MỞ ĐẦU
“Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh và càng lớn lao, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà càng xuống thấp” (Thân Nhân Trung). Nhận thức sâu sắc vấn đề này nên trong thời kì đổi mới, Đảng ta đã chú trọng vấn đề phát triển đội ngũ trí thức. Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội.
MỤC LỤC
Trang:
MỤC LỤC . .
MỞ ĐẦU .
NỘI DUNG . .
I, CƠ SỞ CỦA ĐẢNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC .
1. Cơ sở lý luận . .
1.1. Lí luận của chủ nghĩa Mác Lênin
1.2. Lí luận theo tư tưởng Hồ Chí Minh .
2. Cơ sở thực tiễn .
2.1. Những ưu điểm
2.2. Những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân
II, QUAN ĐIỂM CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG
VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC THỜI KÌ ĐỔI MỚI
1. Mục tiêu .
2. Quan điểm chỉ đạo .
3. Nhiệm vụ và giải pháp .
4. Tổ chức thực hiện
III, NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG
VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC HIỆN NAY
1. Đánh giá việc thực hiện chủ trương quan điểm của Đảng trong thực tế
2. Phương hướng giải quyết
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .
8 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5237 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập đường lối: Quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đổi mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ BÀI:
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC
THỜI KÌ ĐỔI MỚI
MỤC LỤC
Trang:
MỤC LỤC…………………………………………….………….………………1
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………..…….2
NỘI DUNG……………………………………………………………...……….2
I, CƠ SỞ CỦA ĐẢNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC…………….……..2
Cơ sở lý luận………………………………….……………………….…2
Lí luận của chủ nghĩa Mác Lênin………..……………………..………..2
Lí luận theo tư tưởng Hồ Chí Minh…………………………….………..2
Cơ sở thực tiễn…………………………………………………………...2
Những ưu điểm…………………………………………………………..2
Những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân………………………………3
II, QUAN ĐIỂM CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG
VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC THỜI KÌ ĐỔI MỚI…………………..3
Mục tiêu………………………………………………………………….3
Quan điểm chỉ đạo……………………………………………………….3
Nhiệm vụ và giải pháp…….……………………………………………..4
Tổ chức thực hiện……..…………………………………………………5
III, NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG
VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC HIỆN NAY…………………………..5
Đánh giá việc thực hiện chủ trương quan điểm của Đảng trong thực tế..5
Phương hướng giải quyết……………………………………………..…7
KẾT LUẬN………………………………………………………………………7
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………...8
MỞ ĐẦU
“Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh và càng lớn lao, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà càng xuống thấp” (Thân Nhân Trung). Nhận thức sâu sắc vấn đề này nên trong thời kì đổi mới, Đảng ta đã chú trọng vấn đề phát triển đội ngũ trí thức. Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội.
NỘI DUNG
CƠ SỞ CỦA ĐẢNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC
Cơ sở lý luận:
Lí luận chủ nghĩa Mác lênin
C.Mác và Ph.Ăngghen khi đánh giá vai trò của trí thức đã cho rằng hoạt động của trí thức là sáng tạo tri thức khoa học. Các thành tựu có được ở các thời đại, trong đó có chủ nghĩa tư bản là công lao của nhân dân lao động nói chung và những người trí thức nói riêng. Tiếp thu, phát triển tư tưởng đó của C.Mác và Ăngnhen, Lênin cho rằng trí thức chính là “niềm tự hào vĩ đại của nhân loại”.
Từ góc độ cơ cấu xã hội – giai cấp, Lênin khẳng định trí thức không phải là giai cấp, mà “là một tầng lớp đặc biệt” trong xã hội và “Nếu không nhập cuộc với một giai cấp thì giới trí thức chỉ là một con số không mà thôi”. Do đó, ông quan tâm xây dựng khối liên minh giữa giai cấp công nhân với tầng lớp trí thức và cho rằng, nếu không quan tâm tới điều đó thì không thể xây dựng được nền sản xuất công nghiệp hiện đại, không thể đứng vững trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản.
Lí luận theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Thấm nhuần tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin về đội ngũ trí thức, Hồ Chí Minh khẳng định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” và “Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc”.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, người trí thức phải: có tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; lấy việc phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc làm mục tiêu phấn đấu; đem kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ và sự hiểu biết của mình áp dụng vào thực tế; trí thức phải gắn bó mật thiết với công nhân, nông dân và nhân dân lao động và cũng phải học hỏi họ ở tinh thần cần cù lao động; phải học hỏi, không ngừng chiếm lấy đỉnh cao của khoa học và kỹ thuật; sống lành mạnh, có đạo đức và tư cách. Đồng thời, Người cũng chỉ ra rằng: Đảng và Chính phủ phải biết tôn vinh trí thức và trí thức phải biết tôn trọng Đảng, Chính phủ, tôn trọng nhân dân lao động; Đảng và Chính phủ phải có chính sách trọng dụng trí thức, trọng dụng nhân tài, hiền tài; phải thật sự dân chủ đối với trí thức.
Thực tiễn cách mạng thế giới và ở Việt Nam đã chứng minh tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về đội ngũ trí thức. Xuất phát từ chính những quan điểm đó, Đảng ta đã đưa ra quan điểm về xây dựng đội ngũ trí thức thời kì đổi mới.
Cơ sở thực tiễn:
Những ưu điểm
Về sự phát triển và đóng góp của đội ngũ trí thức: Nhìn tổng thể, đội ngũ trí thức Việt Nam đã phát triển lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng; góp phần đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, từng bước xóa đói, giảm nghèo, phát triển đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Công tác xây dựng đội ngũ trí thức: Trong những năm đổi mới, Nhà nước đã thực hiện các chính sách xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống đào tạo, nghiên cứu; đổi mới cơ chế quản lý, tăng cường đầu tư cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa và văn nghệ; các chính sách sử dụng, đãi ngộ và tạo môi trường phát huy vai trò của trí thức; thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài... Công tác trí thức của Ðảng và Nhà nước trong những năm qua đã thể hiện sự coi trọng vị trí, vai trò của trí thức, bước đầu tạo điều kiện thuận lợi để đội ngũ trí thức và các hội của trí thức hoạt động, phát triển.
Những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân
Về vấn đề đào tạo đội ngũ trí thức: Việc đào tạo đội ngũ trí thức thiếu chiến lược và quy hoạch đào tạo, chưa có định hướng cơ bản và lâu dài, chưa đồng bộ. Hệ thống giáo dục còn lạc hậu, chưa đáp ứng được nhu cầu nguồn nhân lực trình độ cao. Cơ cấu đội ngũ trí thức có những mặt bất hợp lý về ngành nghề, độ tuổi, giới tính...; tình trạng thiếu hụt những chuyên gia đầu ngành trong từng lĩnh vực, đội ngũ kế cận hẫng hụt; chưa có nhiều tập thể khoa học mạnh, có uy tín ở khu vực và quốc tế. Nhìn chung, hoạt động nghiên cứu khoa học chưa xuất phát và gắn bó mật thiết với thực tiễn sản xuất, kinh doanh và đời sống.
Về vấn đề quản lý đội ngũ trí thức: Cơ chế và chính sách tài chính hiện hành trong các hoạt động khoa học và công nghệ còn nhiều bất cập, gây khó khăn, dẫn đến chưa phát huy được hết tiềm năng của đội ngũ trí thức trong nước. Công tác tổ chức, quản lí cán bộ, nhất là khâu đánh giá, sử dụng trí thức còn nhiều điểm không hợp lý, thiếu chính sách và cơ chế tạo điều kiện thuận lợi cho trí thức chuyên tâm cống hiến, phát triển và được xã hội tôn vinh bằng chính kết quả hoạt động chuyên môn, nghề nghiệp. Đó là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng “chảy máu chất xám” ở Việt Nam.
QUAN ĐIỂM CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG ĐỂ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRI THỨC THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Mục tiêu
Đảng xác định phải hoàn thiện hành lang pháp lí nhằm phát huy tiềm năng của đội ngũ trí thức; xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, ứng yêu cầu phát triển của đất nước, ngang tầm với trình độ của trí thức các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. Gắn bó vững chắc giữa Ðảng và Nhà nước với trí thức, giữa trí thức với Ðảng và Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông - trí.
Quan điểm chỉ đạo
Thứ nhất, làm rõ vai trò của trí thức, tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ trí thức đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế: trí thức đóng vai trò là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt; xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Ðảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững.
Thứ hai, nhấn mạnh việc phát huy sức mạnh tổng hợp trong xây dựng đội ngũ trí thức: Xây dựng đội ngũ trí thức là trách nhiệm chung của toàn xã hội và của hệ thống chính trị, trong đó trách nhiệm của Ðảng và Nhà nước giữ vai trò quyết định. Trí thức có vinh dự và bổn phận trước Tổ quốc và dân tộc, không ngừng phấn đấu nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực chuyên môn, đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ ba, xác định những trọng tâm có ý nghĩa đột phá trong công tác trí thức: Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của trí thức, trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến, có chính sách đãi ngộ tốt để trí thức phát huy được vai trò của mình.
Nhiệm vụ và giải pháp
Thứ nhất, hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức. Hoàn thiện pháp luật, ban hành quy chế dân chủ trong hoạt động của trí thức; bảo đảm lợi ích, quyền hạn, điều kiện làm việc để trí thức tự khẳng định, phát triển, cống hiến và được xã hội tôn vinh. Tăng đầu tư phát triển khoa học, xây dựng cơ sở vật chất, mở rộng hợp tác và giao lưu quốc tế.
Thứ hai, thực hiện chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức: khắc phục các hạn chế trong công tác quản lí trí thức; xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách để trí thức được hưởng đầy đủ lợi ích vật chất, tinh thần tương xứng với kết quả lao động; ưu đãi đối với trí thức làm việc ở vùng kinh tế, xã hội khó khăn,...; thu hút trí thức Việt Nam trong và ngoài nước; trọng dụng, tôn vinh những trí thức có đóng góp thiết thực, hiệu quả đối với sự phát triển của dân tộc.
Thứ ba, tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức. Đó là việc cải cách, phát triển giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ trí thức, tập trung đầu tư phát triển đội ngũ trí thức trẻ, đội ngũ trí thức trong các ngành mà đất nước có nhu cầu bức thiết, đáp ứng nhu cầu phát triển trong thời kì mới.
Thứ tư, đề cao trách nhiệm của trí thức, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động các hội của trí thức. Xây dựng quy chế, cơ chế thông tin giúp trí thức kịp thời nắm vững các chủ trương, chính sách của đảng, Nhà nước và tình hình thực tiễn của đất nước và địa phương; tăng cường sinh hoạt tư tưởng, phát huy trách nhiệm của đội ngũ trí thức; truyền bá những tri thức tiến bộ trong cộng đồng, áp dụng có hiệu quả những tiến bộ đó vào trong sản xuất và đời sống;...
Thứ năm, nâng cao chất lượng, công tác lãnh đạo cảu Đảng đối với đội ngũ trí thức. Nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân về vai trò, vị trí quan trọng của đội ngũ trí thức; phát huy tài năng và trọng dụng những trí thức có phẩm chất tốt, có năng lực quản lý,..
Tổ chức thực hiện
Thứ nhất, các tổ chức, cơ sở Đảng tổ chức nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết tới cán bộ, đảng viên; đẩy mạnh tuyên truyền trong nhân dân, góp phần đưa Nghị quyết vào cuộc sống nhân dân.
Thứ hai, Quốc hội, Chính phủ chỉ đạo kịp thời thể chế hóa và thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ, xây dựng đội ngũ trí thức, hoàn thiện hành lang pháp lí về đội ngũ trí thức theo tinh thần Nghị quyết. Các cơ quan ban nghành, tổ chức xã hội liên quan tổ chức thực hiện Nghị quyết nhằm xây dựng đội ngũ trí thức có chất lượng.
Thứ ba, Ban Tuyên giáo Trung ương hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra, định kỳ sơ kết, báo cáo tình hình và đề xuất ý kiến bổ sung các giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả Nghị quyết.
NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC HIỆN NAY
Đánh giá việc thực hiện chủ tưởng quan điểm của Đảng trong thực tế.
Quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức đã được triển khai cụ thể trong nghị quyết số 27-NQ/TW của Hội nghị trung ương lần thứ 7 (khóa X). Đây là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với nhu cầu phát triển của nền kinh tế đất nước trong thời kì đổi mới và phù hợp với xu thế chung của thời đại. Điều này đã được minh chứng cụ thể thông qua những thành tựu đáng kể mà ta đã đạt được trong quá trình đưa Nghị quyết số 27-NQ/TW của Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (Khóa X) về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vào thực tiễn:
Thứ nhất, môi trường, điều kiện hoạt động của đội ngũ tri thức đã được xây dựng và cải thiện rõ rệt; bước đầu thực hiện tốt chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức tạo điều kiện thuận lợi cho trí thức phát huy tiềm năng sáng tạo, tham gia tư vấn, phản biện và giám định nhiều chủ trương, chính sách quan trọng về phát triển kinh tế-xã hội; tạo ra nhiều chuyển biến tích cực trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức;
Thứ hai, các bộ đã từng bước hoàn thiện và hướng dẫn thực hiện hệ thống văn bản pháp luật, tạo môi trường pháp lý thuận lợi, phát huy vai trò của trí thức trong hoạt động khoa học, công nghệ và văn học, nghệ thuật. Công tác thi đua khen thưởng, khuyến khích, tôn vinh trí thức có thành tích trong hoạt động báo chí, văn học, nghệ thuật, khoa học và phát triển công nghệ được quan tâm. Công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với trí thức có một số chuyển biến. Nhận thức của các cấp ủy Đảng về vai trò của đội ngũ trí thức từng bước được nâng cao; các cấp ủy quan tâm, tạo điều kiện cho trí thức phát huy tài năng và lắng nghe ý kiến của trí thức về những vấn đề lớn trong phát triển kinh tế - xã hội... (Báo cáo của Ban Tuyên giáo T.Ư do đồng chí Vũ Ngọc Hoàng, Ủy viên T.Ư Đảng, Phó Trưởng Ban Thường trực)
Thứ ba, sau 3 năm thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW, đội ngũ trí thức nước ta tiếp tục được tăng cường mạnh mẽ về số lượng, nâng cao về chất lượng, nhờ những chuyển biến mới trong đào tạo, bồi dưỡng tri thức. Các bộ, ngành, địa phương đã có những hình thức, quy chế cung cấp thông tin để tri thức nắm vững các chủ trương của Đảng, Nhà nước, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, trau dồi đạo đức, phẩm chất tốt đẹp và nâng cao trách nhiệm của trí thức Việt Nam; thường xuyên nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng về vai trò của đội ngũ trí thức, lắng nghe ý kiến của trí thức, quan tâm và tạo điều kiện để trí thức phát huy tài năng, đánh giá đúng kết quả hoạt động của trí thức...
Tuy nhiên, quá trình thực hiện Nghị quyết 27-NQ/TW vẫn còn tồn tại những hạn chế cần khắc phục kịp thời
Thứ nhất, việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 27 trong cả nước còn chậm; chưa thật sự nghiêm túc, nhiều bộ, ngành, đoàn thể Trung ương và cấp ủy, chính quyền địa phương chưa triển khai, chưa có chương trình hành động triển khai Nghị quyết; công tác tuyên truyền chưa được chú ý đúng mức, hiệu quả còn thấp. Theo tổng hợp của Ban Tuyên giáo Trung ương, mới có 12/23 ban, bộ, ngành và 24/63 tỉnh, thành ủy tổ chức quán triệt Nghị quyết, chỉ có 6/23 ban, bộ, ngành và 17/63 tỉnh ủy, thành ủy xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết; 12/23 ban, bộ, ngành và 7/63 tỉnh, thành ủy có kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết.
Thứ hai, cơ chế chính sách đào tạo, sử dụng, đãi ngộ trí thức nhiều hạn chế, yếu kém và bất cập chưa được khắc phục (chính sách tiền lương và chế độ chính sách nói chung đối với trí thức còn nhiều bất cập); chưa có chính sách đãi ngộ đột phá đối với các nhóm trí thức. Đặc biệt hiện tượng chảy máu chất xám chưa được giải quyết triệt để; các nguồn lực đảm bảo thực hiện Nghị quyết chưa được chuẩn bị đầy đủ; nhiều tâm tư, nguyện vọng, trăn trở của trí thức chưa được nắm bắt, giải quyết thỏa đáng; chưa có cơ chế chủ động huy động, tổ chức trí thức nghiên cứu, tham mưu về những vấn đề chiến lược nhạy cảm đối với sự phát triển của đất nước; chưa tạo điều kiện thuận lợi để họ chủ động nghiên cứu, sáng tạo và cống hiến hết mình cho đất nước.
Thứ ba, cơ chế quản lý các hoạt động khoa học và công nghệ còn nhiều yếu kém, chưa có sự quan tâm đúng mức đối với khoa học xã hội; đây là vấn đề bức xúc cần tháo gỡ.
Thứ tư, công tác kiểm tra, đôn đốc chưa thật sự sâu sát, vẫn để xảy ra tình trạng bằng cấp chưa phản ánh đúng trình độ học thuật; những yếu kém của trí thức Việt Nam chưa được quan tâm khắc phục; vẫn tồn tại tình trạng hành chính hóa hoạt động của trí thức; khoa học về lãnh đạo, quản lý, phát huy đội ngũ trí thức còn nhiều điểm chưa sáng tỏ; cơ chế phân bổ ngân sách, quản lý kinh phí khoa học còn nhiều bất hợp lý kéo dài nhiều năm chưa được tháo gỡ…
Nguyên nhân:
Nguyên nhân của tình trạng trên bao gồm cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan, nhưng trước hết là do ý thức chấp hành Nghị quyết chưa tốt. Do nhận thức chưa đầy đủ nên việc triển khai chưa ráo riết, quyết liệt, chưa tiến hành một cách đồng bộ, bài bản các giải pháp đã đề ra, chưa có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các cơ quan, ban, ngành hữu quan... Bên cạnh đó, điều kiện, cơ sở vật chất kỹ thuật còn nhiều khó khăn, cơ chế quản lý, đầu tư tài chính còn có những vướng mắc...
Phương hướng giải quyết.
Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả hơn Nghị quyết số 27– NQ/TW trong những năm tới, Tổng Bí thư yêu cầu các cấp, các ngành nghiêm túc triển khai các nhiệm vụ sau đây:
Một là, tăng cường mạnh mẽ hơn công tác tuyên truyền, công tác xây dựng, hoàn thiện chương trình hành động, kế hoạch triển khai, đôn đốc, kiểm tra. Phải đặc biệt quán triệt các quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức, trong đó có quan điểm xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng.
Hai là, đẩy mạnh xây dựng, bổ sung, hoàn thiện các đề án có liên quan đến xây dựng đội ngũ trí thức.
Ba là, tích cực chỉ đạo có hiệu quả quá trình soạn thảo, ban hành các nghị quyết của Trung ương khóa XI, trong đó có Nghị quyết về Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo.
Bốn là, tăng cường kiểm tra, đôn đốc, cải tiến cơ chế phối hợp, chuẩn bị sơ kết, tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW.
Năm là, sau buổi làm việc hôm nay, có thông báo kết luận về các nội dung, nhiệm vụ đã thống nhất, báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư; đồng thời cần lựa chọn một số công việc cấp bách, then chốt để tập trung triển khai thực hiện, tạo chuyển biến trên thực tế để tăng cường niềm tin của trí thức, đảng viên và nhân dân nói chung.
Ngoài ra, trong những năm tới, cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng đội ngũ tri thức thông qua những hành động cụ thể: phát hiện, tuyển chọn và đào tạo nhân tài kiệt xuất; chú trọng công tác sử dụng nhân tài, phải phát huy được sở trường chuyên môn của họ; không chỉ có đào tạo, sử dụng nhân tài trong nước mà còn cần có những chính sách đãi ngộ để thu hút nguồn nhân lực tiềm năng từ nước ngoài để làm giàu thêm cho đội ngũ tri thức trong nước. Trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện một số đề án quan trọng, như đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo, đổi mới mạnh cơ chế quản lý hoạt động khoa học và công nghệ; phát triển kinh tế tri thức...; tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc; xây dựng cơ chế làm việc, thường xuyên phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành hữu quan, từ Trung ương đến địa phương, tạo bước chuyển mạnh mẽ trong việc thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW, xây dựng và phát huy mạnh mẽ tiềm năng của đội ngũ trí thức, thiết thực phục vụ công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
KẾT LUẬN
Nghị quyết về trí thức đã đáp ứng sự mong mỏi của đội ngũ trí thức, cán bộ, đảng viên và nhân dân nói chung; đã tạo ra nhiều chuyển biến tích cực, mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể, tổ chức, hiệp hội và bản thân đội ngũ trí thức.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ giáo dục và đào tạo. Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội – 2010.
Nghị quyết số 27-NQ/TW của Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (Khóa X) về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tạp chí Lịch sử Đảng số 1 (230)/ 1-2010.
Tài liệu trên website:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập đường lối- Quan điểm của đảng về xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đổi mới.doc