũng có thể hiểu rằng để có 2,53 kg
cá tăng trọng thì cần cho ăn 1 kg chất đạm ở chế độ cho ăn 7 ngày và gián đọan 3
ngày. Trong khi đó nghiệm thức cho ăn hàng ngày, gián đọan 2 ngày và gián đọan
4 ngày thì cho cá ăn 1 kg chất đạm mà tăng trọng ở các mức độ tương ứng sau
2,07 kg, 1,99 kg và 2,05 kg. Khi nghiên cứu ảnh hưởng của tần số cho ăn lên tăng
trưởng của cá tra giống (Pangasianodon hypophthalmus), Nguyễn Kim Thùy
(2008) cho rằng hiệu quả sử dụng đạm tỉ lệ nghịch với tần số cho ăn. Theo Lê
Thanh Hùng (2008) thì số lần cho ăn trong ngày ảnh hưởng đến tăng trưởng và
hiệu quả sử dụng thức ăn. Để đạt tăng trưởng tối ưu, số lần cho ăn thay đổi theo
giống lòai thủy sản, trọng lượng cá, môi trường nuôi và chất lượng thức ăn.
Bảng 4.5. Hiệu quả sử dụng đạm (PER)
Nghiệm thức PER
Ăn liên tục 2,07±0,18a
Gián đọan 2 ngày 1,99±0,03a
Gián đọan 3 ngày 2,53±0,14b
Gián đọan 4 ngày 2,05±0,22a
Ghi chú:
- Tất cả các số liệu được trình bày dạng số trung bình ± độ lệch chuẩn.
- Giá trị cùng cột có cùng chữ thì khác biệt không có ý nghiã thống kê (p>0.05).
28
4.6 Thành phần hoá học của cá trước và sau thí nghiệm
Thành phần hoá học của cơ thể cá khác nhau tùy loài, tùy giai đoạn phát
triển và phụ thuộc rất lớn vào chất lượng thức ăn (Trần Thị Thanh Hiền, 2003).
Kết quả phân tích thành phần sinh hoá của cá cho thấy ẩm độ của cá sau thí
nghiệm dao động từ 75,1-76,9%, khác biệt không có ý nghĩa giữa các nghiệm
thức (p>0,05). Kết quả này phù hợp với Trần Thị Thanh Hiền và ctv. (2004) là
hàm lượng nước trong cơ thể động vật thủy sản trong khoảng 60-80%.
Hàm lượng đạm trong cơ thể cá dao động từ 13-14,7%, cao nhất ở nghiệm
thức cho ăn gián đoạn 2 ngày (14,7%) và thấp nhất ở nghiệm thức cho ăn gián
đoạn 4 ngày (13%) và sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê giữa các
nghiệm thức (p>0,05).
Hàm lượng chất béo cuả cá sau thí nghiệm lớn hơn hàm lượng chất béo
cuả cá trước thí nghiệm. Theo Trần Thị Thanh Hiền và ctv. (2004) thì hàm lượng
chất béo sẽ gia tăng theo khối lượng cá. Thí nghiệm này thì hàm lượng chất béo
dao động trong khoảng 6,07-6,75%, cao nhất ở nghiệm thức gián đoạn 2 ngày
(6,75%) và thấp nhất ở nghiệm thức gián đoạn 4 ngày (6,07%), tuy nhiên sự khác
biệt giữa các nghiệm thức không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Hàm lượng NFE dao động từ 3,38-4,53%, khác biệt giữa các nghiệm thức
không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) giữa các nghiệm thức. Tuy nhiên, giá trị tuyệt
đối thì cao nhất ở nghiệm thức gián đoạn 3 ngày (4,53%) và thấp nhất ở nghiệm
thức gián đoạn 2 ngày (3,38%).
Tro trong cá ít chịu ảnh hưởng của chất lượng thức ăn, ít biến động theo
thức ăn. Kết quả cho thấy tro của cá sau thí nghiệm dao động không lớn từ 0,39-
0,46% và sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức
(p>0,05).
Thành phần hoá học của cá sau thí nghiệm thì thấy không bị ảnh hưởng
bởi cho ăn gián đoạn. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu về cho ăn gián đọan
của Singh và Balange (2005) thí nghiệm trong 8 tuần trên cá chép Ấn Độ
(Cirrhinus mrigala) ở giai đoạn giống khi so sánh thành phần cơ thể của cá giữa
các chế độ cho cá ăn hằng ngày 2 lần và cá cho ăn gián đoạn 1, 2 hoặc 4 tuần, sau
đó được cho ăn trở lại theo nhu cầu của cá. Thành phần đạm, chất béo, tro và độ
ẩm sau khi kết thúc thí nghiệm không có sự khác nhau giữa các chế độ cho ăn,
ngoại trừ thành phần đạm trong cá cho ăn gián 4 tuần thì thấp hơn. Nghiên cứu
của Wang et al., (2008) trên cá rô phi (Oreochromis niloticus) có khối lượng
trung bình 6,6 g thì sau 12 tuần thí nghiệm cá được cho ăn 2 lần một ngày ở các
chế độ cho ăn là 1 tuần không cho cá ăn : 2 tuần cho ăn trở lại, 2 tuần không cho
cá ăn : 4 tuần cho ăn trở lại, 4 tuần không cho cá ăn : 8 tuần cho ăn trở lại thì
không có sự khác biệt về thành phần hóa học trong cơ thể cá giữa các chế độ cho
ăn so với các được cho ăn hằng ngày. Eroldogan et al. (2008) nhận thấy chế độ
29
cho ăn khác nhau trên cá trác vàng (Sparus aurata) giai đoạn giống thì chế độ cho
cá ăn 2 ngày : nghỉ 1 ngày, giảm 50% lượng thức ăn 2 ngày : 2 ngày cho ăn bình
thường theo nhu cầu, giảm 50% lượng thức ăn 6 ngày : 6 ngày cho ăn bình
thường theo nhu cầu thì sau 48 ngày nhận thấy thành phần đạm của cá cho ăn chế
độ giảm 50% lượng thức ăn 6 ngày : 6 ngày cho ăn bình thường thấp hơn các chế
độ cho ăn khác, trong khi các thành phần lipit, tro, độ ẩm thì không khác so với
chế độ cho ăn so với đối chứng.
Bảng 4.6. Thành phần hoá học của cá trước và sau thí nghiệm
Nghiệm
thức
Ẩm độ
(%)
Chất đạm
(%)
NFE
(%)
Chất béo
(%)
Tro
(%)
Năng
lượng
(Kcal/g)
Ban đầu 78,4±2,00 13,8±1,52 2,60±0,34 5,18±0,49 0,29±0,10 1,38±0,13
Ăn liên tục 75,7±1,74a 14,0±1,30a 3,49±0,91a 6,63±0,57a 0,42±0,17a 1,57±0,11a
GĐ 2 ngày 75,1±2,08a 14,7±1,53a 3,38±0,66a 6,75±0,66a 0,46±0,32a 1,61±0,14a
GĐ 3 ngày 75,5±1,57a 13,4±1,48a 4,53±1,45a 6,45±0,53a 0,39±0,43a 1,56±0,09a
GĐ 4 ngày 76,9±1,21a 13,0±1,41a 3,79±0,56a 6,07±0,56a 0,43±0,23a 1,47±0,08a
Ghi chú:
- Tất cả các số liệu được trình bày dạng số trung bình ± độ lệch chuẩn.
- Giá trị cùng cột có cùng chữ thì khác biệt không có ý nghiã thống kê (p>0.05).
4.7 Chi phí thức ăn cho 1 kg cá tăng trọng
Bảng 4.7 Chi phí thức ăn cho 1 kg cá tăng trọng
NT Đơn giá (đ/kg thức ăn) FCR Chi phí thức ăn (đ/kg cá)
Ăn liên tục 11 1,62 17,82
GĐ 2 ngày 11 1,68 18,43
GĐ 3 ngày 11 1,32 14,53
GĐ 4 ngày 11 1,64 18,06
Qua bảng 4.7 cho thấy, chi phí thức ăn (đ/kg cá) dao động từ 14,53 – 18,43 (đ),
cao nhất ở nghiệm thức cho ăn gi án đo ạn 2 ng ày (18,43), thấp nhất ở nghiệm
thức cho ăn gián đoạn 3 ng ày (14,53). Nếu xét về mặt tăng trưởng cũng như về
chi phí thức ăn thì ta thấy nghiệm thức cho ăn gián đoạn 3 ngày là phương pháp
cho hữu hiệu nhất, vừa giảm chi phí thức ăn, vừa mang lại hiệu quả kinh tế cao.
30
Phần 5
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
5.1 Kết luận
1. Cá cho ăn 7 ngày và gián đọan 3 ngày cá có tốc độ tăng trọng (DWG) là cao
nhất (0,47 g/ngày) và cho ăn 7 ngày và gián đọan 4 ngày cá có tốc độ tăng
trọng thấp nhất (0,3 g/ngày).
2. Tỷ lệ sống của cá trong thí nghiệm tương đối cao 88,7-99,3% và khác biệt
giữa các nghiệm thức không có ý nghĩa thống kê, vì thế cho ăn gián đọan
không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống.
3. Hệ số FCR cao nhất ở nghiệm thức cho ăn 7 ngày và gián đọan 2 ngày (1,68)
và thấp nhất ở nghiệm thức cho ăn 7 ngày và gián đọan 3 ngày (1,32). Hiệu
quả sử dụng chất đạm của nghiệm thức cho ăn 7 ngày và gián đọan 2 ngày là
thấp nhất (1,99) và cao nhất ở nghiệm thức cho ăn 7 ngày và gián đọan 3 ngày
(2,53).
4. Hàm lượng đạm, chất béo, tro, và độ ẩm của cá sau thí nghiệm giữa các
nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa.
5. Cho cá ăn 7 ngày và gián đọan 3 ngày cho tốc độ cá tăng trưởng cao nhất,
FCR thấp nhất, và PER cao nhất vì vậy có thể áp dụng phương thức này trong
việc nuôi cá tra thâm canh, góp phần giảm chi phí sản xuất, hạn chế ô nhiễm
môi trường, đem lại hiệu quả kinh tế cao.
5.2 Đề xuất
1. Cần nghiên cứu trong ao để so sánh sự phục hồi tăng trưởng của cá tra nhằm
khuyến cáo áp dụng vào thực tế sản xuất.
2. Tiến hành nhiều thí nghiệm cho ăn gián đọan với các kiểu gián đọan khác
nhau để tìm ra thời gian gián đọan thích hợp nhất cho cá tra, từ đó có thể áp
dụng vào thực tế.
31
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ali. M. Nicieza and A., Wootton. R.J. 2003. Compensatory growth in fishes: a
response to growth depression. Fish and Fisheries 4, 147-190.
2. Amin, A.K.M Rohul, M.A.J. Bapary, M.S. Islam, M. Shajahan and M.A.R.
Hossain., 2005. The inpacts of compensatory growth on food intake, growth
rate and efficiency of feed utilization in Thai pangas (Pangasius
hypophthalmus). Pakistan Journal of Biological Sciences 8, 766-770, 2005.
3. Bilton, H.T and G.L Robins. 1973. The effect of stvartion and subsequent
feeding on survival and growth of Fulton Chanel sockeye salmon fry
(Oncorhynchus nerka). J. Fish Res Bd Can. 3:1-5.
4. Chatakondi, N.G., and Yant, R.D. 2001. Application of compensatory growth
to enhance production in channel catfish Ictalurus punctatus. Journal of World
Aquaculture Society of 32, 278-285.
5. Đào Thanh Phú và Trần Thị Tuyết Hoa, 1997. Ảnh hưởng của thức ăn có hàm
lượng đạm khác nhau lên sinh trưởng, hiệu quả sử dụng thức ăn và thành phần
hóa học cơ thể cá basa giống (Pangasius bocourti). Luận văn tốt nghiệp Đại
Học.
6. Dobson, H.S and R.M Holmes. 1984. Compensatory growth in the rainbow
trout, salmo gairdneri Richardson . J. Fish. Biol, 25:649-656.
7. Dương Nhựt Long, 2004. Giáo trình kỹ thuật nuôi thủy sản nướcc ngọt. Khoa
thủy sản _ ĐHCT
8. Dương Thúy Yên, 2000. Tổng quan về nhu cầu dinh dưỡng của một số loài cá
trơn. Báo cáo chuyên đề.
9. Davies OA, Inko -Tariah MB, Amachree D. 2006. Compensatory growth and
feed cyclings of Heterobranchus longifilis fingerlings Afr. J. Biotechnol.
5:778-780.
10. Wu Guangbing, I. Patrick Saoud, ChristianMiller, and D. Allen Davis,
Department of Fisheries and Allied Aquacultures, Swingle Hall 203, Auburn
University, Auburn, AL 36849-5419. Journal of Applied Aquaculture, Vol.
15(3/4) 2004.
11. Gaylord, T.G and D.M Gatlin, 2000. Assesment of compensatory growth in
Chanel catfish (Ictalurus punctatus). J. World. Aqualt. Soc., 31:326-336.
12. http:// www.agriviet.com ( cập nhật 19/11/08).
13. http:// www.fistenet.gov.vn ( cập nhật 06/12/05 ).
14. http:// www.kinhtenongthon.com.vn ( cập nhật 15/08/08 ).
15. http:// www.tainguyenhoctap@gmail.com.
32
16. http:// www.thuonghieunongsan.org.vn.
17. http:// www.hptrad.com.vn.( truy cập 06/01/08).
18. Hùynh hị Tú và Nguyễn Thanh Phương, 2000. Dictary carbohydratutilization
by Pangasius Kkynyit. The proceeding of the mi- term workshop of the
“Catfish Asian Profeet”. May 15-20.2002, Indonesia.
19. Kim, M.K and R.T. Lovell. 1995. Effect of restricted feding regimes on
compensatory weight gain and body tissue changes in Chanel catfish in pond.
Aquaculture, pp:285-293.
20. Lê Thanh Hùng, 2006. Tài liệu tập huấn dinh dưỡng, thức ăn, bệnh cá da
trơn. Khoa thủy sản _ Đại học Nông Lâm.
21. Lê Thanh Hùng, 2008. Thức ăn và dinh dưỡng thủy sản. Nhà xuất bản nông
nghiệp. Thành Phố Hồ Chí Minh. 299 trang.
22. Lê Thanh Hùng và Huỳnh Phạm Việt Huy, 2006. Tình hình sử dụng thức ăn
trong nuôi cá tra và basa khu vực ĐBSCL. Tạp chí khoa hoc, 2 : 144 – 151.
23. Phạm Văn Huy, 1996. Ảnh hưởng của khẩu phần ăn lên sinh trưởng và hiệu
quả sử dụng thức ăn của cá basa giống (Pangasius bocourti). Luận văn tốt
nghiệp ĐH.
24. Menghe H. Li and Edwin H. Robinson, Research Professors/Delta Research
and Extension Center; and Charles D. Hogue, Jr. Extension Associate III,
Northeast District. Copyright 2006 by Mississippi State University
25. Nguyễn Kim Thùy, 2008. Ảnh hưởng của tần số cho ăn lên sự tăng trưởng
của cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) giai đoạn giống. Luận văn tốt
nghiệp Đại học ngành quản lý nghề cá.
26. Nguyễn Tân Định, 2000. Ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng đạm khác
nhau lên sinh trưởng, hiệu quả sử dụng thức ăn và thành phần sinh hóa cá tra
bần giống (Pangasius kunyit). Luận văn tốt nghiệp Đại Học.
27. Nguyễn Văn Kiểm, 1999. Kỹ thuật sinh sản nhân tạo cá tra. Khoa thủy sản _
Đại học Cần Thơ.
28. Orhan Tufan Eroldogan, O. Taşbozan, S. Tabakoglu, 2008. Effects of
Restricted Feeding Regimes on Growth and Feed Utilization of Juvenile
Gilthead Sea Bream, Sparus aurata. Department of Aquaculture, Faculty of
Fisheries, Cukurova University, Adana 01330, Turkey, Pages 267 – 274.
29. Ravendra Kumar Singh and Amjad Balange., 2005. Effect of restricted
feeding regimes on compensatory weight gain and body tissue in fry of the
Indian major Carp Cirrhinus mrigala (Hamilton, 1822). The Israeli Journal of
Aquaculture – Bamidgeh 57(4), 2005, 250-254.
30. Thoại Sơn, 2006. Kỹ thuật nuôi cá tra và basa. Nhà xuất bản tổng hợp Đồng
Nai, 120 trang.
33
31. Tom Lovell, 1989. In nutrition and feeding of fish. Nostrand Reinhold
Publication.
32. Trần Bình Tuyên, 2000. Ảnh hưởng của các phương thức và tần số cho ăn đối
với sự tăng trưởng của cá tra bần (Pangasius kunyit). Luận văn tốt nghiệp Đại
Học.
33. Trần Minh Đức, 1996.Thử nghiệm thức ăn lên tăng trưởng cá basa giống.
Luận văn tốt nghiệp Đại Học.
34. Trần Thị Bé, 2006. Ảnh hưởng của nhiệt độ lên hiệu quả sử dụng chất đạm và
năng lượng từ thức ăn của cá tra (Pangasius hypophthalmus) giai đoạn cá
giống. Luận văn tốt nghiệp Đại học ngành nuôi trồng thủy sản.
35. Trần Thị Thanh Hiền, Nguyễn Anh Tuấn và Huỳnh Thị Tú, 2004. Giáo trình
dinh dưỡng và thức ăn thủy sản.
36. Trần Thị Thanh Hiền, Dương Thuý Yên và Nguyễn Thanh Phương, 2003.
Nghiên cứu nhu cầu chất đạm, chất bột đường và phát triển thức ăn cho 3 loài
cá trơn nuôi phổ biến cá basa (Pangasius bocourti), cá hú (P. conchophilus)
và cá tra (P. hypophthalmus) giai đoạn giống. Đề tài cấp bộ.
37. Trương Quốc Phú , 2000. Giáo trình phân tích chất lượng nước và quản lý
môi trường nước ao. Khoa thủy sản_ĐHCT.
38. Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II, 2005. Hội thảo quốc gia về phát triển
thủy sản vùng hạ lưu sông Mekong Việt Nam.
39. Võ Thị Cúc Hoa, 1997. Chế biến thức ăn tổng hợp cho cá và các thủy đặc sản
khác. Nhà xuất bản nông nghiệp, Hà Nội. 111 trang.
40. Weatherley, A.H and H.S. Gill. 1981. Recovery growth following period
restricted ration and stavartion in rainbow trout ( salmo gairdneri )
Richardson. J. Fish. Biol, 18: 195-208.
41. Yan Wang, Cui Li, Jian G Qin and Hua Han., 2008. Cyclical feed deprivation
and refeeding fails to enhance compensatory growth in Nile tilapia,
Oreochromis niloticus L. College of Animal Sciences, Zhejiang University,
Hangzhou 310029, Zhejiang Province, China, 204 – 210.
34
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lt07065_4507.pdf