Bài tập hành chính: Luật cán bộ công chức

Để đáp ứng yêu cầu cải cách nền hành chính Nhà nước trong giai đoạn hiện nay, ngày 13/11/2008, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam – Khóa XII đã thông qua Luật Cán bộ, Công chức (CBCC) đầu tiên trong lịch sử nền hành chính Nhà nướcViệt Nam. Trên cơ sở kế thừa và phát triển Pháp lệnh Cán bộ, Công chức năm 1998 (sửa đổi, bổ sung năm 2000; 2003) cùng những văn bản có liên quan, việc Luật CBCC đưa ra được một khái niệm chính thức về cán bộ, công chức thực sự là một bước tiến vô cùng quan trọng.

docx3 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5435 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập hành chính: Luật cán bộ công chức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Để đáp ứng yêu cầu cải cách nền hành chính Nhà nước trong giai đoạn hiện nay, ngày 13/11/2008, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam – Khóa XII đã thông qua Luật Cán bộ, Công chức (CBCC) đầu tiên trong lịch sử nền hành chính Nhà nướcViệt Nam. Trên cơ sở kế thừa và phát triển Pháp lệnh Cán bộ, Công chức năm 1998 (sửa đổi, bổ sung năm 2000; 2003) cùng những văn bản có liên quan, việc Luật CBCC đưa ra được một khái niệm chính thức về cán bộ, công chức thực sự là một bước tiến vô cùng quan trọng. Căn cứ vào những ghi nhận tại Điều 4 – Luật CBCC có thể nhận định: Về cơ bản, việc xác định một số dấu hiệu thuộc về các bộ, công chức vẫn kế thừa các quy định của Pháp lệnh CBCC 1998 (sửa đổi, bổ sung 2000; 2003). Tuy nhiên, nếu đứng trên bình diện phân tích một khái niệm quy định trong Luật, chúng ta cần lưu ý một vài điểm sau đây: Thứ nhất: Khái niệm cán bộ, công chức theo Luật CBCC không bao hàm đối tượng viên chức. Sở dĩ Luật CBCC không đưa viên chức vào trong nội hàm quan niệm về cán bộ, công chức như Pháp lệnh CBCC năm 1998 được xuất phát từ nhận thức về tính chất của đội ngũ viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công. Nhóm đối tượng này với đặc điểm hoạt động không mang tính quyền lực chính trị cũng như quyền lực Nhà nước như cán bộ, công chức nên cần thiết phải có một văn bản khác hướng dẫn riêng. Đồng thời, với mục tiêu thúc đẩy sự hoàn thiện cơ chế tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công cũng như giúp các cơ sở này có được sự chủ động ,linh hoạt trong quản lý nội bộ, các nhà làm Luật đã tách nhóm đối tượng viên chức ra khỏi khái niệm cán bộ, công chức. Thứ hai: Khái niệm cán bộ, công chức theo Luật CBCC đã phân định một cách tương đối giữa hai nhóm đối tượng là cán bộ và công chức. Ngoài việc cùng là công dân Việt Nam, hưởng đầy đủ các quyền và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của một công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước thì dễ dàng nhận ra những khác biệt cơ bản giữa hai đối tượng này trên cơ sở ghi nhận của pháp luật: •) Về cán bộ: Khoản 1/Điều 4 Luật CBCC quy định cán bộ hình thành bằng 3 con đường: Bầu cử, phê chuẩn và bổ nhiệm với tính chất công việc không thường xuyên, lâu dài vì phải đảm nhiệm chức danh, chức vụ theo nhiệm kỳ. VD: Chủ tịch UBND tỉnh, TP trực thuộc Trung Ương được hình thành bằng con đường bầu cử, do Thủ Tướng Chính Phủ phê chuẩn kết quả bầu cử; hay: Chánh án TAND TP Hà Nội do Chánh án TAND tối cao bổ nhiệm (…). Cán bộ là đội ngũ công tác tại các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội từ cấp huyện (quận, thị xã, TP thuộc tỉnh) trở lên. Nói vậy không có nghĩa là ở cấp xã, phường, thị trấn không có cán bộ mà “loại” cán bộ này được đề cập một cách riêng biệt do vị trí và vai trò quan trọng của đội ngũ này trong việc làm cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân ở từng địa phương. Cán bộ (cũng như công chức) nằm trong biên chế và hưởng lương từ Ngân sách Nhà nước. Điều này có nghĩa là số lượng cán bộ trong một cơ quan được giới hạn trong một con số nào đó, mức biên chế cán bộ do cơ quan hoặc cá nhân có thẩm quyền quyết định, quy định hoặc hướng dẫn. VD: Chính Phủ quyết định biên chế và quản lý cán bộ làm việc trong cơ quan hành chính Nhà nước ở Trung Ương, quy định mức biên chế hành chính sự nghiệp thuộc UBND; hướng dẫn định mức biên chế trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước ở Trung Ương… •) Về công chức: Theo Luật CBCC, ngoài con đường bổ nhiệm như của cán bộ thì công chức còn có thể được hình thành bằng con đường tuyển dụng. Có nghĩa là người được tuyển dụng phải trải qua một quá trình để trở thành công chức: Thi tuyển à tập sự à được thẩm tra bởi người đứng đầu cơ quan đang tuyển dụng à nếu đạt yêu cầu mới được quyết định bổ nhiệm chính thức vào ngạch. Việc quy định tuyển dụng đối với đội ngũ công chức như trên cho thấy đội ngũ này có vị trí quan trọng như thế nào trong bộ máy hành chính Nhà nước. Để có được một lực lượng công chức có đủ trình độ để quản lý, lãnh đạo thì việc đặt ra hình thức tuyển dụng là cần thiết. Ngoài ra, công chức còn có vị trí công tác hết sức đa dạng, hơn hẳn đội ngũ cán bộ cả về số lượng và hình thức hoạt động. Không chỉ làm việc tại các cơ quan thuộc Đảng, Nhà nước hay tổ chức chính tri-xã hội, công chức còn có thể công tác trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; đơn vị thuộc Công an nhân dân; công nhân quốc phòng; mà không phải là sỹ quan, hạ sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp hay trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của các đơn vị sự nghiệp công lập (Khoản 2/ điều 4/ Luật CBCC). Theo quy định của pháp luật, công chức không chỉ hưởng lương từ ngân sách Nhà nước,theo quy định thì đội ngũ công chức lãnh đạo, quản lý trong các đơn vị sự nghiệp công lập thì hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị đó. Quy định này tạo sự chủ động và kịp thời đối với việc đảm bảo lợi ích cho đội ngũ công chức này. Thứ ba: Nếu đúng như Luật CBCC thì khái niệm cán bộ, công chức đã phân cán bộ, công chức ra làm 2 loại: Cán bộ, công chức công tác từ cấp huyện trở lên và cán bộ, công chức cấp xã. Tuy nhiên ở đây cần phải hiểu rằng chỉ có khái niệm cán bộ, công chức nói chung (vì khi quy định các quyền và nghĩa vụ của cán bộ, công chức trong Luật không có sự phân chia). Theo quy định của pháp luật, cán bộ xã chỉ có thể hình thành qua bầu cử, giữ chức vụ theo nhiệm kỳ…còn công chức cấp xã chỉ qua tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã. Như vậy, Luật cũng đã quy định một cách riêng rẽ đối với cán bộ cấp xã và công chức cấp xã. Việc tách nhóm đối tượng này ra một Khoản riêng và phân định một cách rõ ràng cho thấy sự nhận thức đúng mực của các nhà làm luật đối với vị trí vai trò cầu nối quan trọng của cán bộ, công chức cấp xã trong hoạt động của nền hành chính nước ta hiện nay. Tóm lại, việc hiểu thế nào là cán bộ, là công chức theo Luật CBCC hiện nay mang một ý nghĩa đặc biệt quan trọng . Có thể nói, Luật CBCC đã đánh dấu một sự phát triển nổi bật trong lịch sử nền hành chính nhà nước ta, phản ánh được tính thời sự và khoa học của Luật CBCC khi đưa ra được một khái niệm cán bộ, công chức hoàn thiện nhất từ trước tới nay.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxBT Hành Chính- Luật cán bộ công chức.docx
Luận văn liên quan