Những tài sản xung quanh chúng ta ngoài ý nghĩa đáp ứng được nhu cầu, lợi ích cho con người thì chúng còn luôn luôn tiềm ẩn các nguy cơ, rủi ro nhất định mà bất cứ lúc nào con người cũng có thể bị thiệt hại do chính những tài sản đó mang lại. Ngày nay mặc dù khoa học kỹ thuật tiên tiến, hiện đại nhưng bản thân con người cũng rất khó kiểm soát được những rủi ro không thể lường trước của tài sản. Xuất phát từ lý do đó, sự tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại được nhận định là nguồn nguy hiểm cao độ .
22 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3272 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài tập dân sự học kỳ module 2 - Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ 2
NỘI DUNG 2
Khái quát chung về TNBTTH ngoài hợp đồng 2
Khái niệm 2
Điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH 2
Nguyên tắc BTTH 4
Năng lực BTTH 4
Trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra 5
Cơ sở pháp lý 6
Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ 6
Điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH 8
Xác định trách nhiệm BTTH 12
Xác định mức độ BTTH 16
Thực tiễn áp dụng 16
Nhận xét và kiến nghị 17
KẾT LUẬN 21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 22
ĐẶT VẤN ĐỀ
Những tài sản xung quanh chúng ta ngoài ý nghĩa đáp ứng được nhu cầu, lợi ích cho con người thì chúng còn luôn luôn tiềm ẩn các nguy cơ, rủi ro nhất định mà bất cứ lúc nào con người cũng có thể bị thiệt hại do chính những tài sản đó mang lại. Ngày nay mặc dù khoa học kỹ thuật tiên tiến, hiện đại nhưng bản thân con người cũng rất khó kiểm soát được những rủi ro không thể lường trước của tài sản. Xuất phát từ lý do đó, sự tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại được nhận định là nguồn nguy hiểm cao độ. Trên cơ sở đánh giá mối liên quan giữa thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra với hành vi của con người, pháp luật dân sự đã đề cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Bài viết sau đây sẽ tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này.
NỘI DUNG
Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH) ngoài hợp đồng được quy định tại Điều 307 BLDS 2005 về trách nhiệm BTTH nói chung và chương XXI về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, trong cả hai phần này đều không nêu rõ khái niệm trách nhiệm BTTH mà chỉ nêu lên căn cứ phát sinh trách nhiệm, nguyên tắc bồi thường, năng lực chịu trách nhiệm. Có thể hiểu trách nhiệm BTTH là một loại trách nhiệm dân sự mà theo đó thì khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra.
Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Theo quy định tại Điều 604 BLDS năm 2005 và nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về BTTH ngoài hợp đồng thì trách nhiệm BTTH chỉ xảy ra :
Phải có thiệt hại xảy ra.
Thiệt hại về vật chất bao gồm: Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm quy định tại Điều 608 BLDS; thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm( khoản 1 Điều 609 BLDS); thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm (khoản 1 Điều 610 BLDS); thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm (khoản 1 Điều 611 BLDS).
Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân là do sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại hoặc do tính mạng bị xâm phạm mà người thân thích của nạn nhân phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, bị giảm sút hoặc mất uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm... Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của tổ chức được hiểu là do danh dự, uy tín bị xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin... vì bị hiểu nhầm.
1.2.2. Phải có hành vi trái pháp luật: Hành vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể của con người được thể hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái với các quy định của pháp luật.
1.2.3. Phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật: Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại. Khi xác định quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và hậu quả xảy ra cần phải xác định những đặc điểm sau: Phùng trung Tập - Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản,sức khỏe, tính mạng, Nxb Hà nội.
Thứ nhất là tính thời gian trong quan hệ nhân quả: Hành vi được coi là nguyên nhân phải diễn ra trước hậu quả.
Thứ hai là tính hiển nhiên trong quan hệ nhân quả: Tính hiển nhiên phản ánh mối quan hệ bản chất của sự vật, sự việc trong những điều kiện nhất định, vận động, phát triển theo xu hướng nhất định phải như thế này mà không phải thế kia.
Thứ ba là tính khách quan trong quan hệ nhân quả : tồn tại độc lập với ý thức của con người, con người không thể tùy tiện xóa bỏ nó.
1.2.4. Phải có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý của người gây thiệt hại:
Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Khi giải quyết tranh chấp về BTTH ngoài hợp đồng, cần phải thực hiện đúng nguyên tắc BTTH quy định tại Điều 605 BLDS thì :
“ 1. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thoả thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.
3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu Toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường ”.
1.4. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Áp dụng quy định tại Điều 606 BLDS về năng lực chịu trách nhiệm BTTH, cần chú ý xác định đúng tư cách chủ thể trong từng trường hợp, cụ thể:
- Trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 606 BLDS thì người gây thiệt hại là bị đơn dân sự, trừ khi họ mất năng lực hành vi dân sự;
- Trường hợp quy định tại đoạn 1 khoản 2 Điều 606 BLDS thì cha, mẹ của người gây thiệt hại là bị đơn dân sự;
- Trường hợp quy định tại đoạn 2 khoản 2 Điều 606 BLDS thì người gây thiệt hại là bị đơn dân sự và cha, mẹ của người gây thiệt hại là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
- Trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 606 BLDS thì cá nhân, tổ chức giám hộ là bị đơn dân sự.
2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là loại trách nhiệm đặc biệt bởi lẽ thiệt hại xảy ra không phải do hành vi và do lỗi của con người mà do hoạt động của những sự vật mà hoạt động của chúng luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại. Mặc dù chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ có thể không có lỗi đối với thiệt hại nhưng để bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người bị thiệt hại, pháp luật vẫn buộc họ có trách nhiệm bồi thường. Pháp luật dân sự thế giới cũng như Việt Nam không có bất kỳ một khái niệm đầy đủ nào về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra nhưng có thể hiểu một cách khái quát: “ Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được hiều là trách nhiệm của chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ và do sự hoạt động tự thân của nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho người khác, phải bồi thường thiệt hại kể cả trong trường hợp chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ không có lỗi ”. Phùng trung Tập - Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản,sức khỏe, tính mạng, Nxb Hà nội,Tr 259.
2.1 .Cơ sở pháp lý của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do NNHCĐ gây ra
Trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra có cơ sở pháp lý từ những quy định chung thuộc chương XXI về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng, và được quy định chi tiết, cụ thể tại Điều 623 về BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra còn được quy định tại mục III nghị quyết của hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về BTTH ngoài hợp đồng.
2.2. Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ.
Theo khoản 1 Điều 623 BLDS : “ Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định ”. Điều luật này không đưa ra khái niệm về nguồn nguy hiểm cao độ mà chỉ liệt kê các đối tượng được coi là nguồn nguy hiểm cao độ. Các đối tượng đó cụ thể là:
Phương tiện giao thông vận tải cơ giới hiện nay Việt Nam chưa có một văn bản pháp luật nào quy định một cách chính thức những phương tiện nào là phương tiện giao thông vân tải cơ giới. Luật giao thông đường bộ quy định: “ Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ bao gồm: xe ôtô, máy kéo, xe môtô hai bánh, ba bánh, xe gắn máy và các loại xe tương tự kể cả xe cơ giới dành cho người tàn tật ”. Như vậy, các phương tiện giao thông đường sắt, đường thuỷ, đường hàng không như tàu hoả, tàu thuỷ, máy bay… cũng được coi là những phương tiện giao thông cơ giới. Tuy nhiên, những phương tiện giao thông này có phải đều là các nguồn nguy hiểm cao độ hay không thì pháp luật chưa có quy định cụ thể. Trên thực tế còn nhiều các loại phương tiện đang nằm ngoài sự điều chỉnh của Điều 623 BLDS ví dụ như xe đạp điện, máy thi công như xe cần cẩu, xe ủi máy nông lâm ngư cơ: máy tuốt lúa, máy cày – những phương tiện này vẫn thường xuyên tham đi lại trên đường giao thông và có khả năng gây tai nạn, trên thực tế cũng đã có nhiều vụ tai nạn xảy ra do xe cần cẩu gây thiệt hại lớn.
Hệ thống truyền tải điện là dây truyền điện dẫn điện, mô tơ, máy phát điện, cầu giao điện…nhà máy công nghiệp như nhà máy công nghiệp nhẹ, nhà máy công nghiệp nặng… các loại này cũng chỉ được coi là nguồn nguy hiểm cao độ khi nó “đang hoạt động” có nghĩa là khi ở trạng thái không hoạt động thì nó không tạo nguy hiểm cho những người xung quanh.
Vũ khí bao gồm: vũ khí quân dụng, vũ khí thể thao, sung săn, vũ khí thô sơ, công cụ hỗ trợ được quy định tại khoản 1 Điều 1 Nghị định số 47/CP của Chính phủ ngày 12/8/1996.
Các chất nổ, công cụ hỗ trợ cũng được quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 1 của Nghị định trên: “2. Vật liệu nổ công nghiệp bao gồm: Các loại thuốc nổ và phụ kiện gây nổ (kíp nổ, ngòi nổ, dây nổ...) dùng trong sản xuất công nghiệp và các mục đích dân dụng khác.
Công cụ hỗ trợ gồm: Các loại roi cao su, roi điện, gậy điện, găng tay điện; lựu đạn cay; súng bắn hơi cay, ngạt, độc, gây mê; bình xịt hơi cay, ngạt, độc, gây mê; súng bắn đạn nhựa, cao su; súng bắn laze, súng bắn đinh, súng bắn từ trường và các loại công cụ hỗ trợ khác.”
Chất độc là những chất có độc tính cao, rất nguy hiểm cho sức khoẻ, tính mạng của con người, động vật cũng như đối với môi trường xung quanh. Ví dụ: A-cô-ni-tin và các loại muối của nó, kẽm phốt pho, ni-cô-tin…
Chất phóng xạ là chất ở thể rắn, lỏng hoặc khí có hoạt động phóng xạ riêng lớn hơn 70 kilo Beccơren trên kilogram. Chất phóng xạ là nhân tố gây sát thương của vũ khí hạt nhân gồm những đồng vị không bền của các nguyên tố hoá học như urani, radi…, có khả năng phát ra những chùm tia phóng xạ không nhìn thấy, gây bệnh hoặc gây ra nhiễm xạ đối với người, động vật và môi trường sống.
Thú dữ là động vật bậc cao, có lông mao, có tuyến vú, nuôi con bằng sữa, lớn, rất dữ, có thể làm hại người. Ví dụ: hổ, báo, gấu, sư tử, voi, đười ươi, tinh tinh…Ngoài ra ong bò vẽ, rắn độc mặc dù không phải là “ thú dữ ” (theo các định nghĩa trong từ điển) nhưng phải coi là nguồn nguy hiểm cao độ vì đây là loại động vật còn mang tính hoang dã, chưa được thuần hóa và có tính chất nguy hiểm lớn.
Như vậy, việc xác định một vật có được coi là nguồn nguy hiểm cao độ hay không sẽ phải căn cứ vào các quy định của pháp luật và tính chất của sự vật đó. Nguồn nguy hiểm cao độ không chỉ bao gồm những sự vật được liệt kê tại Điều 623 Bộ luật dân sự mà còn bao gồm những sự vật khác mà hoạt động của chúng luôn chứa đựng khả năng gây thiệt hại cho môi trường xung quanh, con người không thể hoàn toàn kiểm soát được nguy cơ gây thiệt hại.
2.3. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
2.3.1. Có hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ
Thiệt hại liên quan đến các loại nguồn nguy hiểm rất đa dạng và do nhiều nguyên nhân khác nhau. Tuy nhiên, chỉ áp dụng trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra khi thỏa mãn hai dấu hiệu sau:
Thứ nhất : Những sự vật được coi là NNHCĐ phải đang trong tình trạng vận hành, hoạt động như: phương tiện giao thông vận tải cơ giới đang tham gia giao thông trên đường; cháy, chập hệ thống tải điện; nhà máy công nghiệp đang hoạt động… Trường hợp thiệt hại xảy ra khi NNHCĐ đang ở trạng thái “tĩnh” – không hoạt động thì không thể coi là thiệt hại do NNHCĐ gây ra, ví dụ: cột điện bị đổ trong lúc đang thi công, chưa có điện; thú dữ chết thối rữa gây dịch bệnh…
Thứ hai: thiệt hại phải do chính sự tác động của bản thân NNHCĐ hoặc do hoạt động nội tại, “tự thân” của NNHCĐ gây ra. Xuất phát từ lý do này mà pháp luật qui định: “Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật”. Cần phân biệt thiệt hại “do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra” với thiệt hại “do hành vi trái pháp luật của con người gây ra có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ”. Thiệt hại do NNHCĐ gây ra là thiệt hại do “tự thân” NNHCĐ gây ra thiệt hại, không có tác động của con người, yếu tố lỗi có thể được loại trừ. Ví dụ: xe ô tô đang vận hành thì bị nổ lốp, mất phanh, gãy trục…gây thiệt hại, còn thiệt hại có liên quan đến NNHCĐ là thiệt hại do hành vi trái pháp luật của con người, có tác động của con người, việc gây thiệt hại này có liên quan đến NNHCĐ, ví dụ: lái xe phóng nhanh vượt ẩu gây tai nạn, say rượu bia điều khiển xe gây tai nạn…Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử đã có sự nhầm lẫn trong việc xác định trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra khi người áp dụng không phân biệt được “thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra” và thiệt hại “liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ”. Nhiều trường hợp khi áp dụng pháp luật cứ thấy có hành vi trái pháp luật của con người gây thiệt hại, hành vi gây thiệt hại có liên quan đến NNHCĐ lại được xác định là thiệt hại do NNHCĐ gây ra. Việc xác định thiệt hại là do “tác động của người” hay “tác động của vật” có ý nghĩa quan trọng khi xác định trách nhiệm BTTH, bởi vì nó liên quan đến trách nhiệm hình sự của người gây thiệt nếu đó là hành vi trái pháp luật liên quan đến NNHCĐ.
Bên cạnh đó, trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra cũng loại trừ các trường hợp thiệt hại xảy ra do lỗi cố ý của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết (Theo Điều 623 Bộ luật dân sự). Nói tóm lại, trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra là trách nhiệm đối với sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật của bản thân NNHCĐ chứ không phải thiệt hại do hành vi của con người gây ra.
2.3.2. Có mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra.
Đây là mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại với sự “tự thân” gây thiệt hại của NNHCĐ. Như đã phân tích ở trên, thiệt hại xảy ra thì phát sinh trách nhiệm bồi thường, tuy nhiên để có thể phát sinh trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra thì thiệt hại xảy ra phải trực tiếp do bản thân NNHCĐ gây thiệt hại. Nếu thiệt hại do hành vi trái pháp luật của con người gây ra mà có liên quan đến NNHCĐ thì không áp dụng Điều 623 để giải quyết mà đây là trường hợp BTTH ngoài hợp đồng thông thường do hành vi trái pháp luật của con người gây ra. Điều kiện này đòi hỏi hoạt động của NNHCĐ là nguyên nhân tất yếu, nguyên nhân có ý nghĩa quyết định dẫn đến thiệt hại và thiệt hại xảy ra là kết quả của hoạt động “tự thân” của NNHCĐ. Khi xác định trách nhiệm BTTH, điểm mấu chốt quan trọng là xác định thiệt hại đó do nguyên nhân nào gây ra và nguyên nhân đó có dẫn đến hậu quả không.
2.3.3. Nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho “ người xung quanh ”.
Nguồn nguy hiểm cao độ do tính chất nguy hiểm của nó có thể gây thiệt hại cho bất kỳ ai: chủ sở hữu, người đang chiếm hữu, vận hành, những người không có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ… Có những chủ thể do mối quan hệ sở hữu, lao động mà họ trực tiếp tiếp xúc với nguồn nguy hiểm cao độ. Đối với chủ sở hữu, họ phải tự chịu mọi rủi ro đối với thiệt hại do tài sản của mình gây ra. Đối với người bị thiệt hại trong khi sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao động, họ sẽ được hưởng bồi thường theo chế độ bảo hiểm tai nạn lao động. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ chỉ được đặt ra khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho những “ người xung quanh ” - là những người khi xảy ra thiệt hại không có quan hệ lao động hoặc sở hữu liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ nhằm để bảo vệ quyền được bồi thường cho những người này. Do đặc điểm của nguồn nguy hiểm cao độ là những loại tài sản có khả năng gây ra thiệt hại trong quá trình vận hành, sử dụng chúng, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ có thể là những thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe. Thiệt hại về danh dự, uy tín, nhân phẩm – là những thiệt hại chỉ có thể phát sinh do hành vi của con người nên không thuộc phạm vi tác động của nguồn nguy hiểm cao độ.
2.3.4. Điều kiện lỗi đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Theo quan điểm cổ điển, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng chỉ đặt ra khi có điều kiện lỗi. Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường. Chỉ khi nào một người do lỗi của mình mà gây thiệt hại, xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của người khác thì mới phải bồi thường. Cơ sở để người bị thiệt hại yêu cầu bồi thường là họ phải chứng minh lỗi của người gây thiệt hại. Điều kiện này trong nhiều trường hợp thực tế là không thể thực hiện được khi thiệt hại xảy ra không phải do lỗi của ai cả. Khuynh hướng xác định trách nhiệm bồi thường dựa trên yếu tố lỗi nhiều khi không bảo đảm được quyền lợi cho nạn nhân trong khi việc bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại là một đòi hỏi cấp thiết và chính đáng.
Để bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ nạn nhân chống lại việc gây ra tai nạn, có quan điểm cho rằng trách nhiệm BTTH trong một số trường hợp có thể phát sinh mà không cần điều kiện lỗi. Thực tế cho thấy các tai nạn mang tính khách quan nhiều khi nằm ngoài sự chi phối, điều khiển của con người ngày càng gia tăng cùng với sự phát triển của công nghiệp hóa, cơ giới hóa. Bồi thường thiệt hại do NNHCĐ gây ra là một trong những trường hợp đặc biệt, theo đó, trách nhiệm bồi thường phát sinh khi không cần xem xét đến điều kiện lỗi. Khoản 3 Điều 623 Bộ luật dân sự quy định “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi”. Dấu hiệu quan trọng nhất để xác định trách nhiệm này là hoạt động của NNHCĐ chính là nguyên nhân trực tiếp, là yếu tố quyết định dẫn đến thiệt hại. Hoạt động gây thiệt hại của NNHCĐ có thể hoàn toàn không có lỗi của con người (như xe đang chạy trên đường bất ngờ nổ lốp trước dẫn đến đổi hướng đột ngột gây thiệt hại) hoặc cũng có thể có một phần lỗi của người quản lý, điều khiển, tuy nhiên lỗi ở đây chỉ đóng vai trò thứ yếu đối với thiệt hại (như trước khi xuống dốc, lái xe không kiểm tra lại phanh; lốp mòn nhưng chưa thay do chủ quan nghĩ rằng xe vẫn vận hành tốt…). Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi, hành vi của người điều khiển NNHCĐ thì không áp dụng trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra mà áp dụng trách nhiệm BTTH chung.
2.4. Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
2.4.1. Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường.
Căn cứ vào khoản 2 Điều 623 Bộ luật dân sự 2005 và Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra có thể được áp dụng với các chủ thể sau:
- Chủ sở hữu.
- Người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ.
- Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ.
Việc xác định ai trong số các chủ thể trên phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể.
- Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Chủ sở hữu đang chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ là đang thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, quản lý NNHCĐ, nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội, khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ NNHCĐ.
- Người được chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo quy định của pháp luật phải BTTH do NNHCĐ gây ra, trừ trường hợp giữa chủ sở hữu và người được giao chiếm hữu, sử dụng có thoả thuận khác không trái pháp luật, đạo đức xã hội.
Trong trường hợp chủ sở hữu NNHCĐ giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ không theo đúng quy định của pháp luật mà gây thiệt hại, thì chủ sở hữu phải BTTH. Ví dụ: Chủ sở hữu biết người đó không có bằng lái xe nhưng vẫn giao quyền chiếm hữu, sử dụng cho họ mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu phải BTTH.
Về nguyên tắc chung chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp NNHCĐ phải BTTH do NNHCĐ gây ra cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây:
Thiệt hại xảy ra là hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại. Ví dụ: Xe ô tô đang tham gia giao thông thì bất ngờ có người lao vào xe để tự tử và hậu quả là người này bị chết. Trong trường hợp này chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp xe ô tô đó không phải BTTH.
Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Cần chú ý là trong trường hợp pháp luật có quy định khác về trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết thì trách nhiệm BTTH được thực hiện theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó.
- Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật NNHCĐ phải BTTH do NNHCĐ gây ra, nếu chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp không có lỗi trong việc để NNHCĐ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật (đã tuân thủ các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng NNHCĐ theo đúng các quy định của pháp luật). Nếu chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp có lỗi trong việc để NNHCĐ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới BTTH do NNHCĐ gây ra.
Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 của HĐTP TANDTC Hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về BTTH ngoài hợp đồng mặc dù đã đưa ra được một số ví dụ cụ thể mang tính chất hướng dẫn về vấn đề này nhưng lại chưa đưa ra được các quy định mang tính chất khái quát chung. Theo đó, chủ sở hữu NNHCĐ có thể chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản thông qua hai hình thức sau:
Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao động. Trong trường hợp này, người được chuyển giao NNHCĐ là những người làm công, ăn lương, được giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ để thực hiện nhiệm vụ mà người chủ lao động giao cho. Giữa chủ sở hữu NNHCĐ và người được giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ có mối quan hệ lao động, được xác lập qua tuyển dụng hoặc ký kết hợp đồng lao động. Mặc dù người lao động là người đang thực tế chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ nhưng hoàn toàn dưới sự quản lý, điều hành của chủ sở hữu NNHCĐ và vì lợi ích của chủ sở hữu nên phải coi đây giống như trường hợp chủ sở hữu NNHCĐ đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng, theo đó, chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm khi tài sản của mình gây thiệt hại. Tuy nhiên cũng cần lưu ý một số trường hợp cá biệt sau:
Thứ nhất: Người được giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ theo nghĩa vụ lao động nhưng thiệt hại xảy ra không phải trong lúc người đó thực hiện nhiệm vụ mà người sử dụng lao động giao cho thì ai sẽ bồi thường. Ví dụ: A là lái xe cho công ty với nhiệm vụ chở hàng hóa đến kho bãi của công ty, tuy nhiên vào ngày chủ nhật, A lấy xe chở người thân đi chơi, giữa đường xe gãy trục đâm vào người khác, ở đây A dùng xe không phải phục vụ lợi ích của công ty nên A phải chịu trách nhiệm BTTH.
Thứ hai: Giữa người lao động và người sử dụng lao động có thỏa thuận người lao động phải chịu mọi trách nhiệm khi NNHCĐ gây ra thiệt hại. Ví dụ: B là lái xe Taxi của Công ty X. B đóng cổ phần vào Công ty X và được giao 1 xe Taxi. Giữa B và Công ty có ký thỏa thuận B phải chịu mọi trách nhiệm khi xe của mình gây thiệt hại.
Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ được chuyển giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng theo một giao dịch dân sự.
Chủ sở hữu có thể chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ cho chủ thể khác thông qua hợp đồng: mượn, thuê, cầm cố, gửi giữ… tài sản hoặc ủy quyền cho người khác quản lý tài sản của mình. Đây là những hợp đồng dân sự được xác lập trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận, vì vậy sự cam kết thỏa thuận được coi như pháp luật đối với các bên. Trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra trước tiên căn cứ vào sự thỏa thuận đó. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận ai phải chịu trách nhiệm bồi thường thì áp dụng nguyên tắc chung của pháp luật, bên mượn, thuê, nhận cầm cố, nhận gửi giữ, được ủy quyền quản lý tài sản là những người chiếm hữu, sử dụng tài sản có căn cứ pháp luật, vì vậy họ có các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định. Trường hợp NNHCĐ gây thiệt hại khi đang thuộc quyền chiếm hữu, quản lý của họ, họ bị coi là có lỗi trong việc quản lý, sử dụng và phải BTTH.
Trường hợp NNHCĐ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật, theo khoản 4 điều 623 BLDS 2005 phân định thành 2 trường hợp:
+ Nếu chủ sở hữu, người được giao chiếm hữu NNHCĐ hoàn toàn không có lỗi trong việc để NNHCĐ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì họ không phải BTTH do NNHCĐ gây ra. Chủ sở hữu, người chiếm hữu NNHCĐ sẽ không có trách nhiệm bồi thường nếu họ chứng minh được đã tuân thủ đầy đủ các nghĩa vụ trong việc bảo quản, trông giữ, sử dụng NNHCĐ theo quy định của pháp luật.
+ Trường hợp chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp NNHCĐ cũng có lỗi trong việc để NNHCĐ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường cùng người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật.
2.5. Xác định mức độ bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Bồi thường thiệt hại do NNHCĐ gây ra là một dạng bồi thường thiệt hại cụ thể do vậy về nguyên tắc thiệt hại phải bồi thường gồm: thiệt hại do tài sản bị xâm phạm, thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm, thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm quy định tại điều 608, 609, 610 BLDS 2005.
Thiệt hại về tài sản là thiệt hại về vật chất tính toán được. Theo đó thiệt hại do tài sản bị xâm hại được bồi thường gồm: tài sản bị mất, bị hủy hoại, bị hư hỏng; lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản; chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại.
Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm: chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe, chức năng bị mất, giảm sút; chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị.
Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm: gồm chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết; chi phí hợp lý cho việc mai táng; tiền cấp dưỡng cho người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng; bồi thường tổn thất về tinh thần cho những người thân thích ở hàng thừa kế thứ nhất.
Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về việc bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Những sự việc diễn ra trong thực tiễn luôn muôn hình muôn vẻ, có những sự việc chúng ta không bao giờ có thể lường trước được. Mặc dù luật đã quy định nhưng cũng chỉ tương đối, có những trường hợp luật không dự liệu trước được. Ví dụ như về khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ, dù đã phân tích khá kỹ ở trên nhưng thực tiễn vẫn có trường hợp không nhận định được đó có phải là nguồn nguy hiểm cao độ hay không. Đó là trường hợp xảy ra ở một tỉnh phía Nam. Gia đình ông A và ông B là hàng xóm. Hằng ngày cháu nội ông A mới 3 tuổi thường sang nhà ông B chơi. Hôm đó, khi cháu bé đang ngồi chơi trong sân thì bị một con ruồi đậu vào mắt trái. Ở vùng đó mỗi nhà nuôi rất nhiều cò và nhà ông B cũng vậy. Cò có tập tính ăn ruồi nên khi thấy con ruồi đậu trên mắt cháu bé thì con cò liền mổ một nhát. Hậu quả là cháu bé bị hỏng một bên mắt trái, số tiền chạy chữa là 30 triệu đồng. Gia đình ông A yêu cầu ông B phải bồi thường thiệt hại nhưng ông B lại cho rằng ông không hề vi phạm vào bất kì điều khoản nào của luật dân sự mà ông chỉ có thể bù đắp một phần cho cháu bé do tai nạn xảy ra ở nhà ông. Sự việc này cho thấy, đúng là không tìm được điều luật nào quy định cò là “ thú dữ ” hay “ súc vật ” để xem xét áp dụng điều luật nào để bồi thường cho thỏa đáng.
Mặc dù lý thuyết nói như vậy nhưng không thể nói là không có cách xử sự. Theo em trường hợp trên không xét vào trường hợp bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được mà phải bồi thường theo quy định chung của pháp luật. Từ đó có thể rút ra những trường hợp không thể xem xét áp dụng vào từng điều luật cụ thể trong Bộ luật thì phải áp dụng quy định chung tương ứng với điều luật đó.
Một số nhận xét và kiến nghị.
Mặc dù BLDS và các văn bản hướng dẫn thi hành bộ luật này (như Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP) đều dành ra những quy định riêng về trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra, tuy nhiên vẫn còn nhiều quy định bất cập, gây ra những tranh cãi, quan điểm khác nhau trên thực tế áp dụng.
Thứ nhất, về khái niệm thế nào là nguồn nguy hiểm cao độ. Như bài viết đã phân tích ở mục 2.2, khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ được quy định trong Khoản 1 Điều 623 theo hướng liệt kê, vì vậy không đầy đủ, thậm chí không thống nhất với các quy định trong các văn bản pháp luật khác. Vì vậy, không nên định nghĩa nguồn nguy hiểm cao độ theo hướng liệt kê mà chỉ cần xác định tiêu chí chung để được coi là nguồn nguy hiểm cao độ.
Thứ hai, về điều kiện áp dụng trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra. Hiện nay chưa có quy định cụ thể: khi nào áp dụng trách nhiệm BTTH nói chung và khi nào áp dụng trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra dẫn đến có những cách hiểu và áp dụng không thống nhất trên thực tế. Thực tiễn cho thấy khi xét xử, nhiều trường hợp cứ thấy thiệt hại có liên quan đến NNHCĐ là áp dụng trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra, bất kể nguyên nhân gây thiệt hại là do con người hay do tự thân NNHCĐ gây ra. Vì vậy, cần có quy định rõ ràng về việc trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra chỉ phát sinh khi thiệt hại là do sự tác động tự thân NNHCĐ gây ra.
Thứ ba, theo quy định tại khoản 2 điều 623 quy định “…nếu chủ sở hữu đã giao…”, vậy những người đó là ai?. Để khỏi có cách hiểu khác nhau thiết nghĩ nên hoàn thiện khoản 2 theo hướng thay cụm từ “những người này” thành “ người được chủ sở hữu đã giao chiếm hữu, sử dụng ”. Ngoài ra cần phân định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra trong trường hợp chủ sở hữu đã chuyển giao NNHCĐ cho người khác chiếm hữu, sử dụng, cụ thể là trường hợp chuyển giao theo quan hệ lao động và chuyển giao theo quan hệ dân sự như đã phân tích. Cụ thể:
Trường hợp NNHCĐ được chuyển giao cho người khác theo nghĩa vụ lao động: Nếu thiệt hại do NNHCĐ gây ra trong quá trình người lao động quản lý, sử dụng NNHCĐ theo nhiệm vụ được giao thì trách nhiệm bồi thường thuộc về chủ sở hữu NNHCĐ. Nếu người được giao quản lý, sử dụng NNHCĐ theo nghĩa vụ lao động nhưng lại sử dụng NNHCĐ vào mục đích khác không theo nhiệm vụ mà gây thiệt hại thì họ phải tự chịu trách nhiệm.
Trường hợp NNHCĐ được chuyển giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng theo một giao dịch dân sự. Trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra trước tiên căn cứ vào sự thỏa thuận giữa các bên khi giao kết hợp đồng. Nếu các bên không có thỏa thuận ai phải chịu trách nhiệm bồi thường thì áp dụng nguyên tắc chung của pháp luật, bên mượn, thuê, nhận cầm cố, nhận gửi giữ, được ủy quyền quản lý tài sản là những người chiếm hữu, sử dụng tài sản có căn cứ pháp luật, vì vậy họ có nghĩa vụ trông coi, quản lý NNHCĐ, không để tài sản mình quản lý gây thiệt hại cho người khác. Trường hợp NNHCĐ gây thiệt hại khi đang thuộc quyền chiếm hữu, quản lý của họ thì họ phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Thứ tư, pháp luật cần bổ sung quy định về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với những thiệt hại do NNHCĐ trong tự nhiên gây ra cho các chủ thể khác; Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong trường hợp cơ quan Nhà nước chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ thuộc sở hữu của các cá nhân, tổ chức để phục vụ lợi ích công cộng như: trưng dụng, tạm giữ… Tình trạng cột dây điện đổ, dây điện đứt trên các trục đường giao thông gây thiệt hại ; hổ, báo, voi, sư tử ở rừng gây thiệt hại cho nhân dân về tài sản, sức khoẻ, tính mạng…Hiện nay, pháp luật chưa dự liệu được trách nhiệm BTTH trong các trường hợp trên thuộc về chủ thể nào phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường. Đây là "điểm trống" cần phải được " khoả lấp" kịp thời. Tránh tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, thậm chí không xác định được chủ thể chịu trách nhiệm BTTH như ví dụ đã đề cập ở trên. Thiết nghĩ, về nguyên tắc ai được xác định là chủ sở hữu và đang khai thác, sử dụng để hưởng lợi từ tài sản đó phải trực tiếp chịu trách nhiệm BTTH là hợp lý.
Thứ năm, liên quan đến việc chuyển giao NNHCĐ, pháp luật dân sự mới chỉ dự liệu những NNHCĐ được chuyển giao thông qua các giao dịch dân sự như thuê, mượn, cầm cố, thế chấp mà chưa dự liệu trường hợp khi chủ sở hữu NNHCĐ giao kết hợp đồng mua bán nhưng chưa hoàn tất thủ tục sang tên nhưng đã sử dụng NNHCĐ, gây thiệt hại cho những người xung quanh thì trách nhiệm lúc này thuộc về người bán hay người mua. Thiết nghĩ, trong trường hợp này phải xem xét đến lỗi của người bán hay người mua trong việc thực hiện thủ tục pháp lý chuyển quyền sở hữu đối với tài sản mua hay là lỗi của cả hai bên. Pháp luật dân sự nên quy định cụ thể về vấn đề này để xác định ai là người phải chịu trách nhiệm BTTH trong từng trường hợp cụ thể.
Thứ sáu, vấn đề giải thích luật liên quan đến trách nhiệm bồi thường do NNHCĐ gây ra cũng chưa rõ ràng. Hiện tại Điều 623 BLDS năm 2005 được được hướng dẫn áp dụng tại NQ 03/2006/NQ – HĐTP ngày 8/7/2006, Trong đó có quy định “ Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp thì phải liên đới cùng với người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật bồi thường thiệt hại do NNHCĐ gây ra”. Như vậy sự hướng dẫn ( giải thích) cũng chỉ dùng lại ở mức độ rất chung . Thế nào là không tuân thủ, tuân thủ không đầy đủ các qui định về bảo quản, trông dữ ?…Trong khi đó tại Thông tư số 03-TANDTC ngày 05/04/1983 hướng dẫn giải quyết một số vấn đề bồi thường thiệt hại trong tai nạn ô tô hướng dẫ khá cụ thể: không tuân thủ hoặc tuân thủ không đầy đủ các qui định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển nguồn nguy hiểm cao độ theo qui định của pháp luật được thể hiện: không khoá xe, không tắt máy trước khi rời xe, khoá xe mà vẫn để chìa khoá ở trên xe hoặc không có biện pháp bảo vệ cần thiết. Có thể nói đây là sự giải thích khá cụ thể mặc dù chưa đầy đủ. Để pháp luật phá huy được vai trò điều chỉnh và thực sự đi vào cuộc sống thì qui định chung của pháp luật cần phải được cụ thể hoá bằng các văn bản dưới luật để hướng dẫn thi hành.
Thứ bảy, Bộ luật dân sự còn cần phải bổ sung một phần về bồi thường thiệt hại. Đó là một quy định về bồi thường thiệt chung cho mọi trường hợp: “ Người gây thiệt hại phải bồi thường trừ những trường hợp khác do pháp luật quy định ”. Giả sử, một người đi xe đạp xuống từ trên cầu xuống, dốc cao, xe đứt phanh đâm vào người đi bộ dưới cầu làm người đó đập đầu xuống đường tử vong. Khi đó, không thể áp dụng điều luật nào trong bộ luật để giải quyết bồi thường thiệt hại. Như vậy pháp luật cần có những sự điều chỉnh sao cho phù hợp, phải đặt mục đích bảo về người bị thiệt lên trên hết.
KẾT LUẬN
Vấn đề bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây đã được pháp luật quy định cụ thể trong Bộ luật dân sự và hướng dẫn thi hành chi tiết tại Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP, ngày 08/07/2006 của Hội đồng thẩm phán – Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số các quy định của Bộ luật dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Việc quy định này giúp những người bị thiệt hại được đảm bảo về quyền, lợi ích hợp pháp của mình và giúp răn đe những người gây ra, người có tài sản là nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại để họ có ý thức chiếm hữu, bảo quản, quản lý và sử dụng đúng quy cách, quy định của pháp luật về tài sản đó tránh gây thiệt hại và hậu quả bất lợi sẽ đến với họ.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Luật dân sự Việt Nam – Trường Đại học Luật Hà Nội – Nxb. Công an nhân dân – Hà Nội, 2006.
Bộ luật dân sự năm 2005 – Nxb. Thống kê.
Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP, ngày 08/07/2006 của Hội đồng thẩm phán – Tòa án nhân dân tối cao. Hướng dẫn áp dụng một số các quy định của Bộ luật dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Nghị định số 47/CP của Chính phủ ngày 12/8/1996 về quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ.
Giáo trình luật dân sự Việt Nam (tập 2) – TS.Lê Đình Nghị - NXB Giáo dục Việt Nam.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra – TS.Vũ Thị Hải Yến – Khoa Pháp luật dân sự.
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản, sức khỏe và tính mạng – TS.Phùng Trung Tập – NXB Hà Nội.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng từ quy định của pháp luật đến thực tiễn – TS.Trần Thị Huệ - TS.Vũ Thị Hải Yến - NXB Tư pháp.
Những bất cập trong qui định của pháp luật về Trách nhiệm do tài sản gây thiệt hại và hướng hoàn thiện – TS.Trần Thị Huệ - Khoa pháp luật dân sự.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập dân sự học kỳ module 2 - Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.doc