2- Mục tiêu : 
Xây dựng công nghệ xử lý nước rỉ rác hợp lý nhằm nâng cao công suất, chất lượng và giảm chi phí vận hành của nhà máy xử lý nước rỉ rác Gò Cát hiện tại 
3- Nội dung : 
(1) Khảo sát, phân tích, đánh giá chất lượng nước rỉ rác đã qua xử lý sinh học ở nhà máy xử lý Gò Cát. 
(2) Thử nghiệm kiểm tra một số quá trình chính sẽ áp dụng trong quy mô phòng thí nghiệm để xác định công nghệ xử lý. 
(3) Tính toán, thiết kế, chế tạo các thiết bị công nghệ cho hệ pilot công suất 10-20 m3/ngày. 
(4) Lắp đặt hệ pilot 10-20 m3/ngày tại Công trường Gò Cát. 
(5) Vận hành, đo đạc các thông số công nghệ, công suất và chất lượng nước xử lý. 
(6) Đánh giá chi phí vận hành (chủ yếu là năng lượng, hoá chất) cho 1 m3 nước sau xử lý. 
(7) Kết luận và đánh giá tính khả thi của công nghệ đề xuất. 
4- Sản phẩm của đề tài : 
(1) Hệ pilot công suất 10-20 m3/ngày 
(2) Công nghệ xử lý nước rỉ rác theo đề xuất của ECHEMTECH, bảo đảm chất lượng nước sau xử lý phải đạt các mức sau: 
- pH 5.5-9 
- COD , mg/L 100 
- BOD, mg/L 50 
- SS, mg/L 100 
- Ntổng số, mg/L 60 
- Ptổng số, mg/L 6 
- Coliform, MPN/100mL 10.000 
- Màu, Pt-Co 50 
 (3) Báo cáo tổng kết của đề tài
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 51 trang
51 trang | 
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5312 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Áp dụng các quá trình oxi hóa nâng cao (AOPs) để xử lý nước rỉ rác đã qua xử lý sinh học ở nhà máy xử lý Gò Cát, thực hiện trên hệ pilot 15-20 m3, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 PHẦN MỞ ĐẦU 
1- Thông tin chung về đề tài : 
- Tên đề tài : Áp dụng các quá trình oxi hóa nâng cao (AOPs) để xử 
lý nước rỉ rác đã qua xử lý sinh học ở nhà máy xử lý Gò Cát, thực 
hiện trên hệ pilot 15-20 m3/ngày. 
- Chủ nhiệm đề tài : GS. TSKH. Trần Mạnh Trí 
- Cơ quan chủ trì : Trung tâm Công nghệ Hóa học và Môi trường 
(ECHEMTECH) 
- Thời gian thực hiện : bắt đầu : 1/12/2006 ; kết thúc : 1/04/2007 
- Kinh phí được duyệt : 275.000.000 đ 
- Kinh phí đã cấp : 200.000.000 đ theo TB số 195/TB-SKHCN ngày 
13/11/2006 
2- Mục tiêu : 
Xây dựng công nghệ xử lý nước rỉ rác hợp lý nhằm nâng cao công suất, chất 
lượng và giảm chi phí vận hành của nhà máy xử lý nước rỉ rác Gò Cát hiện tại 
3- Nội dung : 
(1) Khảo sát, phân tích, đánh giá chất lượng nước rỉ rác đã qua xử lý sinh học ở 
nhà máy xử lý Gò Cát. 
(2) Thử nghiệm kiểm tra một số quá trình chính sẽ áp dụng trong quy mô phòng 
thí nghiệm để xác định công nghệ xử lý. 
(3) Tính toán, thiết kế, chế tạo các thiết bị công nghệ cho hệ pilot công suất 10-
20 m3/ngày. 
(4) Lắp đặt hệ pilot 10-20 m3/ngày tại Công trường Gò Cát. 
 1
(5) Vận hành, đo đạc các thông số công nghệ, công suất và chất lượng nước xử 
lý. 
(6) Đánh giá chi phí vận hành (chủ yếu là năng lượng, hoá chất) cho 1 m3 nước 
sau xử lý. 
(7) Kết luận và đánh giá tính khả thi của công nghệ đề xuất. 
4- Sản phẩm của đề tài : 
(1) Hệ pilot công suất 10-20 m3/ngày 
(2) Công nghệ xử lý nước rỉ rác theo đề xuất của ECHEMTECH, bảo đảm chất 
lượng nước sau xử lý phải đạt các mức sau: 
- pH 5.5-9 
- COD , mg/L 100 
- BOD, mg/L 50 
- SS, mg/L 100 
- Ntổng số, mg/L 60 
- Ptổng số, mg/L 6 
- Coliform, MPN/100mL 10.000 
- Màu, Pt-Co 50 
(3) Báo cáo tổng kết của đề tài 
 2
CHƯƠNG I 
 TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 
1.1- Rác và các công trường xử lý rác ở thành phố Hồ Chí Minh 
Vì là một thành phố lớn nên lượng rác thải hàng ngày của thành phố Hồ Chí 
Minh cũng rất lớn, mỗi ngày có trên 7.000 tấn rác các loại thải ra, từ rác sinh hoạt 
đến rác thải công nghiệp. Phần lớn rác được tập trung về các bãi rác ở ngoại thành 
để xử lý, cho đến nay chủ yếu vẫn bằng phương pháp chôn lấp, tuy biết rằng giải 
pháp này không lâu dài và căn cơ đối với quỹ đất hạn hẹp của một thành phố lớn. 
Thành phố đang phấn đấu giảm dần tỷ lệ chôn lấp từ 98% hiện nay xuống còn 
50% vào năm 2010 và còn 30% vào năm 2015. Tuy vậy, mục tiêu này không phải 
dễ dàng đạt được như mong muốn nếu không có quyết tâm cao. 
Để giải quyết vấn nạn rác của thành phố, trong những năm vừa qua thành phố 
Hồ Chí Minh đã triển khai xây dựng 4 công trường chôn lấp rác khá quy mô sau 
đây để tiếp nhận rác hàng ngày: 
- Bãi chôn lấp Gò Cát (quận Bình Tân) với tổng diện tích công trường 25 ha, 
công suất thiết kế 3,6 triệu tấn, mỗi ngày có thể tiếp nhận 2.000 tấn theo thiết kế. 
Tuy nhiên, do một số công trường chôn lấp rác khác bị sự cố nên buộc phải nâng 
công suất tiếp nhận hàng ngày lên 3.000-3.500 tấn, cá biệt có lúc lên đến gần 
5.000 tấn. làm cho tổng lượng rác đã tiếp nhận hiện nay đã lên đến 4,3 triệu tấn ! 
- Bãi chôn lấp rác Phước Hiệp (huyện Củ Chi) với tổng diện tích công trường 
43 ha, công suất thiết kế 3 triệu tấn rác, mỗi ngày có thể tiếp nhận 3.000 tấn rác 
theo thiết kế (bãi chôn lấp 1A). Tuy nhiên, bãi chôn lấp rác này đang bị sự cố, phía 
đông bắc công trường nền đất bị chuồi trượt rất nghiêm trọng. Vì vậy, lượng rác 
tiếp nhận hàng ngày còn khoảng 1.100-1.200 tấn. Đáng chú ý là công trường xử lý 
rác Phước Hiệp (xã Tam tân) được quy hoạch mở rộng để trở thành khu xử lý liên 
 3
hợp chất thải rắn lớn của thành phố với diện tích tổng cộng đến 822 ha, thời gian 
hoạt động dự kiến là 23 năm, hiện nay vẫn trong quá trình xây dựng. 
- Bãi chôn lấp rác Đa Phước (huyện Bình Chánh) với tổng diện tích công 
trường 128ha, đang triển khai san lấp mặt bằng dự kiến đầu năm 2007 sẽ tiếp nhận 
rác, nhưng cho đến nay công trường vẫn chưa hoàn thành công tác xây dựng. 
- Bãi chôn lấp rác Đông Thạnh (huyện Hóc Môn) với diện tích 70 ha, hoạt 
động từ năm 1991 đến 2002, hiện nay đã đóng cửa không tiếp nhận rác, chỉ nhận 
xà bần với lượng 900 tấn/ngày. Khối lượng rác tồn đọng khoảng 7,6 triệu tấn. 
1.2- Nước rỉ từ các công trường chôn lấp rác ở thành phố Hồ Chí Minh 
Ở các công trường chôn lấp rác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, nước rỉ ra 
từ các bãi chôn lấp rác đã và đang nổi lên thành vấn đề lớn, được toàn xã hội lo 
lắng và quan tâm hàng ngày. Nguyên nhân một mặt vì trong nước rỉ rác này chứa 
nhiều mầm bệnh nguy hiểm, chứa nhiều chất ô nhiễm độc hại, khi tích đọng lại sẽ 
gây nguy cơ ô nhiễm nguồn nước, đất và không khí quanh khu vực công trường 
chôn lấp, nước rỉ rác lại có mùi hôi thối, độc hại, lan toả thường trực trong không 
khí với một bán kính đến vài cây số, nên dân cư quanh những công trường chôn 
lấp rác không chịu nổi, nhiều lần yêu cầu chính quyền tìm giải pháp khắc phục. 
Mặt khác, vì lượng nước rỉ rác thoát ra hàng ngày khá nhiều, (trung bình cứ 10 tấn 
rác chôn lấp trong 1 ngày đêm sinh ra 1 m3 nước rỉ rác), về mùa mưa, lượng nước 
rỉ rác sinh ra càng nhiều hơn, nếu không có giải pháp xử lý kịp thời và hiệu quả, 
nguy cơ ô nhiễm do nước rỉ rác phá vỡ bờ bao các công trình hồ chứa, tràn vào 
khu dân cư hoặc ra nguồn nước bên ngoài là không tránh khỏi. Hiện thành phố tồn 
đọng khoảng 500.000 m3 nước rỉ rác chưa được xử lý trước mùa mưa năm nay. 
Ở công trường chôn lấp rác Gò Cát, hiện nay lượng nước rỉ rác tồn đọng trong 
hai hồ chứa khoảng 60.000 m3, mỗi ngày mỗi phát sinh thêm. Ở công trường chôn 
lấp rác Phước Hiệp, hiện tồn đọng khoảng trên 300.000 m3 và mỗi ngày phát sinh 
 4
thêm khoảng 1.000 m3. Công trường chôn lấp rác Phước Hiệp đang trở thành một 
túi chứa nước rác khổng lồ và tình trạng vỡ bờ bao như đã xảy ra năm 2003 có thể 
tái diễn. Ngay cả công trường chôn lấp rác Đông Thạnh tuy đã đóng cửa từ nhiều 
năm nay nhưng hiện vẫn còn tồn đọng khoảng 50.000 m3 nước rỉ rác chưa được xử 
lý. 
1.3- Những giải pháp xử lý nước rỉ rác ở thành phố Hồ Chí Minh 
1.3.1- Giải pháp xử lý nước rỉ rác ở công trường chôn lấp rác Đông Thạnh- 
Ở công trường chôn lấp rác Đông Thạnh, ngay từ đầu những năm 2000, rất 
nhiều đơn vị tham gia nghiên cứu xử lý nước rỉ rác như Công ty Quốc Việt, Trung 
tâm Công nghệ và quản lý môi trường CENTEMA, Công ty TNHH Đức Lâm, 
Trung tâm tư vấn công nghệ và môi trường CTA, Công ty Cổ phần nước và phát 
triển NUPHACO, Hội Hóa học Việt Nam. Công nghệ xử lý chủ yếu dựa vào 
phương pháp phân hủy sinh học nhưng nói chung hoạt động không ổn định, 
luôn gặp trục trặc, thậm chí như Công ty Đức Lâm, cho đến nay vẫn chưa xả thải 
được mét khối nước rỉ rác nào đạt yêu cầu (!). Tuy vậy, hiện nay hệ thống này 
phải tiếp nhận thêm nước rỉ rác 700-700 m3/ngày chở từ công trường Gò Cát về để 
xử lý tạm thời để hỗ trợ nhà máy xử lý nước Gò Cát trong thời gian bị sự cố kỹ 
thuật. 
1.3.2- Giải pháp xử lý nước rỉ rác ở công trường chôn lấp rác Gò Cát 
Hệ thống xử lý nước rỉ rác ở công trường chôn lấp rác Gò Cát được xem là hệ 
thống xử lý nước rỉ rác hoàn chỉnh và quy mô nhất hiện nay ở TP Hồ Chí Minh Hệ 
thống xử lý do Công ty Vemier (Hà Lan) thiết kế, đầu tư thiết bị với công suất 
thiết kế 400 m3/ngày, với chất lượng nước sau khi xử lý phải đạt cột B theo TCVN 
5945-1995, đã được Trung tâm Công nghệ môi trường ECO xây dựng. Công trình 
bắt đầu tiến hành xây dựng từ năm 2003, đưa vào hoạt động từ năm 2003, nhưng 
 5
nước xả thải không đạt yêu cầu so với thiết kế nên đã thay đổi công nghệ, bổ sung 
thiết bị để hoàn chỉnh. 
Các giai đoạn xây dựng bổ sung đã thực hiện lần lượt như sau: 
- Giai đoạn đầu (2003) : hệ thống xử lý được thiết kế chỉ dựa theo theo công 
nghệ phân chia vật lý trực tiếp nguồn nước rỉ rác thông qua hai cấp lọc : lọc cát 
và lọc tinh (micro và ultra) kết hợp với lọc nano (hình I-1): 
Nước rỉ rác thô 
Lọc thô qua cát 
Lọc tinh qua lõi lọc : micro và ultra 
Lọc nano 
Nước đã xử lý 
 Hình I.1: Sơ đồ công nghệ xử lý nước rỉ rác giai đoạn đầu ở Gò Cát 
 Tuy nhiên, thực tế hoạt động đã cho thấy công nghệ nói trên không phù hợp 
với đối tượng nước rỉ rác chứa nhiều tạp chất lơ lửng, nhiều chất ô nhiễm hữu cơ 
phức tạp nên chưa mang lại kết quả mong muốn, công suất nước sạch sau khi ra hệ 
thống lọc nano đạt rất thấp tuy chất lượng đạt tốt. Điều này cho thấy không thể xử 
lý trực tiếp nước rỉ rác chỉ thông qua quá trình phân chia vật lý mà không có 
những quá trình chuẩn bị trước đó. 
- Giai đoạn hai – bổ sung (2004) : đã lắp bổ sung bể lên men kỵ khí dung 
chứa 1000m3 trước khi vào hệ thống lọc nói trên nhằm xử lý phân hủy các chất 
hữu cơ bằng sinh học (hình I-2). Kết quả cũng không cải thiện được chất lượng và 
 6
số lượng nước xử lý như mong muốn, đặc biệt chưa giải quyết được hàm lượng 
amoniac rất cao trong nước rỉ rác. 
Nước rỉ rác thô 
Lên men kỵ khí 
Lắng 
Lọc thô qua cát 
Lọc tinh qua lõi lọc : micro và ultra 
Lọc nano 
Nước đã xử lý 
 Hình I.2 – Sơ đồ công nghệ xử lý nước rỉ rác giai đoạn hai ở Gò Cát 
- Giai đoạn ba – nâng cấp chất lượng (2005) : xây dựng thêm bể phản ứng 
sinh học kỵ khí với dòng chảy ngược UASB do LeAF (Hà Lan) thiết kế để xử lý 
trực tiếp nước đầu vào (xử lý bậc 1), trong khi đó thiết bị lên men kỵ khí đã xây 
dựng ở giai đoạn 2 được cải tạo lại, bỏ bộ phận nắp thu gom khí biogas, lắp thêm 
hệ thống sục khí biến thành hệ thống xử lý sinh học hiếu khí bằng bùn hoạt tính kết 
hợp với khử Nitơ trong 2 bể tiền và hậu khử Nitơ, được bố trí đặt trước và sau bể 
làm thoáng hiếu khí (xử lý bậc 2). Sau đó, nước tiếp tục được đưa qua hệ thống xử 
lý hoàn thiện (xử lý hoá lý) bằng quá trình keo tụ với FeCl3, tạo bông bằng 
 7
Polymer, lắng, trung hòa, lọc cát. Sau 3 bậc xử lý, nước thu được dự kiến sẽ thải 
trực tiếp ra môi trường. 
Tuy việc đưa thêm bể sinh học kỵ khí UASB có hiệu quả cao nhưng các công 
đoạn kế tiếp hiệu quả xử lý lại thấp, không đạt đúng như thiết kế nên chất lượng 
nước sau xử lý cuối cùng vẫn không đạt, COD, BOD, TKN vẫn còn cao, ngoài ra 
vẫn còn màu và mùi hôi, nên phải cho tiếp tục vào hệ lọc nano của giai đoạn thiết 
kế ban đầu để xử lý tiếp. 
Sơ đồ công nghệ của hệ thống xử lý nước rỉ rác sau khi đã nâng cấp cuối cùng 
như sau (hình I-3): 
 8
Xử lý tiền khử Nitơ trong bể anoxic 
Phân hủy sinh học hiếu khí trong bể Aerotank 
 Lọc nano 
Lắng 
Thải ra môi trường 
Xử lý hậu khử Nitơ trong bể anoxic 
Keo tụ bằng FeCl3 và tạo bông bằng polyme 
Trung hòa 
Lọc thô qua cát Thải ra môi trường 
Lọc tinh qua lõi lọc 
(Micro và Ultra) 
Lắng 
Phân hủy sinh học kỵ khí trong hệ UASB 
Nước rỉ rác thô
Hình I.3- Sơ đồ công nghệ hệ thống xử lý nước rỉ rác ở Gò Cát sau khi nâng cấp giai 
đoạn 3 
 9
Khi vận hành xử lý các thành phần ô nhiễm trong nước rỉ rác theo sơ đồ công 
nghệ mô tả trên đây, kết quả về chất lượng nước xử lý và hiệu quả của từng công 
đoạn trong dây chuyền công nghệ ghi nhận được trong thời gian tháng 3/2006 và 
tháng 7/2006 thu được như sau (bảng I-1): 
 Bảng I.1- Chất lượng nước xử lý qua từng thiết bị công nghệ 
Vị trí lấy mẫu Thời 
điểm 
lấy 
mẫu 
Chỉ 
tiêu, 
mg/L 
Đầu 
vào 
Sau 
UASB 
Sau tiền 
khử Nitơ 
Sau bể 
Aerotank 
Sau hậu 
khử Nitơ 
Sau bể 
lắng 
Sau xử 
lý hóalý 
Sau lọc 
cát 
Sau lọc 
nano 
COD 16.814 5.424 2.712 9.220 8.678 2.712 2.215 2.079 350 
BOD 9.200 2.280 840 3.120 3.560 788 1.245 1.237 308 
N 
tổng 
2.427 2.376 989 1.331 1.334 975 870 860 480 
N-
NH3
2.887 2.436 954 919,2 937 937 721 715 470 
N-
NO3
6,2 4,3 51,8 41,2 23,5 33,5 16,7 14,5 7,3 
N-
NO2
0 0 596 768 613 460 233,6 228,1 91,7 
Ptổng 19,8 17,5 21,3 143,9 135,8 46,1 9,8 10,3 11,7 
SS 700 1.440 1.660 22.780 31.740 1.100 372 462 37 
pH 7,6 8,26 8,53 8,49 8,53 8,59 8,07 8,04 7,59 
Tháng 
3/2006 
Cảm 
quang 
Đục, 
đen, 
Đục, 
đen, 
Đục, 
đen, 
Đục, 
đen, 
Đục, 
đen, 
Đục, 
đen, 
Đục, 
có màu 
Đục, 
có màu 
Trong, 
màusáng 
COD 13.655 7.376 3.596 7.986 8.351 3.078 3.048 2.987 161 
BOD 6.272 4.112 1.992 1.544 1.712 1.342 1.116 789,6 13,5 
N 
tổng 
1.821 1.636 1.389 1.625 1.513 1.345 1.317 1.294 868,6 
N-
NH3
1.680 1.608 1.337 1.336 1.323 1.281 1.261 1.233 861 
N-
NO3
0 0 0 0 0 0 0 0 0 
N-
NO2
0 0 1,59 0,62 0 0 0 0,61 0,48 
Ptổng 10,3 6,6 7,5 99,2 215 4,7 0 0 0 
SS 2.020 640 220 6.860 9.500 300 60 1.120 0 
pH 7,42 7,88 8,66 8,62 8,71 8,70 8,37 8,43 8,61 
Tháng 
7/2006 
Cảm 
quang 
Đục, 
đen, 
Đục, 
đen, 
Đục, 
đen, 
Đục, 
đen, 
Đục, 
đen, 
Đục, 
đen, 
Đục, 
đen, 
Đục, 
nâu đen 
Trong, 
màusáng 
 Nguồn : Số liệu của Công ty Môi trường đô thị TP HCM cung cấp 
Như vậy, nhà máy xử lý nước rỉ rác Gò Cát từ sau khi đưa vào vận hành đến 
nay đã gặp phải những vấn đề tồn tại sau: 
- Về công suất xử lý để xả thải: không đạt công suất xả thải 400 m3/ngày, 
chỉ đạt được khoảng 40 m3/ngày (tức chỉ đạt khoảng 10% thiết kế), thậm chí từ 
 10
tháng 11/2006 đến nay chỉ đạt mức 16 m3/ngày (tức chỉ còn 4% công suất thiết 
kế). 
- Về chất lượng nước sau xử lý: không ổn định, COD và BOD giao động 
không quy luật chủ yếu trong giai đoạn xử lý bậc 2 và xử lý hoá lý hoàn thiện 
(phần đánh dấu tô mờ trong bảng). Ngoài ra hàm lượng Nitơ trong nước thải còn 
cao hơn rất nhiều so với giới hạn yêu cầu (khoảng 800 mg/L). Phần cảm quang, 
nước xử lý cho đến sau giai đoạn xử lý hoàn thiện vẫn còn màu sẫm, mùi hôi và 
cặn đục. Chỉ sau khi qua lọc nano, nước trong, màu sáng. 
Như đã phân tích, cho đến nay trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, việc xử lý 
nước rỉ rác vẫn còn bế tắc, công nghệ xử lý dựa vào phân hủy sinh học là chính, có 
kết hợp thêm khâu xử lý keo tụ hóa lý hoặc khâu lọc tinh và lọc nano. Nói chung 
chưa có một công nghệ nào được đánh giá là thích hợp, ổn định và hiệu quả 
[1,2,3,4]. 
1.4- Những giải pháp xử lý nước rỉ rác ở nước ngoài 
Ở nước ngoài, vấn đề xử lý nước rỉ rác đã được đề cập nghiên cứu trong rất 
nhiều công trình công bố trên các tạp chí hoặc các hội nghị khoa học [5,6,7]. Các 
công trình nghiên cứu xử lý nước rỉ rác ở nước ngoài đều đạt kết quả tốt, chất 
lượng nước sau xử lý đạt tất cả các yêu cầu xả thải trực tiếp ra môi trường. Một 
điểm chung nhất của tất cả các công trình nói trên ở nước ngoài trong thời gian 5 
năm trở lại đây là ngoài việc dựa vào các quá trình phân hủy sinh học và xử lý hóa 
lý, tất cả đều đã dựa vào các quá trình phân hủy hóa học, chủ yếu là các quá trình 
phân hủy hóa học oxi hóa nâng cao (Advanced Oxidation Processes – AOPs) như 
ozon [ 8,9], Peroxon [5,9], Fenton [6,10]. 
 11
1.5- Những vấn đề rút ra từ nghiên cứu tổng quan 
Những vấn đề tồn tại đã nêu ra trong phần tổng quan cho thấy, sở dĩ vấn đề xử 
lý nước rỉ rác ở nước ta chưa được giải quyết cơ bản chính là do ở phần công nghệ 
chỉ dựa vào quá trình phân hủy sinh học là chính, các quá trình này chưa đủ 
sức mạnh để phân hủy những phần ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy, bền vững và 
độc hại trong nước rỉ rác. Trong khi đó, các công nghệ xử lý đã triển khai lại chưa 
cập nhật được những quá trình xử lý mới, hiện đại, điển hình là công nghệ xử 
lý dựa vào các quá trình oxi hóa nâng cao AOPs. Các quá trình Oxi hóa nâng 
cao AOPs ngày nay được xem là nền tảng của công nghệ xử lý nước và nước 
thải ở thế kỷ 21 [11,12,13]. Do đó, việc nghiên cứu áp dụng các thành tựu khoa 
học mới trong lĩnh vực môi trường để xây dựng công nghệ xử lý nước rỉ rác cho 
các công trường chôn lấp rác ở TP Hồ Chí Minh là cấp bách và cần thiết. 
Dựa trên kinh nghiệm đã áp dụng các quá trình oxi hóa nâng cao vào xử lý 
nước thải chứa nhiều chất ô nhiễm hữu cơ độc hại, khó phân hủy do Trung tâm 
công nghệ hóa học và môi trường (ECHEMTECH) thực hiện (như công trình xây 
dựng hệ thống xử lý nước thải sản xuất thuốc bảo vệ thực vật ở nhà máy Thuốc trừ 
sâu Sài Gòn [14] hoặc công trình xử lý nước thải sản xuất bột giấy của nhà máy 
Giấy Tân Mai [15]), Trung tâm công nghệ hóa học và môi trường 
(ECHEMTECH) đăng ký đề tài với nội dung : Nghiên cứu áp dụng các quá 
trình oxi hóa nâng cao (AOPs) để xử lý nước rỉ rác (đã qua xử lý sinh học) ở 
nhà máy xử lý Gò Cát trên hệ pilot 15-20 m3/ngày chính là nhằm tìm kiếm một 
giải pháp công nghệ mới đáp ứng yêu cầu cấp bách hiện nay vùa nói trên. 
 12
CHƯƠNG II 
 NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 
2.1- Nghiên cứu nhận diện nước rỉ rác và những vấn đề có tính chất “chìa 
khoá” trong xử lý nước rỉ rác 
2.1.1- Đặc tính chung của nước rỉ rác – Phân loại 
 Nước rỉ ra từ các bãi chôn lấp rác khác nhau nói chung không giống nhau, đặc 
tính nước rỉ rác thường khác nhau do có nhiều yếu tố ảnh hưởng như thời gian 
chôn lấp rác (còn gọi tuổi chôn lấp rác), cấu trúc bãi chôn lấp rác, cách chôn lấp 
lèn chặt hay tự do, khối rác dày hay mỏng, nguồn gốc rác, loại rác , phương thức 
quản lý và khai thác bãi rác. Rất nhiều quá trình biến đổi sinh học, hoá học và vật 
lý xảy ra xen kẻ, nối tiếp nhau trong suốt thời gian rác được tập trung và chôn lấp 
trong điều kiện thiếu hoặc không có không khí, môi trường pH và nhiệt độ cao 
trong bãi rác. Kết quả của hàng loạt quá trình biến đổi này là tạo ra nhiều thành 
phần hữu cơ và vô cơ gây ô nhiễm ở những cấp độ khác nhau cũng như tạo ra 
nhiều hợp chất có cấu trúc hoá học phức tạp ở những cấp độ khác nhau, chúng có 
thể dễ bị phân hủy sinh học hoặc khó hoặc không thể bị phân hủy sinh học. 
 Tuy vậy, đặc tính chung của tất cả các loại nước rỉ rác bao giờ cũng có các 
thành phần quan trọng sau đây: 
 (1) Thành phần các chất ô nhiễm hữu cơ, đặc trưng ở tải lượng ô nhiễm theo 
COD và BOD5 rất cao. Trong thành phần chất ô nhiễm hữu cơ, bao giờ cũng chứa 
hai phần : phần chất ô nhiễm hữu cơ dễ bị phân hủy sinh học và phần chất ô 
nhiễm hữu cơ khó hoặc không thể bị phân hủy sinh học. Ở các bãi rác thời gian 
chôn lấp không lâu (<1-2 năm), nước rỉ rác có trị số COD rất cao (3.000-
60.000mg/L), đồng thời tỷ số BOD/COD cũng cao (>0,6), tức trong nước rỉ rác 
này chứa nhiều thành phần hữu cơ dễ bị phân hủy sinh học. Ngược lại ở các bãi 
rác thời gian chôn lấp lâu (>10 năm) nước rỉ rác có trị số COD tương đối thấp 
 13
(100-500 mg/L), đồng thời tỷ số BOD/COD cũng thấp (<0,3), tức trong nước rỉ 
rác này chứa nhiều thành phần hữu cơ khó (hoặc không) bị phân hủy sinh học. 
Trong nước rỉ rác ở những bãi chôn lấp một vài năm, thành phần hữu cơ có trọng 
lượng phân tử thấp, các axit hữu cơ bay hơi (VFA) chiếm phần lớn, trong khi đó, 
nước rỉ rác từ các bãi chôn lấp thời gian khoảng mươi năm trở lên, thành phần hữu 
cơ có trọng lượng phân tử cao lại chiến phần chủ yếu. Điển hình nhất của thành 
phần hữu cơ khó phân hủy trong nước rỉ rác là axit fulvic, axit humic, được gọi 
chung là các chất humic (humic substances). Axit Fulvic và axit humic trong 
nước rỉ rác chủ yếu do sự phân hủy sinh học các hợp chất lipid, protein, 
cacbohydrat, lignin có trong xác thực vật và động vật trong quá trình chôn lấp rác. 
Chúng là các axit hữu cơ cao phân tử, có trọng lượng phân tử rất cao, từ 2.000 cho 
đến 100.000-200.000, cấu trúc gồm nhiều nhân thơm ngưng tụ cao, chung quanh 
nhân thơm ngưng tụ có đính các nhóm định chức, chủ yếu là các nhóm cacboxyl 
(–COOH), hydroxyl (-OH), cacbonyl (>C=O) làm cho phân tử axit humic và 
fulvic có ái lực càng hóa (chelate) với các ion đa hóa trị như Mg2+, Ca2+ và 
Fe2+.hoặc một số ion kim loại nặng khác tạo thành một phức chất cấu trúc cồng 
kềnh. Axit Fulvic có trọng lượng phân tử thấp hơn trọng lượng phân tử axit humic, 
ngược lại, tính axit của axit fulvic cao hơn của axit humic. Đặc tính quan trọng của 
nhất của các axit fulvic và humic là chúng là những polyme mang màu (pigmented 
polymers), từ màu vàng đậm đến nâu đen, làm cho nước rỉ rác luôn có màu nâu 
sẫm, là thành phần hữu cơ khó xử lý nhất trong nước rỉ rác. Có thể thấy rõ độ 
mang màu của các hợp chất humic trên hình vẽ mô tả dưới đây [18] 
 14
 Hình II.1- Tính chất mang màu của các chất humic thay đổi theo trọng lượng 
phân tử [18] 
 Tính phức tạp của axit humic và axit fulvic có thể thấy qua mô hình cấu trúc 
phân tử được trình bày bởi một số tác giả như sau (hình II.2 và II.3): 
 Hình II.2- Cấu trúc của phân tử axit humic theo Stevenson [18] 
 Hình II.3 –Cấu trúc của phân tử axit Fulvic theo Buffle[18] 
 15
Cùng với thời gian chôn lấp rác, phần hữu cơ trong nước rỉ rác giảm dần, nhưng 
tỷ lệ thành phần các chất hữu cơ không bị phân hủy sinh học lại tăng lên đáng kể. 
Điều này thấy rõ trên sơ đồ minh hoạ dưới đây (hình II-4): 
Chất hữu cơ không bị phân huỷ sinh học
Chất hữu cơ bị phân huỷ sinh học
Hình II.4 - Chiều hướng biến đổi phần hữu cơ trong nước rỉ rác và tỷ lệ phần hữu 
cơ không bị phân hủy sinh học so với phần bị phân hủy sinh học theo thời gian chôn 
lấp rác (tuổi bãi rác) 
 (2) Thành phần các chất ô nhiễm vô cơ, chủ yếu là amoniac (NH3) nằm 
dưới dạng ion amoni (NH4+) trong nước rỉ rác, thành phần này được tạo ra do sự 
phân hủy (thủy phân và lên men) thành phần protein xác động vật hoặc thực vật 
trong rác thải. Đặc tính quan trọng của thành phần amoniac trong nước thải là 
chúng có hàm lượng rất cao, đến trên 2000 mg/L và lại rất bền vững, không bị 
biến đổi theo thời gian, là thành phần vô cơ khó xử lý nhất trong nước rỉ rác. 
 (3) Thành phần các chất độc hại: vi trùng, vi khuẩn, mầm bệnh, virus các loại 
và một số kim loại nặng. 
Đặc tính của nước rỉ rác được phân chia thành ba nhóm khác nhau phụ thuộc 
vào thời gian ( tuổi) chôn lấp như sau (bảng II-1): 
 16
Bảng II.1- Đặc trưng của nước rỉ rác ở các bãi chôn lấp với thời gian khác nhau 
Loại Mới (trẻ) Trung bình Đã ổn định (già) 
Tuổi, năm 10 
pH 7,5 
COD, mg/l >20.000 3.000-15.000 <2.000 
BOD/COD >0,3 0,1-0,3 <0,1 
TOC/COD 0,3 - 0,4 
Chất hữu cơ Chủ yếu là 70-
90% VFA 
20-30% VFA, 
70-80% axit 
Humic và Fulvic 
 Chủ yếu là axit 
Humicvà axit Fulvic 
Nitơ, mg/l 100 – 2.000 TKN 
TKN/COD 0,1 0,13-0,66 1,0 
Kim loại, g/l 2 <2 <2 
 Trong một bãi chôn lấp rác trẻ hay già, quá trình phân hủy sinh học đều xảy ra 
trong điều kiện yếm khí qua 3 giai đọan kế tiếp nhau trong toàn bộ khối rác bị 
chôn lấp: giai đoạn tạo axit (pha axit), giai đoạn tạo mêtan (pha mêtan) và giai 
đoạn trung gian (pha chuyển tiếp từ pha axit sang pha mêtan). Tuỳ theo thời gian 
chôn lấp rác mà ưu thế của từng giai đoạn nói trên sẽ thay đổi. Thời gian chôn lấp 
càng lâu, tuổi của bãi rác càng già, pha mêtan sẽ càng chiếm phần chủ yếu. Ngược 
lại, tuổi bãi rác chôn lấp càng trẻ, pha axit chiếm phần ưu thế. 
 Có thể căn cứ vào tỷ số BOD/COD trong các giới hạn sau để phân biệt các 
giai đoạn xảy ra trong bãi rác chôn lấp : 
 - Pha axit: BOD/COD ≥ 0,4 
 - Pha chuyển tiếp : 0,4 > BOD/COD > 0,2 
 - Pha mêtan : BOD/COD ≤ 0,2 
 17
 2.1.2- Đặc tính nước rỉ rác Gò Cát 
Qua khảo sát trong khoảng thời gian tháng 3/2006 và tháng 7/2006 của Nhà 
máy xử lý nước rác Gò Cát cho thấy thành phần và tính chất của nước rỉ rác ở 
Công trường chôn lấp rác Gò Cát nằm trong giới hạn sau (bảng II-2): 
 Bảng II.2 – Thành phần và tính chất của nước rỉ rác Gò Cát 
Thông số Đơn vị Thấp Cao Trung bình 
pH - 7,4 7,6 7,5 
COD mg/L 13.655 16.814 15.234 
BOD mg/L 6.272 9.200 7.735 
BOD/COD - 0,46 0,55 0,50 
TKN mg/L 1.821 2.427 2.124 
N-NH3 mg/L 1.680 2.887 2.283 
P tổng mg/L 10,3 19,8 15,05 
SS mg/L 700 2.020 1.360 
Cảm quang Đục, nhiều cặn, màu nâu đen đến đen, mùi hôi khó chịu 
 Nguồn : Công ty môi trường Đô thị Thành phố HCM 
Những số liệu trên đây cho thấy nước rỉ rác Công trường chôn lấp rác Gò Cát 
thuộc loại đã chuyển sang tuổi trung bình, đặc trưng ở độ pH không có tính axit 
(pH~7); hàm lượng COD không quá cao như nước rác ở độ tuổi trẻ (>20.000 
mg/L) và cũng không quá thấp như nước rác ở độ tuổi cao (<2.000 mg/L), mà nằm 
ở mức trung bình (~15.000 mg/L); tỷ số BOD/COD ~0,5, hàm lượng TKN cao 
(~2.000 mg/L), và tỷ số TKN/COD nằm giữa 1,0 và 0,1 (~0,14). 
Với nước rỉ rác ở độ tuổi này, trong thành phần ô nhiễm hữu cơ ngoài các chất 
axit hữu cơ bay hơi còn chứa một phần lớn (70-80%) là các axit trọng lượng phân 
tử lớn (cao phân tử) như axit humic và axit fulvic như đã mô tả trên. Đây là những 
 18
chất ô nhiễm hữu cơ khó hoặc không thể bị phân hủy sinh học, do đó, để việc xử 
lý nước rác Gò Cát đạt kết quả mong muốn, không thể áp dụng công nghệ chỉ 
dựa vào các quá trình phân hủy sinh học. 
Ngoài ra, như mọi loại nước rỉ rác, trong nước rỉ rác Gò Cát cũng chứa các chất 
độc hại, các mầm bệnh, vi trùng, virus nguy hiểm cho sức khoẻ con người khi tiếp 
xúc, khi xâm nhập vào các nguồn nước mặt, ao hồ, hoặc vào các mạch nước ngầm, 
nước giếng trong khu vực quanh các bãi chôn lấp rác. Nước rỉ rác tích đọng trong 
các hồ chứa thường trực phát tán mùi hôi thối ra môi trường trong một bán kính 
rất rộng, làm ô nhiễm môi trường không khí, ảnh hưởng rất xấu đến sức khoẻ và 
sinh hoạt hàng ngày của ngưới dân . 
2.1.3- Vấn đề có tính chất “chìa khóa” trong xử lý nước rỉ rác Gò Cát nói 
riêng và nước rỉ rác nói chung 
Như đã khảo sát trên đây, nước rỉ rác là loại nước ô nhiễm toàn diện ở mức độ 
rất nặng và rất khác biệt so với nước thải sinh hoạt hoặc nước thải công nghiệp 
thông thường. Để xử lý nước rỉ rác đạt hiệu quả mong muốn, phải xác định thành 
phần ô nhiễm nào cần phải tập trung tìm giải pháp xử lý đặc biệt mang tính chất 
quyết định hay còn gọi mang tính chất “chìa khoá” để hóa giải, thành phần ô 
nhiễm nào không cần các giải pháp xử lý đặc biệt vẫn có thể đạt yêu cầu mong 
muốn. 
Đối với nước rỉ rác Gò Cát từ công trường chôn lấp rác Gò Cát, đã nhận diện 
hai vấn đề mang tính “chìa khoá” cần phải giải quyết về mặt công nghệ khi xử 
lý chúng: 
1- Vấn đề xử lý các chất ô nhiễm hữu cơ có tải lượng ô nhiễm cao, trong 
đó ngoài thành phần hữu cơ có khả năng phân hủy sinh học còn đặc 
biệt phải xử lý thành phần các chất hữu cơ khó hoặc không thể phân 
hủy bằng vi sinh, chủ yếu là axit humic và axit fulvic. Giảm tải lượng ô 
 19
nhiễm hữu cơ COD 12.000-16.000 mg/L, BOD 7.000-9.000 mg/L xuống 
đến giới hạn yêu cầu COD ~ 100 mg/L, BOD ~ 50 mg/L, nghĩa là phải 
xử lý loại bỏ >99% trong nước rác. 
2- Vấn đề xử lý các chất ô nhiễm vô cơ, chủ yếu là Nitơ dưới dạng ion 
amoni có tải lượng ô nhiễm cao khác thường so với các loại nước thải 
khác. Giảm Ntổng từ 2.000-2.500 mg/L và N-NH3 từ ~2.000 mg/L xuống 
đến giới hạn yêu cầu Ntổng ~ 30mg/L, N-NH3 ~10 mg/L nghĩa là phải 
xử lý loại bỏ 98-99% trong nước rác. 
Nếu có giải pháp công nghệ xử lý được hai vấn đề nêu trên, việc xử lý những 
phần ô nhiễm còn lại trong nước rỉ rác (Ptổng số, SS, màu, mùi, mầm bệnh) cũng 
sẽ được giải quyết theo, và do đó, việc xử lý toàn bộ nước rỉ rác Gò Cát xem như 
đã giải quyết được một cách cơ bản và triệt để. 
2.2- Nghiên cứu giải pháp xử lý hàm lượng COD cao, đặc biệt hàm lượng 
các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy trong nước rỉ rác Gò Cát 
2.2.1- Giải pháp phân hủy hóa học dựa vào các quá trình Oxi hóa nâng cao 
(Advanced Oxidation Processes – AOPs) 
 Để xử lý thành phần ô nhiễm hữu cơ khó hoặc không thể bị phân hủy sinh 
học, áp dụng phương pháp phân hủy hoá học bằng các quá trình Oxi hóa nâng 
cao (Advanced Oxidation Processes – AOPs). Đây là phương pháp đặc hiệu để 
xử lý những thành phần ô nhiễm hữu cơ mà các phương pháp xử lý sinh học 
không thể giải quyết nổi và là sự lựa chọn của đề tài này. Phương pháp này được 
xem như thành tựu khoa học mới trong lĩnh vực xử lý nước và nước thải trong gần 
hai thập kỷ gần đây của thế giới, được chúng tôi giới thiệu trong sách “Các quá 
trình oxi hóa nâng cao trong xử lý nước và nước thải – Cơ sở khoa học và ứng 
dụng”, do Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật xuất bản năm 2006[16]. 
 20
 Bản chất phương pháp là tiến hành phân hủy các thành phần ô nhiễm hữu 
cơ bền vững (không thể bị phân hủy sinh học) dựa vào quá trình oxi hóa mạnh hơn 
bình thường (tức quá trình oxi hóa nâng cao- AOP), để đủ khả năng phá hủy các 
liên kết hóa học bền vững trong các chất ô nhiễm. Quá trình oxi hóa nâng cao 
dựa vào tác nhân oxi hóa mạnh là gốc tự do Hydroxyl (*OH), khả năng oxi hóa 
cao cao hơn tất cả những tác nhân oxi hóa thường sử dụng trong công nghiệp hóa 
học như Ozon, Clo hoặc Hydrogen peroxit, đồng thời khi phản ứng với các chất ô 
nhiễm hữu cơ, chúng xảy ra với tốc độ rất nhanh, hàng nghìn đến hàng tỷ lần so 
với các tác nhân oxi hóa thông thường. 
 Ưu thế cơ bản của gốc tự do hydroxyl *OH là: 
- Khả năng oxi hóa của gốc tự do Hydroxyl *OH cao gần 1,5 lần so với Ozon, 
gần 1,6 lần so với Hydrogen Peroxit, gấp hơn 2 lần so với Clorin, nên có khả năng 
oxi hóa hầu như tất cả các hợp chất hữu cơ, dù là bền vững nhất. 
- Nhờ khả năng oxi hóa mạnh của gốc tự do hydroxyl *OH nên có khả năng 
phá hủy những gốc mang màu, làm sáng màu nước xử lý kèm theo oxi hóa 
phá hủy những chất gây mùi, làm mất mùi nước rác. 
- Nhờ khả năng oxi hóa mạnh của gốc tự do hydroxyl *OH nên có khả năng 
diệt khuẩn, khử trùng triệt để kể cả virus, mạnh gấp đôi so với clorin 
 Một điều đáng lưu ý là gốc tự do này không có sẵn như các tác nhân oxi 
hóa thông thường mà chúng chỉ sinh ra ngay trong quá trình xử lý (in situ) khi cho 
các tác nhân hóa học tác dụng với nhau. Quá trình oxi hóa nâng cao bằng tác nhân 
oxi hóa là gốc tự do *OH được sử dụng cho xử lý nước rỉ rác Gò Cát là quá trình 
PEROXON (Peroxone Process). Trường hợp này cho các tác nhân Ozon O3 và 
Hydrogen Peroxit H2O2 tác dụng trực tiếp với nhau trong thiết bị, sẽ tạo ra gốc 
*OH ngay tức khắc theo phản ứng sau: 
 H2O2 + 2O3 Æ 2*OH + 3O2 (II.1) 
 21
 2.2.2- Giải pháp xử lý các chất humic (axit humic và axit fulvic) bằng quá 
trình tổ hợp keo tụ - tạo phức chất – Fenton- 
 Đây là giải pháp mới, tổ hợp cả 3 quá trình: keo tụ, tạo phức chất, phân hủy 
hóa học gần như đồng thời: 
 (1) Quá trình keo tụ và tạo phức chất PFS-Humic- Trong nhóm các hợp 
chất ô nhiễm hữu cơ khó hoặc không thể phân hủy sinh học, đáng chú ý nhất là 
các chất humic (axit humic và axit fulvic), là những hợp chất ô nhiễm hữu cơ có 
chứa các nhân thơm đa tụ bền vững và liên kết càng hóa (chelate) với các kim loại 
nặng dạng phức chất nên vừa khó phân hủy, vừa gây màu mạnh nhất. Vì vậy, 
trong xử lý nước rỉ rác, loại bỏ nhóm hợp chất này là tối cần thiết vì sẽ làm giảm 
đáng kể COD, giảm dáng kể độ màu của nước rỉ rác, nhưng lại rất khó khăn và 
nặng nề nhất so với xử lý các thành phần còn lại. 
 Khi nghiên cứu giải pháp công nghệ để xử lý loại bỏ các hợp chất này, chúng 
tôi đã dựa vào tính chất đặc thù của axit humic và axit fulvic. Axit Humic là những 
hợp chất cao phân tử có trọng lượng phân tử >100.000, axit fulvic cũng là những 
hợp chất cao phân tử nhưng có trọng lượng thấp hơn, 2000-100.000. Trong môi 
trường kiềm, các muối kiềm hóa trị 1 của axit humic (Natri Humat) tan tốt trong 
nước, nhưng trong môi trường axit, chúng lại kết tủa dưới dạng các hạt keo axit 
humic và không tan trong nước. Trong khi đó, axit fulvic lại tan tốt trong cả trong 
môi trường kiềm lẫn môi trường axit [18]. 
 Khi sử dụng các hoá chất keo tụ thông thường Fe(III) dạng monomer như 
FeCl3 hoặc Fe2(SO4)3 trong môi trường axit, chúng chỉ có khả năng keo tụ phần 
lớn axit humic nhưng không loại bỏ được axit fulvic vì trong điều kiện đó, chỉ có 
axit humic kết tủa và được tách ra nhờ Fe(OH)3 do phản ứng thủy phân FeCl3 hoặc 
Fe2(SO4)3 trong môi trường axit. Trong khi đó, axit fulvic vẫn nằm trong nước ở 
dạng hoà tan, đã làm cho nước vẫn còn màu sẫm và COD cao. 
 22
 Để loại bỏ cả axit humic và axit fulvic, chúng tôi đã sử dụng hợp chất sắt (III) 
dạng polymer là Polyferric sulfat (PFS) [Fe2(OH)n(SO4)3-(n-2)]x , trong đó n<2 
và x>10. Trong môi trường axit (pH 4-5) sự thủy phân của Fe(III) dạng polyme 
(tức Polyferric sulfat) rất chậm so với sự thủy phân Fe(III) dạng monome (tức 
FeCl3, Fe2(SO4)3), vì vậy khi PSF chưa kịp thủy phân, giữa các nhóm định chức 
axit của axit humic cũng như của axit fulvic và PFS xảy ra sự tạo phức chất PFS 
và axit Humic-Fulvic dạng kết tủa không tan. Phản ứng tạo phức xảy ra rất 
nhanh, và kết tủa phức chất PFS-H/F axit cũng lắng xuống rất nhanh [17]. 
 Do đó, chỉ có sử dụng Polyferric sulfat mới có khả năng xử lý loại bỏ đồng 
thời cả axit humic và axit fulvic nhờ cơ chế tách axit Humic và axit Fulvic bằng 
PFS xảy ra thông qua sự tạo phức, trong khi với FeCl3 chỉ có thể tách được axit 
humic thông qua Fe(OH)3 do sự thủy phân FeCl3. 
 (2) Quá trình kiểu như Fenton (Fenton-like Process)- Trong quá trình tạo 
phức giữa PFS và axit humic, axit fulvic ở môi trường pH thấp, phần phức chất 
không tan tách ra, phần dung dịch còn lại bao giờ cũng có mặt ion Fe(III) do phản 
ứng thủy phân của Polyferric sulfat xảy ra bên cạnh phản ứng tạo phức với các 
chất axit humic và axit fulvic. Để tận dụng lượng Fe(III) nói trên và để nâng cao 
hiệu quả quá trình xử lý, đã bổ sung một lượng nhỏ Hydrogen Peroxit H2O2 để 
thực hiện quá trình kiểu như FENTON (Fenton-like process). Đây cũng là một 
dạng của quá trình oxi hóa nâng cao (AOPs)[16]. 
 Ở quá trình Fenton chính thống, sử dụng ion Fe(II) với hệ Fe2+/H2O2, bấy giờ 
xảy ra phản ứng tạo ra gốc tự do Hydroxyl *OH như sau: 
 Fe2+ + H2O2 Æ Fe3+ + *OH + OH- (II.2) 
 Ở trường hợp sử dụng tác nhân Fe(III) tác dụng với H2O2 cũng sẽ tạo ra gốc 
*OH kiểu như FENTON nhưng theo hai bậc như sau: 
 Fe3+ + H2O2 Æ Fe2+ + H+ + *HO2 (II.3) 
 23
Với Fe2+ vừa mới sinh ra này, sẽ tác dụng với H2O2 tạo ra gốc tự do *OH theo 
phản ứng Fenton (II.2) nói trên. 
(3) Quá trình xử lý kết hợp giữa keo tụ - tạo phức với phân hủy kiểu như 
Fenton gọi tắt là quá trình tổ hợp keo tụ - tạo phức – Fenton được xem là quá 
trình xử lý đạt hiệu quả rất cao, chẳng những làm giảm chất rắn lơ lửng (SS) nhờ 
quá trình keo tụ, mà còn làm giảm rất đáng kể COD, trong đó đã loại bỏ gần như 
hoàn toàn axit humic và axit fulvic, nhờ đó kéo theo làm giảm hẳn độ màu của 
nước rỉ rác. 
2.3- Nghiên cứu giải pháp xử lý hàm lượng Ntổng và N-NH3 cao trong nước 
rỉ rác bằng ba phương pháp kết hợp 
Nếu việc tìm giải pháp công nghệ để xử lý hàm lượng ô nhiễm hữu cơ, đặc biệt 
hàm lượng các chất humic và các chất khó phân hủy sinh học trong nước rỉ rác cao 
đã khó, việc tìm giải pháp để xử lý hàm lượng các chất ô nhiễm vô cơ, chủ yếu là 
các hợp chất của Nitơ như N-NH3 càng khó khăn hơn nhiều. Nguyên nhân vì hàm 
lượng NH3 trong nước rỉ rác, dù ở bãi chôn lấp rác loại già hay trẻ đều rất cao, 
hàng nghìn mg/L, chúng rất bền, không bị phân hủy hoặc tự giải thoát theo thời 
gian. 
Vì hàm lượng N-NH3 rất cao trong nước rỉ rác, nên khi xử lý đã thực hiện bằng 
3 giải pháp kết hợp như sau: 
2.3.1- Giải pháp stripping một phần(không hoàn toàn) - 
Giải pháp này thực hiện qua 2 giai đoạn: 
- Chuyển ion NH4+ thành NH3 dạng tự do bằng cách nâng cao độ pH (pH 9-11) 
nhờ dung dịch kiềm NaOH, phản ứng xảy ra như sau: 
 NH4+ + OH- Æ NH3 + H2O (II.4) 
 24
- Giải thoát NH3 bằng cách thổi khí cưỡng bức qua tháp stripping (stripping 
tower). 
Phương pháp này tách được hầu hết lượng NH3 tạo thành ra khỏi nước rác, tuy 
nhiên đòi hỏi lượng không khí sục vào rất lớn (tỷ lệ thể tích không khí / nước 
trong giới hạn ~ 150-200/1), thời gian sục không khí kéo dài, chi phí năng lượng 
cao. Hơn nữa, khi lượng NH3 thoát ra nhiều (trên 6 mg/m3), trước khi thải ra môi 
trường phải xử lý qua dung dịch axít. 
Vì vậy, để tiết kiệm chi phí năng lượng, quá trình stripping được thực hiện 
trong tháp tưới của tháp lọc sinh học nhỏ giọt không có thổi khí, và nhờ nước 
được dàn trải qua bề mặt giá thể có diện tích riêng lớn nên đã hỗ trợ cho quá trình 
bốc hơi NH3 được thuận lợi. Một phần NH3 (khoảng 30-40%) được giải thoát có 
tác dụng không làm ức chế quá trình nitrat hóa sinh học tiếp sau. Phần N-NH3 còn 
lại tiếp tục được xử lý bằng phương pháp sinh học. 
2.3.2- Giải pháp sinh học- 
Việc xử lý loại bỏ thành phần amoni bằng giải pháp sinh học được thực hiện 
trong hai giai đoạn : 
- Oxi hóa NH3 thành nitrat (nitrat hóa) nhờ các vi khuẩn Nitrosomonas, 
Nitrobacter trong điều kiện có oxi không khí : 
 NH4+ Æ NH2OH Æ NO2- Æ NO3- (II.5) 
- Sau đó khử nitrat (denitrat hoá) xảy ra theo từng bậc cho đến nitơ N2 
nhờ vi khuẩn và nấm Bacillus, Paracocus, Pseudomonas, Alcaligenes,... trong điều 
kiện thiếu oxi không khí : 
 NO3- Æ NO2- Æ NO Æ N2O Æ N2 (II.6) 
Giải pháp sinh học xử lý được các hợp chất Nitơ đạt kết quả. Tuy nhiên, 
phương pháp sinh học có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng làm cho quá trình khó kiểm 
soát để đạt kết quả thuận lợi mong muốn. Các yếu tố ảnh hưởng thường gặp là thời 
 25
gain cần dài vì quá trình xảy ra chậm, đặc biệt chậm nhất và khó khăn nhất là giai 
đoạn nitrat hóa; vi khuẩn quá trình nitrat hóa rất nhạy với pH và độ kiềm của môi 
trường, các vi khuẩn lại dễ bị ngộ độc với kim loại nặng có trong nước rác; sự có 
mặt NH3 nồng độ cao làm ức chế quá trình nitrat hóa; đồng thời có sự cạnh tranh 
giữa vi khuẩn dị dưỡng phân hủy chất hữu cơ và vi khuẩn nitrat hóa, các vi khuẩn 
dị dưỡng phát triển rất nhanh có thể đàn áp không cho vi khuẩn nitrat hóa phát 
triển nên rất khó kiểm soát, quá trình này thường gặp hiện tượng hoặc là xảy ra 
hoàn toàn, hoặc là câm hoàn toàn (all-or-none phenomenon hay on-or-off 
phenomenon). Hiện tượng “câm” này đã từng xảy ra ở nhà máy xử lý nước Gò 
Cát, được thấy rõ qua các số liệu sau (bảng II.3): 
Bảng II.3- Biến thiên hàm lượng N-NH3 và Ntổng qua các thiết bị xử lý Nitơ ở Gò Cát 
Thời điểm Chỉ tiêu, 
mg/L 
Sau UASB Sau tiền khử 
Nitơ 
Sau bể 
aerotank 
Sau hậu khử 
Nitơ 
Ntổng 1.636 1.389 1.625 1.513 07/2006 
N-NH3 1.606 1.337 1.323 1.281 
Nguồn : Công ty Môi trường Độ thị TP HCM 
Do 2 giải pháp trên đều có những nhược điểm nhất định, nên khó xử lý được N-
NH3 triệt để với hiệu quả ổn định để hàm lượng N- NH3 từ hàng ngàn mg/L xuống 
còn <10 mg/L, tức phải loại bỏ đến ~99% NH3 trong nước rỉ rác. 
Vì vậy, sau khi thực hiện cả hai giải pháp nói trên, đại bộ phận Nitơ (~80%) đã 
được xử lý, phần nhỏ còn lại (<10%) sẽ thực hiện giải pháp hoá học ở khâu cuối 
cùng. Với giải pháp kết hợp này cho phép xử lý triệt để hàm lượng Nitơ trong 
nước rỉ rác Gò Cát. 
2.3.3- Giải pháp hóa học 
Bản chất của giải pháp hóa học là chuyển N-NH3 còn lại thành N2 trong thiết 
bị phản ứng hóa học, ở đó được sục khí Ozon và có mặt muối Brom (NaBr hoặc 
 26
 KBr) trong môi trường axit [19,20]. 
 Phản ứng xảy ra như sau: 
O3 + NaBr + H+ Æ HOBr + O2 + Na+ (II.7) 
 3HOBr + 2NH3 Æ N2 + 3Br- + 3H+ + 3H2O (II.8) 
Phản ứng xảy ra nhanh và triệt để, Nitơ dạng khí được giải phóng và thoát ra tự 
do ngoài môi trường. Giải pháp xử lý loại bỏ NH3 này bắt buộc phải có Ozon, 
đồng thời phải sử dụng hóa chất KBr hoặc NaBr. Lượng Br cho quá trình xác định 
bằng phương trình hóa học trên. 
Do trong giải pháp xử lý những thành phần ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy sinh 
học đã áp dụng các quá trình oxi hóa nâng cao trong đó có sử dụng Ozon, nên giải 
pháp này thực hiện rất thuận lợi. Hơn nữa, vì là phương pháp dựa trên các phản 
ứng hóa học nên xảy ra nhanh, thiết bị không đòi hỏi lớn, cồng kềnh, không tốn 
chi phí năng lượng cung cấp không khí cho giai đoạn nitrat hoá, không tốn chi phí 
nguồn Cacbon bổ sung cho giai đoạn denitrat hóa, quá trình dễ điều khiển, ổn 
định. 
Vấn đề quan trọng trong quá trình Ozone hoá để xử lý nước nói chung có chứa 
Br là lưu ý đến nồng độ HOBr trong nước, chỉ có hợp chất này mới cần chú ý vì 
có thể là tác nhân gây ung thư. 
Tuy nhiên, khi có NH3, do có phản ứng mạnh giữa HOBr và NH3 nên toàn bộ 
lượng HOBr tạo ra đều bị NH3 bắt giữ để phóng ra N2. Do đó, chính NH3 là tác 
nhân hạn chế độc tính của Br khi Ozone hoá. Vấn đề ở đây là phải khống chế một 
cách chủ động tỉ lệ Br/N ở trong khoảng 0,4-0,6 và pH ~ 6 thì dư lượng HOBr sẽ 
tối thiểu, dưới mức cho phép trong nước thải. 
 27
CHƯƠNG III : KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1- Thử nghiệm kiểm tra các quá trình chính trong phòng thí nghiệm để 
xác định công nghệ xử lý 
3.1.1- Quá trình keo tụ – tạo phức – Fenton 
Nước rỉ rác thô, sau khi xử lý phân hủy sinh học kỵ khí trong bể UASB ở hệ 
thống xử lý Gò Cát được lấy làm mẫu nước thí nghiệm trực tiếp cho quá trình keo 
tụ – tạo phức – Fenton. Ký hiệu MUASB
Chất keo tụ Polyferric sulfat (PFS) do Viện Công nghệ Hóa học (Trung tâm 
khoa học tự nhiên và công nghệ Quốc gia) nghiên cứu chế tạo và cung cấp. Nồng 
độ Fe(III) trong dung dịch PFS ~12% (TL), pH < 2, tỷ trọng 1,4. 
Thí nghiệm keo tụ bằng PFS - Mỗi thí nghiệm lấy 1000 ml mẫu nước MUASB 
nói trên vào cốc thủy tinh, sau đó cho dung dịch PFS vào từng cốc để sao cho có 
những nồng độ khác nhau : 
- mẫu M1 : 100 mg Fe3+/L 
- mẫu M2 : 200 mg Fe3+/L 
- mẫu M3 : 300 mgFe3+/L 
- mẫu M4 : 400 mg Fe3+/L 
 Dùng máy khuấy khuấy nhanh trong vòng 5 phút, sau đó khuấy chậm thêm 
20 phút. Phần nước trong tách ra đem phân tích trị số COD và đánh giá hiệu quả 
xử lý của quá trình bằng % COD đã được xử lý loại bỏ so với trị số COD của mẫu 
MUASB. Kết quả cho thấy, lượng PFS sử dụng càng nhiều, % COD được xử lý loại 
bỏ càng cao, nhưng với lượng PFS từ 300-400 mg/L, mức độ có tăng không nhiều, 
từ 53-55% (hình III.1) 
 28
010
20
30
40
50
60
100 200 300 400
Löôïng chaát keo tuï, mg Fe(III)/L
H
ie
äu 
qu
aû 
xö
û ly
ù, %
C
O
D
Hình III.1- Anh hưởng lượng chất keo tụ đến hiệu quả xử lý COD (% so với mẫu 
MUASB) 
Thí nghiệm phân hủy kiểu như Fenton - Tiến hành keo tụ như thí nghiệm 
trước, nhưng sau khi cho PSF vào và khuấy nhanh với nồng độ PSF như mẫu M3, 
tiếp tục cho thêm H2O2 vào với nồng độ H2O2 thay đổi và khuấy chậm: 
- mẫu M5 : 300 mg/L 
- mẫu M6 : 400 mg/L 
- mẫu M7 : 500 mg/L 
- mẫu M8 : 600 mg/L 
 Tiếp tục khuấy nhẹ và sau 120 phút, tách phần nước lắng trong ra. Phần nước 
trong tách ra đem phân tích trị số COD và đánh giá hiệu quả xử lý của quá trình 
bằng % COD đã được xử lý loại bỏ so với trị số COD của mẫu MUASB do kết quả 
tổng hợp của toàn bộ quá trình keo tụ – Fenton. Kết quả cho thấy như trên hình 
III.2 dưới đây: 
 29
64
66
68
70
72
74
76
78
300 400 500 600
Haøm löôïng H2O2, mg/L
H
ie
äu 
qu
aû 
xö
û ly
ù,%
 C
O
D
Hình III.2- Anh hưởng lượng H2O2 đến hiệu quả xử lý COD (% so với mẫu MUASB) 
 Kết quả trên cho thấy, để thực hiện quá trình oxi hóa kiểu như Fenton, chỉ 
cần cho thêm một lượng H2O2 khoảng 500 mg/L đã có thể đạt hiệu quả xử lý rất 
cao, đến ~76% so với chỉ thực hiện quá trình keo tụ đơn thuần bằng PFS chỉ đạt 
được ~53%. 
 3.1.2- Quá trình PEROXON tiếp sau quá trình keo tụ – tạo phức – Fenton 
Với nước sau khi lắng trong của mẫu M7, trung hòa chuyển pH ~8, lấy 200 ml 
cho vào bình phản ứng khoảng 1000 ml và sục khí ozon. Sử dụng máy phát sinh 
ozon chạy bằng oxy công nghiệp, công suất 3 g/giờ, lưu lượng oxi 5,0 L/phút. Cho 
thêm H2O2 vào với lượng 300 mg/L, và sục khí Ozon trong thời gian khác nhau : 
- mẫu M9 : 5 phút 
- mẫu M10 : 10 phút 
- mẫu M11 : 20 phút 
- mẫu M12 : 30 phút 
 Sau thời gian sục ozon, lấy nước ra đem phân tích trị số COD và đánh giá 
hiệu quả xử lý của quá trình bằng % COD đã được xử lý loại bỏ so với trị số 
COD của mẫu MUASB. Kết quả cho thấy như trên hình III.3 dưới đây: 
 30
020
40
60
80
100
120
5 10 20 30
Thôøi gian suïc Ozon, phuùt
H
ie
äu 
qu
aû 
xö
û ly
ù, %
C
O
D
Hình III.3- Anh hưởng thời gian phản ứng đến hiệu quả xử lý COD (% so với mẫu 
MUASB) 
Kết quả tốt nhất đạt được với thời gian sục ozon khoảng 30 phút, lượng H2O2 
sử dụng 300 mg/L. Kết quả trên cho thấy, nếu tiếp sau quá trình keo tụ – tạo 
phức – Fenton, tiến hành thêm quá trình oxi hóa nâng cao Peroxon, chỉ cần 
thực hiện phản ứng với ozon trong vòng 30 phút đã có thể đạt hiệu quả xử lý 
cuối cùng cao hơn nữa, loại bỏ đến ~97% so với COD của mẫu ban đầu MUASB. 
Tổng hợp các kết quả thu được từ các thí nghiệm tốt nhất như sau (bảngIII.1): 
 Bảng III.1- Hiệu quả xử lý COD qua các quá trình khác nhau 
Quá trình xử lý COD, mg/L Hiệu quả xử lý, 
%COD 
Sau UASB 3.060 0 
Sau Keo tụ-Tạo phức 1.425 53,4 
Sau keo tụ – Tạo phức - Fenton 733 76,1 
Sau keo tụ – Tạo phức – Fenton - Peroxon 76,8 97,5 
 31
3.2- Xây dựng công nghệ xử lý nước rỉ rác Gò Cát 
Trên cơ sở những thí nghiệm sơ bộ trong phòng thí nghiệm, đã giúp xác định 
được công nghệ xử lý nước rỉ rác từ sau bể xử lý sinh học kỵ khí UASB sẽ phải 
qua các giai đoạn như sau : 
NƯỚC SAU BỂ SINH HỌC KỴ KHÍ UASB 
HOÀN THIỆN XỬ LÝ SINH HỌC KỴ KHÍ 
TRONG THÁP LỌC SINH HỌC KỴ KHÍ VÀ LỌC SINH HỌC NHỎ 
GIỌT 
TỔ HỢP KEO TỤ – TẠO PHỨC - FENTON 
LẮNG 
XỬ LÝ NITƠ Ở pH CAO TRONG THÁP TƯỚI NHỎ GIỌT TRÊN GÍA 
THỂ
XỬ LÝ NITƠ TRONG THÁP NITRAT HOÁ 
XỬ LÝ NITƠ TRONG THÁP DENITRAT HÓA 
PHÂN HỦY HÓA HỌC OXI HÓA NÂNG CAO – PEROXON 
CẶN BÙN 
XỬ LÝ NITƠ TRONG THIẾT BỊ SỤC OZON
NƯỚC RỈ RÁC ĐÃ XỬ LÝ 
 Hình III.4 . Sơ đồ khối công nghệ xử lý nước rỉ rác Gò Cát do ECHEMTECH 
nghiên cứu và xây dựng 
 32
3.3- Xây dựng thiết bị pilot để thực hiện các quá trình chính trong công 
nghệ xử lý nước rỉ rác công suất 15-20 m3/ngày 
3.3.1- Thiết bị cho quá trình keo tụ –tạo phức – FENTON 
Xử lý hoá lý bằng quá trình tổ hợp keo tụ- tạo phức – Fenton được thực hiện 
trong hệ thiết bị gồm các thành phần sau: 
- Thiết bị keo tụ – tạo phức bằng tác nhân Polyferric Sulfat (PFS) 
[Fe2(OH)n(SO4)3-(n-2)]x được thiết kế với dung tích 200 L, có trang bị máy khuấy 
tốc độ nhanh (>500 vòng/phút) 
- Thiết bị Fenton và kết bông bằng polyme được thiết kế với dung tích 500L, 
có trang bị máy khuấy tốc độ chậm (<50 vòng/phút). 
- Thiết bị lắng tách bùn keo tụ trong hệ thống chùm ống nghiêng (Þ49, 300 
ống PVC). 
Modun hệ tổ hợp keo tụ – tạo phức – Fenton lắp đặt tại Gò Cát được trình bày 
như dưới đây (hình III.5): 
 Hình III.5- Sơ đồ modun hệ keo tụ tích hợp keo tụ – tạo phức – Fenton lắp đặt trong 
hệ pilot Gò Cát : 
 P- Bơm ly tâm ; F- Lưu lượng kế; 1- Thiết bị keo tụ- tạo phức có máy khuấy tốc độ 
nhanh (>500v/phút); 2- Thiết bị Fenton – kết bông có máy khuấy tốc độ chậm (<50 
v/phút); 3- Thiết bị lắng dạng chùm ống nghiêng 
 33
3.3.2- Thiết bị cho quá trình PEROXON 
Thiết bị thực hiện quá trình xử lý hóa học oxi hóa nâng cao (AOPs) PEROXON 
bao gồm các thành phần sau đây : 
- Hệ máy phát OZON, với nồng độ Ozon có thể thay đổi bằng cách thay đổi 
lưu lượng dòng Oxy đi qua điện cực của máy phát Ozon. Hệ gồm 3 cụm máy phát 
ozon, mỗi máy có công suất 25 g/giờ. 
- Reactor trong đó Ozon đưa vào và trộn phân tán đồng nhất trong nước xử lý 
nhờ hệ thống sủi bọt lắp trực tiếp trong reactor. Dung tích reactor 500 lít, thời gian 
tiếp xúc 30-40 phút. Tác nhân H2O2 đưa vào bộ trộn tĩnh trước khi vào reactor. 
Ozon dư thoát ra được đưa vào bộ xử lý tiêu hủy bằng chất xúc tác NiO/Al2O3 ở 
nhiệt độ thường. 
Modun hệ xử lý hóa học oxi hóa nâng cao AOPs bằng Ozon và H2O2 
(PEROXON) lắp đặt tại Gò Cát được trình bày như dưới đây (hình III.6): 
Hình III.6- Sơ đồ modun hệ xử lý hóa học PEROXON lắp đặt trong hệ pilot Gò Cát 
F- Lưu lượng kế; R- Reactor hóa học; O2- Bình Oxi cao áp; O3- Máy phát OZON; 
DeOz- Bộ tiêu hủy Ozon dư bằng chất xúc tác NiO/Al2O3 ở nhiệt độ thường 
 34
3.3.3- Thiết bị cho quá trình xử lý NH3 ở pH cao 
 Thiết bị thực hiện việc giải thoát NH3 ở pH cao được thực hiện trong tháp 
tưới nhỏ giọt kiểu như tháp lọc sinh học nhỏ giọt. Tháp lọc tưới nhỏ giọt được 
thiết kế với kích thước như sau: S 1000x1000mm, H 4000mm, trong tháp nạp đầy 
giá thể PLASDEX có bề mặt riêng ~150 m2/m3. Tổng bề mặt làm việc của giá thể 
~600 m2. Giá thể PLASDEX nằm cố định và nước chảy thành màng trên bề mặt 
giá thể. Không khí được hút tự nhiên vào tháp nhờ chuyển động đối lưu của không 
khí. 
P
F
TF
KHOÂNG KHÍKHOÂNG KHÍ
Hình III.7- Sơ đồ modun tháp lọc sinh học nhỏ giọt lắp đặt trong hệ pilot Gò Cát 
 P- Bơm ly tâm ; F- Lưu lượng kế; TF- Tháp lọc sinh học nhỏ giọt với giá thể PLASDEX 
3.3.4- Thiết bị nitrat hoá và denitrat hóa 
Quá trình nitrat hóa được thực hiện trong tháp lọc sinh học thổi khí với giá thể 
FLOCOR có bề mặt riêng ~300m2/m3, trong điều kiện cung cấp không khí và vi 
sinh phát triển dính bám thành màng trên giá thể. 
Quá trình denitrat hóa cũng được thực hiện trong tháp lọc sinh học thổi khí với 
giá thể FLOCOR có bề mặt riêng ~300m2/m3, nhưng trong điều kiện thiếu không 
khí và vi sinh phát triển dính bám thành màng trên giá thể. 
 35
Vì vậy, thiết bị cho quá trình nitrat hóa và denitrat hoá chỉ khác nhau ở chỗ có 
thổi khí hoặc không có thổi khí và hệ. 
Vi sinh phát triển theo kiểu dính bám vào giá thể có bề mặt lớn, tạo thành 
các màng vi sinh và theo thời gian sẽ phủ kín toàn bộ bề mặt giá thể, vì vậy mật độ 
vi sinh trong thiết bị cao hơn rất nhiều so với mật độ vi sinh trong các bể bùn hoạt 
tính lơ lửng, nhờ đó hiệu quả xử lý cao, có thể làm việc với tải trọng theo chất hữu 
cơ lớn (2-4 kg BOD5/m3.ngày; 5-10kg COD/m3.ngày), hoặc với tải trọng amoniac 
cao (0,5-1,0 kg N-NH4/m3.ngày). 
Ưu điểm của tháp lọc sinh học là vừa thực hiện xử lý sinh học, vừa tách sinh 
khối như một cột lọc, vì vậy nước ra tháp lọc sinh học không cần lắng, có thể trực 
tiếp đi vào các thiết bị công nghệ tiếp sau. Các quá trình xảy ra trong tháp lọc sinh 
học có lượng bùn sinh khối ít hơn so với trong bể bùn hoạt tính từ 1/5 – 1/10 lần, 
lượng bùn này lấy ra khỏi tháp bằng cách rửa ngược. 
 Hình III.8- Sơ đồ modun tháp nitrat hóa lắp đặt trong hệ pilot Gò Cát 
 P- Bơm ly tâm ; B- máy thổi khí; F- Lưu lượng kế; BF- Tháp lọc sinh học thổi khí với 
giá thể FLOCOR 
 (Trường hợp Denitrat hóa, trong hệ sẽ không có máy thổi khí) 
 36
3.3.5- Thiết bị xử lý NH3 bằng Ozon có mặt Bromua 
Thiết bị thực hiện quá trình xử lý NH3 bằng phương pháp hóa học hoàn toàn 
tương tự như thiết bị oxi hóa nâng cao (AOPs) PEROXON, bao gồm các thành 
phần sau đây : 
- Hệ máy phát OZON, với nồng độ Ozon có thể thay đổi bằng cách thay đổi 
lưu lượng dòng Oxy đi qua điện cực của máy phát Ozon. Hệ gồm 1 máy phát ozon 
có công suất 25 g/giờ. 
- Reactor trong đó Ozon đưa vào và trộn phân tán đồng nhất trong nước xử lý 
nhờ hệ thống sủi bọt lắp trực tiếp trong reactor. Dung tích reactor 500 lít, thời gian 
tiếp xúc 30-40 phút. Tác nhân dung dịch KBr đưa vào bộ trộn tĩnh trước khi vào 
r
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 Áp dụng các quá trình oxi hóa nâng cao (AOPs) để xử lý nước rỉ rác đã qua xử lý sinh học ở nhà máy xử lý Gò Cát, thực hiện trên hệ pilot 15-20 m3.pdf Áp dụng các quá trình oxi hóa nâng cao (AOPs) để xử lý nước rỉ rác đã qua xử lý sinh học ở nhà máy xử lý Gò Cát, thực hiện trên hệ pilot 15-20 m3.pdf