Cùng với phát triển kinh tế, công tác giáo dục, y tế cũng được tỉnh quan tâm và phát triển đồng bộ. Bác dạy: “Ban Văn hoá phải tìm những cách không cần tốn tiền mà học được, như “gia đình học hiệu”, “tiểu giáo viên”, cả làng chung gạo nuôi một thầy giáo Không có giấy thì viết vào cát, không có bút thì dùng lẽ tre ”(6). (lẽ tre: một đoạn cành tre nhỏ, từ địa phương Nghệ Tĩnh). Làm theo lời Người, những năm qua, Đảng bộ và chính quyền tỉnh, đội ngũ làm công tác giáo dục Thanh Hóa đã kiên trì, bền bỉ thực thi xóa mù chữ, dạy bình dân học vụ, bổ túc văn hóa cho đông đảo các tầng lớp nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Vì vậy, trình độ dân trí, trình độ văn hóa của người dân và cán bộ địa phương được nâng lên rõ rệt. Từ năm 2004, 11/11 xã, thị trấn có số trường được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập trung học cơ sở. Cả tỉnh đã xây dựng được 15 trường đạt chuẩn Quốc gia. Hằng năm, khánh thành trên dưới 18 làng, bản, cơ quan văn hoá, trong đó có trên 60% số hộ đạt gia đình văn hóa Hiện có gần 30 bệnh viện đa khoa và 37 trung tâm y tế huyện, thị xã, thành phố, đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của người dân tỉnh Thanh với thái độ phục vụ tận tình, chu đáo.
Thanh Hóa đã và đang dần trở thành một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa – xã hội, giáo dục, quốc phòng mạnh của cả nước. Mỗi bước đi lên của tỉnh, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thanh Hoá luôn khắc sâu những lời khen ngợi, dặn dò, phê bình cũng như sự chỉ bảo ân cần của Bác qua mỗi lần Người về thăm. Đó là niềm tin, động lực tinh thần vô giá để nhân dân Thanh Hoá vượt qua mọi khó khăn, thử thách, từng bước xây dựng tỉnh Thanh ngày càng vững mạnh, góp phần vào sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, đưa tỉnh trở thành tỉnh “kiểu mẫu” như sinh thời Bác Hồ hằng mong.
12 trang |
Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 4232 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài dự thi Em yêu lịch sử xứ Thanh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI DỰ THI
EM YÊU LỊCH SỬ XỨ THANH
Câu 1: Người xưa có câu: “Vua xứ Thanh, thần xứ Nghệ”. Vùng Ái Châu (tức Thanh Hóa ngày nay) được xem là cái nôi sản sinh ra vua chúa Việt. Bằng những kiến thức lịch sử đã học, em hãy trình bày hiểu biết của mình về một trong các vị vua, chúa xứ Thanh mà em yêu thích nhất.
Lê Lợi sinh ngày 6/8 năm Ất Sửu, tức ngày 10/9/1385, tại quê mẹ ở làng Chủ Sơn, huyện Lôi Dương (sau là Thủy Chú, nay là Xuân Thắng, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa). .
Tổ ba đời của Lê Lợi là Lê Hối, theo Lam Sơn thực lục và Hoàng Lê ngọc phả, vốn làm nghề dạy học (sư công). Lê Hối dời nhà đến ở Lam Sơn (xã Xuân Lam, Thọ Xuân, Thanh Hóa), tổ chức khai phá và “ba năm thành sản nghiệp, con cháu ngày một đông, nô lệ ngày một nhiều”.
Đến đời ông là Lê Đinh, “nối dõi nghiệp nhà, theo chí người trước, có bộ chúng đến hơn nghìn người”. Trải qua đời cha là Lê Khoáng, Lê Lợi “thừa nghiệp của ông cha”, trở thành một hào trưởng lớn vùng Lam Sơn.
Lê Lợi vừa lớn lên đã chứng kiến sự sụp đổ của triều Trần, những cuộc khởi nghĩa của nông dân và những cố gắng cải cách của triều Hồ. Những biến động chính trị-xã hội đó hẳn có ảnh hưởng đến nhận thức, tư tưởng của Lê Lợi, nhưng có lẽ chưa tác động bao nhiêu đến địa vị và chí hướng của một ông đạo Cham hay quân trưởng của miền núi rừng Lam Sơn xa xôi.
Nhà Minh xâm lược và đô hộ Đại Việt. Lê Lợi với lòng yêu nước, thương dân tha thiết, với ý chí và nghị lực của kẻ trượng phu dĩ nhiên không thể đứng ngoài cuộc đấu tranh cứu nước sôi sục của các tầng lớp nhân dân.
Lê Lợi đã từng thấy sự bất lực và đổ nát của triều Trần, sự bất bình, phản kháng của nhân dân đối với vương triều suy thoái này, nên biết rõ phong trào cứu nước dưới danh nghĩa khôi phục nhà Hậu Trần không thể đi đến thành công.
Trước thế lực, uy tín và ảnh hưởng của Lê Lợi, quân Minh đã dùng nhiều thủ đoạn để mua chuộc, dùng chức tước để dụ dỗ ông. Trong thời gian chuẩn bị khởi nghĩa, Lê Lợi cũng có khi phải dùng lễ vật và lời lẽ nhún nhường để che mắt quân giặc. Đầu năm Bính Thân (1416) Lê Lợi cùng 18 người bạn thân tín nhất, cùng tâm huyết và chí hướng, trong đó có Nguyễn Trãi, làm lễ thề kết nghĩa anh em, nguyện sống chết “chung sức đồng lòng chống giữ địa phương để trong cõi được ở yên". Đó là hội thề Lũng Nhai lịch sử đặt cơ sở cho sự hình thành một tổ chức lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và một bước chuẩn bị lực lượng tiến tới phát động khởi nghĩa. Từ hội thề Lũng Nhai đến lúc cuộc khởi nghĩa bùng nổ (1416 - 1418) có thể coi là giai đoạn chuẩn bị về tổ chức và lực lượng cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi khởi xướng và chủ trì.
Đầu năm Mậu Tuất (1418) cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bùng nổ. Bình Định vương Lê Lợi là người lãnh đạo cao nhất của cuộc khởi nghĩa, là chủ soái của nghĩa quân Lam Sơn. Trải qua 10 năm chiến đấu gian khổ, khởi nghĩa Lam Sơn đã phát triển thành một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc trên quy mô cả nước và đi đến toàn thắng vào cuối năm 1427.
Lê Lợi lên làm vua năm 1428, lúc 43 tuổi. Lê Lợi có hai người con trai, năm 1429 con trưởng là Tư Tề được lập làm Quốc vương, quyền coi việc nước và con thứ là Nguyên Long được lập làm hoàng thái tử. Nhưng Tư Tề bị bệnh “ngông cuồng” nên năm 1433 Lê Lợi giáng Tư Tề, lập con thứ là Nguyên Long mới 10 tuổi, lên nối ngôi. Ngày 22 tháng 8 năm Quý Sửu, Lê Lợi từ trần khi mới 48 tuổi.
Lê Lợi chỉ ở ngôi 5 năm, nhưng trong thời gian đó, đã có nhiều cố gắng lớn nhằm khắc phục những hậu quả của thời Minh thuộc, xây dựng lại đất nước, củng cố nền độc lập và thống nhất.
Trong công cuộc xây dựng lại đất nước, với thời gian trị vì quá ngắn ngủi (5 năm), Lê Lợi chưa làm được nhiều việc lắm. Nhưng những hoạt động với cương vị hoàng đế đầu tiên của triều Lê đó đã đặt cơ sở vững vàng cho việc khẳng định nền độc lập - thống nhất quốc gia, công cuộc phục hưng đất nước và một bước phát triển mới của chế độ phong kiến.
Câu 2: Học giả người Pháp L.Bơdatxie nhận xét: “Công trình này là một trong những tác phẩm đẹp nhất của nền kiến trúc Việt Nam” (Phan Đại Doãn: Những bàn tay tài hoa của cha ông - NXB Giáo dục 1988). Ngày 27 - 06 - 2011, Tổ chức UNESCO đã chính thức công nhận công trình này là Di sản văn hóa thế giới. Đó là công trình nào? Em hãy đóng vai một hướng dẫn viên du lịch để giúp cộng đồng hiểu biết về công trình này.
Học giả người Pháp L.Bơdatxie nhận xét: “Công trình này là một trong những tác phẩm đẹp nhất của nền kiến trúc Việt Nam” .Ngày 27 - 06 - 2011, Tổ chức UNESCO đã chính thức công nhận công trình này là Di sản văn hóa thế giới. Đó là công trình Thành Nhà Hồ. Thành Nhà Hồ thuộc địa phận các xã Vĩnh Tiến, Vĩnh Long, Vĩnh Quang, Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc, Vĩnh Ninh, Vĩnh Khang, Vĩnh Thành và thị trấn Vĩnh Lộc (huyện Vĩnh Lộc), tỉnh Thanh Hóa. Đây là kinh thành của nước Việt Nam từ năm 1398 đến 1407.
Thành Nhà Hồ do Hồ Quý Ly - lúc bấy giờ là tể tướng dưới triều đại nhà Trần - cho xây dựng vào năm 1397. Thành xây xong, Hồ Quý Ly ép Vua Trần Thuận Tông rời đô từ kinh thành Thăng Long (Hà Nội) về Thanh Hóa. Tháng 2 năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly lên ngôi vua thay nhà Trần và đặt tên nước là Đại Ngu (1400-1407), thành Nhà Hồ chính thức trở thành kinh đô. Thành Nhà Hồ trong lịch sử còn có các tên gọi khác là thành An Tôn, Tây Đô, Tây Kinh, Tây Nhai, Tây Giai.
Thành Nhà Hồ được coi là tòa thành đá duy nhất còn lại ở Đông Nam Á và là một trong rất ít còn lại trên thế giới. Ngày 27/6/2011, tại Paris (Pháp), trong kỳ họp lần thứ 35 của Ủy ban Di sản thế giới, UNESCO đã công nhận thành Nhà Hồ là di sản văn hóa thế giới.
Thành Nhà Hồ đã đáp ứng hai tiêu chí được quy định trong Công ước Di sản Thế giới năm 2008. Đó là tiêu chí 2 “bày tỏ sự trao đổi quan trọng của các giá trị nhân văn, qua một thời kỳ hay bên trong một khu vực văn hóa của thế giới, về những phát triển trong kiến trúc, công nghệ, nghệ thuật điêu khắc, quy hoạch thành phố hay thiết kế phong cảnh” và tiêu chí 4 “là ví dụ nổi bật về một loại hình công trình xây dựng, một quần thể kiến trúc hoặc kỹ thuật hoặc cảnh quan minh họa một (hoặc nhiều) giai đoạn trong lịch sử nhân loại”.
Trong hồ sơ di sản thế giới, thành Nhà Hồ được mô tả là một công trình kỳ vĩ bởi kỹ thuật và nghệ thuật xây dựng đá lớn và sự kết hợp các truyền thống xây dựng độc đáo có một không hai ở Việt Nam, khu vực Đông Á và Đông Nam Á trong thời kỳ cuối thế kỷ 14, đầu thế kỷ 15. Nhờ kỹ thuật xây dựng độc đáo, sử dụng các vật liệu bền vững, đặc biệt là các khối đá lớn, thành Nhà Hồ được bảo tồn rất tốt trong cảnh quan thiên nhiên hầu như còn nguyên vẹn. Đây là một trong số ít các di tích kinh thành chưa chịu nhiều tác động của quá trình đô thị hóa, cảnh quan và quy mô kiến trúc còn được bảo tồn gần như nguyên vẹn cả trên mặt đất và trong lòng đất ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á.
Theo các tài liệu và thư tịch cổ, cùng với việc khảo cổ, nghiên cứu hiện trạng thì phức hợp di sản thành Nhà Hồ ngoài Thành nội, Hào thành, La thành còn có Đàn tế Nam Giao.
Câu 3: Triệu Thị Trinh có một câu nói nổi tiếng: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá Kình ở Biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp người ta”. Bằng kiến thức lịch sử đã học, em hãy làm rõ truyền thống anh hùng bất khuất chống giặc ngoại xâm của con người xứ Thanh.
Câu nói nổi tiếng của Bà Triệu: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân xâm lược Ngô, cưới ách nô lệ, há chịu cụi đầu làm tì thiếp cho người ta” có ý nghĩa gì trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ? Bà Triệu là ngưỡi giỏi võ nghệ, có chí lớn. Năm 19 tuổi đáp lời hỏi bà về việc chồng con, bà nói: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp người ta”.Bà cùng anh trai chiêu tập nghĩa binh, quyết lòng đánh đuổi quân Ngô cứu nước, cứu dân. Có thê rnois, Bà Triệu là tấm gương sáng choiis về cuộc cách mạng nhân quyền sớm trên thế giới, vì vào thời điểm mà bà khởi nghĩa, chế độ nô lệ đang còn bành trướng mạnh mẽ khắp nơi và thân phận người phụ nữ vẫn bị coi rẻ mạt. Trong hoàn cảnh đang bị ngoại bang thống trị, vưới những lễ nghi tôn giáo khắt khe, người đàn ông thường suy tôn là “ Đại trượng phu” , là “anh hùng nam tử” và được quyền “năm thê, bảy thiếp”; còn người phụ nữ chỉ là “ thân phận nữ nhi”, “liễu yếu đào tơ”, cùng với nhũng chính sách tàn bạo của nhà Hán nhằm khống chế một bộ phận phản kháng ách áp bức bóc lột, gieo rắc trong lòng xã hội tính “ Trọng Nam , Khinh nữ”. Tuy nhiên, Bà triêu đã dáng khẳng khái tuyên bố rằng “tôi muốn cỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng giữ, chém cá kình biển Đông”, đẻ phản kháng lại chế độ và để khảng định vai trò vị trí của người phụ nữ trong xã hội thử hỏi đáng nam nhi lúc bấy giờ trong cùng một hoàn cảnh đã mấy ai sánh bằng. Để phản đối và chống lại chế độ “ Tai năm thê, bảy thiếp”, “phận làm tì thiếp, một hình thức nô lệ” Bà Triệu đã dứt khoát “há chịu cúi đầu làm tì thiếp người ta”. Từ đó bà đã dấn thân vào cuộc nổi dậy thực sự. Bà đã chiêu binh, phất cờ làm cách mạng đòi sự bình đảng, bình quyền nam nữ. Trong đó người phụ nữ không còn phải “ cúi đầu làm tỳ thiếp người ta”, và mục tiêu của bà là “ đánh đuổi quân xâm lược Ngô” để nhân dân được hưởng độc lập, thoát khỏi kiếp nô lệ.
Trong lịch sử chống giặc ngoại xâm , người dân Thanh Hóa luôn kiên cường, bất khuất và mưu trí. Vì thế, vùng đất xứ Thanh “nhân kiệt” gần như thời nào cũng là phát tích, dựng cờ khởi nghĩa.
Đó là Bà Triệu cới cuộc khởi nghĩa chống quân Ngô; Dương Đình Nghệ kéo quân từ xứ Thanh ra Đại La đánh chiếm La Thành, cai quản đất nước dưới danh nghĩa Tiết Độ Sứ;Lê lượi sau mười năm dấy binh đã đánh đuổi giặc Minh giành lại giang Sơn xã tắc Người Thanh Hóa không chỉ giỏi “ Lên ngựa cầm gươm, xuống ngựa cầm bút” mà còn là những người giàu khả năng sáng tạo. Cha con Hồ Quý Ly xây Thành Nhà Hồ, chế súng thần công, đúc tiền đồng và xây dựng pháp luật; Lê Văn Hưu viết lên “Đại Việt sử ký toàn thư”, Lee Lợi với “ Lam Sơn thực Lực”Lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của nhaan dân Việt Nam ghi nhận sự đóng góp to lớn của nhân dân Thanh Hóa với những trận kháng chiến ác liệt, những chiến công vẻ vang. Những thanh niên xung phong, tự vệ chiến đấu dũng cảm và chịu đựng gian khổ như Ngô Thị Tuyển, Nguyễn Thị Hằng, anh hùng Tô Vĩnh Diện lấy thân mình chèn pháo; anh hùng Lê Mã Lương với câu nói nổi tiếng “cuộc đời đẹp nhất trên trận tuyến đánh quân thù” mỗi người một vẻ nhưng đều làm rạng danh cho Tổ Quốc Việt Nam, cho quê hương Thanh Hóa trong lịch sử. Lịch sử vinh quang ấy kết tinh thành niềm tự hào của người Thanh Hóa.
Linh khí của núi sông hun đúc nên khí chất của con người xứ Thanh cần cù lao động, anh hùng trong đấu tranh, thông minh trong học hành, đối nhân xử thế, trọng danh dự, giữ khí tiết, giàu đạo lý nghĩa tình. Phẩm chất cao quý ấy được lưu giữ từ thế hệ này sang thế hệ khác. Để rồi co người xứ Thanh hôm nay luôn ra sức thi đua học tập, lao động xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh.
Câu 4: Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa được thành lập như thế nào? Hãy nêu những hiểu biết của em về một người Cộng sản Thanh Hóa mà em ấn tượng nhất?
Ngày 29/7/1930, Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa được thành lập tại Làng Yên Trường, xã Thọ Lập, huyện Thọ Xuân. Sự ra đời của Đảng bộ tỉnh là một bước ngoặt lịch sử quan trọng, là nhân tố quyết định thắng lợi của phong trào đấu tranh cách mạng đánh đổ chế độ thực dân và phong kiến, giành chính quyền ở Thanh Hóa năm 1945, đồng thời giành nhiều thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc cũng như trong công cuộc đổi mới, phát triển và hội nhập hiện nay.Năm 1858, Thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, chính thức xâm lược Việt Nam. Cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Thanh Hóa, liên tục vùng lên khởi nghĩa đánh đuổi giặc Pháp xâm lược. Các cuộc đấu tranh yêu nước do các sỹ phu phong kiến lãnh đạo, tiêu biểu là phong trào Cần Vương, phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục diễn ra rộng khắp, thế nhưng đều lần lượt bị địch khủng bố đẫm máu và thất bại, do thiếu một đường lối lãnh đạo đúng đắn của một chính Đảng. Trong bối cảnh đó, ngày 03 tháng 2 năm 1930, tại Cửu Long (Hương Cảng), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản, thành lập một Đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, tạo ra bước ngoặt quan trọng đối với phong trào cách mạng trong cả nước và các địa phương. Cũng từ đây phong trào đấu tranh cách mạng ở Thanh Hóa phát triển mạnh mẽ rộng khắp. Các chi bộ Cộng Sản: Hàm Hạ - Đông Sơn ; Phúc Lộc - Thiệu Hóa, Yên Trường, Thọ Xuân lần lượt ra đời. Trước tình hình phong trào đấu tranh cách mạng ở Thanh Hóa ngày càng phát triển mạnh mẽ và đang rất cần sự lãnh đạo của Đảng, xuất phát từ yêu cầu cấp bách, dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy Bắc Kỳ, ngày 29/7/1930, Hội nghị thành lập Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa đã được tổ chức tại Làng Yên Trường, Xã Thọ Lập, huyện Thọ Xuân trên cơ sở hợp nhất 3 chi bộ Cộng sản gồm Chi bộ Hàm Hạ, Chi bộ Thiệu Hóa và Chi bộ Thọ Xuân. Đ/c Lê Thế Long được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh ủy và là Bí thư Tỉnh ủy đầu tiên của Đảng bộ Thanh Hóa.
Ngôi nhà lịch sử chính là của gia đình đ/c Lê Văn Sỹ - Bí thư Chi bộ Yên Trường, huyện Thọ Xuân lúc bấy giờ, được chọn làm địa điểm để tổ chức hội nghị thành lập Đảng bộ tỉnh vào ngày 29 tháng 7 năm 1930. Điều đặc biệt là cũng tại ngôi nhà này trước đó một tuần đã diễn ra sự kiện thành lập chi bộ cộng sản Yên Trường, tiền thân của Đảng bộ huyện Thọ Xuân. Có thể nói sự ra đời của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa là bước ngoặt quan trọng đối với Đảng bộ, nhân dân trong phong trào đấu tranh cách mạng giành chính quyền ở tỉnh ta. Chấm dứt giai đoạn khủng hoảng kéo dài của phong trào cách mạng do thiếu sự lãnh đạo của một chính Đảng.
Ngay sau khi thành lập, Đảng bộ tỉnh đã đề ra một số nhiệm vụ quan trọng trước mắt đó là: Xây dựng Đảng, xây dựng tổ chức Nông hội đỏ, Công hội đỏ, cơ quan ấn loát, phát hành tờ báo “ Tiến lên” ......
Trong quá trình hoạt động, mặc dù bị thực dân Pháp khủng bố dã man, có những thời điểm các Chi bộ Cộng sản và Đảng bộ tỉnh gần như bị cô lập thậm chí là tan rã, nhưng trước yêu cầu bức thiết của lịch sử, bất chấp sự gian khổ, tù đày và hy sinh, các Chi bộ Đảng và Đảng bộ tỉnh nhanh chóng được khôi phục trở lại và tiếp tục lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng và đánh đuổi thực Pháp, lật đổ chế độ phong kiến. Từ cuối năm 1935 trở đi, phong trào cách mạng đã phát triển rộng khắp ở nhiều phủ, huyện trong tỉnh, nhằm chuẩn bị cùng với cả nước tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền. Mở đầu là cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ngày 24/7/1945 ở huyện Hoằng Hóa.
Đêm ngày 18, rạng sáng ngày 19/8/1945, sau khi Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh phát lệnh tổng khởi nghĩa, nhân dân và tự vệ các huyện nhất tề vùng lên giành chính quyền. Cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Thanh Hóa giành thắng lợi nhanh chóng. Ngày 23/8/1945, từ đình làng Ngô Xá Hạ ở căn cứ Thiệu Hóa, lực lượng cứu quốc gồm có hàng nghìn tự vệ của các huyện: Thiệu Hóa, Đông Sơn, Yên Định, Thọ Xuân.....đã tiến về thị xã Thanh Hóa ra mắt quốc dân đồng bào. Đ/c Lê Tất Đắc, Chủ tịch Uỷ ban Hành chính Cách mạng lâm thời tuyên bố thành lập chính quyền cách mạng và kêu gọi toàn dân đoàn kết xây dựng bảo bệ chế độ mới.
Lê Hữu Lập (1897-1934) là một nhà hoạt động cách mạng Việt Nam thời kỳ trước năm 1945. Ông là Bí thư tỉnh ủy lâm thời đầu tiên của Thanh Hóa. Ông đã để lại cho em nhiều ấn tượng, ông là một tấm gương sáng để em noi theo, tự hào về con người xứ Thanh.
Ông sinh năm 1897 ở thôn Hữu Nghĩa, tổng Xuân Trường, huyện Hậu Lộc (nay là xã Xuân Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa). Lúc còn nhỏ tên là Độ (ngoài ra còn một số tên gọi khác như Cậu Ấm, Hoàng Tức Thoại).
Ông nội thân sinh Lê Hữu Lập làm quan Án sát dưới triều Nguyễn tại Nghệ An; Trong lúc nước nhà chìm trong khói lửa của bọn thực dân, triều đình nhà Nguyễn hèn nhát đầu hàng giặc, Cụ đã cáo quan về nhà dạy học; Cụ thân sinh ra Lê Hữu Lập là cụ Lê Cơ - một nhà giáo yêu nước; Lê Hữu Lập có một người chị gái tên là Lê Thị Mận lấy chồng ở là Y Vích (nằm sát cửa biển Lạch Trường nay là làng Lộc Tiên, xã Hải Lộc, huyện Hậu Lộc). Vợ của Lê Hữu Lập là chị Phạm Thị Ngan, là con một gia đình nhà nho nghèo, có tinh thần yêu nước, sớm thông hiểu được ý chí của chồng nên đã tạo điều kiện cho anh đi vào con đường tiến bộ. Sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, chị bị bệnh nặng và qua đời vào tháng 9 năm 1945. Lê Hữu Lập và Phạm Thị Ngan có một người con gái nhưng đã mất từ khi mới 6 tháng tuổi.
Năm 1918, sau khi tốt nghiệp trường Pháp Việt, ông tham gia phong trào cách mạng đòi độc lập cho Việt Nam.
Năm 1922, Ông đã gặp Đinh Chương Dương và được Đinh Chương Dương kể cho nghe về các tổ chức Cách mạng trong và ngoài nước, về các nhà ái quốc như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh...
Năm 1923, Ông tạm biệt mẹ già, người vợ hiền và đứa con thơ mới 3 tháng tuổi bước vào con đường thoát ly hoạt động.
Giữa năm 1924, Ông được Đinh Chương Dương đưa sang Quảng Châu (Trung Quốc) tham gia vào Taâm Tâm Xã, một tổ chức cách mạng của người Việt Nam yêu nước ở Trung Quốc.
Năm 28 tuổi, 1925, ông gặp Nguyễn Ái Quốc ở Trung Quốc và được kết nạp vào tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội. Sau đó, ông được tổ chức cử về nước cùng với một số đồng chí của ông để tuyên truyền tư tưởng cách mạng cho thanh niên ở Thanh Hóa, Thái Bình, Nam Định, Nghệ An, Quảng Trị... và đưa một số người sang Quảng Châu huấn luyện. Đoàn xuất dương lần đầu thuộc các tỉnh Miền Trung gồm mười người trong đó có Trần Phú, sau này là Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Năm 31 tuổi, 1928, ông được bầu vào ban chấp hành Kỳ bộ thanh niên Trung kỳ của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội và được cử sang Thái Lanhoạt động. Ông bị tòa án của chính quyền bảo hộ thực dân ở Thanh Hóa kết án tử hình vắng mặt.
Tháng 3 năm 1930, khi tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội chuyển thành tổ chức cộng sản, Lê Hữu Lập trở thành đảng viên cộng sản và là người thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên của huyện Hoằng Hóa tại thôn Cự Đà (nay là xã Hoằng Minh, huyện Hoằng Hóa).
Đầu năm 1934, Lê Hữu Lập tham gia Ban viện trợ cách mạng Đông Dương và được cử về hoạt động ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Tại đây, ông lâm bệnh nặng và được đưa về điều trị ở nhà thương Vinh. Do bệnh quá nặng, Lê Hữu Lộc qua đời tháng 6 năm 1934.
Câu 5: Ngày 20/2/1947, Bác Hồ vào thăm Thanh Hóa đã căn dặn: “Thanh Hóa phải trở nên một tỉnh kiểu mẫu... phải làm sao cho mọi mặt chính trị, kinh tế, quân sự phải là là tỉnh kiểu mẫu , làm hậu phương vững chắc cho cuộc kháng chiến”. Thực hiện lời căn dặn của Bác, sau 30 năm đổi mới (1986-2016) Đảng bộ, quân và dân Thanh Hóa đã phấn đấu đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế- xã hội. Em hãy nêu một thành tựu nổi bật nhất góp phần đưa Thanh Hóa từng bước trở thành tỉnh kiểu mẫu. Liên hệ trách nhiệm bản thân?
Thanh Hoá – mảnh đất “địa linh nhân kiệt” đã sản sinh ra những bậc anh hùng hào kiệt, nhà văn hoá lớn của dân tộc như Bà Triệu, Lê Hoàn, Lê Văn Hưu, Lê Lợi, Lê Thánh Tông, Đào Duy Từ Mảnh đất và con người nơi đây đã góp phần không nhỏ vào quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sinh thời, thấy được vị thế và tầm quan trọng của Thanh Hoá, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần trực tiếp về thăm cũng như gửi thư động viên, thăm hỏi, biểu dương những thành tích của Đảng bộ và nhân dân Thanh Hoá.
Ngày 20-2-1947, Bác Hồ về thăm Thanh Hoá lần đầu tiên và khai hội với đồng bào Thanh Hoá tại thị trấn Rừng Thông (huyện Đông Sơn); buổi chiều Bác gặp và nói chuyện với các đại biểu thân sĩ, trí thức, phú hào; buổi tối nói chuyện với nhân dân thị xã Thanh Hoá ở trước Nhà thông tin thị xã. Qua các buổi nói chuyện, Bác bày tỏ mong ước Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Thanh Hoá làm sao để xây dựng tỉnh nhà thành một tỉnh kiểu mẫu. “Tỉnh Thanh Hóa phải trở nên một tỉnh kiểu mẫu, thì phải làm sao cho mọi mặt chính trị, kinh tế, quân sự, phải là kiểu mẫu. Làm một người kiểu mẫu, một làng kiểu mẫu, một huyện kiểu mẫu, một tỉnh kiểu mẫu. Quyết tâm làm thì sẽ thành kiểu mẫu”(1). Bác cũng chỉ rõ xây dựng tỉnh “kiểu mẫu” trên mọi mặt phải bắt đầu từ cá nhân mỗi người trước tiên: Làm một người kiểu mẫu, một nhà kiểu mẫu, một làng kiểu mẫu, một huyện kiểu mẫu, một tỉnh kiểu mẫu, một nước kiểu mẫu Trước lúc chia tay, Bác nhắn gửi tha thiết tới đồng bào với lời hẹn ngày trở lại: “Đồng bào trong tỉnh hãy xắn tay áo làm đi, lần sau về đây tôi sẽ thấy mỗi người là một người “kiểu mẫu”(2).
Mười năm sau, ngày 13-6-1957, nhân dân Thanh Hoá vinh dự được đón Bác về thăm lần thứ hai. Người đã khen ngợi và ghi nhận những đóng góp to lớn của nhân dân Thanh Hóa trong vai trò “hậu phương lớn” của kháng chiến chống Pháp và đặc biệt là sự chi viện sức người, sức của cho chiến dịch Điện Biên Phủ. Trong buổi nói chuyện, Người không chỉ nhắc đến những người con ưu tú mưu lược, dũng cảm, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì cách mạng như Lò Văn Bường, Trần Đức, Tô Vĩnh Diện, Lê Công Khai chẳng những làm vẻ vang cho cả tỉnh mà còn vẻ vang cho cả non sông gấm vóc Việt Nam. Bác còn biểu dương những công trình kinh tế mà Thanh Hoá xây dựng được trong quá trình khôi phục và cải tạo kinh tế miền Bắc xã hội chủ nghĩa như đập Bái Thượng, đê sông Mã, sông Chu; những địa phương có nhiều thành tích xoá nạn mù chữ trong phong trào bình dân học vụ như xã Vĩnh Khang Tình cảm của Bác qua hai lần về thăm là nguồn cổ vũ, động viên kịp thời, thôi thúc nhân dân Thanh Hóa tiếp tục chi viện sức người, sức của, quyết tâm chiến đấu hy sinh vì lý tưởng cao đẹp “Không có gì quý hơn độc lập tự do” trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc Việt Nam.
Năm 1960, tại Đại hội đại biểu Công đoàn tỉnh Thanh Hóa lần thứ VI, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát biểu và căn dặn địa phương những lời thật tâm huyết. Người nhấn mạnh vai trò của giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn trong phong trào thi đua yêu nước: “Thi đua tốt là phải làm nhanh, nhiều, tốt, rẻ. Bốn chữ ấy đi liền với nhau. Nhanh, nhiều nhưng không tốt, không rẻ là không được”(3). Bác luôn mong muốn và tin tưởng tổ chức công đoàn và lực lượng công nhân sẽ làm gương xung phong cho đồng bào ở hậu phương. Bác đã chia sẻ những khó khăn với bà con nông dân về nền nông nghiệp cũ kỹ và lạc hậu. Muốn nông nghiệp của Thanh Hóa nói riêng và cả nước nói chung phát triển phải có biện pháp cải tiến nông cụ hiện có theo hướng đơn giản, ai cũng làm được. Muốn làm được công việc này thì công nhân phải giúp nông dân một cách có kế hoạch. Sự chỉ bảo ân cần và những lời động viên của Bác trong buổi gặp gỡ ấy mãi là kỷ niệm sâu sắc trong tiềm thức mỗi người con tỉnh Thanh được gặp và trực tiếp nghe Bác dặn dò.
Về thăm Thanh Hoá lần thứ 3 này, Bác đã có dịp nghỉ lại ở khu vực Đền Cô Tiên – Sầm Sơn là tặng phẩm vô giá của thiên nhiên, bãi biển kỳ thú, nên thơ cùng với nhiều sử tích từ ngàn xưa để lại. Sau khi đi thăm và thưởng ngoạn cảnh đẹp của Sầm Sơn, Bác đã tắm biển và kéo lưới cùng bà con ngư dân, gặp gỡ và trao đổi với cán bộ ở đây. Bác căn dặn: Nếu nơi đây có một hệ thống dịch vụ khách sạn và có phương tiện đưa đón khách nghỉ mát để tới Hòn Mê thì sẽ thu được nhiều của cải từ đây Khắc ghi lời dạy của Người, Ðảng bộ, chính quyền và nhân dân Sầm Sơn đã từng bước phát huy thế mạnh kinh tế biển, đưa ngành du lịch – thuỷ sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, xây dựng và phát triển khu du lịch Sầm Sơn trở thành một trong những địa danh nổi tiếng, là niềm tự hào của ngành du lịch Thanh Hoá cũng như du lịch cả nước.
Ngày 16-12-1961, Bác trở lại thăm Thanh Hóa. Thời gian ấy, miền Bắc bắt đầu thực hiện kế hoạch 5 năm, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội đồng thời làm nghĩa hậu phương lớn, chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam chống Mỹ, cứu nước. Bác đã đến thăm Nhà máy cơ khí Thanh Hoá, Hợp tác xã Thành Công. Người ân cần thăm hỏi các cháu trường mầm non, thăm Hợp tác xã nông nghiệp điển hình Yên Trường (Yên Định). Nói chuyện với đồng bào, cán bộ, Bác khẳng định: “ Tỉnh ta có ngót 12 vạn đảng viên và đoàn viên thanh niên lao động, đó là một lực lượng rất lớn. Cán bộ, đảng viên và đoàn viên thanh niên cần phải thực sự xung phong gương mẫu tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống quan liêu mệnh lệnh, chống lãng phí, tham ô Ra sức phát triển và củng cố tốt Đảng và Đoàn; đoàn kết toàn dân. Làm được như thế thì Thanh Hoá chắc sẽ trở thành một trong những tỉnh khá nhất ở miền Bắc”(4). Bốn lần Bác về thăm Thanh Hóa đều là những mốc thời gian quan trọng của cách mạng cả nước nói chung, của nhân dân Thanh Hóa nói riêng.
Người không chỉ trực tiếp về thăm mà còn nhiều lần gửi thư biểu dương, khen ngợi và tặng huy hiệu của Người cho những cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc trong sản xuất và chiến đấu. Trong thư gửi đồng bào Thanh Hóa tháng 6-1950, Bác đã viết: Tôi thay mặt bộ đội địa phương cảm ơn đồng bào và thay mặt Chính phủ khen ngợi đồng bào. Người khen ngợi ba xã xuất sắc nhất trong chiến đấu và sản xuất là Tân Tiến, Hoằng Lộc và Đông Anh. Đặc biệt, Bác tặng riêng một lá cờ, phần dưới cờ là chữ Hồ Chí Minh cho xã Đông Anh vì đã có thành tích cao nhất giúp bộ đội địa phương 3.800.000 đồng.
Tháng 11-1954, Bác gửi thư, tặng quà và huy hiệu cho cán bộ, đồng bào, thanh niên, dân công ở công trường xe lửa và đập sông Chu. Năm 1961, Bác khen các cấp lãnh đạo tỉnh đoàn kết nhất trí, tận tụy phục vụ nhân dân, chấp hành chỉ thị của cấp trên một cách nghiêm chỉnh. Ngày 19-5-1964, Bác gửi thư khen tuổi trẻ Thanh Hoá cùng với tuổi trẻ Nghệ An đã vượt qua gian khổ, xây dựng tuyến đường sắt Thanh Hóa – Nghệ An. Năm 1967, biết tin các trung đội nữ dân quân Thanh Hóa như trung đội dân quân gái Hoa Lộc (Hậu Lộc), Thanh Thủy (Tĩnh Gia), Hoằng Trường (Hoằng Hóa), Hà Tiến (Hà Trung) lập thành tích bắn rơi nhiều máy bay Mỹ, Bác đã viết thư khen ngợi: “ Cùng với thành tích to lớn chống Mỹ, cứu nước của phụ nữ cả nước ta, chiến công của các cháu làm rạng rỡ thêm truyền thống của phụ nữ Việt Nam dũng cảm đảm đang. Bác vui lòng khen ngợi các cháu và tặng mỗi cháu một huy hiệu”(5).
Bên cạnh đó, Bác còn thẳng thắn phê bình, kỷ luật những biểu hiện sống xa dân, những việc làm ảnh hưởng đến lợi ích của dân của một số cán bộ, đảng viên. Bác cũng nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải lãnh đạo cụ thể hơn nữa, đi sâu, đi sát hơn nữa vào quần chúng nhân dân, phải tuyệt đối tránh tư tưởng chủ quan, thỏa mãn, tránh tác phong quan liêu mệnh lệnh, từng bước khắc phục lề lối làm việc luộm thuộm. Phải hết sức chú trọng bồi dưỡng cán bộ cũ và dìu dắt những cán bộ trẻ tiến lên Những lời động viên khen ngợi và phê bình kịp thời của Bác mang tầm vóc, ý nghĩa thật lớn lao, có sức lan tỏa mạnh mẽ! Những cá nhân, đơn vị nào được khen ngợi thì phấn khởi tin tưởng; tổ chức nào, cơ sở nào bị phê bình thì kịp thời sửa chữa, khắc phục, những tổ chức, cơ sở chưa được Bác khen thì càng phấn đấu hơn nữa.
Mỗi việc làm của Người đối với nhân dân Thanh Hoá cho chúng ta thấy hình ảnh vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc thật gần gũi, giản dị và ấm áp biết bao! Tư tưởng, đạo đức và tấm gương của Người luôn tỏa sáng, là niềm tin để nhân dân Thanh Hóa cũng như nhân dân cả nước chung sức đồng lòng, phấn đấu xây dựng tỉnh Thanh trở thành một tỉnh “kiểu mẫu”, đạt nhiều thành tựu trên mọi lĩnh vực như niềm tin và sự mong mỏi của Người!
Đã 65 năm kể từ ngày lần đầu tiên Bác Hồ về thăm, Thanh Hoá đã đạt được những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực. Với tiềm năng, lợi thế vốn có của vùng đất “địa linh nhân kiệt”, Thanh Hóa đã đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn diện từ 7,8% (năm 2005) tăng lên 13,5% (năm 2011), trong đó thu nhập bình quân đầu người đến năm 2011 đạt 4,9 triệu đồng/người/năm. Số hộ đói nghèo từ 46,77% (năm 2001) giảm xuống còn 30% (năm 2011). Các ngành kinh tế lâm, nông nghiệp, xây dựng và dịch vụ là những ngành đang được tỉnh đầu tư cả chiều rộng và chiều sâu. Nhiều khu công nghiệp mới được quy hoạch với quy mô lớn để mở rộng các ngành nghề công nghiệp: Chế biến sản phẩm từ rừng, sản xuất đá gra-nit, thủy điện Nhiều năm nay, du lịch vẫn là một trong những ngành đem lại lợi nhuận phát triển kinh tế chủ yếu, nâng cao đời sống của người dân Thanh Hoá. Trong tương lai, ngoài tiềm năng khai thác du lịch biển, Thanh Hóa đã và đang triển khai nhiều dự án khai thác và xây dựng nhiều khu du lịch sinh thái, du lịch gắn liền với những địa danh, tên tuổi của các vị anh hùng dân tộc sinh ra trên mảnh đất này.
Cùng với phát triển kinh tế, công tác giáo dục, y tế cũng được tỉnh quan tâm và phát triển đồng bộ. Bác dạy: “Ban Văn hoá phải tìm những cách không cần tốn tiền mà học được, như “gia đình học hiệu”, “tiểu giáo viên”, cả làng chung gạo nuôi một thầy giáo Không có giấy thì viết vào cát, không có bút thì dùng lẽ tre”(6). (lẽ tre: một đoạn cành tre nhỏ, từ địa phương Nghệ Tĩnh). Làm theo lời Người, những năm qua, Đảng bộ và chính quyền tỉnh, đội ngũ làm công tác giáo dục Thanh Hóa đã kiên trì, bền bỉ thực thi xóa mù chữ, dạy bình dân học vụ, bổ túc văn hóa cho đông đảo các tầng lớp nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Vì vậy, trình độ dân trí, trình độ văn hóa của người dân và cán bộ địa phương được nâng lên rõ rệt. Từ năm 2004, 11/11 xã, thị trấn có số trường được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập trung học cơ sở. Cả tỉnh đã xây dựng được 15 trường đạt chuẩn Quốc gia. Hằng năm, khánh thành trên dưới 18 làng, bản, cơ quan văn hoá, trong đó có trên 60% số hộ đạt gia đình văn hóa Hiện có gần 30 bệnh viện đa khoa và 37 trung tâm y tế huyện, thị xã, thành phố, đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của người dân tỉnh Thanh với thái độ phục vụ tận tình, chu đáo.
Thanh Hóa đã và đang dần trở thành một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa – xã hội, giáo dục, quốc phòng mạnh của cả nước. Mỗi bước đi lên của tỉnh, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thanh Hoá luôn khắc sâu những lời khen ngợi, dặn dò, phê bình cũng như sự chỉ bảo ân cần của Bác qua mỗi lần Người về thăm. Đó là niềm tin, động lực tinh thần vô giá để nhân dân Thanh Hoá vượt qua mọi khó khăn, thử thách, từng bước xây dựng tỉnh Thanh ngày càng vững mạnh, góp phần vào sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, đưa tỉnh trở thành tỉnh “kiểu mẫu” như sinh thời Bác Hồ hằng mong.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- em_yeu_lich_su_xu_thanh_2016_4686.doc