Ảnh hưởng của việc khai thác nước dưới đất đến trữ lượng, chất lượng của tầng chứa nước pliocen trên và pliocen dưới khu vực Tây Nam thành phố Hồ Chí Minh

MỤC LỤC 1 CHƯƠNG MỞ ĐẦU . 5 I.ĐẶT VẤN ĐỀ: . 5 II.MỤC ĐÍCH-YÊU CẦU:5 III.NỘÂI DUNG NGHIÊN CỨU:6 IV.Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN:6 1.Ý nghĩa khoa học: . 6 2.Ý nghĩa thực tiễn: . 6 V.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:6 CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN-KINH TẾ- NHÂN VĂN VÙNG NGHIÊN CỨU 7 I.ĐIỀU KIỆN ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN:7 1.Vị trí địa lý:7 2.Địa hình: . 7 3.Mạng lưới thủy văn: . 8 4.Khí hậu- khí tượng:12 5.Giao thông:17 6.Tài nguyên nước:18 7.Thảm thực vật:18 II.ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ-XÃ HỘI: . 18 1.Dân cư:18 2.Cơ sở hạ tầng:19 3.Cơ cấu kinh tế:19 4.Định hướng phát triển kinh tế trong những năm tới:22 CHƯƠNG II: LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT . 23 I.LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT: . 23 1.Trước năm 1975:23 2.Sau năm 1975: . 24 II.LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT THỦY VĂN:25 1.Trước năm 1975:25 2.Sau năm 1975: . 25 III.LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT CÔNG TRÌNH:26 1.Trước năm 1975:26 2.Sau năm 1975: . 26 CHƯƠNG III: CẤU TẠO ĐỊA CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT THỦY VĂN. 27 I.ĐỊA TẦNG KHU VỰC:27 II.KIẾN TẠO: . 36 1.Các hệ thống đứt gãy:36 2.Hoạt động kiến tạo: . 38 II.LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN ĐỊA CHẤT: . 40 1.Giai đoạn Miocen muộn – Pliocen: . 40 2.Giai đoạn Đệ Tứ:42 III.ĐỊA CHẤT THỦY VĂN:45 1.Nước trong các trầm tích bở rời Kainozoi:45 2.Nước trong đá Mezozoi: . 51 CHƯƠNG IV: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA HÌNH, ĐỊA MẠO VÀ CÁC HIỆN TƯỢNG ĐỊA CHẤT CÔNG TRÌNH ĐỘNG LỰC . 52 I.CÁC HIỆN TƯỢNG ĐỊA CHẤT CÔNG TRÌNH ĐỘNG LỰC:52 1.Hiện tượng địa chất tự nhiên:52 2.Hiện tượng địa chất công trình động lực:55 II.ĐẶC ĐIỂM ĐỊA HÌNH, ĐỊA MẠO:57 1.Kiểu địa hình xâm thực bốc mòn rửa trôi:57 2.Kiểu địa hình xâm thực tích tụ: . 58 3.Kiểu địa hình tích tụ: . 58 CHƯƠNG V: KHOÁNG SẢN VÀ VẬT LIỆU XÂY DỰNG . 60 CHƯƠNG VI: HIỆN TRẠNG KHAI THÁC NƯỚC DƯỚI ĐẤT VÙNG TÂY NAM THÀNH PHỐ 62 I.SỐ LƯỢNG GIẾNG KHOAN: . 62 II.LƯU LƯỢNG KHAI THÁC:64 III.CHẤT LƯỢNG NƯỚC KHAI THÁC:66 1.Tầng chứa nước Holocen: . 66 2.Tầng Pleistocen: . 66 3.Tầng Pliocen trên:67 4.Tầng chứa nước Pliocen dưới: . 67 CHƯƠNG VII: TÁC ĐỘNG CỦA KHAI THÁC NƯỚC DƯỚI ĐẤT ĐẾN TRỮ LƯỢNG, CHẤT LƯỢNG CỦA CÁC TẦNG CHỨA NƯỚC PLIOCEN TRÊN VÀ PLIOCEN DƯỚI . 69 I.SỰ TÁC ĐỘNG CỦA KHAI THÁC NƯỚC ĐẾN TRỮLƯỢNG:69 II.SỰ TÁC ĐỘNG CỦA KHAI THÁC NƯỚC DƯỚI ĐẤT ĐẾN CHẤT LƯỢNG NƯỚC:72 1.Nhiễm bẩn hợp chất nitơ:72 2.Xâm nhập mặn: . 74 CHƯƠNG VIII: CÁC GIẢI PHÁP KHAI THÁC HỢP LÝ . 76 1.Giải pháp luật pháp:76 2.Giải pháp quản lý:76 3.Giải pháp quy hoạch: . 76 4.Giải pháp kỹ thuật:77 CHƯƠNG IX: KẾT LUẬN-KIẾN NGHỊ 78 I.KẾT LUẬN: . 78 II.KIẾN NGHỊ: . 79 TÀI LIỆU THAM KHẢO . 81 PHỤ LỤC CHƯƠNG MỞ ĐẦU I. ĐẶT VẤN ĐỀ: Nước luôn là vấn đề đáng quan tâm của mọi quốc gia. Nước cần trong mọi hoạt động của con người từ nhu cầu bình thường nhất là phục vụ cho ăn uống đến nhu cầu cao hơn trong sản xuất, phát triển kinh tế xã hội. Trước đây nguồn nước phục vụ cho nhân dân Thành phố chủ yếu là nguồn nước mặt, song từ đầu thế kỷ XX nước dưới đất đã dần trở thành nguồn cung cấp nước quan trọng. Và với tốc độ phát triển nhanh như hiện nay của một Thành phố năng động như Thành phố Hồ Chí Minh thì nhu cầu ngày càng tăng. Việc sử dụng nguồn tài nguyên nước dưới đất sao cho hợp lý, tiết kiệm để có thể sử dụng lâu dài là vấn đề cần được quan tâm và cần có giải pháp thiết thực. Để đánh giá đúng tầm quan trọng của nguồn tài nguyên nước dưới đất từ đó có những giải pháp, kế hoạch để khai thác hợp, đề tài sẽ đề cập đến “Ảnh hưởng của việc khai thác nước dưới đất đến trữ lượng, chất lượng của tầng chứa nước Pliocen trên và Pliocen dưới khu vực Tây Nam Thành phố Hồ Chí Minh”. II. MỤC ĐÍCH-YÊU CẦU: Đánh giá tác động của khai thác nước dưới đất đến động thái của hai tầng chứa nước Pliocen trên và Pliocen dưới. Đề xuất một số giải pháp quản lý. III. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU: Đánh giá được tình hình khai thác nước dưới đất hiện nay của Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và khu vực Tây Nam Thành phố nói riêng. Đánh giá các ảnh hưởng từ việc khai thác nước dưới đất đến trữ lượng, chất lượng nước trong hai tầng khai thác Pliocen trên và Pliocen dưới. Đề suất một số giải pháp phù hợp cho tình hình khai thác nước dưới đất hiện nay. IV. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN: 1. Ý nghĩa khoa học: Góp phần trong việc xem xét mối quan hệ giữa khai thác và môi trường xung quanh. Làm sáng tỏ sự thay đổi động thái của nước dưới đất vùng nghiên cứu do các hoạt động kinh tế, xã hội. 2. Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả của đề tài là cơ sở tài liệu cho những nghiên cứu tiếp theo về động thái nước dưới đất trong khu vực. Kết quả nghiên cứu là cơ sở cho việc đề ra các giải pháp giúp khai thác tài nguyên nước tốt hơn. V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Thu thập tài liệu địa chất, địa chất thuỷ văn, địa hình địa mạo có liên quan đến khu vực nghiên cứu. Thực hiện các bản vẽ thể hiện về đặc điểm địa chất thuỷ văn, đánh giá hiện trạng khai thác nước dưới đất trong khu vực Tây Nam Thành phố Hồ Chí Minh. Phân tích tổng hợp các tài liệu.

doc74 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4016 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Ảnh hưởng của việc khai thác nước dưới đất đến trữ lượng, chất lượng của tầng chứa nước pliocen trên và pliocen dưới khu vực Tây Nam thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÊN ĐỀ TÀI: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC KHAI THÁC NƯỚC DƯỚI ĐẤT ĐẾN TRỮ LƯỢNG, CHẤT LƯỢNG CỦA TẦNG CHỨA NƯỚC PLIOCEN TRÊN VÀ PLIOCEN DƯỚI KHU VỰC TÂY NAM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH. MỤC LỤC ((((( MỤC LỤC 1 CHƯƠNG MỞ ĐẦU 5 I. ĐẶT VẤN ĐỀ: 5 II. MỤC ĐÍCH-YÊU CẦU: 5 III. NỘÂI DUNG NGHIÊN CỨU: 6 IV. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN: 6 1. Ý nghĩa khoa học: 6 2. Ý nghĩa thực tiễn: 6 V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 6 CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN-KINH TẾ- NHÂN VĂN VÙNG NGHIÊN CỨU 7 I. ĐIỀU KIỆN ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN: 7 1. Vị trí địa lý: 7 2. Địa hình: 7 3. Mạng lưới thủy văn: 8 4. Khí hậu- khí tượng: 12 5. Giao thông: 17 6. Tài nguyên nước: 18 7. Thảm thực vật: 18 II. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ-XÃ HỘI: 18 1. Dân cư: 18 2. Cơ sở hạ tầng: 19 3. Cơ cấu kinh tế: 19 4. Định hướng phát triển kinh tế trong những năm tới: 22 CHƯƠNG II: LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT 23 I. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT: 23 1. Trước năm 1975: 23 2. Sau năm 1975: 24 II. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT THỦY VĂN: 25 1. Trước năm 1975: 25 2. Sau năm 1975: 25 III. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT CÔNG TRÌNH: 26 1. Trước năm 1975: 26 2. Sau năm 1975: 26 CHƯƠNG III: CẤU TẠO ĐỊA CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT THỦY VĂN 27 I. ĐỊA TẦNG KHU VỰC: 27 II. KIẾN TẠO: 36 1. Các hệ thống đứt gãy: 36 2. Hoạt động kiến tạo: 38 II. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN ĐỊA CHẤT: 40 1. Giai đoạn Miocen muộn – Pliocen: 40 2. Giai đoạn Đệ Tứ: 42 III. ĐỊA CHẤT THỦY VĂN: 45 1. Nước trong các trầm tích bở rời Kainozoi: 45 2. Nước trong đá Mezozoi: 51 CHƯƠNG IV: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA HÌNH, ĐỊA MẠO VÀ CÁC HIỆN TƯỢNG ĐỊA CHẤT CÔNG TRÌNH ĐỘNG LỰC 52 I. CÁC HIỆN TƯỢNG ĐỊA CHẤT CÔNG TRÌNH ĐỘNG LỰC: 52 1. Hiện tượng địa chất tự nhiên: 52 2. Hiện tượng địa chất công trình động lực: 55 II. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA HÌNH, ĐỊA MẠO: 57 1. Kiểu địa hình xâm thực bốc mòn rửa trôi: 57 2. Kiểu địa hình xâm thực tích tụ: 58 3. Kiểu địa hình tích tụ: 58 CHƯƠNG V: KHOÁNG SẢN VÀ VẬT LIỆU XÂY DỰNG 60 CHƯƠNG VI: HIỆN TRẠNG KHAI THÁC NƯỚC DƯỚI ĐẤT VÙNG TÂY NAM THÀNH PHỐ 62 I. SỐ LƯỢNG GIẾNG KHOAN: 62 II. LƯU LƯỢNG KHAI THÁC: 64 III. CHẤT LƯỢNG NƯỚC KHAI THÁC: 66 1. Tầng chứa nước Holocen: 66 2. Tầng Pleistocen: 66 3. Tầng Pliocen trên: 67 4. Tầng chứa nước Pliocen dưới: 67 CHƯƠNG VII: TÁC ĐỘNG CỦA KHAI THÁC NƯỚC DƯỚI ĐẤT ĐẾN TRỮ LƯỢNG, CHẤT LƯỢNG CỦA CÁC TẦNG CHỨA NƯỚC PLIOCEN TRÊN VÀ PLIOCEN DƯỚI 69 I. SỰ TÁC ĐỘNG CỦA KHAI THÁC NƯỚC ĐẾN TRỮLƯỢNG: 69 II. SỰ TÁC ĐỘNG CỦA KHAI THÁC NƯỚC DƯỚI ĐẤT ĐẾN CHẤT LƯỢNG NƯỚC: 72 1. Nhiễm bẩn hợp chất nitơ: 72 2. Xâm nhập mặn: 74 CHƯƠNG VIII: CÁC GIẢI PHÁP KHAI THÁC HỢP LÝ 76 1. Giải pháp luật pháp: 76 2. Giải pháp quản lý: 76 3. Giải pháp quy hoạch: 76 4. Giải pháp kỹ thuật: 77 CHƯƠNG IX: KẾT LUẬN-KIẾN NGHỊ 78 I. KẾT LUẬN: 78 II. KIẾN NGHỊ: 79 TÀI LIỆU THAM KHẢO 81 PHỤ LỤC 84 CẤU TRÚC BẢN KHÓA LUẬN ((((( MỤC LỤC 1 CHƯƠNG MỞ ĐẦU 4 CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN-KINH TẾ- NHÂN VĂN VÙNG NGHIÊN CỨU 7 CHƯƠNG II: LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT 23 CHƯƠNG III: CẤU TẠO ĐỊA CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT THỦY VĂN 27 CHƯƠNG IV: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA HÌNH, ĐỊA MẠO VÀ CÁC HIỆN TƯỢNG ĐỊA CHẤT CÔNG TRÌNH ĐỘNG LỰC 52 CHƯƠNG V: KHOÁNG SẢN VÀ VẬT LIỆU XÂY DỰNG 60 CHƯƠNG VI: HIỆN TRẠNG KHAI THÁC NƯỚC DƯỚI ĐẤT VÙNG TÂY NAM THÀNH PHỐ 62 CHƯƠNG VII: TÁC ĐỘNG CỦA KHAI THÁC NƯỚC DƯỚI ĐẤT ĐẾN TRỮ LƯỢNG, CHẤT LƯỢNG CỦA CÁC TẦNG CHỨA NƯỚC PLIOCEN TRÊN VÀ PLIOCEN DƯỚI 69 CHƯƠNG VIII: CÁC GIẢI PHÁP KHAI THÁC HỢP LÝ 76 CHƯƠNG IX: KẾT LUẬN-KIẾN NGHỊ 78 TÀI LIỆU THAM KHẢO 81 PHỤ LỤC 84 CHƯƠNG MỞ ĐẦU ĐẶT VẤN ĐỀ: Nước luôn là vấn đề đáng quan tâm của mọi quốc gia. Nước cần trong mọi hoạt động của con người từ nhu cầu bình thường nhất là phục vụ cho ăn uống đến nhu cầu cao hơn trong sản xuất, phát triển kinh tế xã hội. Trước đây nguồn nước phục vụ cho nhân dân Thành phố chủ yếu là nguồn nước mặt, song từ đầu thế kỷ XX nước dưới đất đã dần trở thành nguồn cung cấp nước quan trọng. Và với tốc độ phát triển nhanh như hiện nay của một Thành phố năng động như Thành phố Hồ Chí Minh thì nhu cầu ngày càng tăng. Việc sử dụng nguồn tài nguyên nước dưới đất sao cho hợp lý, tiết kiệm để có thể sử dụng lâu dài là vấn đề cần được quan tâm và cần có giải pháp thiết thực. Để đánh giá đúng tầm quan trọng của nguồn tài nguyên nước dưới đất từ đó có những giải pháp, kế hoạch để khai thác hợp, đề tài sẽ đề cập đến “Ảnh hưởng của việc khai thác nước dưới đất đến trữ lượng, chất lượng của tầng chứa nước Pliocen trên và Pliocen dưới khu vực Tây Nam Thành phố Hồ Chí Minh”. MỤC ĐÍCH-YÊU CẦU: Đánh giá tác động của khai thác nước dưới đất đến động thái của hai tầng chứa nước Pliocen trên và Pliocen dưới. Đề xuất một số giải pháp quản lý. NỘÂI DUNG NGHIÊN CỨU: Đánh giá được tình hình khai thác nước dưới đất hiện nay của Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và khu vực Tây Nam Thành phố nói riêng. Đánh giá các ảnh hưởng từ việc khai thác nước dưới đất đến trữ lượng, chất lượng nước trong hai tầng khai thác Pliocen trên và Pliocen dưới. Đề suất một số giải pháp phù hợp cho tình hình khai thác nước dưới đất hiện nay. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN: Ý nghĩa khoa học: Góp phần trong việc xem xét mối quan hệ giữa khai thác và môi trường xung quanh. Làm sáng tỏ sự thay đổi động thái của nước dưới đất vùng nghiên cứu do các hoạt động kinh tế, xã hội. Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả của đề tài là cơ sở tài liệu cho những nghiên cứu tiếp theo về động thái nước dưới đất trong khu vực. Kết quả nghiên cứu là cơ sở cho việc đề ra các giải pháp giúp khai thác tài nguyên nước tốt hơn. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Thu thập tài liệu địa chất, địa chất thuỷ văn, địa hình địa mạo có liên quan đến khu vực nghiên cứu. Thực hiện các bản vẽ thể hiện về đặc điểm địa chất thuỷ văn, đánh giá hiện trạng khai thác nước dưới đất trong khu vực Tây Nam Thành phố Hồ Chí Minh. Phân tích tổng hợp các tài liệu. ((((( CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN-KINH TẾ- NHÂN VĂN VÙNG NGHIÊN CỨU ĐIỀU KIỆN ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN: Vị trí địa lý: Khu vực nghiên cứu nằm về phía Tây Nam Thành phố Hồ Chí Minh, gồm các quận 6, quận 8 và huyện Bình Chánh. ( Phía Bắc giáp các xã còn lại của huyện Bình Chánh, TP.Hồ Chí Minh. ( Phía Đông giáp các quận nội thành như: quận 1, quận 5…và huyện Nhà Bè. ( Phía Nam giáp các huyện Bến Lức và Cần Giuộc tỉnh Long An. ( Phía Tây giáp tỉnh Long An. Với vị trí địa lý là cửa ngõ phía Tây Thành phố Hồ Chí Minh với các trục giao thông quan trọng như quốc lộ 1A, huyện Bình Chánh nói riêng và vùng Tây Nam nói chung là cầu nối giao lưu kinh tế và giao thương đường bộ giữa Thành phố Hồ Chí Minh với đồng bằng sông Cửu Long và các vùng trọng điểm phía Nam. Địa hình: Vùng Tây Nam có dạng địa hình nghiêng và thấp dần theo hai hướng Đông Bắc -Tây Nam và Tây Bắc-Đông Nam, với độ cao giảm dần từ 3m đến 0,3m so với mực nước biển. Có ba dạng địa hình chính như sau: Trong huyện Bình Chánh dạng đất gò có cao trình từ 2-3m, phân bố tập trung tại các xã Vĩnh Lộc A, Vĩnh Lộc. Đây là dạng địa hình thoát nước tốt, phù hợp với các loại cây rau màu và có thể bố trí các cơ sở công nghiệp. Dạng đất bằng phẳng có độ cao xấp xỉ 2m, phân bố ở các xã: Tân Quý Tây, An Phú Tây, Bình Chánh, Tân Kiên, Bình Hưng, Phong Phú, Đa Phước, Quy Đức, Hưng Long và thị trấn Tân Túc của huyện Bình Chánh. Dạng địa hình này phù hợp với trồng lúa 2 vụ, cây ăn trái, rau màu và nuôi trồng thủy sản. Dạng trũng thấp, đầm lầy có độ cao từ 0,5m -1m, thuộc các xã Tân Nhựt, Bình Lợi, Lê Minh Xuân, Phạm Văn Hai. Vùng này thoát nước kém, hiện nay trồng lúa là chính. Mạng lưới thủy văn: Trong khu vực có hệ thống sông, kênh, rạch chính gồm: sông Cần Giuộc, Chợ Đệm, Rạch Đôi, Rạch Sậy, Kênh Ngang, Kênh C… Phần lớn sông rạch của trong khu vực nằm ở khu vực hạ lưu, nên nguồn nước bị ô nhiễm bởi nước thải từ các khu công nghiệp của Thành phố đổ về như từ Kênh Tàu Hủ, kênh Tân Hóa – Lò Gốm, kênh Đôi, rạch Nước Lên, rạch Cần Giuộc… gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp (đặc biệt là nuôi trồng thủy sản) cũng như môi trường sống của dân cư. Nhìn chung, hệ thống sông kênh rạch, của trong khu vực chịu ảnh hưởng của chế độ thủy triều của ba hệ thống sông lớn: Nhà Bè-Xoài Rạp, Vàm Cỏ Đông và sông Sài Gòn. Mùa khô nước mặn xâm nhập nội đồng, mùa mưa mực nước cao nhất lên đến 1,1m gây lụt cục bộ ở các vùng trũng của vùng. ( Sông Cần Giuộc: ( Sông Cần Giuộc gồm nhiều chi nhánh, trong đó có hai nhánh chính là rạch Cần Giuộc và sông Bà Lào. Sông Cần Giuộc chạy quanh co uốn khúc theo chiều hướng khác nhau. Sông rộng từ 100 – 200m, sâu từ 8 – 10m. ( Kết quả quan trắc cho thấy sông có chế độ bán nhật triều. Về thành phần hóa học của nước, kết quả phân tích cho thấy hàm lượng Clo từ 425,4-5184,56mg/l, tổng khoáng hóa từ 0,83-9,28 g/l, độ pH từ 6,90-8,32. ( Chất lượng nước sông Cần Giuộc thay đổi theo mùa rõ rệt, mùa mưa nước nhạt hơn mùa khô. Do ảnh hưởng mạnh mẽ của thủy triều nên nước sông có chất lượng kém, nước đục, mặn và rất bẩn, không thể dùng cho sinh hoạt và kỹ thuật. ( Sông Chợ Đệm: ( Sông Chợ Đệm ở phía Tây Bắc vùng canh tác, phía Tây nối liền với sông Bến Lức và Rạch Tam, phía Đông Bắc nối liền với rạch Cần Giuộc, kênh Đôi và kênh Lò Gốm. Sông Chợ Đệm dài khoảng 5km, sâu từ 5 – 10m, rộng từ 80 – 120m. ( Sông Chợ Đệm chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều. Về chất lượng nước: hàm lượng Clo từ 418,31 – 4564,19 mg/l, độ khoáng hóa từ 0,82 – 8,20 g/l, pH từ 6,88 – 7,33. ( Do chịu ảnh hưởng của thủy triều nên nước sông Chợ Đệm có chất lượng kém, nước đục, mặn và rất bẩn, không thể dùng cho ăn uống và kỹ thuật. Ngoài hai con sông chính kể trên, trong vùng còn có các hệ thống dòng mặt rất phát triển. Kết quả khảo sát cho thấy chúng đều chịu ảnh hưởng trực tiếp của triều. Chất lượng nước xấu, mặn, đục và rất bẩn, không có ý nghĩa cho việc sử dụng cho sinh hoạt và kỹ thuật. Với một số hệ thống kênh rạch, sông ngòi chằng chịt như trên, đưa nước từ trên cao xuống thung lũng sông để đưa ra biển, đây là nước chảy theo triền, theo trọng lực các rạch con nối với rạch lớn đưa nước từ biển vào đất liền, chảy từ trũng thấp nước mặn vào trũng nước ngọt cao hơn. Sông, rạch, kênh hoạt động theo triều, nhờ vậy mà không gây ra ngập lụt ngay cả khi lũ lớn từ thượng nguồn đổ về gặp triều cường từ biển xâm nhập vào. Triều cường ở đây là chế độ bán nhật triều có hai đỉnh và hai chân triều, với thời gian cách nhau là 12 giờ. Sự giao lưu giữa nước mặn và nước nhạt là ranh giới chuyển tiếp, nó thay đổi tùy theo tương quan thủy áp giữa hai nguồn nước trên, nó thay đổi theo mùa và cũng phụ thuộc vào cả lượng mưa ở thượng nguồn, ngoài ra cũng còn có cả sai biệt liên quan đến quỹ đạo mặt trăng. Khu vực Tây Nam cũng như các vùng khác trong Thành phố đều chịu ảnh hưởng của thuỷ triều. Trên bản đồ, ta thấy sông Vàm Cỏ Đông được bắt nguồn từ biên giới Campuchia, có lưu vực sông, có những kênh rạch thông thương giữa các sông của khu vực như là: rạch Cần Giuộc thông thương với các sông ngòi, cửa sông Vàm Cỏ Đông, cửa sông Sài Gòn, do đó ta có thể nói chúng đều ảnh hưởng cả thủy triều. Theo tóm tắt địa chất đô thị vùng kinh tế trọng điểm Đông Nam Bộ do cơ quan chủ trì đề án Liên đoàn Địa chất 8 thì sự chuyển triều của các sông như sau: ( Sông Đồng Nai: 150km. ( Sông Sài Gòn: 180km. ( Sông Vàm Cỏ Đông thì lên đến biên giới Campuchia. Thời gian nước lớn và nước ròng trong khu vực nghiên cứu là: - Nước lớn từ 9 – 14giờ và 20 – 2giờ. - Nước ròng từ 4 – 8giờ và 15 – 19giờ. Tình hình nhiễm mặn: kênh rạch huyện Bình Chánh từ tháng 1 – 6 toàn bộ khu vực đều bị nhiễm mặn, độ mặn 3 ‰ đến 18 ‰ không thể sử dụng cho sinh hoạt và cây trồng, tại sông Chợ Đệm độ mặn 4 ‰ từ ngày 3/1 – 14/1. Phổ biến hiện tượng này ở khu vực Bình Hưng, Phong Phú và Phú Xuân. Tình hình nhiễm chua phần lớn ở huyện Bình Chánh (An Lạc đến Lê Minh Xuân). Những đoạn sông rạch gần cửa sông lớn (Nhà Bè – Sài Gòn) nhiễm chua hai kì rõ rệt: - Cuối mùa mưa, nước trung bình có pH ( 4 – 4,5. - Đầu mùa mưa và mùa khô, nước hơi chua pH < 5,5. Càng về phía sông Vàm Cỏ Đông nước càng chua, thời gian nhiễm mặn càng dài có khi quanh năm, trên cầu An Hạ nước có pH <4. Kết quả quan trắc nhiều năm của cục khí tượng thuỷ văn và theo tính toán của ban phân vùng kinh tế Thành phố thì vào mùa lũ biên mặn 4 ‰, lùi xa đến khúc Nhà Bè đến nông trường Đỗ Hòa trên sông Đồng Tranh và xã An Thới Đông trên sông Nhà Bè. Nói chung, sông rạch khu vực có chế độ bán nhật triều. Mực nước trung bình cao nhất (tháng 10 – 11), biên độ dao động thủy triều từ 123 – 155cm, thấp nhất là tháng 6 – 7 biên độ thủy triều 84cm. Nguồn nước của khu vực bị nhiễm mặn rất nặng. Hệ thống nước ngầm của khu vực cũng bị nhiễm mặn và nhiễm phèn. Mức độ nhiễm mặn nguồn nước ở phía Đông Nam tương đối cao hơn phía Tây Nam. Khu vực phía Đông Nam: thời gian nhiễm mặn từ tháng 12 – tháng 6, khu vực phía Tây Nam từ tháng 1 – tháng 6, khu vực phía Tây – Tây Bắc: từ tháng 2 – tháng 5. Khu vực phía Bắc: do địa hình cao ít chịu ảnh hưởng nước mặn. Ngược lại, vào các tháng mùa kiệt, biên mặn ấy tiến theo sông Đồng Nai vào tới khu vực phà Cát Lái đến Long Phước và theo sông Sài Gòn lên đến Lái Thiêu. Các quận, huyện trong khu vực gặp khó khăn không nhỏ về nước sinh hoạt, phải dùng nước mưa hoặc nước nơi khác mang đến. Vì vậy, việc tận dụng nguồn nước sông, kênh rạch ở trong khu vực là rất hạn chế vì thời gian nguồn nước bị nhiễm mặn quá dài, trung bình từ 4 – 7 tháng/năm. Nguồn nước chỉ tận dụng được trong các mùa mưa khoảng 4 – 5 tháng nên gây khó khăn cho vấn đề nước sinh hoạt cũng như tưới tiêu trên địa bàn. Khí hậu- khí tượng: Khu vực Tây Nam cũng như các quận nội thành của Thành phố Hồ Chí Minh có chế độ khí hậu của miền Đông Nam Bộ, thuộc khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, nóng ẩm và mưa nhiều, nhiệt độ khá ổn định. Khí hậu chia thành hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, với đặc trưng chủ yếu là: Nhiệt độ tương đối ổn định, cao đều trong năm và ít thay đổi, trung bình năm khoảng 26,60C. Nhiệt độ trung bình tháng cao nhất là 28,80C (tháng 12). Tuy nhiên biên độ nhiệt giữa ngày và đêm chênh lệch khá lớn, vào mùa khô có trị số 8-100C. Độ ẩm không khí trung bình năm khá cao 79,5%, cao nhất vào các tháng 7,8,9 là 80-90%, thấp nhất vào các tháng 12,1 là 70%. Tổng số giờ nắng trong năm là 2100-2920 giờ. Khu vực Tây Nam nằm trong vùng chịu ảnh hưởng của hai hướng gió mùa chủ yếu phân bố vào các tháng trong năm như sau: Từ tháng 2 đến tháng 5 gió tín phong có hướng Đông Nam hoặc Nam với vận tốc trung bình từ 1,5-20m/s. Từ tháng 5 đến tháng 9 thịnh hành là gió Tây-Tây Nam, vận tốc trung bình từ 1,5-3,0m/s. Ngoài ra, từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau có gió Đông Bắc, vận tốc trung bình 1-1,5m/s. ( Nhiệt độ: Nhiệt độ thay đổi theo thời gian và không gian tại các xã phía Nam huyện Bình Chánh như Bình Hưng, Phong Phú, An Phú Tây,…, nhiệt độ thay đổi từ 20 – 30oC. Tại các xã phía Bắc gần sân bay Tân Sơn Nhất (quận Tân Bình), nhiệt độ thay đổi từ 26 – 29oC. Biên độ dao động giữa ngày và đêm khá cao từ 7 – 8oC, nhiệt độ ban ngày từ 30 – 34oC, ban đêm từ 16 – 22oC. Tháng  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12   Nhiệt độ (oC)  26,5  23,3  27,6  28,9  27,2  27,5  27,3  27,1  27  26,8  26,5  26   -Bảng 2- Kết quả quan trắc của đài khí tượng Tân Sơn Nhất - Như vậy, nhiệt độ không khí bình quân hàng năm tương đối cao (27oC) và ổn định, nhiệt độ cao nhất là 28,9oC (tháng 4), thấp nhất là 23,3oC (tháng 2). -Biểu đồ 3-Biểu đồ nhiệt độ- Nhiệt độ cao nhất là 40oC (8/1982) và thấp nhất là 13,8oC (1/1937). ( Lượng mưa: Tại khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, lượng mưa trung bình năm từ 1.300m -1.770m, tăng dần lên phía Bắc theo chiều cao địa hình. Mưa phân bố không đều giữa các tháng trong năm, mưa tập trung vào các tháng 7, 8, 9; vào tháng 12, 1 lượng mưa không đáng kể. Theo tài liệu Bản đồ địa chất và tìm kiếm khoáng sản của Liên đoàn Địa chất 6 từ 1983 - 1987, lượng mưa mùa khô: 200mm; mùa mưa: 1375mm; cả năm: 1575mm. Lượng mưa trung bình các tháng, mùa, năm ở khu vực này như sau: Tháng  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12   Lượng mưa (mm)  8  0  12  24  143  271  280  257  213  211  142  14   -Biểu đồ 1-Bảng số liệu lượng mưa- ( Lượng bốc hơi: Lượng bốc hơi lớn nhất vào những tháng khô. Tổng lượng bốc hơi hàng năm 1350mm. Bình quân một ngày 3,7mm, lượng bốc hơi cao nhất ở tháng 2, 3, 4 (5,7mm/ngày), thấp nhất từ tháng 6 – tháng 7 (2,3mm/ngày). Tháng  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12   Lượng bốc hơi (mm)  7,9  5,8  6,3  6,0  4,2  3,7  3,7  3,7  3,0  2,7  3,4  3,8   -Bảng 2-Lượng bốc hơi(mm)-  -Biểu đồ 2-Biểu đồ lượng bốc hơi- ( Độ ẩm: Tháng  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12   Độ ẩm (%)  71  67  69  71  78  82  82  83  84  83  80  75   Độ ẩm tương đối cao, độ ẩm cao nhất 94 – 95%, thấp nhất 68 – 71%, trung bình 78 – 79%. Độ ẩm bình quân hàng năm cao nhất là 84%, thấp nhất là 68% (Quan trắc tại sân bay Tân Sơn Nhất, 1983 – 1987) -Bảng3-Bảng số liệu độ ẩm(%)-  -Biểu đồ 4-Biểu đồ độ ẩm (%)- ( Gió: Hàng năm trong vùng có 3 loại gió: gió Đông Nam, gió Tây Nam và gió Tây thổi xen kẽ nhau. Từ tháng 5 đến tháng 10 không có hướng gió nào chiếm ưu thế. Hai hướng gió thịnh hành nhất là Đông Nam và Tây Nam. Tốc độ gió đặc trưng từ 2,1 – 3,6 m/s (gió Tây), từ 3 – 4 m/s (gió Đông). Giao thông: (Đường bộ: Trong tổng sơ đồ lãnh thổ hành chính Thành phố Hồ Chí Minh, trong khu vực Tây Nam có các con đường huyết mạch như: quốc lộ 1, tỉnh lộ 10 và tỉnh lộ 50, nối liền nội ô Thành phố Hồ Chí Minh với các tỉnh miền Tây Nam Bộ và một đường huyết mạch khác nối liền giữa nội thành và ngoại thành là Nam Sài Gòn. Bên cạnh đó còn có mạng lưới giao thông rộng khắp. Quốc lộ 1A là tuyến giao thông lớn chạy dài từ Bắc chí Nam, qua nhiều vùng dân cư lớn và khu kinh tế quan trọng của cả nước và đường nối với Nam Sài Gòn. Mặt đường trải nhựa rộng từ 10 – 16m. Hệ thống cầu cống trên đường cho phép các loại xe có trọng tải lớn qua lại thuận tiện. ( Đường thủy: vùng nằm trên ngã ba con đường thủy của sông Chợ Đệm gặp rạch Cần Giuộc. Trong vùng không có tuyến giao thông đường thủy nào lớn, chỉ có hệ thống sông nhỏ và kênh rạch rất phát triển, đáng chú ý là sông Cần Giuộc, rạch Dơi, rạch Ông Lớn, kênh Tế, kênh Đôi, kênh Bến Nghé, kênh Sáng…. Các sông và kênh rạch trong vùng thường liên thông với nhau tạo thành một hệ thống giao thông đường thủy rất thuận tiện đối với các loại phương tiện có mức tải trọng vừa và nhỏ. Bằng đường thủy, vùng nghiên cứu có thể lưu thông kinh tế với các vùng lân cận như Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu và các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Tất cả những điểm trên đã tạo cho Bình Chánh nói riêng khu vực Tây Nam nói riêng một hệ thống giao thông thuận lợi cả thủy lẫn bộ. Trong tương lai, khi Thành phố phát triển về phía cực Tây Nam, Bình Chánh càng có vị trí quan trọng trong quá trình đô thị hoá của Thành phố. Tài nguyên nước: Nguồn nước mặt trong khu vực chủ yếu là nước ở các sông, kênh rạch và ao hồ. Theo các kết quả điều tra khảo sát về nước ngầm trên địa bàn khu vực Tây Nam cho thấy, nguồn nước ngầm khá dồi dào và đang giữ vị trí quan trọng trong việc cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt của người dân. Tuy nhiên nguồn nước ngầm của khu vực đều bị nhiễm phèn. Thảm thực vật: Thảm thực vật đóng vai trò quan trọng trọng quá trình làm giảm tốc độ dòng chảy trên bề mặt tăng thời gian cho nước mặt thấm vào và bổ cấp nguồn nước ngầm. Khu vực Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và khu vực nghiên cứu nói riêng thì thực vật rất nghèo nàn. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ-XÃ HỘI: Dân cư: Năm 2003 riêng huyện Bình Chánh đã có 219.340 người (trong đó nữ chiếm 51,66%), 41.909 hộ, trong đó dân số là nhân khẩu thường trú 165.613 người, chiếm 69,9% dân số, dân số là nhân khẩu không thường trú 71.327 người, chiếm 30,1% dân số. Những năm gần đây do làm tốt công tác kế hoạch hóa gia đình nên tốc độ tăng dân số tự nhiên năm 2002 còn 1,34%. Số người trong độ tuổi lao động năm 2003 có 143.740 người, chiếm 65,5% dân số. Lao động của huyện chủ yếu làm việc trong ngành nông nghiệp chiếm 34,4% số người trong độ tuổi lao động lao động thiếu việc làm và chưa có việc làm còn nhiều, giải quyết vấn đề này đang là vấn đề bức xúc của huyện. Quận 6, quận 8 cũng là hai quận có dân số khá đông. Cơ sở hạ tầng: Nghèo nàn nhất là huyện Bình Chánh, trước đây chỉ có điện ở một vài xã, mà chủ yếu là do tư nhân chạy máy đèn, bán điện cho dân sử dụng. Qua một quá trình cố gắng lắp đặt hệ thống điện, hiện nay cả 20 xã, thị trấn của huyện Bình Chánh đều có điện, đáp ứng đầy đủ nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của dân chúng. Trước năm 1975, hệ thống giao thông Bình Chánh không thuận tiện, việc đi lại gặp nhiều khó khăn, nhiều xã vùng sâu chỉ có con đường thủy là độc đạo. Nay điều kiện đi lại tương đối tốt hơn, cả đường sông lẫn đường bộ. Về đường bộ, có quốc lộ 1A xuyên qua trung tâm huyện, với liên tỉnh lộ 50, tỉnh lộ 10 và nhiều đường khác rất thuận lợi cho việc giao thông. Riêng huyện Bình Chánh có chiều dài đường cấp phối là 81km (40%), đường đất 41,9km (22%), đường giao thông nhựa 54km (15%), đường đá 20km (11%). Trong 197,5km đường thì Trung ương và Thành phố quản lý 117,2km; còn lại 80,3km là huyện quản lý. Các xã Bình Lợi, Tân Nhựt, Đa Phước thuộc huyện Bình Chánh bị sông rạch chia cắt nhiều nên việc đi lại còn khó khăn. Cơ cấu kinh tế: Trong khu vực Tây Nam thì huyện Bình Chánh có nền kinh tế tương đối phát triển, hai ngành kinh tế chính là nông nghiệp và công nghiệp phát triển kém hơn hai quận: Quận 6, Quận 8 nằm trong vùng. Nông nghiệp: Chủ yếu chỉ có huyện Bình Chánh có nền kinh tế nông nghiệp quan trọng nhưng tốc độ phát triển của hoạt động này lại rất chậm, chỉ có 3 – 3,8%. Huyện Bình Chánh chú trọng đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật như thuỷ lợi, điện cho ngành trồng trọt. Đất ở đây là loại đất vùng đồng bằng cao (một phần) và đất vùng thấp bị nhiễm mặn, nhiễm phèn, loại đất này chỉ trồng lúa được một vụ. Diện tích nông nghiệp năm 2003 là 17.735,2ha. Sản lượng lương thực đạt 46.235 tấn thóc, 85.807 tấn mía và 46.980 tấn rau các loại. Bình Chánh cũng chủ trương phát triển mạnh về chăn nuôi, chủ yếu là trâu, bò, heo và các loại gia cầm. Hiện nay trên địa bàn huyện có tổng đàn heo là 21.191 con tăng 0,7% so với 2002, đàn bò sữa 1.770 con tăng 25,3%. Nghề nuôi trồng thủy sản đang có dấu hiệu chậm lại do môi trường bị ô nhiễm. Năm 2003 tổng diện tích nuôi trồng thủy sản đạt 690 ha với năng suất bình quân là 2,5-3,0 tấn/ha. Trong vùng có hai khu kinh tế là nông trường Lê Minh Xuân và nông trường Phạm Văn Hai chủ yếu là trồng thơm xuất khẩu, các loại cây làm thức ăn gia súc, nuôi heo, bò sữa. Công nghiệp: Với vị trí cửa ngõ đi về đồng bằng sông Cửu Long, khu vực Tây Nam nói chung và Bình Chánh nói riêng còn có tiềm năng phát triển công nghiệp chế biến lương thực. Các ngành sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp tăng nhanh với quy mô ngày càng lớn với chất lượng tốt. Theo thống kê hiện nay toàn huyện có 1.905 cơ sở sản xuất công nghiệp đã thu hút giải quyết việc làm cho hàng ngàn người lao động. Ngư nghiệp: Ngư nghiệp là ngành đang phát triển hiện nay ở vùng Tây Nam nhưng tập trung chủ yếu ở huyện Bình Chánh. Dịch vụ câu cá, nuôi cá cung ứng cho thị trường đang phát triển. Các sông rạch, ao hồ, những con kênh mới đào ngoài tác dụng cho tưới tiêu, giao thông còn được sử dụng nuôi tôm cá, cũng là một tiềm năng cho ngành thuỷ sản. Thương nghiệp - dịch vụ: Huyện Bình Chánh có 4.917 cơ sở đăng ký kinh doanh thương mại dịch vụ và buôn bán nhỏ trên toàn huyện. Hiện nay trên địa bàn huyện có 5 chợ ổn định, 9 nhóm chợ tự phát. Hầu hết cá xã đều có các điểm giao dịch mua bán. Năm 2003, giá trị xuất khẩu của ngành thương nghiệp - dịch vụ đạt 812,39 triệu đồng chiếm 12,2% tổng giá trị sản xuất trên toàn địa bàn. Nhìn chung, ngành thương nghiệp dịch vụ đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa cơ bản đáp ứng nhu cầu về các mặt hàng thiết yếu cho nhân dân và có khả năng trao đổi với các vùng lân cận. Quận 6 và Quận 8 phát triển chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ mà không chú trọng cho nông nghiệp. Định hướng phát triển kinh tế trong những năm tới: Trong những năm tới, dựa trên những thành quả đã đạt được. Khu vực Tây Nam mới sẽ tiếp tục thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước vào các khu công nghiệp và khu chế xuất trên địa bàn, nhất là huyện Bình Chánh có chính sách đầu tư đúng mức cho nông nghiệp bằng việc đưa các tiến bộ khoa học vào áp dụng trên giống cây trồng vật nuôi để tăng năng suất nông nghiệp. Với mục tiêu của huyện là giải quyết vấn đề việc làm cho một bộ phận lớn lao động tăng cường phát triển kinh tế góp phần đưa khu vực Tây Nam cũng như huyện Bình Chánh trở thành một vùng kinh tế quan trọng trong chuỗi phát triển kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh. CHƯƠNG II: LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT Thành phố Hồ Chí Minh đã trải qua hơn 300 năm hình thành và phát triển và những nghiên cứu về vùng cũng đã được tiến hành từ lâu. Trong đó, nghiên cứu địa chất, địa chất thuỷ văn, địa chất công trình đã được bắt đầu từ những năm đầu thế kỷ 19, toàn bộ quá trình nghiên cứu có thể chia làm hai giai đoạn: giai đoạn trước 1975 và sau 1975. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT: Trước năm 1975: (Năm 1883, Pháp thành lập sở địa chất Đông Dương nhưng đến năm 1895-1960 Pháp bắt đầu nghiên cứu đồng bằng sông Cửu Long (với hai tác giả lỗi lạc là J.Fromaget và E. Saurin) và cho ra đời một số mặt cắt dọc sông Đá, sông Mã, sông Mêkông… đồng thời cho ra đời bộ bản đồ địa chất Đông Dương tỷ lệ 1:1.000.000 và 1:500.000 và được ấn hành năm 1950. (Năm 1960, Trần Kim Thạch báo cáo bậc thềm ở Thủ Đức. (Năm 1962, E.Saurin và Tạ Trần Tấn đã lập cột địa tầng vùng Châu Thới –Biên Hòa – Sài Gòn. (Năm 1965, Nguyễn Văn Vân đã nghiên cứu và cho ra đời bài “Thềm phù sa Sài Gòn – Chợ Lớn”. (Năm 1966, Trần Kim Thạch phát họa nét kiến tạo ở vùng hạ lưu sông Đồng Nai và Lê Quang Tiếp xác định nét cơ bản địa tầng kiến tạo và mô tả trầm tích, kiến trúc của trầm tích hạ lưu sông Đồng Nai. (Năm 1971, H.Fontane và Hoàng Thị Thân vẽ tờ bản đồ Sài Gòn – Thủ Đức-Biên Hòa – Phú Cường – Nhà Bè, tỷ lệ 1:25.000 kèm theo thuyết minh. (Năm 1974, H.Fontane phát họa sơ lược về đứt gãy và lịch sử phát triển địa chất vùng Biên Hòa. Sau năm 1975: (Năm 1975, Trần Kim Thạch hoàn thành bản đồ địa chất Miền Nam tỷ lệ 1:2.000.000 nhưng chưa chi tiết và hệ thống. Cùng năm này Hồ Chín, Võ Đình Ngộ với báo cáo “Những kết quả nghiên cứu mới về địa chất kỉ thứ tư của đồng bằng sông Cửu Long”. (Năm 1977, Trần Kim Thạch hoàn thành tờ bản đồ địa chất kỉ thứ tư của đồng bằng sông Cửu Long tỷ lệ 1:250.000. Nguyễn Hữu Phước “Trầm tích phù sa ở vùng hạ lưu sông Đồng Nai”. Phạm Hùng “Các trầm tích trẻ đồng bằng Tây Nam Bộ”. Lê Đức An “Kiến tạo và địa mạo Miền Nam”. (Năm 1982 -1983, Trần Đức Lương, Nguyễn Xuân Bao với công trìng địa chất khoáng sản Việt Nam đã nêu lên những nét khái quát về địa tầng, cấu trúc, địa mạo Thành phố. (Năm 1983 -1985, Hà Quang Hải, Ma Công Cọ với công trình bản đồ địa chất Thành phố và khoáng sản tỷ lệ 1:50.000. (Năm 1985 -1990, Đoàn Văn Tín và Liên đoàn địa chất Thành phố Hồ Chí Minh đã lập báo cáo thành lập tờ bản đồ địa chất công trình, Địa chất thủy văn Thành phố tỷ lệ 1:50.000. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT THỦY VĂN: Trước năm 1975: (Năm 1936, Brenil và Molleret cho xuất bản “Lịch sử cấp nước Thành phố Sài Gòn”. Cùng thời gian này có các tác giả Richard, Viclard, Godon, Brashears với những bài viết: “Tiềm năng cung cấp nước Sài Gòn – Chợ Lớn”, “Vấn đề nước uống, sự kiểm tra các hệ thống phân phối của nước mưa Sài Gòn”. (Năm 1969 - 1975, Nguyễn Đình Viễn, Trịnh Thanh Phúc đã phát hiện nước ngọt vùng rừng sác – duyên hải. (Năm 1970, J.A.Burgh, Đào Duy, Rassan viết về kết quả khảo sát và bơm hút nước thí nghiệm tại trung tâm huấn luyện Quang Trung – Gò Vấp. (Năm 1970 - 1973, cuộc khảo sát nước ngầm ở Hoóc Môn để cung cấp nước cho toàn thành phố Sài Gòn, do công ty của Nhật tiến hành dưới sự hướng dẫn của tiến sĩ Hyromn Tana. Sau năm 1975: Tiến hành triển khai kế hoạch điều tra thăm dò nguồn nước dưới đất để khai thác và sử dụng hợp lý. (Năm 1979, Võ Ngọc Tùng gợi năm vỉa nước ngọt trong Thành phố (vỉa 20m, 50m, 90m, 120m) đã được khai thác. (Năm 1983, Trần Hồng Phú, Đoàn Văn Tín và các chuyên gia Liên Xô đã lập bản đồ địa chất thủy văn toàn quốc tỷ lệ 1:500.000. (Năm 1982, Nguyễn Hoàng Bỉnh và Lê Văn Tốt (Sở thủy lợi) đã báo cáo về đặc điểm nguồn nước ngầm khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, Trần Kim Thạch, Võ Ngọc Tùng và Đoàn 500N tham gia nghiên cứu, đánh giá trữ lượng, chất lượng, nguồn cung cấp, hướng vận động và sự phân bố nước ngầm Thành phố Hồ Chí Minh. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT CÔNG TRÌNH: Trước năm 1975: Tương tự như lịch sử nghiên cứu địa chất thủy văn, trước năm 1975 việc nghiên cứu về địa chất công trình vẫn chưa được chú trọng lắm, chỉ có một số bản đồ thạch liệu của công binh Mỹ và bộ công chánh ngụy nhưng chỉ giới hạn một số công trình riêng lẻ nhằm phục vụ cho các căn cứ quân sự. Sau năm 1975: (Năm 1980, Nguyễn Thanh lập tờ Bản đồ địa chất công trình lãnh thổ Việt Nam tỷ lệ 1:2.000.000 hiện đang được viện quy hoạch Thành phố sử dụng. Trong thời gian này Viện khoa học xây dựng Nhà nước cũng tiến hành lập đề cương nghiên cứu đặc trưng cơ lý của vùng đồng bằng. (Năm 1981, đề tài lập bản đồ Địa Chất Công Trình – Địa Chất Thủy Văn tỷ lệ 1:1.000.000 của tỉnh Đồng Nai do đoàn Địa Chất 801 thực hiện (kỹ sư Đoàn VănTín chủ biên). (Năm 1981 - 1982, các nhà địa chất thuộc bộ xây dựng đã triển khai hoạt động điều tra địa chất công trình phục vụ cho việc quy hoạch tổng thể mặt bằng xây dựng lọc hóa dầu. Viện quy hoạch Thành phố cùng Nguyễn Văn Thành - Trường Đại Học Tổng hợp - khoa Địa Chất đã lập sơ đồ địa chất công trình khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, tỷ lệ 1:25.000. (Năm 1985 - 1990, công trình tổng hợp bảy tờ bản đồ do Viện kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh chủ trì và Liên Đoàn Địa Chất 8 thực hiện, tỷ lệ 1:50.000. CHƯƠNG III: CẤU TẠO ĐỊA CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT THỦY VĂN Khu vực Tây Nam Thành Phố Hồ Chí Minh nằm ở phạm vi chuyển tiếp giữa đới hoạt hoá Mezozoi (MZ) Đà Lạt ở phía Bắc và đới sụt võng Kainozoi (KZ) Nam Bộ. Tuy nhiên, vùng nghiên cứu chủ yếu nằm ở đới sụt võng Kainozoi nên cấu trúc Kainozoi được thể hiện rõ hơn, các cấu trúc Mezozoi chỉ được phát hiện ở một số công trình khoan đơn lẻ. Lịch sử nghiên cứu và cấu trúc địa chất khu vực đã được thể hiện ở báo cáo Bản đồ Địa chất Thành phố Hồ Chí Minh tỷ lệ 1:50.000 (Ma Công Cọ-1987) và báo cáo lập bản đồ địa chất thuỷ văn - công trình vùng Thành phố Hồ Chí Minh tỷ lệ 1:50.000 (Đoàn Văn Tín - 1988). ĐỊA TẦNG KHU VỰC: GIỚI KAINOZOI (KZ) Hệ Neogen (N): Trầm tích Neogen lộ ra rất ít ở ấp Hàm Luông (Thủ Đức) còn hầu như chỉ gặp trong một số lỗ khoan. Thống Miocen, bậc thượng, Hệ tầng Bình Trưng (N13bt): Các thành tạo của hệ tầng này gặp tại lõi khoan 820, phường Bình Trưng, Quận 2. Mặt cắt lõi khoan từ dưới lên có thể chia thành ba tập như sau: (Tập 1: cát, sạn sỏi chứa các mảnh dăm gắn kết yếu bởi bột sét màu lục, phủ bất chỉnh hợp lên đá andesitobasalt của hệ tầng Long Bình, dày 3,3 m; phía trên là sét bột kết có màu nâu, dày 0,5m. (Tập 2: cát bột kết màu xám, dày 7,6m. (Tập 3: sét bột kết màu xám, phân lớp mỏng (phân lớp từ 0,5 đến 4,0 cm) dày 8m, trên mặt lớp có thực vật hóa than màu đen, bị các trầm tích Pliocen thượng hệ tầng Bà Miêu phủ bất chỉnh hợp bên trên. Tập này có chứa hóa thạch bào tử phấn hoa vơí các dạng đặc trưng như: Microlepia sp., Schizea sp., Anemia sp., Ginkgo sp., Plicea sp., Tsuga sp., Quercus sp., Castanopsis sp., Alaria sp., Fragus sp., Alnus sp., Juglans sp., được Nguyễn Đức Tùng xếp vào tuổi Miocene muộn. Thống Pliocen – bậc dưới. Hệ tầng Nhà Bè (N21nb): Chỉ xuất lộ ra một phần diện tích quận 9, phần Đông Bắc quận Thủ Đức, nhưng gặp hệ tầng trong hầu hết các lỗ khoan sâu trên diện tích của Thành phố. Khu vực nghiên cứu gặp hệ tầng này ở độ sâu từ 133,5m đến 320m (LK.808) và từ 211,9m đến 330m (LK.812). Tại lõi khoan 812, từ dưới lên có các tập: (Tập 1: Cát sạn sỏi, cát pha bột sét chứa sạn, cát pha bột sét xen kẹp ít lớp mỏng sét bột màu xám, cuội sỏi xen các lớp sét cát màu xám lục chứa bào tử, phấn hoa và tảo nước mặn. Bề dày khoảng 26-50m, phủ bất chỉnh hợp lên cát kết màu đỏ của hệ tầng Long Bình. Dựa vào cấp hạt, đường kính trung bình, các thông số độ hạt khác cho thấy trầm tích có độ chọn lọc trung bình, lệch về phía cấp hạt nhỏ. Phần bên dưới cát sạn sỏi chiếm chủ yếu, phần trên trầm tích mịn hơn. Các trầm tích chọn lọc kém phân bố lệch về cấp hạt nhỏ chế độ thủy động lực trung bình nhưng thay đổi nhanh, dạng đồ thị đường cong hạt có 1-3 đỉnh. (Tập 2: Bột sét pha cát màu xám loang lổ nhẹ, sét bột cấu tạo khối chứa thân cây hóa than màu xám tro, phớt tím, chứa bào tử phấn hoa và tảo nước mặn, dày khoảng 9m (LK.812). (Tập 3: Cát, cát chứa sạn-sỏi màu xám xanh, xen ít lớp mỏng bột sét pha cát chứa di tích thực vật hóa than, bào tử phấn hoa, tảo nước mặn, trùng lỗ, dày khoảng 80-90m. Thành phần cấp hạt: cát sạn sỏi chiếm 60-68%, bột 6 -16%, sét 25-31%; các thông số độ hạt khác cho thấy trầm tích có độ chọn lọc kém, phân bố lệch về phía cấp hạt lớn. Trầm tích thuộc cụm tướng tiền châu thổ, có chế độ thủy động lực trung bình, biến động phức tạp, đồ thị đường cong phân bố hạt có 2-3 đỉnh. (Tập 4: Bột sét pha cát màu xanh, sét bột phân lớp mỏng màu vàng nghệ, loang lổ nâu đỏ, bề dày khoảng 2,6-7m. Thành phần cấp hạt cát sạn: 20%, bột: 47%, sét: 33%, đường kính trung bình 0,037mm. Các thông số độ hạt khác cho thấy trầm tích thuộc cụm tướng bãi triều, có chế độ thủy động lực kém nhưng xáo động, đồ thị đường cong phân bố hạt có 4 đỉnh. Tập này bị hệ tầng Bà Miêu tuổi Pliocen muộn phủ bất chỉnh hợp lên. Bào tử phấn hoa thu thập được bao gồm các dạng như Polypodiacae gen. sp., Rhus sp., Phorbiaceae gen. sp., Betula sp., Cystopteris sp., Quercus sp., Ginkgo sp., Lygodium sp., Palmae gen. sp., Podocarpus sp. được Nguyễn Đức Tùng xác định có tuổi Pliocen sớm. Tảo nước mặn gồm có các giống loài như Cyclotella striata, Paralia sulcata, Schuettia annulata, Coscinodiscus sp., Thalassiosira sp., Thalassionema nitzschioides, Nitzschia cocconeiformis, Coscinodiscus lineatus, Actinocyclus ohrenbergii, Hantzschia amphioxys Được Đào Thị Miên xác định tuổi Pliocen. Tập 3 chứa các bào tử phấn hoa như Picea, Pinus, Florschuetzia meridionalis cho tuổi Pliocen (Nguyễn Đức Tùng); di tích trùng lỗ gồm các giống loài như Lagena aff. laevis, Asterorotalia pulchella. Theo hướng Đông Bắc-Tây Nam (từ Thủ Đức đến Bình Chánh), bề mặt nóc của tầng Pliocen hạ chìm dần với dạng bậc thang từ độ sâu 80-86m ở khu vực Bình Thạnh, Quận 9, 136-144m ở khu vực nội thành, 140-142m ở khu vực Bình Chánh, với chiều dày của loạt trầm tích này cũng thay đổi một cách tương ứng là 43-68m, 100-128m và 118-180m. Trầm tích chuyển dần từ cụm tướng đồng bằng tam giác châu sang cụm tướng tiền tam giác châu và biển nông, tương ứng với kỳ biển tiến thời này. Thống Pliocen – bậc trên. Hệ tầng Bà Miêu (N22bm): Phân bố rộng rãi ở các khu vực miền Đông và miền Tây Nam Bộ. Khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, hệ tầøng thường bắt đầu bằng các trầm tích hạt thô cát sạn pha bột, và kết thúc bằng các trầm tích hạt mịn sét bột phân lớp. Trong vùng nghiên cứu hệ tầng này gặp ở độ sâu từ 74,5m đến 133,5m (LK.808) và từ 129m đến 211,9m (LK.812) được chia làm hai tập: (Tập dưới: Cát pha bột chứa sạn sỏi màu xám vàng, nâu vàng dạng bở rời, dày khoảng 35-40m. (Tập trên: Sét bột màu trắng xám bị phong hoá loang lổ nâu vàng, nâu đỏ, dày khoảng 20-25m. Hệ tầng bị các trầm tích Pleistocen phủ bên trên. Theo hướng Theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, bề mặt nóc của hệ tầng chìm sâu dần từ một vài mét ở khu vực Tây Bắc Củ Chi, 20-45m ở khu vực Hoóc Môn và khu vực nội thành, 34 đến 84m ở khu vực Cần Giờ. Sự biến đổi theo hướng này kém rõ. Theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, do ảnh hưởng của đứt gãy kiến tạo phương Tây Bắc – Đông Nam, độ sâu bề mặt nóc, chiều dày và tướng trầm tích thay đổi nhanh hơn. Bề mặt nóc của tầng có độ cao từ 27m ở Thủ Đức, đến sâu 25m và 37m ở Bình Thạnh – Tân Bình và sâu 72,5m ở Bình Chánh. Tướng trầm tích chuyển từ cụm tướng đồng bằng tam giác châu sang tiền tam giác châu. Cụm tướng đồng bằng tam giác châu (dày 40m đến 70m) ở Thủ Đức, Bình Trưng (quận 2) chuyển qua cụm tướng tiền tam giác châu có chiều dày thay đổi từ 90 đến 120m (khu vực nội thành) và 100 đến 136m ở khu vực Tây Nam Bình Chánh. Về thành phần khoáng vật cũng cho thấy hoạt động biển tiến. Phần bên dưới gặp các khoáng vật tích tụ trong vùng đồng bằng tam giác châu như: mảnh đá, ilmenit, turmalin, andalusit, zircon; tập trên có các khoáng vật hình thành trong điều kiện tiền tam giác châu hay biển nông như: siderit, nhóm carbonat. Hệ Đệ Tứ (Q): Thống Pleistocene-bậc dưới. Hệ tầng Trảng Bom (QI3tb): Các thành tạo của hệ tầng này không lộ ra trên bề mặt địa hình, bề dày của hệ tầng này thay đổi từ 25m đến 50m. Trong lõi khoan 812 tại Bình Chánh, các trầm tích của hệ tầng này gặp ở độ sâu từ 72m đến 129m, mặt cắt lõi khoan từ dưới lên: (Tập 1: Cát hạt trung đến thô, có màu xám nâu. Dày 9m. (Tập 2: cát thô, sạn sỏi màu xám có tảo nước mặn ở độ sâu 98m, 101m, 109mvà bào tử phấn ở độ sâu 90m, 100m, 114m. Dày 37m. (Tập 3: sét bột màu tím, gắn kết rắn chắc, bào từ phấn hoa được nghiên cứu ở mẫu độ sâu 81m. Dày 11m. Trong các lõi khoan, chỉ có một số lõi khoan là gặp trầm tích của hệ tầng này, nhưng cũng cho thấy được chiều dày trầm tích của hệ tầng tăng dần khi đi về hướng Đông Nam và Tây Nam. Thống Pleistocen-bậc giữa-trên. Hệ tầng Thủ Đức (QII2-3tđ): Thường lộ ra ở những nơi có địa hình cao 20-40m ở Thủ Đức, quận 9; 10-20m ở Củ Chi. Khu vực Bình Chánh gặp hệ tầng ở độ sâu từ 39m đến 74,5m (LK.808) và 36,7m đến 75,5m (LK.812). Với thạch học chủ yếu là cát pha bột sét chứa sạn màu xám phớt hồng chuyển lên sét bột màu nâu vàng loang lổ trắng. Theo hướng Đông Bắc -Tây Nam, trầm tích thuộc hệ tầng này thay đổi về thành phần, tướng và bề dày đáng kể. Trầm tích chuyển từ cụm tướng đồng bằng tam giác châu với bề dày 27m tại Linh Xuân, Thủ Đức qua cụm tướng tiền tam giác châu với bề dày 12m ở quận Tân Bình đến cụm tướng biển nông với bề dày 14m ở Tân Túc, Bình Chánh. Theo hướng từ Tây Bắc xuống Đông Nam thì độ sâu và chiều dày của trầm tích hệ tầng này cũng lớn dần. Tướng trầm tích cũng thay đổi từ cụm tướng đồng bằng tam giác châu ở Tây Bắc Củ Chi sang cụm tướng tiền tam giác châu ở Hoóc Môn và tướng biển ven bờ – biển nông ở Nhà Bè- Cần Giờ. Thống Pleistocen-bậc trên. Hệ tầng Củ Chi (QIII3cc): Hệ tầng lộ ra trên các thềm bậc II có địa hình cao trung bình từ 5-10m. Hệ tầng gồm hai tập trầm tích: tập trên là cát bột, sạn màu xám bị phong hóa yếu loang lổ, nâu vàng; tập dưới là cuội sỏi thạch anh có kích thước từ 1cm đến 3cm. Trong vùng nghiên cứu, hệ tầng nằm ở độ sâu từ 29 đến 39m (LK.808), độ sâu từ 27m đến 53m (LK.813). Thành phần chủ yếu của hệ tầng là cát pha bột chứa sạn màu xám vàng, nâu vàng chuyển lên sét bột màu nâu đỏ, lẫn mùn thực vật. Phủ bên trên hệ tầng này là các thành tạo trầm tích Holocen. Mặt cắt tại lõi khoan 813 (xã An Lạc, Bình Chánh), từ dưới lên gồm 2 tập: (Tập 1: từ độ sâu 42m đến 53m, gồm cát sét có màu xám vàng, lớp đáy có ít sạn sỏi. Dày 11m, phủ bất chỉnh hợp lên lớp cát vàng tím của hệ tầng Thủ Đức. (Tập 2: từ độ sâu 27m đến độ sâu 42m, gồm cát sạn sét màu xám xanh chứa tảo nước mặn và bào tử phấn hoa. Dày 15m. Theo hướng từ Tây Bắc xuống Đông Nam (từ Củ Chi đến Cần Giờ) bề mặt nóc của hệ tầng hạ thấp dần, trầm tích chuyển từ môi trường đồng bằng tam giác châu – tiền tam giác châu sang môi trường biển nông ven bờ. Theo hướng Đông Bắc xuống Tây Nam (từ Thủ Đức đến Bình Chánh), độ cao bề mặt nóc của hệ tầng cũng giảm dần từ độ cao 5 – 15m tại vùng Thủ Đức, 4 – 10m ở vùng nội thành thuộc môi trường đồng bằng tam giác châu – tiền tam giác châu, và sâu từ 22m đến 25m ở Tây Nam Bình Chánh với các trầm tích thuộc môi trường tiền tam giác châu – sườn tam giác châu. Bề dày trầm tích của hệ tầng thay đổi không ổn định, sự thay đổi này có thể liên quan đến hoạt động của đứt gãy sông Sài Gòn, sông Đồng Nai và sông Vàm Cỏ (Vũ Văn Vĩnh và Trịnh Nguyên Tính, 2002), điều này cũng phù hợp với sự xuất hiện các trầm tích của sông Sài Gòn vào Holocene sớm (Phạm Thế Hiển, Mai Công Cọ, Lê Văn Lớn, 1995). Thống Holocen-bậc dưới-giữa. Hệ tầng Bình Chánh (QIV1-2bc): Được hình thành trong thời kì biển tiến Flandri. Khu vực Thành phố Hồ Chí Minh phân bố rộng rãi ở các phần đồng bằng, thềm thấp và lộ ra trên địa hình thềm cao 2-5m chủ yếu ở huyện Bình Chánh, Nam Hoóc Môn. Thành phần chủ yếu của hệ tầng là bột sét, bột sét pha cát, thỉnh thoảng có cát chứa sạn pha bột sét. Tầng bột sét có màu xám xanh chứa di tích thân mềm, trùng lỗ và bào tử phấn hoa của thực vật đầm lầy mặn. Trầm tích được thành tạo trong điều kiện biển nông, vũng vịnh và tiền châu thổ. Mặt cắt lõi khoan 812 trong khu vực nghiên cứu, hệ tầng Bình Chánh được chia làm hai tập: (Tập dưới: Gồm sét bột pha cát màu xám đen chứa di tích thực vật và vỏ thân mềm, dày 7m. Thành phần cấp hạt cát: 11-17%, bột: 28-30%, sét: 53-61%. Đường kính trung bình 0,01-0,014mm. Các thông số độ hạt khác cho thấy trầm tích chọn lọc kém, phân bố lệch về phía cấp hạt nhỏ. Trầm tích hình thành trong môi trường vũng vịnh hở với chế độ thủy động lực yếu nhưng xáo động, đồ thị đường cong phân bố hạt có 3 đỉnh. (Tập trên: Gồm bột sét màu xám đen chứa vỏ sò ốc, dày 15m. Bột sét: 92-98%, lượng sét tăng về phía trên. Đường kính trung bình 0,005-0,026mm. Các thông số độ hạt khác cho thấy trầm tích chọn lọc kém, phân bố lệch về phía cấp hạt lớn. Trầm tích hình thành trong môi trường vũng vịnh nửa hở-đầm lầy ngập mặn, chế độ thủy động lực yếu, đồ thị đườøng cong phân bố có 2 đỉnh. Cả hai tập đều xuất hiện phong phú tập hợp tảo nước mặn, thuộc môi trường biển nông được Đào Thị Miên xác định như Cyclotella striata, C. stylorum, Paralia sulcata, Thalassiosira decipiens, Coscinodiscus nodulifer, C. lineatus, Actinocyclus ellipticus, Schuettia annulata, Thalassionema nitzschioides, Aulacosira sp., Thalassiosira lineatus, Actinocyclus sp., A. ohrenbergii, Diploneis interrupta, Planktonielea Sol.. Phức hệ trùng lỗ được Ma Văn Lạc xác định gồm những giống loài thuộc biển ven bờ và biển nông Asterorotalia pulchel1a, Ammonia japonica, Ammonia beccarii, Elphidium crispum, El.phidium adventur. Phức hệ bào tử phấn hoa được Nguyễn Đức Tùng xác định gồm có Rhizophoraceae, Sonneratiaceae, Acrostichum aureum,…v.v. thuộc môi trường đầm lầy ven biển. e) Thống Holocen-bậc giữa-trên. Hệ tầng Cần Giờ (QIV2-3cg): Được hình thành trong thời kì biển lùi, tiếp theo sau kì biển tiến Flandri. Chúng lộ ra gần hoàn toàn trên địa hình đồng bằng thấp với nhiều cụm tướng khác nhau. Khu vực Bình Chánh các thành tạo trầm tích của hệ tầng thuộc cụm tướng tiền châu thổ. Mặt cắt lõi khoan 813 tại xã An Lạc, các trầm tích thuộc hệ tầng Cần Giờ gặp ở độ sâu 0-5m, gồm 2 tập: (Tập dưới: Sét màu xám đen chứa mùn thực vật, dày 1m. Tập này phủ trực tiếp trên lớp sét màu xám xanh thuộc hệ tầng Bình Chánh. Tỷ lệ phân bố hạt bột sét chiếm 99% còn lại là cát. Đường kính trung bình 0,004mm. Trầm tích thuộc tướng bùn lầy ngập mặn ven biển, có chế độ thủy động lực yếu và ổn định. Các thông số trầm tích khác cho thấy trầm tích chọn lọc kém, lệch về phía cấp hạt nhỏ. Trong trầm tích có chứa di tích tảo nước mặn khá phong phú. (Tập trên: Bột, sét, bột sét pha cát màu xám đen, xám nhạt chứa thực vật phân hủy yếu, dày 4m. Trong tập này chứa tảo nước ngọt, nước lợ và thân mềm nước lợ và nước mặn ven bờ. Trong các trầm tích kể trên gặp những lớp than bùn dạng thấu kính có chứa bào tử phấn hoa điển hình cho các vùng đồng bằng ngập mặn ven biển. Khu vực nghiên cứu thuộc phía Tây Nam của Thành phố, là địa hình trũng thấp nên phần lớn bị phủ bởi trầm tích bở rời thuộc hệ tầng Cần Giờ, hệ tầng Bình Chánh và hệ tầng Củ Chi. KIẾN TẠO: Các hệ thống đứt gãy: Khu vực nghiên cứu có hai hệ thống đứt gãy chính: Tây Bắc – Đông Nam và Đông Bắc – Tây Nam. Hai hệ thống đứt gãy Tây Bắc – Đông Nam của sông Đồng Nai và sông Vàm Cỏ Đông là hai hệ thống đứt gãy cấp I của khu vực, phân định miền cấu trúc. Hệ thống đứt gãy Tây Bắc – Đông Nam: Hệ thống đứt gãy sông Sài Gòn được xem là hệ thống đứt gãy cấp II nằm song song với hai hệ thống đứt gãy sông Đồng Nai và sông Vàm Cỏ Đông, có tác dụng phân định miền cấu trúc ở hai bên của đứt gãy này, cùng với hệ thống sông đứt gãy sông Vàm Cỏ Đông và sông Đồng Nai tạo cấu trúc bậc thang của móng với biên độ sụt lún theo phương Tây Nam hướng về đới sụt Cửu Long. Đứt gãy sông Sài Gòn kéo dài dọc theo sông Lái Thiêu – Rạch Gò Dưa – Cát Lái, các tài liệu dị thường Bouger chứng minh đây là đứt gãy thuận, có độ sâu 40 km, mặt trượt cắm về phía Tây Nam với góc 600 – 800 ở gần mặt và thoải dần 400 – 500 ở độ sâu 40 km, cự li dịch chuyển trong Neogen là 100m. Cánh Đông Bắc được nâng lên với dịch chuyển đá móng trước Pliocen là 60m, Pliocen thượng là 22m. Cùng phương với đứt gãy sông Sài Gòn còn có đứt gãy Bình Chánh- Cần Giuộc, đứt gãy Hoóc Môn – Bình Thạnh. Hệ thống đứt gãy Đông Bắc – Tây Nam: Hệ thống đứt gãy này gần như thẳng góc với hệ thống đứt gãy Tây Bắc – Đông Nam. Phần lớn chúng bị mờ đi. Tuy nhiên cũng có hệ thống thể hiện rõ như hệ thống Bình Chánh – Nhà Bè – Thủ Đức. Hệ thống này và còn một vài đứt gãy nữa có thể kéo dài ra khỏi phạm vi Thành phố. Góp phần vào quá trình phân dị khối tảng khu vực của hệ thống đứt gãy Đông Bắc – Tây Nam này đã làm cho cấu trúc khu vực nghiêng sụt về biển Đông và cấu trúc sụt Tây Nam Bộ. Ngoài hai hệ thống đứt gãy này còn có một số đứt gãy khác (Bản đồ tỷ lệ 1:50.000) có phương kinh tuyến như đứt gãy Soài Rạp; phương á vĩ tuyến như đứt gãy Hậu Nghĩa – An Thạnh, đứt gãy Đức Hòa – Long Thành, phương vĩ tuyến như: đứt gãy Lý Nhơn, đứt gãy Thôn Tam Hiệp.  -Hình 1- Sơ đồ kiến tạo khu vực Thành phố Hồ Chí Minh- (Dựa trên tài liệu Luận văn cao học của Ngô Trần Thiện Quý) Hoạt động kiến tạo: Hoạt động kiến tạo khu vực Thành phố Hồ Chí Minh và các vùng lân cận có thể chia thành cổ kiến tạo và tân kiến tạo. (Cổ kiến tạo (trước kỷ Thứ Tư): Bắt đầu từ cuối Liat (J1) đến đầu Creta (K1), một chuyển động mang tính toàn cầu, đó là chuyển động Cimeri (Trần Kim Thạch, Hứa Văn Hoàng, 1997) và một vài chuyển động phụ của nó trước đó vào cuối Triat (T3) đã để lại nhiều hệ quả trong khu vực vùng Đông Nam bộ như làm uốn nếp các trầm tích Mezozoi đã thành tạo trước đó (khu vực Bửu Long, Châu Thới, Long Bình), gây các hoạt động đứt gãy, phun trào magma. (Tân kiến tạo: Tân kiến tạo có ảnh hưởng lớn đến việc thành tạo nên bề mặt địa hình hiện tại của khu vực Thành phố Hồ Chí Minh và vùng lân cận. Vào đầu Kainozoi, lục địa Ấn Độ xô đụng vào lục địa Âu Á, xảy ra quá trình chuyển động tạo núi Hymalaya. Các hoạt động này đã hình thành nên hệ thống đứt gãy phương Tây Bắc – Đông Nam, đồng thời các đứt gãy có trước thuộc hệ thống Đông Bắc – Tây Nam cũng tái hoạt động trở lại. Hai hệ thống đứt gãy khu vực này cùng hoạt động đã tạo nên sự phân dị khối tảng khác biệt về độ cao, đồng thời cả đồng bằng Nam Bộ cũng sụt lún thành một vùng trũng tích tụ các vật liệu trầm tích từ các vùng xung quanh. Dọc theo các đứt gãy, magma phun trào đi lên tạo nên các lớp phủ bazan phân bố trên diện tích rộng lớn của miền Đông Nam Bộ. Theo tác giả Nguyễn Kinh Quốc thì hoạt động phun trào có thể được chia thành 4 thời kỳ chính: Neogen, Eopleistocen, Pleistocen, Holocen, xen giữa các kỳ hoạt động phun trào này là các loạt trầm tích. Vào cuối Pleistocen sớm, các hoạt động nâng đã biến khối Đông Nam Bộ thành khối nâng tương đối (Lê Đức An, 1980). Vào Holocen, hoạt động kiến tạo sụt lún cùng với mực biển dâng làm cho toàn bộ Đồng bằng sông Cửu Long và phần lớn diện tích cấu trúc Đông Nam Bộ bị chìm trong nước biển. Hoạt động kiến tạo đến nay vẫn còn thể hiện qua các đứt gãy còn hoạt động. Hoạt động magma phun trào ở Hòn Tre năm 1923 và các suối nước nóng hiện tại là dấu hiệu thể hiện sự hoạt động kiến tạo ngày nay. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN ĐỊA CHẤT: Khu vực Thành Phố Hồ Chí Minh nằm ở rìa đồng bằng trũng Kainozoi Cửu Long có móng là các đá Mezozoi (MZ) mang tính chất là đá phủ hoạt hoá trên nền biến chất tiền Cambri. Các hoạt động kiến tạo nâng cao cùng các hoạt động xâm thực, bóc mòn vào giai đoạn Kreta muộn và Paleogen cũng như các hoạt động tân kiến tạo vào đầu Kainozoi với tính chất hoạt động khối tảng, đã tạo nên bề mặt móng của vùng nghiên cứu có dạng bậc thang thấp từ Đông Bắc sang Tây Nam. Trong Kainozoi một phần diện tích hoạt động bị hạ thấp, hình thành trũng Neogen – Đệ Tứ Cửu Long, trong đó có trũng Kainozoi Thành phố Hồ Chí Minh. Lịch sử phát triển địa chất Kainozoi của Thành phố Hồ Chí Minh trải qua 2 giai đoạn chính: Miocen muộn – Pliocen và Đệ Tứ, tương ứng với 2 phụ tầng cấu trúc của tầng cấu trúc lớp phủ Kainozoi. Quá trình phát triển này gắn liền với các hoạt động Tân kiến tạo và sự hình thành địa hình. Giai đoạn Miocen muộn – Pliocen: Vào cuối Miocen muộn, các hệ thống đứt gãy trước đó hoạt động lại. Phần phía Tây Thành phố (Tây đứt gãy Vàm Cỏ Đông) là đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục sụt lún. Phía Đông Thành phố (Đông đứt gãy Bà Rịa – Biên Hoà – Lộc Ninh) là cấu trúc Nam Trung Bộ, về cơ bản được nâng lên. Dọc theo đứt gãy Bà Rịa – Biên Hoà – Lộc Ninh, sông Vàm Cỏ Đông được lấp đầy bởi các trầm tích lục địa, thành phần chủ yếu là cát, sạn, sỏi màu xám. Vào đầu Pliocen, khu vực Thành phố Hồ Chí Minh có sự sụt lún sảy ra với tốc độ lớn, ở phía Nam biển tiến vào phá huỷ các thành tạo trước và sau đó hình thành các trầm tích phần giữa châu thổ (frondelta). Các trầm tích này chủ yếu là cát kết vôi màu xám chứa các di tích tảo nước mặn. Sự sụt lún có tính chất phân dị theo các khối tảng. Theo hướng Tây Nam, các khối bị sụt lún sâu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docẢnh hưởng của việc khai thác nước dưới đất đến trữ lượng, chất lượng của tầng chứa nước pliocen trên và pliocen dưới khu vực tây nam thành phố hồ chí .doc