Ảnh hưởng truyền dẫn tỉ giá hối đoái ở các thị trường mới nổi
- Giátrị ướclượng củaERPTtheo cơchếnhậndạng
theoMôhìnhthaythế2nhìnchungtươngtự vớinhững
giátrịướctínhtrướcđó.
- ERPTtới giáNKtại Argentina,Chile,Hungary,Ba
Lan,Mexico,ThổNhĩKỳgần1.
- ERPTtớigiáNKtạicácnướcChâuÁ&CHSécthấp.
- ERPTtới giátiêu dùngthấp hơnso vớiERPTtới giá
NK.
- Cótương quandươnggiữalạm phátvàERPTsaukhi
loạitrừArgentinavàThổNhĩKỳrakhỏiphântích.
44 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2349 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Ảnh hưởng truyền dẫn tỉ giá hối đoái ở các thị trường mới nổi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
(by Michele Ca’ Zorzi, Elke Hahn
and Marcelo Sánchez)
ẢNH HƯỞNG TRUYỀN DẪN
TỈ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở CÁC
THỊ TRƯỜNG MỚI NỔI
NỘI DUNG
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
LIÊN HỆ THỰC TẾ TẠI VIỆT NAM
I. MỤC TIÊU
NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu mức độ truyền động hay ảnh hưởng
truyền dẫn tỉ giá hối đoái (ERPT) đến giá cả ở
12 thị trường mới nổi ở Châu Á, Châu Mỹ La
Tinh, Trung và Đông Âu nhằm mục đích:
• Kiểm định quan điểm truyền thống về mức độ ảnh
hưởng truyền dẫn tỉ giá vào giá cả nhập khẩu và
giá tiêu dùng ở các quốc gia thị trường mới nổi so
với các thông số này ở các quốc gia phát triển.
• Đánh giá mối quan hệ tương quan giữa ERPT, chỉ
số giá nhập khẩu và chỉ số giá tiêu dùng (CPI).
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
II. CÁC NGHIÊN
CỨU TRƯỚC ĐÂY
II. CÁC BÀI NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
1. Các nghiên cứu về ERPT cho các nước phát triển
2. Các nghiên cứu về ERPT cho các nước TT mới nổi
3. Các nghiên cứu giải thích tại sao ERPT chưa đầy đủ
4. Các nghiên cứu về vai trò của chính sách tiền tệ và ERPT
5. Nghiên cứu về mức độ mở cửa thương mại và ERPT
1. Các nghiên cứu về ERPT cho các nước phát triển
Anderton (2003)
Campa và Goldberg (2004)
González-Mínguez (2005)
Campa, Goldberg và
Hahn (2003)
Ihrig và cộng sự (2006)
Gagnon, J. and Ihrig, J. (2004)
McCarthy (2000)
1. Các nghiên cứu về ERPT cho các nước phát triển
Anderton (2003):
“Extra-Euro Area
Manufacturing
Import Prices and
Exchange Rate
Pass-Through”
Nghiên cứu cho thấy ERPT của các
thay đổi trong tỉ giá hối đoái (TGHĐ)
hiệu lực của đồng euro lên giá giá sản
phẩm nhập khẩu từ khu vực ngoài
khu vực sử dụng đồng euro dao động
trong khoảng 50% - 70%. Trong khi
định giá theo thị trường thì ước tính
dao động từ 50% - 30%.
Các quốc gia thành viên EU nhưng
không sử dụng đồng euro dựa theo
giá thị trường tương đối nhiều hơn
trong khi khu vực đồng euro nhập
khẩu từ Mỹ chịu mức độ ảnh hưởng
lớn hơn của ERPT
1. Các nghiên cứu về ERPT cho các nước phát triển
Campa và
Goldberg
(2004):
“Exchange Rate
Pass-Through
into Import
Prices”
Nghiên cứu này đánh giá mức độ
ERPT vào giá nhập khẩu của 23 nước
OECD, tìm được bằng chứng thuyết
phục về ERPT một phần trong ngắn
hạn, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất.
Trong dài hạn, việc định giá theo
đồng tiền của nước sản xuất phổ biến
hơn đối với rất nhiều mặt hàng nhập
khẩu.
Các nước có TGHĐ và lạm phát biến
động ít hơn có thể sẽ có mức độ
ERPT vào giá nhập khẩu thấp hơn..
1. Các nghiên cứu về ERPT cho các nước phát triển
Campa,
Goldberg và
González-
Mínguez (2005):
“Exchange Rate
Pass-Through to
Import Prices in
the Euro Area”
Nghiên cứu này phân tích thực
nghiệm sự truyền dẫn từ những thay
đổi trong TGHĐ đến giá nhập khẩu.
ERPT lên giá nhập khẩu trong ngắn
hạn ảnh hưởng không đầy đủ và mức
độ ảnh hưởng này khác nhau tùy
từng lĩnh vực kinh doanh và từng
quốc gia.
Trong dài hạn, ERPT cao hơn và gần
tới 1.
1. Các nghiên cứu về ERPT cho các nước phát triển
Hahn (2003):
“Pass-
Through of
External
Shocks To
Euro Area
Inflation”
Nghiên cứu tác động truyền dẫn của cú
sốc bên ngoài đến lạm phát tại các giai
đoạn phân phối khác nhau (giá nhập
khẩu, giá sản xuất, giá tiêu dùng) trong
khu vực sử dụng đồng euro.
Chỉ số giá nhập khẩu phi dầu mỏ chịu
ảnh hưởng truyền dẫn tỉ giá lớn nhất và
nhanh nhất, sau đó tới ảnh hưởng của
các cú sốc tỉ giá và các cú sốc giá dầu.
Các cú sốc bên ngoài đóng góp phần
lớn tới lạm phát trong khu vực euro
1. Các nghiên cứu về ERPT cho các nước phát triển
Ihrig và cộng
sự (2006):
“Exchange
Rate Pass-
Through in
the G-7
countries”
Có sự sụt giảm trong phản ứng của
giá nhập khẩu và giá tiêu dùng tới
biến động TGHĐ gần như ở tất cả
các nước G7. Theo ước tính, khi phá
giá đồng nội tệ 10%, chỉ số giá nhập
khẩu tính trung bình ở các nước này
tăng gần 7% trong những năm cuối
của thập niên 70 và 80, trong khi chỉ
số giá nhập khẩu chỉ tăng tới mức
4% trong thập niên 90 & đầu TK 21
1. Các nghiên cứu về ERPT cho các nước phát triển
Gagnon, J.
and Ihrig, J.
(2004):
“Monetary
Policy and
Exchange Rate
Pass-Through”
ERPT vào lạm phát nội địa có vẻ đã
suy giảm ở rất nhiều các quốc gia kể từ
những năm 1980.
Tìm thấy bằng chứng rộng rãi về mối
liên hệ mạnh mẽ và có ý nghĩa thống
kê giữa tỉ lệ ERPT và sự thay đổi của
lạm phát.
Tác giả cũng tìm thấy bằng chứng rằng
hành vi chính sách tiền tệ được quan
sát có thể là một yếu tố của sự suy
giảm tỉ lệ ERPT.
1. Các nghiên cứu về ERPT cho các nước phát triển
McCarthy
(2000): “Pass-
Through of
Exchange Rates
and Import Prices
to Domestic
Inflation in Some
Industrialized
Economies”
Nghiên cứu này kiểm định tác động
của tỉ giá hối đoái (TGHĐ) và giá nhập
khẩu tới chỉ số PPI và CPI nội địa ở
một số quốc gia công nghiệp. TGHĐ
có ảnh hưởng không đáng kể đến lạm
phát giá cả trong nước trong khi giá
nhập khẩu có tác động mạnh hơn.
ERPT có mức độ lớn hơn ở những
nước có giá trị nhập khẩu lớn và phụ
thuộc nhiều vào tỷ giá và giá nhập
khẩu.
2. Các nghiên cứu về ERPT cho các nước mới nổi
Choudri và Hakura (2006)
Frankel và cộng sự (2005)
Mihaljek và cộng sự (2000)
2. Các nghiên cứu về ERPT cho các nước mới nổi
Choudri và
Hakura (2006):
“Exchange Rate
Pass-Through to
Domestic Prices:
Does the
Inflationary
Environment
Matter?”
Nghiên cứu này kiểm định giả thuyết
được đề xuất bởi Taylor (2000) rằng môi
trường lạm phát thấp dẫn đến ERPT tới
giá nội địa thấp. Sử dụng số liệu của 71
quốc gia trong giai đoạn 1979 – 2000 để
kiểm chứng mức độ của sự phá giá lên
lạm phát. Mức độ truyền dẫn tỉ giá
mạnh hay yếu phụ thuộc vào mức độ
lạm phát ban đầu của nước phá giá.
ERPT yếu đối với nước có mức lạm
phát ban đầu thấp và cao đối với nước
có mức lạm phát ban đầu cao.
2. Các nghiên cứu về ERPT cho các nước mới nổi
Frankel và
cộng sự (2005):
“Slow Pass-
Through Around
the World: A
New Import for
Developing
Countries?”
Nghiên cứu được thực hiện trên 76
quốc gia, cho thấy ERPT ở các nước
đang phát triển là cao hơn, ở các nước
phát triển là thấp hơn; trong thập niên
90, sự ảnh hưởng bởi ERPT này yếu
đi đối với các nước đang phát triển và
được giải thích bởi những thay đổi
trong môi trường tiền tệ.
2. Các nghiên cứu về ERPT cho các nước mới nổi
Mihaljek và cộng
sự (2000): “A Note
On The Pass-
Through From
Exchange Rate
And Foreign Price
Changes To
Inflation In
Selected Emerging
Market
Economies”
Kết quả cho thấy:
(a) Thay đổi TGHĐ tương quan với lạm phát
mạnh hơn và đồng thời hơn hơn là thay
đổi của giá nhập khẩu;
(b) Độ co giãn của giá nhập khẩu và TGHĐ
tới lạm phát gần như là như nhau ở 4
quốc gia trong mẫu.
(c) Sự khác biệt về hệ số ERPT giữa các quốc
gia là lớn và có vẻ liên quan đến biến
động của lạm phát nhưng không liên tục;
(d) Ảnh hưởng truyền dẫn từ thay đổi TGHĐ
vào lạm phát nói chung mạnh hơn ảnh
hưởng truyền dẫn từ giá nhập khẩu,
nhưng giảm kể từ giữa những năm 1990.
3. Các nghiên cứu giải thích tại sao ERPT chưa đầy đủ
Dornbusch (1987)
Taylor (2000)
Burstein và đồng sự (2003)
Burstein và đồng sự (2005)
3. Các nghiên cứu giải thích tại sao ERPT chưa đầy đủ
Dornbusch
(1987)
Chứng minh tính chưa đầy đủ
là do các công ty hoạt động
trong một thị trường được đặc
trưng bởi sự cạnh tranh không
hoàn hảo và các công ty điều
chỉnh số tiền cộng thêm vào giá
vốn của họ để phản ứng lại với
một cú sốc tỉ giá.
3. Các nghiên cứu giải thích tại sao ERPT chưa đầy đủ
Taylor
(2000):
Theo Taylor, phá giá đồng tiền không
phải lúc nào cũng gây ra lạm phát.
Những nước có tỉ lệ lạm phát thấp sẽ ít
bị lạm phát sau khi phá giá. Với lạm
phát ổn định ở mức thấp, khi doanh
nghiệp định giá sản phẩm trước một
thời hạn nào đó sẽ định giá theo kỳ
vọng là giá sẽ không biến đổi nhiều.
Trong môi trường lạm phát cao thì sự
chuyển dịch này sẽ từ thấp thành cao vì
doanh nghiệp biết rằng lạm phát sẽ lên
cao, do đó cũng sẽ định giá trước cho
sản phẩm cao theo.
3. Các nghiên cứu giải thích tại sao ERPT chưa đầy đủ
Burstein và
đồng sự
(2003)
Nhấn mạnh vai trò của các đầu vào
nội địa (phi ngoại thương) trong
chuỗi phân phối hàng hóa ngoại
thương.
3. Các nghiên cứu giải thích tại sao ERPT chưa đầy đủ
Burstein và
đồng sự
(2005)
Chỉ rõ các vấn đề đo lường CPI,
đã bỏ qua sự điều chỉnh chất
lượng hàng hóa ngoại thương, sự
điều chỉnh tỉ giá có quy mô lớn.
4. Các nghiên cứu về vai trò của chính sách tiền tệ và ERPT
Gagnon và Ihrig,
2004 nhấn mạnh vai
trò của các cơ quan
tiền tệ và tài khóa,
bằng cách bù đắp
một phần tác động
của những thay đổi
trong TGHĐ lên giá
cả.
Devereux và Engel
(2001) và
Bacchetta và van
Wincoop (2003)
khám phá ra vai trò
của việc định giá
đồng nội tệ trong
việc giảm mức độ
ERPT
5. Nghiên cứu về mức độ mở cửa thương mại và ERPT
Romer (1993)
Theo kết quả của nghiên cứu “Openness and Inflation:
Theory and Evidence” của Romer (1993), mối quan hệ
giữa mở cửa và lạm phát sẽ mạnh hơn ở các quốc gia có
tình hình chính trị bất ổn và tính độc lập của ngân hàng
trung ương thấp. Việc mở rộng tiền tệ không được dự đoán
trước sẽ làm cho TGHĐ thực sụt giảm và bởi vì trong nền
kinh tế mở cửa nhiều hơn, những thiệt hại của sự sụt giảm
này sẽ lớn hơn, lợi ích đạt được từ việc mở rộng tiền tệ
không dự đoán trước rõ ràng giảm theo mức độ mở cửa của
nền kinh tế. Dữ liệu của nghiên cứu này cho thấy có mối
tương quan âm khá mạnh giữa mức độ mở cửa nền kinh tế
và lạm phát.
III. PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
PPNC
3.1
Phương pháp
nghiên cứu
3.2
Mô hình
nghiên cứu
3.3
Dữ liệu
nghiên cứu
Sử dụng mô hình vector tự hồi quy (VAR) có khung
cơ sở bao gồm các biến sản lượng, TGHĐ, giá nhập
khẩu, giá tiêu dùng, lãi suất ngắn hạn, và giá dầu
để xem xét mức độ của ảnh hưởng truyền dẫn tỉ giá
hối đoái (ERPT) lên giá cả ở 12 thị trường mới
nổi thuộc châu Á, Mỹ Latinh, Trung và Đông Âu.
Đồng thời, tác giả sử dụng phương pháp tương tự với
3 nền kinh tế công nghiệp lớn, cụ thể là khu vực đồng
Euro, Mỹ và Nhật Bản được sử dụng như là một
nhóm kiểm soát/đối chứng nhằm đảm bảo tính so
sánh kết quả giữa các quốc gia.
1. Phương pháp nghiên cứu
Bằng cách đánh giá mô hình cho mỗi quốc gia theo
phạm vi thời gian lâu nhất có thể, tác giả hướng tới
mức độ chính xác cao nhất có thể trong việc ước tính
ERPT cho mỗi quốc gia.
Sau đó tác giả sử dụng các kết quả của các nhóm
quốc gia để kiểm tra quan điểm truyền thống cho
rằng ở các thị trường mới nổi ERPT vốn cao hơn so
với ở các nền kinh tế công nghiệp lớn và để kiểm tra
xem giả thiết của Taylor về mối quan hệ cùng chiều
giữa mức độ ERPT và lạm phát.
1. Phương pháp nghiên cứu
• Trong đó:
Yt : vector của các biến nội sinh
c : vector hằng số
Φi : ma trận hệ số tự hồi quy
εt : vector biến nhiễu ngẫu nhiên
2. Mô hình nghiên cứu
Mô hình Var tiêu chuẩn
t
p
i
tit YcY
1
1
• Việc xác định cú sốc cấu trúc đạt được bằng cách sắp xếp
thích hợp các biến số quan tâm và áp dụng phân tích Cholesky
vào ma trận hiệp phương sai của phần dư εt dạng rút gọn.
• Mô hình VAR gồm 6 biến như sau:
oilt : chỉ số giá dầu
yt : biến sản lượng
et : tỉ giá hối đoái
pimpt : chỉ số giá nhập khẩu
cpit : chỉ số giá tiêu dùng
it : tỉ lệ lãi suất ngắn hạn
Trong mô hình cơ sở các biến được sắp xếp thứ tự như sau:
• Oilt , yt , et ,, pimpt , cpit , it
2. Mô hình nghiên cứu
Mô hình cơ sở:
oilt , yt , et ,, pimpt , cpit , it
• Cơ chế sắp xếp ở mô hình thay thế 1:
oilt , it , yt , et , pimpt , cpit
• Cơ chế sắp xếp ở mô hình thay thế 2 :
et , pimpt , yt , ppit , cpit , it
2. Mô hình nghiên cứu
Mô hình thay thế đầu tiên
(mô hình Alternative 1)
Mô hình thay thế thứ hai
(mô hình Alternative 2)
Nghiên cứu tập trung phân tích về các quốc
gia từ ba khu vực rộng lớn trên thế giới:
- Châu Á: Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore,
Đài Loan và Hồng Kông.
- Trung và Đông Âu: Cộng hòa Séc, Hungary,
Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ.
- Mỹ Latinh: Argentina, Chile và Mexico.
3. Dữ liệu nghiên cứu
Một tập hợp dữ liệu hàng quý được thu thập, dữ liệu
tập hợp theo thời gian trở về trước xa nhất có thể:
- Giá dầu: chỉ số giá dầu thô tính bằng đồng USD.
- Sản lượng: GDP, giá trị SX Công nghiệp 1 trong số TH.
- TGHĐ: sử dụng một chuỗi tỉ giá hối đoái hiệu dụng danh
nghĩa (NEER) đối với tất cả các quốc gia.
- Giá nhập khẩu và giá tiêu dùng bằng đồng nội tệ được
sử dụng, ngoại trừ Trung Quốc (phân tích đối với giá tiêu
dùng vì chuỗi giá nhập khẩu không thể thu thập được
(không có sẵn)).
- Chính sách tiền tệ: lãi suất ngắn hạn.
3. Dữ liệu nghiên cứu
IV. KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU
- Các ước tính về ERPT lên chỉ số giá nhập khẩu và
chỉ số giá tiêu dùng cho tất cả các quốc gia thị
trường mới nổi ở thời đoạn sau 4 quý và 8 quý.
- ERPT giảm theo chuỗi giá cả, tức là ERPT lên giá
nhập khẩu cao hơn so với ERPT lên giá tiêu dùng
- Các ước tính về ERPT lên chỉ số giá nhập khẩu & chỉ
số giá tiêu dùng đối với KV đồng Euro, Mỹ và
Nhật Bản để đánh giá xem liệu mức độ truyền dẫn tỉ
giá ở các thị trường mới nổi có cao hơn các nước
phát triển hay không
IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
• Ảnh hưởng truyền dẫn tỉ giá lên giá tiêu dùng và lạm phát
trung bình tại các thị trường mới nổi.
(trục Y: phản ứng tích lũy của giá tiêu dùng đến cú sốc tỉ giá 1%
sau một năm;
trục X: lạm phát trung bình trong giai đoạn lập dự toán)
IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
- Có một mối tương quan dương giữa ERPT và lạm phát
cả trong thời gian sau 4 hay 8 quý. Hệ số tương quan có
ý nghĩa cả 2 trường hợp kiểm định Pearson và Spearman
cho cả hai gđ thời gian 4 và 8 quý với mức ý nghĩa 1%;
bằng chứng yếu về mqh dương giữa độ mở cửa nền kinh
tế với ERPT tới giá tiêu dùng.
- Giá trị ước lượng của ERPT theo cơ chế nhận dạng theo
Mô hình thay thế 1 nhìn chung tương tự với những giá
trị ước tính của mô hình cơ sở. Một trường hợp ngoại lệ
là Hungary, các giá trị ước lượng về ERPT tới giá nhập
khẩu và chỉ số giá tiêu dùng đều giảm đáng kể.
IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
- Giá trị ước lượng của ERPT theo cơ chế nhận dạng
theo Mô hình thay thế 2 nhìn chung tương tự với những
giá trị ước tính trước đó.
- ERPT tới giá NK tại Argentina, Chile, Hungary, Ba
Lan, Mexico, Thổ Nhĩ Kỳ gần 1.
- ERPT tới giá NK tại các nước Châu Á & CH Séc thấp.
- ERPT tới giá tiêu dùng thấp hơn so với ERPT tới giá
NK.
- Có tương quan dương giữa lạm phát và ERPT sau khi
loại trừ Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ ra khỏi phân tích.
IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
KẾT LUẬN
Bài viết này cung cấp bằng
chứng thực nghiệm về các
mô thức ERPT tới giá cả nội
địa trên thế giới dựa trên các
mô hình vector tự hồi quy
đối với một số lượng đáng
kể của các quốc gia, bao
gồm 12 quốc gia thị trường
mới nổi thuộc ba khu vực thị
trường mới nổi chính trên
thế giới và một nhóm kiểm
soát bao gồm các quốc gia
công nghiệp.
Tại tất cả các quốc gia, kết
quả nghiên cứu chỉ ra có
một sự suy giảm ERPT dọc
theo chuỗi giá.
Phân tích của chúng tôi
phần nào đi ngược quan
điểm truyền thống cho rằng
ERPT tại các nền kinh tế
"mới nổi" luôn luôn cao
hơn đáng kể so với các nền
kinh tế "phát triển“.
KẾT LUẬN
Đối với các thị trường
mới nổi có tỉ lệ lạm phát
hàng năm chỉ một con số
(nhất là các nước châu Á)
ERPT thấp và ít khác biệt
so với mức độ ERPT tại
các nền kinh tế phát triển.
Nhìn một cách tổng quát,
mối tương quan giữa lạm
phát và ảnh hưởng truyền
dẫn tỉ giá có ý nghĩa thống
kê khi hai nước có dữ liệu
ngoại lệ (Argentina và Thổ
Nhĩ Kỳ) được loại trừ ra
khỏi phân tích do các kết
quả ở các nước này không
đáng tin cậy.
KẾT LUẬN
Bằng chứng về một hệ số tương quan dương
giữa độ mở của nền kinh tế và ảnh hưởng
truyền dẫn tỉ giá có vẻ yếu hơn là mối tương
quan giữa lạm phát và ảnh hưởng truyền dẫn
tỉ giá, thậm chí kể cả trường hợp mức độ lạm
phát được kiểm soát..
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- pass_th_935.pdf