Đến thời kỳ chủnghĩa đếquốc, giai cấp tưsản phản bội lại lợi ích của dân tộc. Giai cấp công nhân ở
một sốnước đã thay thếgiai cấp tưsản, đấu tranh lật đổgiai cấp tưsản, xây dựng một xã hội mới, đáp ứng yêu
cầu phát triển khách quan của lịch sử. Giai cấp công nhân trởthành đại biểu chân chính cho dân tộc.
- Trong thời đại hiện nay, muốn giải quyết vấn đềdân tộc thành công triệt để, phải đứng trên lập trường
của giai cấp công nhân. Vì giai cấp công nhân là trung tâm của thời đại, đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc.
Trước khi giải phóng mình, giai cấp công nhân phải giải phóng toàn dân tộc.
- Mặt khác, khi giải quyết mục tiêu của giai cấp công nhân, phải đặt nó trong lợi ích của dân tộc mới
tránh bịcô lập.
- Mác và Ănghen đã nêu luận điểm nổi tiếng: giai cấp vô sản ởmỗi nước phải giành lấy chính quyền,
phải tựmình xây dựng thành giai cấp thống trịtrong dân tộc, phải tựmình trởthành dân tộc.
- Lênin cho rằng, khi chủnghĩa tưbản chuyển sang chủnghĩa đếquốc, thì phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc của nhân dân thuộc địa trởthành một bộphận của cách mạng vô sản. Muốn đi tới thắng lợi triệt
để, phong trào giải phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, chủnghĩa cộng sản.
- Theo HồChí Minh, ởViệt Nam không phải giải quyết vấn đềgiai cấp rồi mới giải quyết vấn đềdân
tộc như ởcác nước tựdo phát triển phương Tây, mà ngược lại, chỉcó giải phóng dân tộc mới giải phóng được
giai cấp. Người cho rằng “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường
cách mạng vô sản”, “chỉcó chủnghĩa xã hội, chủnghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bịáp bức và
những người lao động trên thếgiới khỏi ách nô lệ”.
- Độc lập dân tộc gắn liền với chủnghĩa xã hội là cốt lõi tưtưởng HồChí Minh và đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam, là sựthểhiện rõ nét sựkết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp.
- Xét theo yêu cầu giải phóng con người, thì độc lập dân tộc mới chỉlà cấp độ đầu tiên, đặt nền móng
cho việc đảm bảo quyền con người. Mặc dù vô cùng quan trọng, nhưng đó mới chỉlà giải phóng vềmặt chính
trị.
117 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5219 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dân cách mạng vì độc lập và thống nhất, vì nền dân chủ cộng hoà và gây mầm
mống cho CNXH.
- Với ý chí “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, nhân dân cả
nước từ Nam đến Bắc đã nhất tề đứng dậy kháng chiến với mọi thứ vũ khí, với tinh thần chiến đấu kiên cường,
anh dũng, thông minh và sáng tạo, phát triển từ lực lượng nhỏ đến lớn, từ đánh du kích đến đánh chính quy, tiến
công và phản công chiến lược, giành thắng lợi từ nhỏ đến chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ vĩ đại – có ý nghĩa
vang dội trên toàn thế giới. Buộc chính phủ Pháp buộc phải thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Cămpuchia qua hiệp định Giơnevơ (21/7/1954).
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng
mạnh.
- Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Pháp và can thiệp Mỹ đã bảo vệ và phát triển thành quả
vĩ đại của cách mạng tháng Tám, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, chấm dứt hẳn ách đô hộ của thực dân Pháp
trên đất nước ta, đưa cách mạng Việt Nam chuyển qua một giai đoạn mới – giai đoạn xây dựng miền Bắc theo
con đường XHCN và tiến hành cách mạng giải phóng ở miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân và thống nhất đất nước.
- Thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc bị nô dịch trên thế giới vùng lên chống chủ nghĩa đế quốc
thực dân vì độc lập dân tộc, hoà bình và tiến bộ xã hội.
b. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954 - 1975).
- Đánh giá về thắng lợi này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12-1976): “Năm tháng sẽ trôi
qua nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp cách mạng cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử ta như
một trong những trang sử chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng
cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện
có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.
- Với thắng lợi này, nhân dân Việt Nam đã chứng minh trước toàn thế giới sự phá sản không thể tránh khỏi
của chủ nghĩa thực dân mới. Cũng như trước đây, thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945, kháng chiến chống
Pháp 1954 đã chứng minh với thế giới sự sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa thực dân cũ.
+ Làm suy yếu trận địa của chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của đế quốc Mỹ ở Đông
Nam Á, đảo lộn chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, lung lay vị
trí của Mỹ trên trường quốc tế.
+ Phát triển thêm sức mạnh, đem lại lòng tin và niềm phấn khởi của hàng triệu người dân trên trái đất đang
đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Kháng chiến chống Mỹ thắng lợi đã mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam- kỷ nguyên độc lập tự do,
thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một trong những thắng lợi vĩ đại nhất, hiển hách nhất trong lịch sử
giữ nước và dựng nước của dân tộc ta.
- 21 năm chiến tranh chống Mỹ và 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc đã chấm dứt vĩnh
viễn ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và chế độ phong kiến ở nước ta, hoàn thành về cơ bản cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy 104
3. Thắng lợi bước đầu của công cuộc đổi mới (1986 đến nay)
Kế thừa những thành tựu và những kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc khi còn chiến
tranh và trong những năm đầu sau khi nước nhà thống nhất, trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm, Đảng đã đề ra
và lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, phù hợp với thực tiễn
Việt Nam và bối cảnh quốc tế mới.
Thắng lợi bước đầu trong 20 năm đổi mới có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Một là, chúng ta đã đẩy nhanh được nhịp độ phát triển kinh tế- xã hội. Hoạt động khoa học công nghệ
gắn bó hơn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội thích nghi dần với cơ chế thị trường. Nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh.
Hai là, tạo được một số chuyển biến tốt về mặt xã hội.
- Đời sống vật chất phần lớn của người dân được cải thiện.
- Trình độ dân trí được nâng lên đáng kể, đời sống văn hoá của nhân dân có cải thiện. Các hoạt động:
giáo dục đào tạo, văn hoá, nghệ thuật, kế hoạch hóa gia đình… có những mặt tiến bộ và phát triển.
- Lòng tin của nhân dân đối với đất nước, với sự lãnh đạo của Đảng, nhà nước, với chế độ nâng lên rõ
rệt.
Ba là, tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ chế độ, giữ vững độc lập
chủ quyền và môi trường hoà bình của đất nước.
Bốn là, thực hiện có kết quả nhiều đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị.
Năm là, phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cô lập, tham gia tích cực vào đời
sống của cộng đồng quốc tế.
Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo.
Tuy nhiên cũng phải thừa nhận rằng, công cuộc đối mới của chúng ta còn không ít khuyết điểm và
những mặt yếu kém. Đó là:
- Nước ta còn nghèo nhưng chưa thực hiện tốt cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng; tích
luỹ từ nội bộ sản xuất còn quá thấp. So với các nước trên thế giới, nước ta vẫn còn quá nghèo, trình độ phát triển
sản xuất và năng suất lao động thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, sử dụng nguồn nhân lực còn kém hiệu
quả.
- Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc lãnh đạo xây dựng
quan hệ sản xuất mới vừa lúng túng, vừa có tình trạng buông lỏng, chưa phát huy tốt nhiều tiềm năng, giải
phóng mạnh mẽ sức sản xuất.
- Cơ chế thị trường còn sơ khai, vai trò quản lý vĩ mô đối với nhà nước đối với nền kinh tế còn yếu.
- Tình hình xã hội còn nhiều mặt tiêu cực, tệ tham nhũng, buôn lậu, lãng phí của công chưa được ngăn
chặn, thậm chí còn tiếp tục gia tăng. Tệ nạn xã hội phát triển, trật tự an toàn xã hội chưa được đảm bảo tốt.
- Hệ thống chính trị có đổi mới nhưng còn nhiều nhược điểm.
=> Như vậy, bên cạnh những thành tựu quan trọng tạo tiền đề thuận lợi cho bước phát triển tiếp theo vãn còn
nhiều tồn tại. Nhưng nhìn chung con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt
Nam. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy 105
quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
đã hình thành trên những nét cơ bản. con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn.
II. Những bài học lãnh đạo cách mạng của Đảng
1. Nắm vững và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đây là nội dung nhất quán xuyên suốt trong đường lối chiến lược cách mạng Việt Nam, là bài học lịch
sử lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam.
a. Cơ sở lý luận
- Dân tộc là một phạm trù lịch sử, luôn mang tính giai cấp và do mỗi một giai cấp tiên phong đại diện. Mỗi một
giai cấp đều có quan điểm riêng về vấn đề dân tộc.
- Vào thế kỷ XVIII, giai cấp tư sản đại diện cho phương thức sản xuất mới - phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa, nên giai cấp này đứng ở vị trí trung tâm, giương cao ngọn cờ dân tộc, chống phong kiến.
- Đến thời kỳ chủ nghĩa đế quốc, giai cấp tư sản phản bội lại lợi ích của dân tộc. Giai cấp công nhân ở
một số nước đã thay thế giai cấp tư sản, đấu tranh lật đổ giai cấp tư sản, xây dựng một xã hội mới, đáp ứng yêu
cầu phát triển khách quan của lịch sử. Giai cấp công nhân trở thành đại biểu chân chính cho dân tộc.
- Trong thời đại hiện nay, muốn giải quyết vấn đề dân tộc thành công triệt để, phải đứng trên lập trường
của giai cấp công nhân. Vì giai cấp công nhân là trung tâm của thời đại, đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc.
Trước khi giải phóng mình, giai cấp công nhân phải giải phóng toàn dân tộc.
- Mặt khác, khi giải quyết mục tiêu của giai cấp công nhân, phải đặt nó trong lợi ích của dân tộc mới
tránh bị cô lập.
- Mác và Ănghen đã nêu luận điểm nổi tiếng: giai cấp vô sản ở mỗi nước phải giành lấy chính quyền,
phải tự mình xây dựng thành giai cấp thống trị trong dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc.
- Lênin cho rằng, khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc, thì phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc của nhân dân thuộc địa trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản. Muốn đi tới thắng lợi triệt
để, phong trào giải phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
- Theo Hồ Chí Minh, ở Việt Nam không phải giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề dân
tộc như ở các nước tự do phát triển phương Tây, mà ngược lại, chỉ có giải phóng dân tộc mới giải phóng được
giai cấp. Người cho rằng “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường
cách mạng vô sản”, “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và
những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
- Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là cốt lõi tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam, là sự thể hiện rõ nét sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp.
- Xét theo yêu cầu giải phóng con người, thì độc lập dân tộc mới chỉ là cấp độ đầu tiên, đặt nền móng
cho việc đảm bảo quyền con người. Mặc dù vô cùng quan trọng, nhưng đó mới chỉ là giải phóng về mặt chính
trị.
- Độc lập chỉ là điều kiện cần để đi đến ấm no, hạnh phúc. Xoá bỏ ách áp bức dân tộc mà không xoá bỏ
tình trạng áp bức và bóc lột giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa được giải phóng.
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy 106
- Cho nên, sau khi giành được độc lập dân tộc, phải xây dựng một chế độ xã hội trên cơ sở sở hữu công
cộng về tư liệu sản xuất mới xoá bỏ được tận gốc tình trạng người bóc lột người; chỉ có thiết lập một nhà nước
kiểu mới có bản chất là tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, mới đảm bảo được quyền làm chủ của nhân dân lao
động, mới thực hiện được sự phát triển hài hoà giữa cá nhân - xã hội; độc lập dân tộc - tự do, hạnh phúc của con
người.
- Quá trình vận động tự nhiên của lịch sử tất yếu dẫn đến chủ nghĩa xã hội - chế độ chính trị - xã hội tiến
bộ nhất trong tiến trình phát triển của loài người, khắc phục được những hạn chế của các chế độ chính trị - xã
hội trước đó đối với việc giải quyết vấn đề giải phóng con người.
- Hồ Chí Minh nhận thức được điều đó từ rất sớm. Theo Người, sau khi thực hiện nhiệm vụ “phản đế,
phản phong”, con đường đúng đắn là tiếp tục đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng kinh tế, tạo ra nhiều của cải vật
chất để có điều kiện nâng cao mức sống cho nhân dân.
- Đảng Cộng sản Việt Nam đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, tổng kết kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ qua, nêu lên bài học giương cao
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
b. Thực tế cách mạng Việt Nam
Ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH thời kỳ 1930-1954 (thời kỳ cả nước thực hiện chiến lược cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân)
- Độc lập dân tộc:
Muốn xây dựng CNXH, trước hết phải giành được độc lập dân tộc. Chiến lược cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân có 2 nhiệm vụ cơ bản: chống đế quốc và chống phong kiến, đây là hai nhiệm vụ có mối quan hệ
mật thiết với nhau nhưng nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ chống phong kiến, thực
hiện cách mạng ruộng đất để phục vụ nhiệm vụ chống đế quốc.
Do đó khi Đảng ta đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng Đảng đã đoàn kết được lực lượng toàn dân.
- Chủ nghĩa xã hội :
Đảng không tiến hành cách mạng ruộng đất đồng thời với nhiệm vụ chống đế quốc mà chỉ chủ trương
tịch thu ruộng đất của đế quốc và tay sai chia cho nông dân nghèo, thực hiện giảm tô, giảm tức. Ngoài ra, nhân
dân còn được hưởng nhiều quyền lợi như không phải đóng các thứ thuế vô lý, được chia ruộng công và hưởng
một số quyền lợi khác.
Tuy nhiên việc thực hiện ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH thời kỳ này chưa rõ nét lắm.
Như vậy, ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH thời kỳ 1930 – 1954 là cả nước tiến hành cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân, chuẩn bị tiền đề cần thiết cho cách mạng XHCN. Lúc này, ngọn cờ độc lập dân tộc là trực
tiếp, còn CNXH là phương hướng, triển vọng tiến lên để bảo đảm cho cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân đi đúng hướng và thực hiện được triệt để
Ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH thời kỳ 1954 – 1975
Thời kỳ này, Đảng chủ trương tiến hành đồng thời 2 nhiệm vụ chiến lược cách mạng: cách mạng
XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Miền Bắc XHCN giữ vai trò quyết
định nhất trong sự nghiệp của cả nước; miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đánh thắng đế quốc Mỹ và tay
sai, góp phần bảo vệ miền Bắc.
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy 107
Ở miền Bắc:
Việc xây dựng CNXH không còn là định hướng nữa mà trở thành mục tiêu, nhiệm vụ trực tiếp.
Nhưng vì cả nước ta đều có nhiệm vụ chống Mỹ nên CNXH ở miền Bắc mang đặc điểm thời chiến. Xây
dựng CNXH thời chiến không chỉ đảm bảo đời sống nhân dân miền Bắc mà còn phải phát triển kinh tế phục vụ
chiến đấu, là hậu phương lớn của tiền tuyến lớn miền Nam. Lúc này “mỗi người làm việc bằng hai” theo lời kêu
gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tháng 5/1964, tổng kết bước đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Bộ chính trị đã khẳng định:
“Xây dựng CNXH lúc này cũng là để đánh thắng giặc Mỹ”.
Đại hội IV năm 1976 đã đánh giá vai trò của miền Bắc XHCN: “không thể nào có thắng lợi của sự
nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nếu không có miền Bắc XHCN”; “thử thách cực kỳ nghiêm trọng của
chiến tranh đã làm sáng ngời tính ưu việt và sức mạnh của CNXH”
Ở miền Nam:
Từ xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang đến xây dựng chế độ mới ở các vùng giải phóng,
đặc biệt là xây dựng các cơ sở Đảng vững mạnh. Đảng và nhà nước đều đã huy động lực lượng miền Bắc phục
vụ miền Nam, gửi vào đó hàng triệu thanh niên, hàng ngìn tấn vũ khí, đặc biệt là nhiều binh đoàn chủ lực.
Như vậy, sức mạnh của miền Nam là sức mạnh của chế độ mới, sức mạnh tại chỗ và sức mạnh của cách
mạng XHCN miền Bắc.
Dựa vào sức mạnh cả nước, Đảng phát động nhiều cuộc tiến công chiến lược, lần lượt phá hoại và đánh
tan các kế hoạch chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải xuống thang. Thực tế, miền Nam đã thực
hiện đầy đủ vai trò quyết định trực tiếp đánh đổ đế quốc Mỹ, bảo vệ miền Bắc, hoàn thành cách mạng giải
phóng dân tộc. Thực hiện nhiệm vụ “độc lập dân tộc”
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ đã khẳng định: “CNXH là chỗ dựa của phong trào giải
phóng dân tộc, phong trào giải phóng dân tộc lớn mạnh có tác dụng bảo vệ CNXH”.
Ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH thời kỳ 1954 – 1975 là sự kết hợp của 2 chiến lược CNXH ở miền
Bắc và tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân trên cả nước, thực hiện thống nhất nước nhà đưa cả nước lên CNXH. Lúc này ngọn cờ CNXH đã
trở thành hiện thực trên một nửa đất nước và đang trở thành sức mạnh thật sự cho cách mạng cả nước nhằm phát
huy sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc và thời đại để xây dựng CNXH và đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH thời kỳ 1975 đến nay.
Thời kỳ quá độ lên CNXH là một thời kỳ rất dài cần phải xác định đúng và đề ra mục tiêu cho phù hợp
với mỗi thời kỳ cách mạng. Cũng như giai đoạn cách mạng trước đây, để kết hợp độc lập dân tộc và CNXH
cùng với việc xác định nhiệm vụ chiến lược đúng đắn, Đảng phải hoạch định nhiệm vụ chiến lược lâu dài thành
mục tiêu cụ thể, thích hợp với mỗi chặng đường.
+ Chặng đường đi lên CNXH được Đảng ta xác định một cách cụ thể tại Đại hội Đảng lần thứ IV năm
1976 với mục tiêu là ổn định tình hình kinh tế – xã hội, cải thiện đời sống nhân dân nhưng sau nhiều năm phấu
đấu chúng ta vẫn không đạt được mục tiêu đề ra.
+ Từ Đại hội VI (1986) trở đi đường lối đổi mới và mục tiêu cụ thể được xác định đúng đắn, Đảng và
nhân dân ta đã giành được thắng lợi quan trọng.
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy 108
Mỗi bước thắng lợi của công cuộc xây dựng CNXH đều làm tăng thêm sức mạnh bảo vệ nền độc lập
dân tộc. Bảo vệ nền độc lập dân tộc lại tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng CNXH.
Như vậy, ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH thời kỳ 1975 đến nay là sự kết hợp 2 nhiệm vụ chiến lược
xây dựng và bảo vệ tổ quốc, nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Lúc này
độc lập dân tộc và CNXH nhập vào làm 1, sự kết hợp ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH giờ đây trọn vẹn và
đầy đủ nhất nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc và thời đại để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
=> Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là một chân lý lớn của thời đại. Chân lý ấy được Đảng Cộng sản
tiếp thu và phát triển sáng tạo trong từng giai đoạn lịch sử, phù hợp với nhiệm vụ cách mạng Việt Nam.
- Là nguồn gốc của mọi thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại của cách mạng Việt Nam, là ánh sáng
chỉ đường cho dân tộc ta giành mọi thắng lợi trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
“Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện
CNXH và CNXH là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng CNXH, bảo vệ tổ quốc vẫn là hai
nhiệm vụ chiến lược có quan hệ hữu cơ với nhau”.
2. Quán triệt sâu sắc quan điểm cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
a. Cơ sở lí luận
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, quần chúng nhân dân làm nên lịch sử.
- Từ xưa đến nay, thời nào cũng coi việc dựng nước và giữ nước là sự nghiệp của dân. Dân là gốc của
nước, trải qua các giai đoạn lịch sử, tổ tiên ta đều nhận thức một cách đúng đắn vai trò của toàn dân đánh giặc.
Trần quốc Tuấn chủ trương “ khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”.
Nguyễn Trãi nói “Thân với người có nhân là dân, mà chở thuyền lật thuyền cũng là dân”..
- Lịch sử cũng đã từng chứng kiến ba lần thất bại đấu tranh của nhân dân ta. Đó là thất bại của An
Dương Vương trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Triệu Đà mở ra thời kỳ Bắc thuộc kéo dài hơn 1000
năm, là thất bại của Hồ Quý Ly trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Minh, nước ta rơi vào ách thống
trị của nhà Minh (gần 20 năm) và thất bại của nhà Nguyễn với hơn 80 năm Pháp thuộc. Một trong những
nguyên nhân thất bại là do chưa đoàn kết được toàn dân tham gia đánh giặc, chưa phát huy được chiến tranh
nhân dân toàn dân đánh giặc.
Trong thời đại Hồ Chí Minh, phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân đã được phát huy mạnh mẽ,
làm cho đế quốc Pháp, Mỹ- những đế quốc mạnh nhất thời đại đặc biệt là Mỹ đế quốc chưa hề bị thất bại đã
phải nuốt hận chịu thua trong cuộc chiến tranh kéo dài nhất, tốn kém nhất trong lịch sử nước Mỹ.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một chân lý:
“Gốc có vững cây mới bền
Xây lâu thắng lợi trên nền nhân dân”.
Người cho rằng “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không có gì mạnh bằng
lực lượng đoàn kết của nhân dân. Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ lợi ích của nhân
dân”.
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy 109
Trong “Đường kách mệnh”, người viết “Kách mệnh là việc của dân chúng, chứ không phải việc của
một hai người”. V.I.Lênin cũng chỉ rõ “Chỉ có độc một mình đội tiên phong thôi thì không thể thắng nổi… đó
không những là điều dại dột mà còn là một tội ác nữa”.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã đánh giá đúng vai trò của nhân dân, coi dân là vốn
quý nhất, sức mạnh của dân cũng là sức mạnh to lớn nhất. Đi sâu phân tích hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ để thấy rõ sức mạnh của chiến tranh nhân dân”.
b. Thực tế ở Việt Nam
Trong kháng chiến chống Pháp:
Ngày 29/10/1945, chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào Nam Bộ bền bỉ kháng chiến. Người khẳng
định: “không có quân đội nào, không khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn dân tộc”.
- Chiến tranh nhân dân là tính chất cơ bản và cũng là đặc điểm chủ yếu nhất của cuộc kháng chiến
chống Pháp. Bản chỉ thị lịch sử :“Toàn dân kháng chiến” của trung ương Đảng ra ngày 12/12/1946 đã đặt cơ sở
cho sự chỉ đạo, nguyên tắc và đường lối của một cuộc chiến tranh nhân dân dựa trên truyền thống lâu đời: “cả
nước đánh giặc” của dân tộc kết hợp với những quan điểm chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin
trong thời đại mới.
- Ngày 25/11/1946, trung ương Đảng đã ra “Chỉ thị kháng chiến kiến quốc”, cụ thể hoá đường lối cho
cuộc kháng chiến và những chỉ đạo cụ thể.
- Ngày 19/12/1946, chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn dân kháng chiến: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà,
bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên
đánh thực dân Pháp để cứu tổ quốc…”
- Trong tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi”, Trường Chinh đã khẳng định: “Cuộc kháng chiến
của chúng ta là một cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện…”.
Để thực hiện những chủ trương trên:
+ Phong trào Nam tiến được phát động đã động viên sâu sắc tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân
dân. Đó là biểu hiện sinh động về sức mạnh đoàn kết toàn dân của Đảng và Chính phủ.
+ Đảng và Chính phủ tổ chức “Ngày kháng chiến” trong toàn quốc, kêu gọi nhân dân bớt ăn, bớt mặc
dành dụm, góp tiền của để ủng hộ đồng bào Nam Bộ đánh Pháp.
+ Một thành tựu nổi bật của đường lối cách mạng toàn dân kháng chiến là thu hút sự tham gia tích cực
của các dân tộc- đa số cũng như thiểu số trên đất nước Việt Nam.
Ngày 1/2/1947 trong thư gửi các chiến sĩ quân đội lên đường đi xây dựng cơ sở ở miền Tây và Tây Bắc,
đồng chí Võ Nguyên Giáp viết: “Mỗi một tấc đất miền Tây là một tấc đất của nhân dân Việt Nam, chúng ta
không thể để cho địch dễ dàng dẫm lên được. Mỗi một đồng bào miền Tây là một người dân nước Việt, chúng ta
không thể không bảo vệ quyền lợi của đồng bào dân tộc thiểu số”.
Tất cả đã làm nên sức mạnh to lớn, sức mạnh của toàn thể nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp
xâm lược đó là chiến tranh nhân dân toàn dân đánh giặc
Trong kháng chiến chống Mỹ:
Kế thừa những thành quả và kinh nghiệm của kháng chiến chống Pháp, chiến tranh nhân dân trên cả hai
miền Nam - Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã phát triển lên một tầm cao mới với nội dung
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy 110
và hình thức đấu tranh hiệu quả và rất phong phú. Đó là cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, nhằm mục tiêu
giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc và thống nhất đất nước.
- Lực lượng tiến hành chiến tranh là “toàn dân đánh giặc” gồm lực lượng chính trị quần chúng, lực
lượng vũ trang; lực lượng chính trị quần chúng vừa là cơ sở để xây dựng phát triển lực lượng vũ trang, vừa là
chỗ dựa vững chắc để lực lượng vũ trang hoạt động tác chiến.
- Phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước không chỉ bó hẹp
trong hoạt động đấu tranh vũ trang mà còn có phạm vi rộng lớn hơn, tầm vóc cao hơn. Đó là “Cả nước tổ chức
thành một mặt trận rộng lớn, mỗi người dân yêu nước là một chiến sĩ, mỗi làng xã, đường phố là một là một
pháo đài, mỗi chi bộ Đảng là một bộ phận tham mưu…”
- Thắng lợi của kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất
khẳng định sự nghiệp cách mạng đó là của nhân dân, do nhân dân.
Như vậy, cách mạng chỉ có thể giành được thắng lợi nếu được quần chúng nhân dân tham gia và chỉ có
cách mạng do Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động mới mang lại quyền làm chủ đất nước, làm
chủ xã hội cho toàn thể nhân dân. Khi đất nước độc lập và dân chủ thì lợi ích thuộc về nhân dân. Không có nhân
dân thì không có lực lượng, không có chính phủ thì không có người dẫn đường vì vậy chính phủ và nhân dân
phải đoàn kết thành một khối thống nhất. Đảng, Chính phủ phải gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân
dân, đồng thời, chính quyền còn phải làm hết sức mình vì lợi ích và hạnh phúc của nhân dân đó là những nhân
tố quyết định sự vững mạnh của chính quyền nhà nước, của Đảng cầm quyền.
Trong thời kỳ đổi mới:
- Đại hội VI của Đảng nêu rõ: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng lấy
dân làm gốc”.
- Tại đại hội VII (6/1991), Đảng đã thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội xác định: “Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của
nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng
sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước”.
3. Không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc
a. Cơ sở lý luận
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng.
- Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới đại đoàn kết, vấn đề này được Người đề cập nhiều nhất. Người
nhấn mạnh “đoàn kết, đoàn kết đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công”.
- Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam. Khối đại đoàn kết
dân tộc chỉ được hình thành trên cơ sở lợi ích chung toàn dân tộc và phù hợp với lợi ích riêng của mỗi giai cấp
và tầng lớp trong xã hội trên từng chặng đường phát triển.
- Để thực hiện đại đoàn kết toàn dân, Đảng phải luôn đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân,
giai cấp tiêu biểu cho lợi ích của người lao động và lợi ích của toàn dân tộc, không bao giờ được tách lợi ích
chung của dân tộc với lợi ích riêng của giai cấp mình. Đảng phải kết hợp hài hoà giữa lợi ích chung và lợi ích bộ
phận của các giai cấp và tầng lớp xã hội, phải xác định đúng đắn chiến lược và sách lược phù hợp với quan hệ
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy 111
giai cấp biến đổi ở mỗi thời kỳ.
- Tổ chức tiêu biểu tập hợp, đoàn kết mọi giai cấp, tầng lớp nhân dân là mặt trận dân tộc thống nhất.
b. Về thực tiễn
- Trong thời kỳ 1930-1945.
Trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã chú trọng vận dụng và phát triển quan
điểm của chủ nghĩa Mac- Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, đồng thời xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân trong đó đội ngũ tri thức có vai trò quan trọng. Kết quả đó được thể hiện ở sự đoàn kết giữa giai cấp công
nhân - nông dân trong phong trào đấu tranh chống chế độ thuộc địa ngay từ khi Đảng cộng sản Việt Nam mới ra
đời.
- Sự mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, trong đó đội ngũ trí thức được đặt ở vị trí xứng
đáng, dựa trên cơ sở khối đại liên minh công – nông đã tạo nên sức mạnh hùng hậu để tiến hành khởi nghĩa
Tháng Tám năm 1945 thành công.
- Cách mạng tháng Tám thành công chủ yếu và trước hết là thắng lợi của đạo quân chủ lực của cách
mạng là công nhân và nông dân
+ Thắng lợi của cách mạng tháng Tám còn là sự nổi dậy của toàn dân, bao gồm các giai cấp: công nhân,
nông dân, tiểu tư sản cho đến các tầng lớp trên có khả năng yêu nước nhất định là giai cấp tư sản dân tộc, những
cá nhân yêu nước và tiến bộ khác nằm trong mặt trận Việt Minh và ngoài mặt trận Việt Minh.
+ Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng thời kỳ này, không chỉ là biết tổ chức và phát động đạo quân chủ lực
mà còn biết lấy đó làm chỗ dựa để tập hợp hết thảy các lực lượng yêu nước có thể tập hợp được, không bỏ sót
một lực lượng nào.
+ Cách mạng tháng Tám là sự nổi dậy đồng loạt của nhân dân cả nước từ Bắc đến Nam, từ rừng núi đến
đồng bằng, từ nông thôn đến thành thị, là sự nổi dậy của cả các dân tộc thiểu số trên khắp cả nước. Chính nhờ
sức mạnh đoàn kết đó nên dù với một lực lượng vũ trang nhỏ bé (5000 người), cách mạng tháng Tám đã phát
huy sức mạnh áp đảo làm tê liệt sự phản kháng của quân đội Nhật, buộc quân tay sai phải đầu hàng một cách
nhanh gọn chỉ trong vòng nửa tháng trên cả nước
- Thời kỳ 1945 – 1975
Sau cách mạng tháng Tám, trong điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng chế độ mới và tiến hành cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp có sự can thiệp của đế quốc Mỹ, vai trò của liên minh công - nông và khối đại
đoàn kết của công nhân – nông dân – trí thức ngày càng được nâng cao và có những nội dung mới.
- Trong kháng chiến chống Pháp:
+ Phong trào Nam Tiến là một biểu hiện sinh động của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân. Phong trào đã
động viên sâu sắc tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân.
Một thành tựu nổi bật của tinh thần đoàn kết toàn dân là thu hút sự tham gia tích cực của các dân tộc
thiểu số trên đất nước Việt Nam.
+ Để thực hiện toàn dân đánh giặc, cả nước ra trận, Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng xây dựng
Quân đội nhân dân theo mô hình tổ chức 3 thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích mà
chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: “đó là lực lượng của cả dân tộc, là một lực lượng vô địch, là một bức tường sắt
của Tổ quốc. Vô luận địch nhân hung bạo thế nào, hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó thì địch nào cũng
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy 112
phải ta rã”. Trên cơ sở hình thức 3 thứ quân sau này đã hình thành nhiều đại đoàn chủ lực, quân đoàn, tiểu
đoàn…
- Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước: Tinh thần đoàn kết toàn dân thể hiện ở nhận thức chỉ đạo các
hoạt động đấu tranh vũ trang của cuộc chiến tranh nhân dân trên cả 2 miền Nam, Bắc của Đảng và Chính phủ
ta- và thời kỳ này đã được nâng lên tầm cao mới với nội dung, hình thức đấu tranh hiệu quả và rất phong phú.
Lực lượng tiến hành chiến tranh là: “toàn dân đánh giặc gồm lực lượng chiến tranh nhân dân 3 thứ quân làm
nòng cốt và lực lượng chính trị quần chúng…”
Phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân, động viên toàn dân đoàn kết kháng chiến chống Mỹ là: “cả
nước tổ chức thành một mặt trận rộng lớn, mỗi người dân yêu nước là một chiến sĩ, mỗi làng, xã, đường phố là
một pháo đài, mỗi chi bộ Đảng là một bộ phận tham mưu, phát huy sức mạnh tổng hợp của sự kết hợp đấu tranh
chính trị và vũ trang trên cả 3 vùng chiến lược, bằng 3 mũi giáp công: đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao,
kết hợp tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng….”
Thời kỳ này cùng với việc tiến công địch ở miền Nam đồng thời phải bảo vệ miền Bắc, đánh thắng
chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ trên vùng trời và vùng biển miền Bắc Việt Nam với chiến
trường hai nước bạn là Lào và Cămpuchia bằng thế chiến lược tiến công. Chính sự tập hợp, động viên toàn dân
đánh giặc của Đảng và Chính phủ ta đã góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta
toàn thắng.
- Thời kỳ 1975-1985, do chưa có nhận thức đúng đắn về sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần,
chưa thấy được mặt tích cực của cơ chế thị trường, nên ta đã có những chính sách không phù hợp trong cải tạo
xã hội chủ nghĩa, làm cho khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc có phần bị giảm sút, sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc gặp khó khăn.
- Từ năm 1986 tới nay, Đảng đã củng cố và tăng cường được một bước quan trọng khối đại đoàn kết
toàn dân đã đáp ứng được lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội, kể cả với đồng bào Việt Nam định
cư ở nước ngoài, làm cho khối đoàn kết toàn dân tộc được tăng cường. Nhờ vậy, nước ta không những vượt qua
được những khó khăn bên trong, đối phó được những tác động bất lợi của tình hình quốc tế, mà còn đạt được
nhiều thành tựu mới, to lớn trong công cuộc đổi mới, tiềm lực của đất nước được tăng cường, vị thế quốc tế
được nâng cao.
Như vậy, thực tế lịch sử qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ và sự nghiệp đổi mới đất
nước đã chứng tỏ rằng, đại đoàn kết toàn dân là một sức mạnh to lớn để đánh thắng mọi thế lực xâm lược trong
cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong cách mạng XHCN.
4. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế
a. Cơ sở lý luận
- Mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề quốc tế trong cách mạng giải phóng dân tộc
theo con đường cách mạng vô sản nói riêng, cũng như trong vấn đề mối quan hệ biện chứng giữa nhân tố
bên trong và nhân tố bên ngoài, chủ quan và khách quan trong sự phát triển của sự vật, hiện tượng nói
chung.
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy 113
- C. Mác cho rằng, đến một giai đoạn nào đó, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sẽ chín muồi trên
phạm vi toàn thế giới và lúc đó cách mạng vô sản sẽ đồng loạt xảy ra, chủ nghĩa cộng sản sẽ được thiết lập
trên toàn thế giới như một quá trình lịch sử tự nhiên.
- Lênin và sau là Hồ Chí Minh đều nhấn mạnh cách mạng vô sản thế giới có hai bộ phận và chúng có mối
liên hệ chặt chẽ với nhau đó là giữa cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa.
- Theo Hồ Chí Minh sức mạnh thời đại là tình đoàn kết, sự giúp đỡ của giải cấp công nhân và các dân tộc bị
áp bức trên thế giới, nhất là nước Nga xã hội chủ nghĩa, vô sản Pháp… Muốn giải phóng dân tộc mình cần
phải đoàn kết với các dân tộc khác cùng chung cảnh ngộ. Muốn đánh thắng đế quốc xâm lược phải thực
hiện mối liên minh chiến đấu giữa lao động ở các nước thuộc địa với nhau và giữa lao động ở thuộc địa với
vô sản chính quốc; nếu tách riêng mỗi lực lượng thì không thể nào thắng lợi được. Cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc của nhân dân ta muốn giành thắng lợi triệt để phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
Người cũng đưa ra một hệ thống quan điểm về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
- Từ đó, Đảng ta xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Ngày nay, khi cả
nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sức mạnh dân tộc là ý chí vươn lên thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém
phát triển, hướng tới xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, là chính trị xã hội
ổn định, nguồn nhân lực dồi dào, sáng tạo; sức mạnh thời đại là khoa học công nghệ, vốn, thị trường.
b. Thực tế ở Việt Nam
- Từ rất sớm, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế
giới: “Cách mạng An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trên thế giới đều là
đồng chí của dân An Nam cả”. Người còn nói: “Trong thời đại ngày nay, cách mạng giải phóng dân tộc dân chủ
nhân dân phải phát triển thành cách mạng XHCN thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”.
Như vậy, mục tiêu và con đường độc lập dân tộc và CNXH đã đưa cách mạng của nhân dân ta dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hoà nhập vào trào lưu giải phóng của nhân loại, giải phóng giai cấp, giải
phóng dân tộc, giải phóng loài người. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta không tách rời mà gắn liền với cuộc đấu
tranh chung của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ xã hội. Một quy luật tất yếu
của sự nghiệp cứu nước cũng như sự nghiệp giữ nước và xây dựng đất nước mà Đảng ta phải nắm vững và vận
dụng nhuần nhuyễn là đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ của quốc tế, phối hợp sự hoạt
động của cách mạng nước ta với hoạt động của các lực lượng hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội trên thế giới để chống kẻ thù chung.
Chính vì vậy, trong suốt chiều dài lịch sử, ngay từ khi ra đời trong Cương lĩnh đầu tiên (năm 1930) cũng
như Cương lĩnh xây dựng đất nước và đường lối của các giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn đặt nhiệm vụ đoàn
kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại thành một nhiệm vụ chiến lược. Thực tiễn lịch sử
cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo đã chứng minh đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại là nhân tố góp phần quan trọng vào thắng lợi của cách mạng.
Hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc đồng thời là hành trình tìm kiếm bạn đồng minh
và thiết lập mối quan hệ đoàn kết hợp tác quốc tế của cách mạng Việt Nam. Người đã gắn phong trào cách mạng
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy 114
Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới, đưa nhân dân ta đi theo con đường mà chính Người đã trải qua từ
chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
+ Cách mạng tháng Tám thành công có ý nghĩa lịch sử thời đại sâu sắc. Thành công đó do nhiều yếu tố
tạo nên, trong đó có sự kết hợp đúng đắn sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại. Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta đã nhạy bén trước xu thế phát triển của chiến tranh thế giới II và phong trào cách mạng thế
giới, từng bước bổ sung, cụ thể hoá đường lối. Do đó đã tranh thủ phát huy được những điều kiện khách quan
thuận lợi, đó là sự giúp đỡ to lớn của quốc tế Cộng sản, các Đảng Cộng sản Liên Xô, Trung Quốc và sự ủng hộ
của phong trào Cộng sản, cách mạng quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
+ Cuộc kháng chiến chống Pháp của nước ta trong những năm đầu còn ở trong vòng vây của chủ nghĩa
đế quốc nên chưa có điều kiện tranh thủ sự giúp đỡ của nhân dân thế giới. Khi đó, nhân dân ta tiến hành chống
Pháp với tinh thần: “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Sau 5 năm kháng chiến, thế và lực của cách mạng, của đất nước đã có những bước phát triển mới, ngày
14/1/1950, chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà sẵn sàng đặt quan hệ ngoại
giao với Chính phủ nước nào trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ…” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6/ Tr.
6- 8)
Ngay sau đó, Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN khác đã lần luợt thiết lập quan hệ ngoại giao với
nước ta, gắn cách mạng Việt Nam nối liền với hậu phương lớn XHCN, với phong trào độc lập dân tộc và phong
trào hoà bình thế giới. Từ đó nhân dân ta có sự ủng hộ, giúp đỡ về tinh thần và vật chất của nhân dân thế giới,
Liên Xô, Trung Quốc, các nước XHCN và sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới nhất là nhân dân Pháp.
Hành động anh hùng của chị Raymôngđiêng ngăn đoàn xe lửa chở vũ khí sang Việt Nam, anh Hăngri Mácđanh
đã vận động binh lính Pháp không sang Việt Nam tham chiến…. mãi là những biểu tượng sáng ngời cho tinh
thần đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Pháp.
Chiến thắng Điện Biên Phủ và việc ký kết hiệp định Giơnevơ tháng 7/1954 được nhân dân thế giới yêu
chuộng hoà bình; nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc; nhân dân và Chính phủ các nước mới giành độc
lập chào mừng thắng lợi - thắng lợi mở đầu sự phá sản của hệ thống thực thuộc địa trên thế giới, thắng lợi này
không những chỉ có ý nghĩa dân tộc mà còn có ý nghĩa quốc tế to lớn.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, với đường lối đối ngoại độc lập sáng tạo, chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta đã xử lý đúng đắn nhiều mối quan hệ. Đây là yếu tố quan trọng nhất trong việc động viên,
đoàn kết, ủng hộ của quốc tế đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta.
- Đảng ta đã kiên quyết và hạn chế phạm vi cuộc chiến tranh bằng cách đề ra chủ trương, sách lược
mềm dẻo ở miền Nam Việt Nam lúc đó là: “trung lập” và không nhận quân tình nguyện quốc tế, không để chiến
tranh biến thành xung đột quốc tế.
Kết quả của đường lối đó là sự hình thành trên thực tế mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam
chống Mỹ cứu nước, cùng với mặt trận Việt –Miên - Lào và mặt trận đoàn kết trong nước kết thành 3 tầng mặt
trận.
Có thể nói, nhìn lại lịch sử thế giới chưa có một cuộc chiến tranh của một dân tộc nào được sự ủng hộ
rộng rãi và mạnh mẽ của nhân dân thế giới như cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam, chưa bao
giờ số phận của một dân tộc nhỏ lại gắn chặt với số phận của nhân dân thế giới như vậy; cũng chưa từng có
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy 115
trong lịch sử nước Mỹ một phong trào đấu tranh mạnh mẽ của tất cả binh lính Mỹ, nhân dân đòi chính quyền
Mỹ phải chấm dứt cuộc chiến tranh bẩn thỉu, tàn bạo ở Việt Nam rộng rãi và mạnh mẽ đến như vậy.
+ Trong những năm đổi mới, tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại của Đảng và nhà nước ta là giữ
vững nguyên tắc độc lập, thống nhất và CNXH, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt phù hợp với vị
trí, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta, phù hợp với đặc điểm mà đối tượng ta có quan hệ.
Tư tưởng chỉ đạo đó là thêm bạn bớt thù, tranh thủ sự đoàn kết và hợp tác quốc tế; vì lợi ích độc lập dân
tộc, thống nhất và CNXH của nhân dân ta; vì lợi ích chung là hoà bình, độc lập và phát triển; kết hợp nhuần
nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với cách mạng quốc tế của giai cấp công nhân. Do đó, Đảng, nhà nước và nhân dân
ta vẫn thực hiện nhất quán chủ trương đoàn kết, hợp tác với các nước XHCN, phong trào Cộng sản và công
nhân quốc tế, phong trào độc lập dân tộc, phong trào không liên kết cùng các lực lượng hoà bình và tiến bộ khác
góp phần vào cuộc đấu tranh cho thắng lợi chung.
- Ngày nay, nước ta đã thiết lập quan hệ với hơn 170 nước. Đó là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
kinh tế – xã hội, khắc phục khó khăn để hội nhập kinh tế quốc tế.
5. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam
a. Cơ sở lý luận
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, về vai trò của Đảng
Cộng sản, về mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc trong cách mạng vô sản, là tư tưởng Hồ Chí
Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam và vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng trong mỗi thời đại, mỗi dân tộc, bao giờ cũng có một giai cấp đứng ở
vị trí trung tâm. Đảng Cộng sản là đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân, có vai trò lãnh đạo đấu tranh
giải phóng giai cấp công nhân và những người lao động khỏi ách thống trị tư bản.
Sự lãnh đạo của Đảng có nội dung cơ bản trước tiên là nhận thức quy luật vận động khách quan của
cách mạng, diễn đạt quy luật đó thành mục tiêu, phương hướng, giải pháp đạt mục tiêu, thể hiện trong cương
lĩnh, đường lối chủ trương của Đảng. Sau đó, Đảng tiến hành tuyên truyền, phổ biến mục tiêu, phương hướng
con đường đi tới mục tiêu cho dân biết, dân bàn, dân làm và để dân kiểm tra sự đúng đắn của đường lối, làm cho
hành động của quần chúng phù hợp với quy luật. Vì thế sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản luôn là nhân
tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng.
- Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên
phong của nhân dân lao động và của dân tộc, là lực lượng có vai trò đề ra đường lối, chủ trương cho cách mạng
dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa và tổ chức nhân dân tiến hành cuộc cách mạng đó.
Đảng ta có thể đảm đương được sứ mệnh bởi Đảng có một số đặc tính riêng biệt sau:
Thứ nhất: Đường lối của Đảng không chỉ phục vụ giai cấp công nhân mà đồng thời còn phục vụ nhân
dân, phục vụ dân tộc. Nên đường lối của Đảng luôn phù hợp với lợi ích của nhân dân, của dân tộc, nên có tính
đúng đắn cao.
Thứ hai: Tuy số lượng đảng viên không nhiều, song Đảng có chỗ dựa vững chắc, địa bàn rộng lớn, lực
lượng hùng hậu, sức mạnh to lớn qua phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân. Có được điểu này là vì
Đảng thường xuyên thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, với dân tộc.
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy 116
Thứ ba: Đảng là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân và phong
trào yêu nước. Đảng có nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
b. Về thực tiễn
- Trước năm 1930, các cuộc đấu tranh của dân tộc ta dù đã diễn ra liên tục anh dũng, song kết cục đều bị
thất bại. Từ năm 1930 dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào dân tộc, dân chủ của nhân dân ta mới từng bước
đi tới thắng lợi.
- Những năm 1930 -1945, đường lối đúng đắn của Đảng đã được đề ra ngay trong cương lĩnh cách mạng
đầu tiên. Nhờ đó lực lượng cách mạng nước ta từng bước được xây dựng, quần chúng cách mạng được tổ chức
rèn luyện, mặt trận dân tộc thống nhất và căn cứ địa được hình thành. Và khi thời cơ đến, Đảng đã phát động tổ
chức khởi nghĩa giành chính quyền thành công lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
- Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, các thế lực đế quốc và tay sai câu kết với nhau, tái xâm lược Việt
Nam. Trước tình thế đó Đảng đã kịp thời đưa ra bản chỉ thị Kháng chiến kiến quốc, tiến hành thắng lợi cuộc đấu
tranh chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, bảo vệ chính quyền cách mạng trong hoàn cảnh “ngàn cân treo
sợi tóc”.
- Cuối năm 1946, khi thực dân Pháp mở rộng ách cai trị lên toàn cõi nước ta, Đảng đã kịp thời phát động
nhân dân toàn quốc nhất tề đứng lên toàn quốc kháng chiến. Với đường lối đúng đắn, Đảng đã từng bước lãnh
đạo tổ chức cuộc kháng chiến tiến lên đi tới thắng lợi vẻ vang trong chiến lược Đông Xuân 1953-1954.
- Những năm 1954-1975, để đánh bại mọi âm mưu xâm lược và thống trị thuộc địa kiểu mới của đế quốc
Mỹ, Đảng đã đưa ra đường lối chiến lược chung sáng suốt là tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến
lược cách mạng khác nhau ở hai miền, nhằm thực hiện một mục tiêu chung của cả nước là giải phóng miền
Nam, hoà bình thống nhất tổ quốc, nên đã tạo được sức mạnh tổng hợp đưa cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc
tới thắng lợi vẻ vang vào mùa Xuân năm 1975.
- Trong những năm 1975 – 1985, đường lối của Đảng mang tính chủ quan, nóng vội nên kinh tế – xã hội
nước ta lâm vào khủng hoảng.
- Từ năm 1986, thực hiện đường lối đổi mới được đề ra tại Đại hội lần thứ VI, công cuộc xây dựng là bảo vệ
đất nước có những biến chuyển rõ rệt, đạt được những thành tựu mới, thế lực được tăng cường, vị thế quốc tế
được nâng cao, đưa đất nước ta chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
c. Xây dựng Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Để bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng được đúng đắn, tiếp tục là nhân tố hàng đầu quyết định thắng
lợi cách mạng Việt Nam, Đảng chủ trương hết sức coi trọng công công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Đó là
Đảng phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn về mọi mặt:
+ Đổi mới về tư duy lý luận, tư duy kinh tế, nâng cao năng lực trí tuệ, đề ra cương lĩnh đường lối, chiến lược sách
lược đúng đắn. Đây là yêu cầu cơ bản cốt lõi nhất.
+ Phát huy dân chủ trong Đảng, thực hiện đúng nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, tăng cường đoàn
kết thống nhất trong Đảng.
+ Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, nhà nước và các đoàn thể quần chúng trong hệ
thống chính trị của nước ta hiện nay.
+ Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực, xây dựng được một chiến lược cán bộ
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy 117
của thời kỳ mới.
+ Thường xuyên làm trong sạch đội ngũ đảng viên, đồng thời kết nạp những người ưu tú vào Đảng.
Hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam- Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đội tiên
phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc, luôn gắn bó với nhân dân, được
vũ trang bằng chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những truyền thống tốt đẹp của dân tộc- là lực
lượng duy nhất có khả năng lãnh đạo, tổ chức bảo vệ vững chắc Tổ quốc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội.
Câu hỏi ôn tập, thảo luận:
1. Ý nghĩa thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945
2. Ý nghĩa thắng lợi của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc thời kỳ 1945-1975?
3. Ý nghĩa thắng lợi của 20 năm đổi mới (1986-2006)?
4. Bài học lịch sử về nắm vững và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội?
5. Bài học lịch sử về quán triệt sâu sắc quan điểm cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân?
6. Bài học lịch sử về không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc?
7. Bài học lịch sử về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức
mạnh quốc tế? (tập trung phân tích mặt thực tiễn)
8. Bài học lịch sử về sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi cách mạng
Việt Nam?
IV. Tài liệu học tập
1. Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (dùng trong các trường đại
học, cao đẳng, NXB CTQG, Hà Nội, 2006.
2. Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh, trực thuộc bộ chính trị, Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước – thắng lợi và bài học (lưu hành nội bộ), nxb Chính trị Quốc gia, 1995.
3. Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh, trực thuộc bộ chính trị, Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-
1975 thắng lợi và bài học, nxb Chính trị Quốc gia, 2000.
4. Lê Mậu Hãn, Sức mạnh dân tộc của cách mạng Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh,
nxb Chính trị quốc gia, 2003.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, XIX, X, nxb
Chính trị Quốc gia.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài giảng lịch sử đảng cộng sản việt nam.pdf