Argentina có một nền kinh tế nhiều trục trặc. Những năm đầu thế kỷ 20, Argentina được
đánh giá là một nền kinh tế giàu có và là điểm đến hấp dẫn của dân di cư Châu Âu. Nhưng
nền kinh tế này đã tăng trưởng chậm lại hầu như suốt thế kỷ, Argentina bị bỏ lại phía sau.
Đất nước này thường xuyên phải đối mặt với các cuộc đảo chính quân sự và khủng hoảng
kinh tế.
Vào đầu những năm 1990, Argentina đã cố gắng thực hiện một cuộc khởi đầu mới mẻ.
Chính phủ mới được bầu chọn một cách dân chủ. Về kinh tế, Argentina cố gắng ngăn chặn
rủi ro lạm phát bằng việc gắn chặt đồng Peso với Đôla Mỹ (theo cơ chế chuẩn tiền tệ, 1
Peso = 1 Đôla). Kết quả là suốt những năm 1990, nền kinh tế đạt được thành tựu đáng kể:
tăng trưởng nhanh, thu hút dòng vốn nước ngoài vào rất lớn.
Cuối những năm 1990, trục trặc bắt đầu xuất hiện. Đôla Mỹ tăng giá so với Euro, Brazil
phá giá đồng Real. Theo đó, do gắn với Đôla, Peso lên giá so với Euro và Real làm giảm
xuất khẩu của Argentina, vì vậy tăng trưởng kinh tế chậm lại, dòng vốn vào bắt đầu chậm
lại và cạn kiệt, nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái. Các nhà đầu tư mất dần niềm tin cả
vào tương lai của Peso và khả năng trả nợ của chính phủ Argentina. Nhiều người đã không
còn tin vào sự gắn chặt của Peso so với Đôla, họ bắt đầu kỳ vọng Argentina sẽ từ bỏ cơ chế
tỷ giá cố định và đồng Peso sẽ giảm giá so với Đôla. Trong một nỗ lực nhằm giữ lại các
nguồn quỹ ở lại trong nước, chính phủ Argentina đã tăng lãi suất và cố gắng thực hiện cân
bằng ngân sách, nhưng tất cả những cố gắng này đã đẩy nền kinh tế rơi sâu vào tình trạng
suy thoái.
37 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2862 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.................................... 20
3.5.3. Mức độ thắt chặt của chính sách tiền tệ ....................................................... 27
3.5.4. Sự mất mác sản lượng và tiến trình phục hồi ............................................... 33
IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................................................. 34
V. NHẬN XÉT CỦA NHÓM .................................................................................. 36
Tiểu luận
SỰ LỰA CHỌN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI THẢ NỔI, KIỂM SOÁT
VỐN VÀ CHUẨN TIỀN TỆ TẠI NHỮNG QUỐC GIA CHÂU Á
MỘT GÓC NHÌN TỪ “BỘ BA BẤT KHẢ THI”
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế
Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 3
SỰ LỰA CHỌN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI THẢ NỔI, KIỂM SOÁT
VỐN VÀ CHUẨN TIỀN TỆ TẠI NHỮNG QUỐC GIA CHÂU Á:
MỘT GÓC NHÌN TỪ “BỘ BA BẤT KHẢ THI”
I. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.1. Tên của bài nghiên cứu: Sự lựa chọn tỷ giá hối đoái (TGHĐ) thả nổi, kiểm soát
vốn và chuẩn tiền tệ tại những quốc gia Châu Á: Một góc nhìn từ “Bộ ba bất khả thi”.
1.2. Lý do nghiên cứu:
Trong bất kỳ nền kinh tế mở nào, những nhà hoạch định chính sách phải luôn đối mặt
với ba khó khăn liên quan đến những chế độ thanh toán nước ngoài, đôi khi ám chỉ đến như
“Bộ ba bất khả thi” mà họ phải đối mặt. Đặc biệt, ở giai đoạn khủng hoảng kinh tế châu Á
năm 1997 đã đặt ra rất nhiều câu hỏi cho các nhà kinh tế về nguyên nhân khủng hoảng, sự
vực dậy của nền kinh tế sau khủng hoảng do tác động của bộ ba này. Koichi Hamada và
Yosuke Takeda đã đi vào nghiên cứu sự lựa chọ giữa TGHĐ thả nổi, kiểm soát vốn và
chuẩn tiền tệ tại những quốc gia châu Á: “Một góc nhìn từ bộ ba bất khả thi”.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
Bài viết tập trung vào giải thích về tiến trình phục hồi và mối quan hệ giữa tiến trình
phục hồi và chế độ tiền tệ được áp dụng ở các quốc gia châu Á và một số quốc gia châu Mỹ
Latinh ngay khi xảy ra khủng hoảng. Do thời gian quan sát dữ liệu ngắn nên thật khó để có
thể giải thích một cách toàn diện về mối quan hệ giữa tiến trình phục hồi và chế độ tiền tệ
được áp dụng . Tuy vậy, tác giả đã cố gắng cung cấp các thông tin của quốc gia mà có thể
sẽ hữu ích khi đánh giá điểm mạnh điểm yếu của các chế độ TGHĐ khác nhau đã được sử
dụng như một phương pháp đối phó với khủng hoảng tiền tệ lúc bấy giờ ở các nước.
1.4 Phạm vi nghiên cứu
Bài viết tập trung vào nghiên cứu các trường hợp của các nền kinh tế châu Á, nơi trải
qua cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997 và một số nước Mỹ Latinh để so sánh.
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế
Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 4
II. Các cuộc nghiên cứu trước đây về “Bộ ba bất khả thi”
- Feffrey Frankel (1999) cũng đã đặt vấn đề về tính liên quan của “Bộ ba bất khả thi”
cho rằng ngay cả khi tự do hóa hoàn toàn tài khoản vốn, không có gì ngăn cản một quốc gia
chọn một giải pháp trung hòa giữa sự thả nổi và liên minh tiền tệ.
- Vijay Joshi có cuộc nghiên cứu về Ấn Độ và bộ ba bất khả thi và cho rằng Ấn Độ
nên tự do hóa dòng vốn một cách đáng kể , đồng thời nên tiến tới tỷ giá thả nổi có quản lý
vào thời điểm thích hợp để tránh nguy cơ khủng hoảng kinh tế vĩ mô.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Một số khái niệm, định nghĩa
- TGHĐ danh nghĩa: theo IFS (International Financial Statistics 2000) TGHĐ danh
nghĩa là tỷ giá trung bình kỳ hạn của tỷ giá thị trường hoặc tỷ giá chính thức do NHTW quy
định.
- TGHĐ thực (trong bài nghiên cứu): TGHĐ được xuất phát từ tỷ giá hối đoái danh
nghĩa, hiệu chỉnh bởi sự thay đổi trong giá tiêu dùng giữa giá trong nước và USA.
- Rủi ro quốc gia là những rủi ro liên quan đến sự thay đổi về chính trị, kinh tế, về
chính sách quản lý ngoại hối, ngoại thương của một quốc gia, khiến cho nhà xuất khẩu
không nhận được tiền hàng, nhà nhập khẩu không nhận được hàng hoá. Rủi ro quốc gia
(trong bài nghiên cứu) đề cập đến nguy cơ đầu tư vào một quốc gia, phụ thuộc vào những
thay đổi trong môi trường kinh doanh bất lợi có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận điều hành
hoặc giá trị tài sản trong một quốc gia cụ thể. Ví dụ, các yếu tố tài chính như kiểm soát tiền
tệ, giảm giá hoặc thay đổi quy định, hoặc các yếu tố ổn định như hàng loạt cuộc bạo loạn,
nội chiến và sự kiện tiềm năng khác đóng góp vào rủi ro hoạt động của công ty. Thuật ngữ
này đôi khi cũng được gọi là rủi ro chính trị. Tuy nhiên, rủi ro quốc gia là một thuật ngữ
tổng quát hơn mà thường chỉ đề cập đến các rủi ro ảnh hưởng đến tất cả các công ty hoạt
động trong phạm vi một quốc gia cụ thể.
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế
Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 5
- Hệ thống TGHĐ cố định: Là TGHĐ hoặc được không đổi hoặc chỉ được cho phép
dao động trong phạm vi rất hẹp.
- Hệ thống TGHĐ thả nổi tự do: Tỷ giá sẽ được các lực thị trường ấn định mà
không có sự can thiệp của Chính phủ.
- Hệ thống dãi băng tỷ giá: là một trong những sắp xếp TGHĐ cố định nổi tiếng
được Công Đồng Kinh Tế Châu Âu (ECC) lập tháng 4 năm 1972, khi các nước thành viên
cộng đồng ấn định rằng các đồng tiền của họ sẽ được duy trì trong vòng các giới hạn được
thiết lập đối với nhau. Sắp sếp này được gọi là dãi băng tỷ giá.
- Hệ thống tỷ giá con rắn tiền tệ: Hệ thống tỷ giá con rắn tiền tệ còn được gọi là neo
tỷ giá có điều chỉnh hay là các ngang giá trượt.
- Hệ thống thả nổi có quản lý: Nó giống hệ thống thả nổi tự do ở điểm các tỷ giá
được cho phép dao động hàng ngày và không có các biên độ chính thức. Nó giống hệ thống
cố định ở điểm các Chính phủ có thể và đôi khi đã can thiệp để tránh đồng tiền nước họ
không đi quá xa theo một hướng nào đó.
- Chế độ tỷ giá chuẩn tiền tệ: là 1 hệ thống bao gồm các quy định pháp lý dưới dạng
luật nghiêm cấm không cho phép Chính phủ phát hành các khoản nợ – tiền có quyền lực
cao, nếu như việc phát hành này không được đảm bảo hỗ trợ 100% bằng một lượng dự trữ
quốc tế tương đương. Trong chế độ tỷ giá chuẩn tiền tệ, Chính phủ hoặc Ngân hàng trung
ương ấn định một tỷ giá cố định giữa đồng nội tệ và ngoại tệ, thường là một đồng tiền mạnh
và sẵn sàng chuyển đổi từ đồng nội tệ sang ngoại tệ vào bất cứ lúc nào khi công chúng yêu
cầu.
- Thuế Tobin: Thuế đánh vào các dịch vụ tài chính – ngân hàng.
Tobin thuế là thuế đề xuất trên tất cả các thương mại của các loại tiền tệ qua biên
giới. Đặt theo tên của nhà kinh tế James Tobin, thuế là nhằm đặt một hình phạt
về đầu cơ ngắn hạn bằng ngoại tệ. Mức thuế suất ban đầu ông đã đề xuất được
1%, sau đó đã được hạ xuống giữa 0,1% và 0,25%.
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế
Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 6
Ngày 15 tháng 8, 1971, Richard Nixon đã thông báo rằng đồng Đôla Mỹ sẽ
không còn chuyển sang vàng, có hiệu quả kết thúc của hệ thống Bretton Woods.
Tobin đề xuất một hệ thống mới cho sự ổn định tiền tệ quốc tế, và đề xuất rằng
đó là một hệ thống bao gồm một khoản phí quốc tế về giao dịch ngoại hối.
Ý tưởng nằm im trong hơn 20 năm và đã được hồi sinh bởi sự ra đời của Đông
Nam khủng hoảng kinh tế Châu Á ở cuối thập niên 1990. Năm 1997, Ignacio
Ramonet, biên tập viên của Le Monde Diplomatique, gia hạn các cuộc tranh luận
quanh thuế Tobin với một biên tập có tiêu đề “giải pháp các thị trường. Ramonet
đề xuất tạo ra một hiệp hội để giới thiệu về thuế này, được đặt tên làATTAC
(Hiệp hội cho Thuế giao dịch tài chính cho viện trợ của các công dân).Thuế sau
đó đã trở thành một vấn đề của phong trào công lý toàn cầu hoặc thay đổi, phong
trào toàn cầu hóa và các vấn đề một cuộc thảo luận không chỉ ở các tổ chức học
tập, nhưng ngay cả trong các đường phố và trong nghị viện ở Anh, Pháp, và trên
thế giới.
- Mô hình giá cứng trong ngắn hạn của Dornbusch:
Giả sử ngân hàng trung ương nước ngoài thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng.
Lãi suất nước ngoài vì thế trở nên cao hơn lãi suất trong nước. Khi các nhà đầu
tư quan sát thấy kết quả này, họ liền dự tính rằng đồng tiền trong nước lên giá,
liền bán ngoại tệ và mua tiền trong nước vào. Hậu quả là TGHĐ định danh bằng
ngoại tệ tăng vọt quá mức cân bằng dài hạn.Về lâu dài TGHĐ mới giảm xuống
điểm cân bằng dài hạn.
Mô hình này chỉ ra rằng một phản ứng ngắn hạn trên thị trường ngoại hối có thể
biến thành một phản ứng dài hạn như thế nào, và sự kinh doanh chênh lệch tỷ giá
trên thị trường tài chính là nhân tố chính để xác định tỷ giá. Đồng thời, nó còn
giúp người ta hiểu được tại sao TGHĐ lại biến động mạnh hằng ngày.
Mô hình này dựa trên một số giả thuyết quan trọng của trường phái kinh tế học
Keynes, đó là những thay đổi về tiền tệ không ảnh hưởng đến khu vực tài sản
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế
Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 7
thực trong dài hạn và gía cả cứng nhắc trong ngắn hạn. Mô hình giả thiết rằng
ban đầu, nhà đầu tư không hề dự tính đến việc tăng tỷ giá. Giá cả là cứng nhắc
trong ngắn hạn và chỉ điều chỉnh chậm chạp hướng về điểm cân bằng dài hạn khi
thị trường có một cú sốc tiền tệ, sự chu chuyển vốn là hoàn hảo.
3.2. Quy mô mẫu
Năm nền kinh tế Châu Á được sử dụng làm mẫu quan sát là Thái Lan, Indonesia,
Malaysia, Hàn Quốc và Hồng Kông.
Cùng với sự tham khảo và đối chiếu từ bốn nền kinh tế Mỹ Latinh là Mexico, Chile,
Argentina và Brazil.
3.3. Cách chọn mẫu:
Để mẫu được chọn có hiệu quả trong việc so sánh các cách thức áp dụng TGHĐ khác
nhau trong khủng hoảng, tác giả đã chọn mẫu đại diện cho ba chế độ TGHĐ khác nhau bao
gồm chế độ tỷ giá thả nổi, chuẩn tiền tệ và chế độ kiểm soát vốn, cụ thể được trình bày
trong Bảng 1.
BẢNG 1
CÁC CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI SỬ DỤNG TRONG THỜI GIAN KHỦNG HOẢNG TIỀN TỆ
Chế độ tỷ giá Đông Á Mỹ Latinh
Tỷ giá thả nổi Indonesia (Rupiah, 8.1997)
Hàn Quốc (Won, 11.1997)
Thái Lan (Baht, 7.1997)
Brazil (Real, 12.1994)
Mexico (Peso, 12.1994)
Chuẩn tiền tệ Hồng Kông (Đôla, 10.1997) Argentina (Peso, 12.1994)
Kiểm soát vốn Malaysia (Ringgit, 8.1997) Chile (Peso)
Đối với các nước Châu Á: Mẫu thời gian được chọn là 3 năm, bắt đầu từ đầu năm 1997
và kéo dài đến năm 1999. Lý do chọn mốc thời gian trên bởi vì cuộc khủng hoảng Châu Á
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế
Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 8
bắt đầu vào tháng 7/1997, khi Thái Lan yêu cầu sự giúp đỡ của IMF. Từ Thái Lan, cuộc
khủng hoảng lan sang Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc và Hồng Kông.
Đối với các nước Mỹ Latinh: Mẫu thời gian được chọn là 3 năm, bắt đầu từ đầu năm
1994 và kéo dài đến năm 1996. Nhằm mục đích để so sánh với các nước Châu Á trong
khủng hoảng, mẫu được xem xét trong khoảng thời gian trên vì khủng hoảng kinh tế
Mexico năm 1994 (còn được gọi bằng tên khác là khủng hoảng Peso Mexico, là một cuộc
khủng hoảng kinh tế bùng phát bằng sự mất giá nhanh chóng của Peso Mexico vào tháng
12 năm 1994 và sau đó lan ra các nền kinh tế của các nước khác. Cuộc khủng hoảng này
không chỉ làm cho kinh tế Mexico chao đảo, mà còn ảnh hưởng tiêu cực tới kinh tế các
nước Mỹ Latinh khác. Ảnh hưởng ra nước ngoài của nó được gọi là hiệu ứng Tequila.
3.4. Nghiên cứu định tính:
3.4.1. Khái niệm chi phí điều chỉnh:
Trong phạm vi bài viết, thuật ngữ “chi phí điều chỉnh” được xem xét như là những mất
mát gây ra bởi cuộc khủng hoảng và những chi phí mà nền kinh tế phải gánh chịu trong quá
trình đưa ra và thực hiện các chính sách nhằm đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng.
3.4.2. Một số yếu tố ước lượng chi phí điều chỉnh
Từ những nền kinh tế được xem xét trong mẫu được chọn, việc ước lượng những chi
phí cho việc điều chỉnh ứng với mỗi chế độ TGHĐ dựa trên bốn tiêu chuẩn:
+ Tiêu chuẩn thứ nhất là mức độ tăng vọt của TGHĐ danh nghĩa và TGHĐ thực.
+ Tiêu chuẩn thứ hai là những thay đổi trong rủi ro quốc gia, được đo lường bởi phần
bù rủi ro có được do quan sát độ lệch trong điều kiện ngang giá lãi suất một cách
chắc chắn.
+ Tiêu chuẩn thứ ba là điểm mạnh của chính sách thắt chặt tiền tệ mà cần phải có
trong thời kỳ khủng hoảng. Chi phí này luôn xảy ra dưới bất kỳ chế độ nào.
+ Tiêu chuẩn thứ tư là mức độ khốc liệt cũng như quãng thời gian của quá trình khôi
phục sau khủng hoảng tiền tệ.
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế
Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 9
Việc xem xét và đo lường mức độ tác động của từng tiêu chí trên sẽ được xem xét trong
phần nghiên cứu định lượng của bài nghiên cứu này.
Để hiểu rõ hơn về cách thức xác định chi phí điều chỉnh, hãy cùng xem xét ví dụ về
đồng Rupiah của Indonesia. Giả định rằng người dân Indonesia chỉ giữ những tài sản định
danh bằng Rupiah, nhưng dân cư phần còn lại của thế giới thì nắm giữ các tài sản định danh
bằng đồng Rupiah và những tài sản định danh khác bằng đồng đôla. Gọi e là tỷ giá của
đồng Rupiah theo đồng đôla. Lưu ý rằng đây là sự đảo ngược của cách yết giá bình thường
theo thông lệ quốc tế (Đôla/Rupiah). Gọi tài sản định danh bằng đồng Rupiah do phần còn
lại của thế giới nắm giữ là Z (Rupiah). Khi đó cán cân thanh toán của Indonesia là một hàm
theo TGHĐ e và số lượng nợ Z. Cán cân thanh toán nghịch biến với TGHĐ e và đồng biến
với nợ Z. Trong điều kiện tăng Z thì xuất hiện bất ổn trong cán cân thanh toán của
Indonesia, ta có phương trình:
dZ/ dt = f (Z,e) (1)
với fz 0
Phương trình cân bằng danh mục đầu tư thể hiện mối quan hệ mà cư dân phần còn lại
của thế giới sẽ nắm giữ một tỷ lệ cao hơn tài sản của Indonesia trong danh mục đầu tư của
họ, nếu tỷ lệ tăng giá kỳ vọng của đồng tiền Indonesia cao hơn. Tức là, biểu thị sự kỳ vọng
của nhà đầu tư bằng E, ta có:
(eZ)/(W + eZ) = g( π ) (2)
Với π = E[(de/dt)/e], và g’( π )>0.
Nếu thêm giả định E[(de/dt)/e] = (de/dt)/e, tác giả sẽ suy ra từ phương trình (2) được
phương trình sau:
de/dt= h(Z,e) (3)
Với hz>0 và he<0
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế
Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 10
Điều này thể hiện sự cân bằng danh mục đầu tư sẽ được xem xét khi sử dụng TGHĐ
danh nghĩa e, và sự cân bằng tài khoản vãng lai sẽ được xem xét khi sử dụng TGHĐ thực
tế, bởi vì tài khoản vãng lai được xem là phản ứng với TGHĐ thực tế.
Trong hình 1, phương trình (1) và (3) được biểu thị bằng đường CC và PP. Đường CC
biểu thị các kết hợp của e và Z nhằm giữ tài khoản vãng lai của Indonesia cân bằng, hoặc
duy trì giá trị tài sản của Indonesia được nắm giữ bởi phần còn lại của thế giới là không đổi.
Đây thực chất là một mối quan hệ ổn định, và giá trị của Z tăng lên phí bên trái đường CC
và giảm đi phía bên phải đường CC. Đường PP biểu thị các kết hợp của e và Z nhằm duy trì
sự cân bằng trong danh mục đầu tư của phần còn lại thế giới. Về bản chất, đây là một quan
hệ không ổn định, và e tăng lên phía trên đường PP, giảm đi phía dưới đường PP. Việc kết
hợp của hai sự cân bằng trên đã tạo ra điểm A, điểm giao nhau của CC và PP – một dạng
điểm cân bằng quen thuộc trong kinh tế học. Khi có các thay đổi trong các biến ngoại sinh,
TGHĐ e dao động xung quanh điểm cân bằng và cán cân thanh toán được điều chỉnh từng
bước tới trạng thái cân bằng mới.
HÌNH 1. Phương pháp danh mục đầu tư tiếp cận TGHĐ
Trước khủng hoảng, tương lai của nền kinh tế Indonesia được kỳ vọng là tốt đẹp. Vì
vậy, phần còn lại của thế giới cũng chấp nhận nắm giữ một lượng lớn nợ của Indonesia.
Đường cân bằng danh mục đầu tư PP đã được đặt ở phía bên phải của hình. Trạng thái cân
bằng là điểm A, tại đó nợ của Indonesia lớn và giá trị của đồng Rupiah là cao. Sau đó, nhu
cầu nắm giữ tài sản của định danh bằng đồng Rupiah giảm mạnh đột ngột, và trạng thái cân
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế
Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 11
bằng mới chuyển đến điểm B. Vì chỉ có Z thay đổi chậm và e thay đổi nhanh, hướng đi của
các biến được thể hiện trong quỹ đạo từ A sang B’ đến B. Như đồ thị (2A và 2B) đã thể
hiện, một tình huống tương tự đã xảy ra tại nhiều quốc gia, bao gồm cả Thái Lan và Hàn
Quốc.
Hình 2A. Mỹ Latinh
Hình 2A và 2B cho thấy những thay đổi trong TGHĐ sau sự biến động của nhu cầu tiền
và sự điều chỉnh chậm chạp của tài khoản vãng lai. Hầu hết các quốc gia đang xét (ngoại
trừ Brazil và Chile) đã cho tác giả thấy sự nhảy vọt của TGHĐ và sự đảo chiều tài khoản
vãng lai từ thâm hụt đến thặng dư. Lý do dẫn đến sự biến động trên là khi mà những người
tham gia thị trường bất ngờ nhận ra rằng họ đã quá lạc quan về thu nhập của một quốc gia ở
tương lai, đường CC (thể hiện bởi phương trình 1) dịch chuyển sang bên trái vì người ta
không nghĩ là mình sẽ nhận được một mức lợi tức trong lương tai từ việc đầu tư của họ.
Hơn nữa, đường PP (thể hiện bởi phương trình 3) di chuyển xuống nhiều hơn, cho thấy sự
sụt giảm nhanh chóng của TGHĐ.
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế
Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 12
Hình 2A. (tiếp theo)
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế
Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 13
HÌNH 2A. (tiếp theo)
Kiểm soát vốn sẽ làm thay đổi độ dốc của đường PP và tốc độ điều chỉnh của mô hình.
Sự thay đổi trong “Thuế Tobin” (kí hiệu: τ) trong tất cả các giao dịch vốn sẽ dùng
g(1-τ)π) để thay thế cho g(π). Ta có thể dễ dàng nhìn vào đồ thị và thấy rằng hướng di
chuyển trong đồ thị trở nên dốc hơn. Trong mô hình này, thuế đánh trên sự chuyển dịch vốn
sẽ làm tăng tính biến động của TGHĐ hơn là giảm chúng. Mặc khác, nếu việc kiểm soát
dòng vốn ra được áp dụng, điển hình như ở Malaysia, làm cho đường PP di chuyển sang
phải và tại điểm cân bằng mới TGHĐ sẽ bước đầu tăng lên. Tỷ giá tăng lên này liệu có
được bù đắp bởi sự miễn cưỡng đầu tư của các nhà đầu tư tương lai hay không?
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế
Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 14
HÌNH 2B. Đông Á
Trong trường hợp kiểm soát dòng vốn vào của Chile, điều này gây ra sự hạn chế trong
việc duy trì dòng vốn vào. Hơn nữa, việc kiểm soát vốn có khuynh hướng làm giảm giá
đồng nội tệ.
TGHĐ cố định, bao gồm cả chế độ chuẩn tiền tệ, làm cho TGHĐ trở thành biến chính
sách. Đường CC và đường PP sẽ được cố định tại tỷ giá mà các nhà điều hành quyết định.
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế
Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 15
Cho nên, tổn thất chính của một quốc gia sử dụng chuẩn tiền tệ chính là mức lãi suất cao
xuất phát từ các cuộc tấn công tiền tệ. Một cuộc tấn công hoàn toàn có khả năng xảy ra
miễn là khả năng duy trì TGHĐ cố định của chính phủ không được tin tưởng một cách
tuyệt đối. Các cuộc tấn công tiền tệ này sẽ hút cạn ngoại tệ dự trữ từ hệ thống ngân hàng
trung ương một cách nhanh chóng đủ để làm cho lãi suất đồng nội tệ trở nên cực kì cao. Do
đó, chi phí của việc cố định TGHĐ bằng chế độ chuẩn tiền tệ chính là gánh nặng lãi suất
cao cho quốc gia.
Hình 2B (tiếp theo)
Vì vậy, sự khác nhau trong cơ chế điều chỉnh phụ thuộc vào mỗi chế độ TGHĐ. Chi phí
điều chỉnh cho mỗi quốc gia khác nhau trong các cuộc khủng hoảng là khác nhau. Nói một
cách khác, chi phí điều chỉnh đối với công ăn việc làm, ổn định giá cả và phân phối thu
nhập được ẩn bên dưới hai phương trình (1) và (2). Một khi đã xảy ra biến động trong nhu
cầu tài sản đầu tư, một số chi phí điều chỉnh thường là không thể tránh khỏi. Tác giả cần
phải có một cách nhìn bao quát đối với mối quan hệ giữa lợi ích và chi phí trong mỗi cơ chế
điều chỉnh khác nhau. Vì vậy, việc xem xét và so sánh những lựa chọn khả thi, ví dụ như hệ
thống chuẩn tiền tệ, TGHĐ thả nổi hay kiểm soát vốn của các nước Chile hay Malaysia, sự
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế
Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 16
khác biệt của mỗi tiêu chí trong các chế độ TGHĐ khác nhau là một công việc cần thiết vì
các yếu tố đó sẽ tạo ra ảnh hưởng khác nhau đến chi phí điều chỉnh.
Chi phí điều chỉnh trong giai đoạn phục hồi sau khủng hoảng thường được thể hiện bởi
mức độ thắt chặt tiền tệ cần thiết để ngăn chặn sự mất giá của đồng nội tệ, bởi sự giảm sút
sản lượng trong suốt thời kỳ điều chỉnh, bởi thời gian suy thoái và bởi thời gian mà rủi ro
quốc gia liên tục duy trì ở mức độ cao.
3.5. Nghiên cứu định lượng
3.5.1. Mức độ biến động đột ngột của TGHĐ
TGHĐ danh nghĩa: TGHĐ danh nghĩa là một yếu tố quyết định của phương trình cân
bằng danh mục đầu tư1 theo hướng tiếp cận danh mục đầu tư của tác giả.
Khi khủng hoảng tài chính xảy ra, cả hai loại tỷ giá đều có sự biến động dữ dội. Điều
này được biểu thị trong quỹ đạo đầy biến động của TGHĐ đi theo sau sự dịch chuyển
xuống của đường PP trong hình 1. Về lý thuyết, sự biến động này sẽ mạnh mẽ hơn dưới chế
độ TGHĐ thả nổi, vì thế sẽ hơi vô lý khi so sánh mức độ biến động TGHĐ trong hệ thống
tỷ giá thả nổi với mức độ biến động TGHĐ trong các chế độ khác. Tuy nhiên chúng tôi vẫn
xem xét sự biến động của cả TGHĐ danh nghĩa và thực hiện dưới chế độ TGHĐ thả nổi để
đo lường những chấn động đầu tiên.
1 Phương trình cân bằng danh mục đầu tư: mô hình này dựa trên một số giả thuyết quan trọng của trường
phái kinh tế học Keynes, đó là những thay đổi tiền tệ không ảnh hưởng đến khu vực tài sản thực trong dài
hạn và giá cả cứng nhắc trong ngắn hạn. Theo mô hình này, tồn tại một sự tương quan lãi suất giữa lãi suất
trong nước và quốc tế:
i = i* + Et(et+1 – et)
Trong đó: i - lãi suất trong nước
i* - lãi suất nước ngoài
e – logarit của tỷ giá (nội tệ/ ngoại tệ)
Et – kỳ vong của thị trường vào thời điểm t
Mô hình này chỉ ra rằng một phản ứng ngắn hạn trên thị trường ngoại hối có thể biến thành một phản ứng
dài hạn như thế nào, và kinh doanh chênh lệch tỷ giá trên thị trường tài chính là nhân tố xác định tỷ giá.
Đồng thời, nó còn giải thích tại sao tỷ giá hối đoái lại biến động mạnh từng ngày.
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế
Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 17
Để tiêu chuẩn hóa TGHĐ hàng tháng, chúng tôi chia TGHĐ ra thành từng cấp độ với
TGHĐ gốc là vào tháng 01/1994 ở Mỹ Latinh (hình 3 và hình 5), và vào tháng 01/1997 ở
Đông Á (hình 4 và 6).
Hình 3 cho thấy TGHĐ danh nghĩa đồng Real của Brazil giảm sút nhanh chóng như thế
nào trước khi khủng hoảng Mexico xảy ra – hơn 6 lần trong vòng 6 tháng. Tuy nhiên, vào
thời điểm khủng hoảng Mexico thực sự xảy ra, đồng Real lại không tiếp tục giảm giá nhanh
như trước nữa. Mặc dù sự sụt giảm giá trị của đồng Peso Mexico được xem là ít nghiêm
trọng hơn so với đồng Real, nhưng thực sự nó cũng đã giảm giá trị một nửa (so với đồng
USD) chỉ trong vòng một quý sau tháng 12/1994. Trái lại, TGHĐ của đồng Peso ở cả
Argentina và Chile so với đồng USD vẫn giữ ổn định.
Hình 3. TGHĐ danh nghĩa ở Mỹ Latinh, 1994 – 1996
Tương tự như vậy, trong hình 4, tác giả có thể thấy sự giảm sút mạnh trong TGHĐ
danh nghĩa của đồng Rupiah (Indonesia) sau tháng 11/1997. Sự giảm sút này của đồng
Rupiah mạnh hơn nhiều so vơi các loại tiền tệ khác trong suốt cuộc khủng hoảng tài chính
Châu Á.
Khi so sánh ta thấy đồng Bath Thái và Won Hàn về cơ bản bị sụt giảm chỉ còn chứ
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế
Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 18
Hình 4. TGHĐ danh nghĩa ở Đông Á, 1997 – 1999
tới nữa giá trị ban đầu của nó. Đối với Rupiah, có hai “đáy” trong TGHĐ (hay hai đỉnh
trong đồ thị với đồng USD là đồng yết giá), một đỉnh vào đầu năm 1998, đỉnh còn lại vào
tháng 06/1998, nó giống như “một củ nhảy 3 bước”. Đỉnh đầu tiên là vào lúc bắt đầu khủng
hoảng, trong khi đỉnh thứ 2 gây nên bởi tình hình chính trị trong nước rối ren sau đó. Tuy
nhiên, kể từ cuối năm 1998, TGHĐ danh nghĩa này ổn định trong khoảng ba hoặc bốn lần
(trong mối quan hệ với giá USD) so với TGHĐ trước thời kỳ khủng hoảng. Nói cách khác,
đồng Rupiah đã giữ được giá trị của nó sau khoảng thời gian sụt giảm, ở mức 1/3 hay 1/4
giá trị ban đầu trước khi bắt đầu cuộc khủng hoảng trong mối quan hệ với USD.
Tỷ giá hối đoái thực
TGHĐ thực là một yếu tố quyết định của phương trình cân bằng cán cân thanh toán.
Trên thực tế, thì đồng Peso Mexico, chứ không phải đồng Real Brazil, đã giảm giá nhiều
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế
Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 19
nhất trong 4 nước Châu Mỹ Latinh nêu trên (xem hình 5). TGHĐ thực của đồng Real Brazil
đã tăng giá nhiều hơn là giảm giá, khoảng 20% “nhờ có” siêu lạm phát 4 chữ số ở quốc gia
này (tức là tăng giá thực tế hơn là giảm giá danh nghĩa). Có nghĩa là, Brazil là một trường
hợp đặc biệt so với ba nước Mỹ Latinh còn lại.
Hình 5. TGHĐ thực ở Mỹ Latinh, 1994 – 1996
Tương tự vậy, TGHĐ thực tế của Rupiah giảm giá gần như với cùng mức độ như
TGHĐ danh nghĩa xét trong cùng thời kỳ. Ở hình 6, tác giả có thể thấy “một cú nhảy 3
bước” trong TGHĐ thực rõ ràng hơn TGHĐ danh nghĩa trong cùng thời kỳ.
Điều này chỉ ra sự liên quan giữa các mô hình xác định tỷ giá với “mô hình giá cứng
trong ngắn hạn” của Dornbusch (1976). Mức giá của nhiều quốc gia là khá cứng nhắc, và
vì thế TGHĐ thực thường hay thay đổi cùng chiều với TGHĐ danh nghĩa. Điều này cho
rằng thế giới thực cũng giống như miêu tả của mô hình Dornbush, hoặc là giống như mô
hình cân bằng danh mục sẽ thảo luận dưới đây. TGHĐ đã có sự biến động đột ngột. Mặc dù
mô hình của Dornbush bị phê phán là không có cơ sở kinh tế học vi mô, nhưng nó dường
như đã giải thích sự biến động mạnh mẽ của TGHĐ tốt hơn mô hình dựa trên nền tảng kinh
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế
Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 20
tế vi mô khá phức tạp như mô hình của Obstfeld và Rogoff (1995), một mô hình không có
những biến động đột ngột trong TGHĐ. Nghiên cứu bằng đồ thị của nhóm tác giả, trong đó
đồng thời TGHĐ thực và danh nghĩa lên cùng một trục tọa độ theo phương pháp tiếp cận
danh mục, có thể được chứng minh là đúng đắn qua những quan sát trên. Tuy nhiên nhóm
tác giả cũng đề xuất nên nghiên cứu cẩn thận những trường hợp lạ thường như của Brazil,
khi TGHĐ thực di chuyển khác chiều với TGHĐ danh nghĩa.
Hình 6. TGHĐ thực ở Đông Á, 1997 – 1999
3.5.2. Rủi ro quốc gia
Nghiên cứu đã cố gắng lượng hoá rủi ro quốc gia thông qua công thức:
Có 2 quốc gia: Malaysia và Mỹ. Giả sử rằng nhà đầu tư Mỹ đầu tư vào tài sản được định
danh bằng đồng ringgit Malaysia hoặc tài sản trong nước được định danh bằng đồng đôla.
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế
Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 21
Trong đó, i: lãi suất ở Malaysia
i*: lãi suất ở Mỹ
τ: mức thuế đánh trên mọi giao dịch vốn (Giả sử Malaysia áp đặt một
chính sách kiểm soát trên dòng vốn ra, hoạt động như một “mô hình thuế
Tobin” (Tobin tax) với mức thuế τ đánh trên mọi giao dịch vốn. τ không
phải là một mức thuế suất thực sự nhưng là thuế suất tương đương của sự
kiểm soát vốn)
δ : phần bù rủi ro
e’/e: tỷ lệ thay đổi trong TGHĐ kỳ vọng (TGHĐ được sử dụng là ringgit
trên đôla Mỹ)
Từ công thức trên, phần bù rủi ro được tính bằng:
δ = i – i* - e’/e – τ
Tuy nhiên, việc xác định δ là không đơn giản. Thứ nhất, việc xác định e’/e là rất khó
khăn vì sự thay đổi trong TGHĐ kỳ vọng sẽ không giống sự thay đổi trong TGHĐ thực tế.
Những ước lượng dựa vào số liệu trong quá khứ chỉ mang tính chất tương đối. Thứ hai, tác
giả cũng không thể quan sát được phần thuế Tobin tương ứng.
Edward (1999) đã ước lượng phần thuế tương đương của kiểm soát vốn ở Chile, giả sử
rằng dòng vốn vào và ở lại lần lượt trong 180 ngày, 1 năm và 3 năm. Ước lượng được cho
bởi công thức:
Trong đó, i*: lãi suất quốc tế đóng vai trò như một chi phí cơ hội cho khoản tiền dự
trữ bắt buộc
λ: phần ký quỹ bắt buộc phải gửi vào NHTW
ρ: khoảng thời gian ký quỹ tính bằng tháng
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế
Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 22
k: thời gian đáo hạn của khoản đầu tư
Tương tự, tác giả cũng có thể ước lượng phần thuế tương đương của kiểm soát vốn ở
Malaysia. Tác giả phải dựa trên dữ liệu thuế, tuy nhiên, một lần nữa, là phải theo nền tảng
số liệu lúc sau (ex post). Trong khi kiểm soát vốn ở Chile được thực hiện dựa trên số liệu
dự đoán lúc đầu (ex ante), kiểm soát vốn ở Malaysia không cho phép rút vốn một khi đã
đầu tư vào với lời hứa sẽ không có bất kỳ một hình thức thuế nào giống như trên. Như vậy,
cho dù tác giả có ước lượng được thuế suất lúc sau (ex post) ở Malaysia, nó không chắc đã
là cách thức đo lường hợp lý cho τ, gặp phải cùng một vấn đề như khi ước lượng mức độ
giảm sút TGHĐ ở trên.
Mặc dù có nhiều yếu tố trong đo lường rủi ro quốc gia, nhưng nghiên cứu này sử dụng
hai thước đo sau đây. Thứ nhất là “sự giảm giá – phần bù rủi ro điều chỉnh”, được định
nghĩa như là chênh lệch lãi suất i – i* trừ đi giảm giá TGHĐ thực tế (ex post) e’/e của đồng
ringgit; công thức: i – i* - e’/e. Thứ hai là sự chênh lệch lãi suất của bản thân i - i*. Cách
thứ hai không vướng phải sai lệch trong kỳ vọng, nhưng cũng không tính đến giảm giá kỳ
vọng. Trong trường hợp đó, cách thức đo lường phần bù rủi ro này đưa đến “vấn đề đồng
Peso” ngay cả khi tiền tệ thực sự có giảm giá. Không có sai lệch kỳ vọng, cách thứ nhất sẽ
phù hợp hơn với cách thức đo lường rủi ro quốc gia thay đổi theo thời gian. Mặc dù cả hai
cách thức trên đều còn rất hạn chế trong việc đo lường rủi ro quốc gia, nhưng ít nhất nó vẫn
cung cấp được những thông tin hữu ích. Xét đến sự liên tục trong chuỗi dữ liệu, trong tính
toán thực tế, tác giả sử dụng lãi suất tiền gửi ở mỗi quốc gia và lãi suất 3 tháng LIBOR của
Mỹ.
Sự điều chỉnh giảm của phần bù rủi ro điều chỉnh (i – i* - e’/e)
Nhóm các nước Mỹ Latinh
Nhìn chung, theo hình 7 thì hai nước có chế độ chuẩn tiền tệ và kiểm soát vốn
(Argentina và Chile) có sự điều chỉnh giảm của phần bù rủi ro điều chỉnh ổn định hơn hai
nước thả nổi tỷ giá (Brazil và Mexico). Có sự sụt giảm khi đo lường sự điều chỉnh giảm của
phần bù rủi ro trong giai đoạn khủng hoảng và đại lượng này dần trở nên ổn định khi sau
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế
Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 23
khủng hoảng. Có hai thời điểm là qu í 04/1994 và 03/1995, sự điều chỉnh giảm của phần bù
rủi ro của Mexico đảo chiều rất mạnh. Điều này có thể được l í giả do Mexico đang chìm
sâu vào khủng hoảng; do đó, có sự chênh lệch lớn trong TGHĐ kỳ vọng của các nhà đầu tư
và TGHĐ thực tế. Mặt khác, mặc dù rủi ro quốc gia của Chile ổn định hơn hai quốc gia sử
dụng hệ thống tỷ giá thả nổi ở trên, nhưng trong đa số các thời kỳ, tính trung bình thì nó
vẫn cao hơn (9.4%) so với rủi ro quốc gia của Argentina (3.7%). Điều đáng ngạc nhiên là,
rủi ro của Chile là 33% trong quý 1 năm 1995 cao hơn 28% so với Brazil. Bởi vì Chile thực
hiện kiểm soát vốn từ năm 1991, rủi ro quốc gia tăng lên do tác động dây chuyền của khủng
hoảng Mexico ắt hẳn phải được thể hiện ra trong một phần bù rủi ro tăng lên. Phần bù rủi ro
này được đánh giá bởi các nhà đầu tư quốc tế đang phải đối mặt với sự hạn chế và không
chắc chắn do chế độ kiểm soát vốn của Chile. Tuy nhiên, phần bù rủi ro sau cuộc khủng
hoảng trở nên thấp hơn trước đó, giảm xuống mức trung bình là 6.6%.
Trước khi khủng hoảng Mexico diễn ra, Brazil phải đối mặt với những khó khăn trong
việc huy động vốn từ thị trường tài chính quốc tế. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian xảy ra
khủng hoảng Mexico sự điều chỉnh giảm của phần bù rủi ro điều chỉnh của Brazil đã giảm
nhanh chóng từ 84% quý 3 năm 1994 xuống 11% quý 4 năm 1996 (hình 7). Trái ngược với
sự cải thiện trong rủi ro quốc gia của Brazil (ngay sau sự giảm sút dữ dội trong rủi ro quốc
gia) vào giai đoạn đầu khủng hoảng, rủi ro quốc gia của Mexico lại tăng lên. Mức đỉnh 37%
ở quý 2 năm 1995 có thể so sánh với mức rủi ro 41% của Brazil tại cùng thời điểm.
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế
Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 24
HÌNH 7. Sự giảm giá – Phần bù rủi ro điều chỉnh, Mỹ Latinh, 1994 - 1996
Nhóm các nước châu Á
Giống như trường hợp Mexico, ở các quốc gia Châu Á, có sự giảm mạnh khi đo lường
sự điều chỉnh giảm của phần bù rủi ro mỗi khi có khủng hoảng xảy ra, có lẽ là do những sai
lệch trong kỳ vọng rằng tiền tệ sẽ giảm giá (hình 8). Ở Thái Lan, phần bù rủi ro là 64%
trong quý 1 năm 1998. Tương tự, Hàn Quốc đạt mức cao nhất 63% trong suốt thời kỳ
khủng hoảng. Ở cả hai quốc gia, sự tính toán sai của các nhà đầu tư liên quan đến sự hồi
phục của đồng bản tệ đã tạo ra phần bù rủi ro tăng thêm sau đó (ex post risk premium); tuy
nhiên, phần bù rủi ro này giảm đi trong quý tiếp theo. Trái lại, ở Indonesia, sự rối loạn
chính trị sau khủng hoảng phần nào đã làm cho rủi ro sau đó (sau khủng hoảng) rất lớn,
181% trong quý 3 năm 1998 mặc dù đồng Rupiah đã tăng giá tương đối. Sự hồi phục của
đồng Baht cũng đem đến sự thay đổi tích cực trong phần bù rủi ro (50%) ở Thái Lan. Hiện
tại (2000), phần bù rủi ro của Indonesia có vẻ đang giảm đi.
Sau giai đoạn khủng hoảng ở Indonesia, Malaysia áp đặt một lệnh kiểm soát dòng vốn
ra vào tháng 9 năm 1998. Tác động của kiểm soát vốn có thể được nhận thấy trong phần bù
rủi ro quý 3 năm 1998: phần bù rủi ro này là 28%, trong khi vào quý tiếp theo nó giảm
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế
Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 25
xuống còn 0.6%. Trong cả hai trường hợp Chile và Malaysia, tác động của kiểm soát vốn
trên rủi ro quốc gia có vẻ chỉ trong ngắn hạn, mặc dù nó thực sự hiệu quả.
HÌNH 8. Sự giảm giá – Phần bù rủi ro điều chỉnh, Đông Á, 1997 - 1999
Chênh lệch trong lãi suất (i-i*)
Để xác định khả năng xảy ra sai lệch kỳ vọng trong chỉ số sự điều chỉnh giảm của phần
bù rủi ro, nghiên cứu đã so sánh hai đại lượng: (i-i*-e’/e) và (i-i*). Với sự tồn tại của sai
lệch lớn trong kỳ vọng ngay khi khủng hoảng xảy ra, mức độ điều chỉnh giảm của phần bù
rủi ro sau đó đột ngột trở giảm mạnh. Sự điều chỉnh giảm của phần bù rủi ro phải thể hiện
sự xấu đi của nền kinh tế khi bắt đầu xảy ra khủng hoảng, trái với sự dịch chuyển chậm
chạp của phần bù rủi ro đo lường bởi chênh lệch lãi suất theo cách truyền thống. Nếu không
phải như thế thì, khi tác giả quan sát những dao động tương tự giữa sự điều chỉnh giảm của
phần bù rủi ro và chênh lệch lãi suất, thì cả hai chỉ báo trên có thể được phân tích như
những chỉ báo không hiệu quả để đo lường rủi ro quốc gia theo thời gian.
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế
Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 26
Theo như hình 9, rủi ro quốc gia của Brazil được cải thiện nhanh chóng trong suốt
khủng hoảng Mexico, và sau đó biến động cùng chiều với rủi ro Mexico trong một khoảng
thời gian. Tuy nhiên, bởi vì không có những dấu hiệu của bất kỳ thay đổi nào trong chênh
lệch lãi suất Mexico, sự sụt giảm quan sát được của phần bù rủi ro đo lường ngay khi xảy ra
khủng hoảng Mexico có thể được luận giải là do sai lệch trong kỳ vọng.
Rủi ro của Chile khá ổn định nhưng ở mức cao cũng thể hiện trong chênh lệch lãi suất.
Mức rủi ro trung bình cao hơn Argentina. Điều này thể hiện tác động của việc kiểm soát
vốn của Chile trên suy nghĩ của các nhà đầu tư quốc tế, đang lo lắng về thuế suất tương
đương của sự kiểm soát vốn.
HÌNH 9. Chênh lệch lãi suất, Mỹ Latinh, 1994 – 1996
Tương tự, trong hình 10 tác giả nhận thấy một sự sụt giảm lớn trong sự giảm giá – phần
bù rủi ro điều chỉnh của Indonesia do sai lệch kỳ vọng. Cũng giống như ở Indonesia, sai
lệch kỳ vọng có vẻ cũng xảy ra ở Hàn Quốc, Thái Lan và Malaysia trước khi khủng hoảng
bắt đầu. Mức rủi ro quốc gia cao ở Hàn Quốc và Thái Lan giảm qua từng quý. Sự tăng đột
ngột trong rủi ro quốc gia ở Indonesia có thể phản ánh lo lắng về sự rối loạn chính trị theo
sau khủng hoảng.
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế
Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 27
HÌNH 10. Chênh lệch lãi suất, Đông Á, 1997 – 1999
3.5.3. Mức độ thắt chặt của chính sách tiền tệ
Tác giả nghiên cứu mức độ thắt chặt tiền tệ khi có khủng hoảng tiền tệ của các nước
trong mẫu nghiên cứu.
- Đối với các nước theo chế độ tỷ giá chuẩn tiền tệ như Argentina và Hồng Kông, khi
có khủng hoảng xảy ra, để tránh các cuộc tấn công đầu cơ mạnh mẽ có thể xảy ra đối với
đồng tiền của họ thì chính phủ các nước này phải áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ bằng
cách tiếp tục duy trì lãi suất cao hơn hoặc cung tiền ở mức thấp hơn mức độ cung tiền đáng
lẽ phải có của nền kinh tế. Việc cắt giảm cung tiền trong các cuộc khủng hoảng có thể là
một nguyên nhân dẫn đến các chi phí điều chỉnh.
- Hệ thống TGHĐ thả nổi cho phép thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ độc lập, và
cho phép nền kinh tế để chống lại tình trạng suy thoái. TGHĐ thả nổi có thể san bằng làn
sóng suy thoái kinh tế nếu chính sách tiền tệ độc lập được sử dụng một cách thận trọng.
Trường hợp của Indonesia dường như chỉ ra rằng các chính sách mở rộng tiền tệ vô kỷ luật
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế
Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 28
ở giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng đã để lại gánh nặng đối với nền kinh tế trong nhiều
năm sau. Trong tình huống này, IMF hỗ trợ nền kinh tế như Indonesia với một chính sách
lãi suất cao.
Tác giả quan sát biến động trong tốc độ tăng trưởng trong cung tiền: Đo lường tỷ lệ
phần trăm thay đổi hàng quý trong khối tiền M2 của các nước trong mẫu nghiên.
Hình 11, Tốc độ tăng cung tiền, Mỹ Latinh 1994 – 1996
Trong hình 11, tác giả có thể nhìn thấy sự tăng trưởng liên tiếp trong lượng cung cấp
tiền ở hầu hết các nước Châu Mỹ Latinh trong thời gian khủng hoảng. Tuy nhiên, hai
trường hợp ngoại lệ rõ ràng là Brazil và Argentina. Đặc biệt, một sự giảm xuống trong cung
tiền (-13%) trong quý đầu tiên của năm 1995 là dễ thấy tại Argentina dưới chế độ tỷ giá
chuẩn tiền tệ. Mặt khác, Brazil, theo một TGHĐ thả nổi, đã thắt chặt mạnh trong việc cung
tiền của mình trong quý thứ hai của năm 1995, có lẽ trong một nỗ lực để giảm lạm phát
cao, từng đạt đến 2.500% trong tháng 12 năm 1993.
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế
Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 29
Hình 12, Tốc độ tăng cung tiền, Đông Á 1997 - 1998
Hình số 12 cho thấy rằng các nước Đông Á cũng gặp rắc rối với chính sách tiền tệ trong
thời kỳ khủng hoảng của họ. Indonesia là một trường hợp để xem xét. Sau làn sóng đầu tiên
của cuộc khủng hoảng, nguồn cung tiền Indonesian tăng một cách nhanh chóng, tỷ lệ trên
25%. Một phần do nỗ lực để giải cứu ngành ngân hàng khỏi mất khả năng thanh toán. Tuy
nhiên, chính sách mở rộng tiền tệ đã không kéo dài quá lâu. Trong quý III năm 1998,
Indonesia giảm cung tiền (-3%) để đáp ứng chính sách lãi suất cao theo yêu cầu của IMF.
Trường hợp khác là Malaysia trước khi công bố chính sách kiểm soát vốn vào tháng 9
năm 1998. Chính sách thắt chặt tiền tệ vừa phải (-4%) trong quý đầu tiên của năm 1998 có
lẽ nhằm mục đích ổn định giá trị tiền tệ.
Để giữ tỷ giá ở mức ổn định nhất có thể, tiền tệ đã trở thành yếu tố nội sinh. Lúc bắt đầu
của cuộc khủng hoảng vào tháng 12/1997, Hồng Kông, và chỉ có Hồng Kông, tiến hành
một chính sách thắt chặt tiền tệ, trái ngược với việc mở rộng tiền tệ ở mức trung bình từ 3%
đến 8% ở các nước khác. Tuy nhiên, việc giảm cung tiền một cách khéo léo (-1%), Hồng
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế
Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 30
Kông đã có thể tránh các chi phí điều chỉnh phát sinh từ chính sách thắt chặt tiền tệ cần
thiết để duy trì hệ thống chuẩn tiền tệ. Cho đến khi mà mức độ của chính sách thắt chặt tiền
tệ cần thiết còn được xem xét, chi phí điều chỉnh của Hồng Kông dường như là tương đối
nhỏ. Mức độ thắt chặt vừa phải trái ngược với chính sách thắt chặt dữ dội ở Argentina.
Diễn biến của một số nước trong mẫu nghiên cứu
1. Hồng Kông:
Tháng 10 năm 1997, Đôla Hồng Kông bị tấn công đầu cơ. Đồng tiền này vốn được neo
vào Đôla Mỹ với tỷ giá 7,8 HKD/USD. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát ở Hồng Kông lại cao hơn
ở Mỹ. Đây là cơ sở để cho giới đầu cơ tấn công. Nhờ có dự trữ ngoại tệ hùng hậu lên tới 80
tỷ USD vào thời điểm đó tương đương 700% lượng cung tiền M1 hay 45% lượng cung tiền
M3, nên Cơ quan Tiền tệ Hồng Kông đã dám chi hơn 1 tỷ USD để bảo vệ đồng tiền của
mình. Các thị trường chứng khoán ngày càng trở nên dễ đổ vỡ. Từ ngày 20 tháng 10 đến 23
tháng 10, Chỉ số Hang Seng đã giảm 23%. Ngày 15 tháng 8 năm 1998, Hồng Kông nâng lãi
suất cho vay qua đêm từ 8% lên thành 23% và ngay lập tức nâng vọt lên 500%. Đồng thời,
Cơ quan Tiền tệ Hồng Kông bắt đầu mua vào các loại cổ phiếu thành phần của Chỉ số Hang
Seng để giảm áp lực giảm giá cổ phiếu. Cơ quan này và ông Donald Tsang, lúc đó là Bộ
trưởng Tài chính và sau này làm Trưởng Đặc khu hành chính Hồng Kông, đã công khai
tuyên chiến với giới đầu cơ. Chính quyền đã mua vào khoảng 120 tỷ Đôla Hồng Kông
(tương đương 15 tỷ Đôla Mỹ) các loại chứng khoán. Sau này, vào năm 2001, chính quyền
đã bán ra số chứng khoáng này và thu lời khoảng 30 tỷ Đôla Hồng Kông (khoảng 4 tỷ Đôla
Mỹ).
Các hoạt động đầu cơ nhằm vào Đôla Hồng Kông và thị trường chứng khoán của nước
này đã ngừng lại vào tháng 9 năm 1998 chủ yếu do các nhà đầu cơ bị thiệt hại bởi chính
sách điều tiết dòng vốn nước ngoài của chính phủ Malaysia và bởi sự sụp đổ của thị trường
trái phiếu và tiền tệ ở Nga.
Tỷ giá neo giữa Đôla Hồng Kông và Đôla Mỹ vẫn được bảo toàn ở mức 7,8 : 1.
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế
Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 31
2. Indonesia
Tháng 7/1998, khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của Indonesia
đã nới rộng biên độ dao động của TGHĐ giữa Rupiah và Đôla Mỹ từ 8% lên 12%. Tháng
8, đồng Rupiah bị giới đầu cơ tấn công và đến ngày 14 thì chế độ TGHĐ thả nổi có quản lý
được thay thế bằng chế độ thả nổi hoàn toàn. Đồng Rupiah liên tục mất giá. IMF đã thu xếp
một gói viện trợ tài chính khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ Đôla, nhưng Rupiah tiếp tục
mất giá do đồng Rupiah bị bán ra ồ ạt và lượng cầu Đôla Mỹ ở Indonesia tăng vọt. Tháng 9,
cả giá Rupiah lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm xuống mức thấp lịch sử.
Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các công ty Indonesia, đặc biệt là
làm cho món nợ ngân hàng nước ngoài của các công ty tăng lên. Trước tình hình đó, nhiều
công ty đẩy mạnh mua Đôla vào (có nghĩa là bán Rupiah ra) khiến cho nội tệ thêm mất giá
và tỷ lệ lạm phát tăng vọt.
Lạm phát tăng tốc cùng với chính sách tài chính khắc khổ theo yêu cầu của IMF khiến
chính phủ phải bỏ trợ giá lương thực và xăng đã khiến giá hai mặt hàng này tăng lên. Tình
trạng bạo động để tranh giành mua hàng đã bùng phát. Riêng ở Jakarta đã có tới 500 người
bị chết do bạo động. Khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng xã hội đã dẫn tới khủng hoảng
chính trị. Giữa năm 1998, Suharto buộc phải từ chức tổng thống.
Trước khủng hoảng, TGHĐ giữa Rupiah và Đôla vào khoảng 2000 : 1. Nhưng trong
thời kỳ khủng hoảng, tỷ giá đã giảm xuống mức 18.000 : 1.
Do thay đổi TGHĐ và do nhiều nhân tố khác, GDP theo Đôla Mỹ của Indonesia đã
giảm đi.
3. Malaysia
Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht (ngày 2 tháng 7 năm 1997), đồng Ringgit của
Malaysia và thị trường chứng khoán Kuala Lumpur lập tức bị sức ép giảm giá mạnh.
Ringgit đã giảm từ mức 3,75 Ringgit/Đôla Mỹ xuống còn 4,20 Ringgit/Đôla. Phần lớn sức
ép giảm giá đối với Ringgit là từ việc buôn bán đồng tiền này trên thị trường tiền ở nước
ngoài. Những người tham gia thị trường tiền duy trì tài khoản bằng đồng Ringgit ở trạng
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế
Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 32
thái bán ra nhiều hơn mua vào với dự tính về sự giảm giá của đồng Ringgit trong tương lai.
Kết quả là lãi suất trong nước của Malaysia giảm xuống khuyến khích dòng vốn chảy ra
nước ngoài. Lượng vốn chảy ra đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý hai và quý ba năm
1997.
4. Argentina
Argentina có một nền kinh tế nhiều trục trặc. Những năm đầu thế kỷ 20, Argentina được
đánh giá là một nền kinh tế giàu có và là điểm đến hấp dẫn của dân di cư Châu Âu. Nhưng
nền kinh tế này đã tăng trưởng chậm lại hầu như suốt thế kỷ, Argentina bị bỏ lại phía sau.
Đất nước này thường xuyên phải đối mặt với các cuộc đảo chính quân sự và khủng hoảng
kinh tế.
Vào đầu những năm 1990, Argentina đã cố gắng thực hiện một cuộc khởi đầu mới mẻ.
Chính phủ mới được bầu chọn một cách dân chủ. Về kinh tế, Argentina cố gắng ngăn chặn
rủi ro lạm phát bằng việc gắn chặt đồng Peso với Đôla Mỹ (theo cơ chế chuẩn tiền tệ, 1
Peso = 1 Đôla). Kết quả là suốt những năm 1990, nền kinh tế đạt được thành tựu đáng kể:
tăng trưởng nhanh, thu hút dòng vốn nước ngoài vào rất lớn.
Cuối những năm 1990, trục trặc bắt đầu xuất hiện. Đôla Mỹ tăng giá so với Euro, Brazil
phá giá đồng Real. Theo đó, do gắn với Đôla, Peso lên giá so với Euro và Real làm giảm
xuất khẩu của Argentina, vì vậy tăng trưởng kinh tế chậm lại, dòng vốn vào bắt đầu chậm
lại và cạn kiệt, nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái. Các nhà đầu tư mất dần niềm tin cả
vào tương lai của Peso và khả năng trả nợ của chính phủ Argentina. Nhiều người đã không
còn tin vào sự gắn chặt của Peso so với Đôla, họ bắt đầu kỳ vọng Argentina sẽ từ bỏ cơ chế
tỷ giá cố định và đồng Peso sẽ giảm giá so với Đôla. Trong một nỗ lực nhằm giữ lại các
nguồn quỹ ở lại trong nước, chính phủ Argentina đã tăng lãi suất và cố gắng thực hiện cân
bằng ngân sách, nhưng tất cả những cố gắng này đã đẩy nền kinh tế rơi sâu vào tình trạng
suy thoái.
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế
Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 33
3.5.4. Sự mất mát sản lượng và tiến trình phục hồi:
Mối quan tâm của tác giả là xác định mức độ suy thoái nghiêm trọng như thế nào và quá
trình ấy kéo dài bao lâu. Hai đại lượng này có thể đo lường xấp xỉ bằng sự thay đổi trong
sản lượng thực sau khủng hoảng. Tác giả đã sử dụng giá trị thực của chỉ số giá trị sản xuất
công nghiệp (sản lượng dầu thô đối với trường hợp của Indonesia và Argentina), đã được
điều chỉnh bởi chỉ số giá tiêu dùng CPI. Chỉ số sản lượng thực tế được tính theo tháng
ngoại trừ Hồng Kông là theo quý.
Hình 13. Sản lượng thực tế, Mỹ Latinh, 1994 – 1996
Tác giả cũng đồng nhất dữ liệu của mỗi quốc gia bằng cách lấy năm gốc làm chuẩn, với
năm gốc là vào tháng 01/1994 ở Mỹ Latinh (hình 13), và vào tháng 01/1997 ở Đông Á
(hình 14) (một ngoại lệ là dữ liệu IIP của Brazil, được chia thành cấp độ với năm gốc là
01/1995 bởi vì chỉ có dữ liệu từ năm 1995).
TGHĐ chuẩn tiền tệ và kiểm soát vốn: (Argentina và Chile ở Mỹ Latinh, Hồng Kông
và Malaysia ở Đông Á) có sự sụt giảm tương đối và tạm thời trong sản lượng thực trong
giai đoạn đầu khủng hoảng; tuy nhiên sự sụt giảm này không nghiêm trọng.
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế
Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 34
TGHĐ thả nổi hoàn toàn: (Brazil và Mexico ở Mỹ Latinh; Indonesia, Hàn Quốc và
Thái Lan ở Đông Á) chịu ảnh hưởng nghiêm trọng từ cuộc suy thoái. Brazil, Mexico và
Indonesia không bao giờ hồi phục lại được đến mức sản lượng đã đạt được trước khủng
hoảng. Hàn Quốc và Thái Lan sau 18 tháng mới phục hồi lại.
Hình 14. Sản lượng thực tế, Đông Á, 1997 – 1999
IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Còn quá sớm để đưa ra kết luận cuối cùng từ những mẫu thời gian ngắn và số quốc gia
giới hạn đã sử dụng. Tuy nhiên, có thể tạm khẳng định rằng không có một chế độ tỷ giá nào
vượt trội hơn những chế độ khác và thực tế cho thấy có nhiều điểm đáng chú ý:
(1) Mức giá trong nước hầu như không đổi trong khoảng thời gian của cú sốc và trong
suốt giai đoạn điều chỉnh đầu tiên của TGHĐ danh nghĩa. Điều này làm nổi bật lên
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế
Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 35
khía cạnh triển vọng của mô hình biến động đột ngột TGHĐ với sự thay đổi chậm
của giá.
(2) Chỉ một số ít các quốc gia thích ứng được với chế độ thả nổi tỷ giá sau cú sốc đầu
tiên, (Hàn Quốc và Thái Lan) và số còn lại thì không (Inđônêxia, Mexico và Brazil).
(3) Do những khó khăn khác nhau trong quá trình hồi phục, không thể nói rằng chế độ
thả nổi của IMF với sự linh hoạt của dòng vốn là tốt hơn so với những quốc gia thực
hiện kiểm soát vốn. Tất nhiên, vẫn còn câu hỏi làm thế nào để đánh giá được sự mất
mát thật sự từ việc phân phối lại tức thời phát sinh từ việc kiểm soát vốn, tức là
những khó khăn của việc thay đổi tức thời trong tiêu dùng của công chúng. Tuy
nhiên, hiện nay những ảnh hưởng của việc kiểm soát này dường như chỉ trong ngắn
hạn.
(4) Hệ thống chuẩn tiền tệ có những khó khăn riêng của nó như vấn đề về duy trì lòng
tin. Tác động của việc thắt chặt tiền tệ như là kết quả của các cuộc tấn công đầu cơ.
Điều này trái ngược với trường hợp ở Hồng Kông, vấn đề liên quan đến lòng tin gần
như không tồn tại và một sự thắt chặt đột ngột của chính sách tiền tệ đã siết chặt thị
trường tiền tệ, đẩy lãi suất ngắn hạn lên đến ba con số, và tạo ra sự thu hẹp đáng kể
hoạt động kinh tế.
(5) Chi phí điều chỉnh trong chế độ tỷ giá thả nổi cho thấy kết quả ngay lập tức vả khả
quan (Hàn Quốc, Malaysia, Hồng Kông, Argentina và Chilê) và một số nước thì
ngược lại như Mỹ Latinh, Brazil và Mexico, được lý giải là do sự hồi phục chậm
chạp của sản lượng thực tế.
Tóm lại rất khó để xếp hạng ba chế độ nêu trên. TGHĐ linh hoạt cùng với kiểm soát
vốn có vẻ như ổn, nhưng chi phí cho việc ngăn chặn dòng chu chuyển vốn có thể đáng kể.
Hệ thống chuẩn tiền tệ dường như đã làm việc tốt, nhưng sự trì trệ gần đây của mộ số nước
đã gây nghi ngờ về hiệu quả của nó. Cuối cùng, dưới chế độ tỷ giá thả nổi, nền kinh tế
dường như phải chịu một sự giảm sút tồi tệ, nhưng xét về khía cạnh sản xuất đang phục hồi
mạnh mẽ. Có thể nói rằng bài thuốc đắng của IMF cuối cùng cũng đã phát huy tác dụng đối
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế
Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 36
với các quốc gia được hỗ trợ. Các phương pháp của IMF có thể được chứng minh là đúng:
sự phục hồi nhanh chóng gần đây của các nước nhận tài trợ như Thái Lan và Hàn Quốc.
Đồng thời dường như IMF đã sai lầm khi chỉ trích Malaysia áp đặt kiểm soát vốn, ít nhất là
theo số liệu thống kê trên.
V. NHẬN XÉT CỦA NHÓM
Bài nghiên cứu đã nêu được vai trò, tác dụng cũng như quy luật của bộ ba bất khả thi.
Đồng thời đưa ra được các dẫn chứng và giải thích kết quả việc áp dụng các chính sách ở
nột số nước. Tuy nhiên lại không lý giải được tại sao một số nước đi ngược lại với quy luật
nhưng vẫn vượt qua được khủng hoảng, cũng như chính sách nào thì phù hợp với nền kinh
tế nào.
Thời gian nghiên cứu ngắn và mẫu các quốc gia còn hạn chế về số lượng cũng như tiêu
thức để chọn mẫu (không đại diện). Vì vậy còn quá sớm để khẳng định lời khuyên của IMF
đối với các nước đang khủng hoảng trong việc áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi có hiệu quả
không?
Mỗi quốc gia có điều kiện kinh tế, thể chế chính trị,... cũng như thời điểm, chịu tác động
khác nhau, vì vậy mà việc chọn mẫu quốc gia dường như có vẻ không phù hợp.
Việc áp dụng các chính sách sách trên cho mỗi nền kinh tế còn phụ thuộc rất nhiều yếu
tố khác nhau. Vì vậy mà rất khó để chọn được chính sách phù hợp và không phải quốc gia
nào cũng đạt được kết quả khi tuân theo đúng quy luật.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kjht_8171.pdf