Bài tập hình sự tình huống đề số 4

ĐỀ BÀI: 04 A là lái xe thường xuyên được công ty X thuê chở hàng từ kho của công ty giao cho HTX Q theo hợp đồng. Trong một lần chở hàng, do đã quen nhau nên thủ kho X thoả thuận cho A vào kho tự bốc hàng và xếp hàng lên xe, mỗi chuyến chở 20 bao hàng ra cổng, thủ kho mới kiểm tra số hàng vận chuyển và ký vào phiếu xuất hàng. Hôm đó A đã chở 4 chuyến, mỗi chuyến đúng 20 bao hàng. Đến chuyến thứ 5, A tự xếp thêm 1 bao hàng lên xe. Khi ra cổng, A điềm nhiên như chỉ chở 20 bao hàng như các chuyến trước và đưa phiếu xuất hàng cho thủ kho ký. Tin rằng A chở đủ như các chuyến trước, lại trưa nên thủ kho không đếm lại số bao hàng mà ký ngay vào phiếu xuất 20 bao hàng. Bằng thủ đoạn trên, A đã chiếm đoạt 1 bao hàng của công ty X trị giá 2 triệu đồng. Về vụ án trên có các quan điểm sau: 1. A phạm tội trộm cắp tài sản 2. A phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 3. A phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Hỏi: 1. Các quan điểm trên quan điểm nào đúng? Giải thích rõ tại sao? 2. Giả thiết rằng ngoài hành vi nói trên A còn rút bớt mỗi chuyến một số hàng của hợp tác xã Q tổng giá trị là 5 triệu đồng. Hãy định tội danh cho hành vi ấy 3. Giả định A đang có tiền án về tội giết người thì trường hợp phạm tội của A là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm? Tại sao? BÀI LÀM. Giả định: A có đủ điều kiện về tuổi và có năng lực trách nhiệm hình sự và hàng hoá của công ty X là hàng cùng loại, mỗi lần vận chuyển cùng một loại hàng như nhau. 1. Nhận định "A phạm tội trộm cắp tài sản" là đúng. · Chứng minh nhận định 1. Nhận định A phạm tội trộm cắp tài sản 2. Nhận định A phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: 3. Nhận định A phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản II. Giả thiết rằng ngoài hành vi nói trên A còn rút bớt mỗi chuyến một số hàng của hợp tác xã Q tổng giá trị là 5 triệu đồng. Hãy định tội danh cho hành vi ấy. + Chủ thể của tội phạm: + Khách thể của tội phạm: + Mặt khách quan của tội phạm: + Mặt chủ quan của tội phạm: III. Giả định A đang có tiền án về tội giết người thì trường hợp phạm tội của A là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm? Tại sao? TÀI LIỆU THAM KHẢO

doc12 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5285 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập hình sự tình huống đề số 4, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ BÀI: 04 A là lái xe thường xuyên được công ty X thuê chở hàng từ kho của công ty giao cho HTX Q theo hợp đồng. Trong một lần chở hàng, do đã quen nhau nên thủ kho X thoả thuận cho A vào kho tự bốc hàng và xếp hàng lên xe, mỗi chuyến chở 20 bao hàng ra cổng, thủ kho mới kiểm tra số hàng vận chuyển và ký vào phiếu xuất hàng. Hôm đó A đã chở 4 chuyến, mỗi chuyến đúng 20 bao hàng. Đến chuyến thứ 5, A tự xếp thêm 1 bao hàng lên xe. Khi ra cổng, A điềm nhiên như chỉ chở 20 bao hàng như các chuyến trước và đưa phiếu xuất hàng cho thủ kho ký. Tin rằng A chở đủ như các chuyến trước, lại trưa nên thủ kho không đếm lại số bao hàng mà ký ngay vào phiếu xuất 20 bao hàng. Bằng thủ đoạn trên, A đã chiếm đoạt 1 bao hàng của công ty X trị giá 2 triệu đồng. Về vụ án trên có các quan điểm sau: 1. A phạm tội trộm cắp tài sản 2. A phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 3. A phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Hỏi: Các quan điểm trên quan điểm nào đúng? Giải thích rõ tại sao? Giả thiết rằng ngoài hành vi nói trên A còn rút bớt mỗi chuyến một số hàng của hợp tác xã Q tổng giá trị là 5 triệu đồng. Hãy định tội danh cho hành vi ấy 3. Giả định A đang có tiền án về tội giết người thì trường hợp phạm tội của A là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm? Tại sao? BÀI LÀM. Giả định: A có đủ điều kiện về tuổi và có năng lực trách nhiệm hình sự và hàng hoá của công ty X là hàng cùng loại, mỗi lần vận chuyển cùng một loại hàng như nhau. 1. Nhận định "A phạm tội trộm cắp tài sản" là đúng. Chứng minh nhận định Nhận định A phạm tội trộm cắp tài sản Theo điều 138 BLHS: “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.” Như vậy, tôi trộm cắp tài sản được hiểu là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng trở lên hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Dấu hiệu pháp lý của tội này: Khách thể của tội phạm: Tội trộm cắp tài sản xâm phạm đến chế độ sở hữu về tài sản Mặt khách quan của tội phạm: + Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản của công dân thể hiện ở hành vi lén lút, bí mật chiếm đoạt tài sản do người khác đang quản lý. Người phạm tội trộm cắp tài sản không dùng các thủ đoạn như trong các tội cướp, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt, cưỡng đoạt mà sử dụng một thủ đoạn khác là “lén lút, bí mật” để chủ sở hữu, người quản lý tài sản và người khác không biết được hành vi phạm tội của mình. Ở đây, tuy hành vi của A là “tự xếp thêm 1 bao hàng lên xe”, “điềm nhiên”, không hề thấy hành vi lén lút, bí mật song khi người phạm tội sử dụng thủ đoạn làm cho người khác liên tưởng hành vi của họ là hợp pháp để dễ dàng chiếm đoạt thì hành vi của họ vẫn được định tội là trộm cắp tài sản bởi thủ đoạn đó cũng được coi là “lén lút, bí mật”. A đã gây lòng tin với thủ kho khi 4 chuyến hàng trước mỗi chuyến chở đúng 20 bao hàng và đến chuyến thứ 5 thì A đã xếp thêm một bao hàng lên xe với mục đích chiếm bao hàng đó. Hành vi này của A vẫn được coi là “lén lút, bí mật”. + Tội trộm cắp tài sản được coi là hoàn thành khi tài sản đã bị người phạm tội chuyển dịch tới một nơi khác, nó không còn nằm trong sự quản lý của chủ sở hữu hay người có trách nhiệm bảo vệ và người phạm tội có khả năng thực tế để sử dụng, định đoạt tài sản đó. A đã mang được bao hàng ra ngoài một cách an toàn mà người thủ kho không hề hay biết. Chủ thể của tội phạm: A là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định. Mặt chủ quan của tội phạm: A thực hiện hành vi trộm cắp tài sản bởi lỗi cố ý trực tiếp với động cơ vụ lợi. Như vậy, hành vi của A hoàn toàn thỏa mãn với cấu thành tội trộm cắp tài sản được quy định tại điều 138 BLHS và A phải chịu trách nhiệm về tội này. Nhận định A phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.” (khoản 1 Điều 139 BLHS). Theo quy định trên thì hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản gồm hai hành vi khác nhau. Đó là hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt. Giữa hai hành vi này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Hành vi lừa dối là điều kiện để hành vi chiếm đoạt có thể xảy ra, còn hành vi chiếm đoạt là mục đích và là kết quả của hành vi lừa dối. Hành vi lừa dối là hành vi cố ý đưa ra thông tin không đúng sự thật nhằm để người khác tin đó là sự thật. Xét về mặt khách quan, hành vi lừa dối là hành vi đưa ra những thông tin giả. Về mặt chủ quan, người phạm tội biết đó là thông tin giả nhưng mong muốn người khác tin đó là sự thật. Thủ đoạn gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao gồm hai dấu hiệu là: - Người phạm tội đã có hành vi gian dối như bằng lời nói, hành động hoặc những thủ đoạn khác nhằm cung cấp những thông tin sai lệch về sự việc (nói dối, trái sự thật, nói không thành có, nói ít thành nhiều, tẩy xoá con số để được nhiều hơn ); - Chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản đã nhầm tưởng, tin vào các thông tin không đúng sự thật đó nên đã tự nguyện chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền quản lý tài sản cho người phạm tội. Thỏa mãn hai yếu tố này mới cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139 BLHS). Đối chiếu vào trong vụ án trên, ta có thể nhận thấy A không hề cung cấp những thông tin hay giấy tờ, hoặc đưa ra lời nói nào sai với sự thật. A chỉ tự mình xếp thêm một bao hàng lên xe, nhưng vẫn qua cửa kiểm tra và xuất trình giấy tờ đúng theo quy định cho nhân viên thủ kho kí. Hành vi của A đã không thỏa mãn dấu hiệu thứ nhất đã phân tích ở trên. Như vậy hành vi của A không thể coi là hành vi lừa dối được quy định trong điều 139 Bộ luật hình sự 1999. Nhận định A phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Điều 140 BLHS quy định tội lạm dụng tín nhiệm chiếmđoạt tài sản quy định; “1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ một triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới một triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm: a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó; b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.” Như vậy, đặc điểm quan trọng nhất để xác định tội danh với tội phạm này với các tội khác cùng loại, đó là chủ thể phải là những người đã được chủ tài sản tín nhiệm giao cho khối lượng tài sản nhất định, dựa trên cơ sở giao tài sản là hợp đồng. Việc giao nhận tài sản là hoàn toàn ngay thằng, và hành vi phạm tội là hành vi chiếm đoạt toàn bộ hay một phần tài sản đã được giao trên cơ sở hợp đồng đã được ký kết. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS 2009 sửa đổi giá trị tài sản bị chiếm dụng là 4 triệu đồng trở lên. Như vậy, hàng vi của A không cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản do: Về mặt khách quan, tài sản A chiếm đoạt là bao hàng không được chủ sở hữu, người quản lý là thủ kho X giao cho A dựa trên cơ sở hợp đồng vay, mượn, thuê,...Việc A vào kho tự lấy hàng trên cơ sở thoả thuận về việc bốc xếp hàng với thủ kho X, nhưng không thể coi đó là một hợp đồng giao tài sản là bao hàng bị chiếm dụng A, bởi hàng hoá được giao cho A là đối tượng của thoả thuận là 20 bao hàng có trong kho, chứ không bao gồm bao hàng đã bị A chiếm đoạt trái phép. Hơn nữa, A lợi dùng tín nhiệm của công ty X giao cho A việc bốc hàng và xếp hàng lên xe, chứ không tín nhiệm giao cho A quản lý số tài sản đó. Việc giao và nhận tài sản đã bị chiếm đoạt thực tế không diễn ra. Như vậy, đối tượng của hành vi chiếm đoạt trong tội danh quy định tại Điều 140 là không tồn tại. Hơn nữa, tài sản chiếm đoạt có giá trị dưới 4 triệu đồng, do đó hành vi của A không cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. II. Giả thiết rằng ngoài hành vi nói trên A còn rút bớt mỗi chuyến một số hàng của hợp tác xã Q tổng giá trị là 5 triệu đồng. Hãy định tội danh cho hành vi ấy. A phạm tội lạm dụng tín nhiệm được quy định tại khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự (BLHS) nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999; đã được sửa đổi, bổ sung ngày 19/6/2009. Áp dụng khoản 1 Điều 140 BLHS: "Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm: a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó; b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản." Xét tình huống đề bài, các hành vi của A đã thỏa mãn những dấu hiệu cấu thành tội cố lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại khoản 1 Điều 140 BLHS: + Chủ thể của tội phạm: Ngoài những điều kiện về tuổi và phải có năng lực trách nhiệm hình sự, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đòi hỏi chủ thể phải là những người đã được chủ tài sản tín nhiệm giao cho khối lượng tài sản nhất định. Cơ sở giao tài sản là hợp đồng, việc giao và nhận tài sản là hoàn toàn ngay thẳng. Chủ tài sản do tín nhiệm đã giao tài sản để người được giao sử dụng, bảo quản, vận chuyển, gia công hoặc sửa chữa,… tài sản. Trong đề bài đã cho, vì A ký hợp đồng thuê vận chuyển hàng hóa cho công ty X nên A chắc chắn đã có bằng lái ô tô bởi vậy có thể khẳng định rằng A có đủ điều kiện về tuổi và có năng lực trách nhiệm hình sự. Xét trong trường hợp trên công ty X thuê A lái xe trên cơ sở hợp đồng thuê vận chuyển. Cơ sở giao hàng là hợp đồng công ty X thuê A vận chuyển hàng của công ty giao cho hợp tác xã. Việc công ty X giao hàng và việc A nhận chở số hàng đó là hoàn toàn ngay thẳng. Trong đề cũng nêu rõ “ A là lái xe tải được công ty X thuê chở hàng từ kho của công ty giao cho hợp tác xã Q theo hợp đồng.”, như vậy A đã được công ty X tín nhiệm, giao cho việc vận chuyển hàng hóa dựa trên hợp đồng vận chuyển (bằng miệng hoặc bằng văn bản giữa A với công ty X). + Khách thể của tội phạm: Trong tình huống trên, khách thể tội phạm là chế độ sở hữu về tài sản. Đối tượng tác động của hành vi chiếm đoạt trong tội này là những tài sản được giao ngay thẳng cho người phạm tội trên cơ sở hợp đồng. Trong tình huống trên chính là số bao hàng mà công ty X thuê A chở đến hợp tác xã Q. + Mặt khách quan của tội phạm: Trong tình huống trên, hành vi của A đã có đầy đủ các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm. Cụ thể là: - Hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội: Công ty X đã tín nhiệm giao số hàng này cho A vận chuyển theo hợp đồng vận chuyển. A đã có hành vi chiếm đoạt một phần số hàng đã được công ty X giao trên cơ sở hợp đồng giữa A và công ty X. Ở đây, A không thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết và chuyển hàng đến cho hợp tác xã. Hành vi chiếm đoạt ở đây là hành vi không thực hiện cam kết, không trả lại tài sản bằng thủ đoạn gian dối là rút bớt mỗi lần vận chuyển một số hàng nhất định. - Hậu quả nguy hiểm cho xã hội: Tội lạm dụng tín nhiệm là tội phạm cấu thành vật chất nên hậu quả là yếu tố quan trọng để xác định TNHS của tội phạm. Hậu quả mà hành vi của A gây ra khi mỗi lần rút bớt mỗi chuyến một số hàng của hợp tác xã Q là số thiệt hại tổng giá trị là 5 triệu đồng. Hậu quả này cũng là yếu tố quan trọng trong việc định tội danh lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cho A, vì tội danh này có dấu hiệu pháp lí là số tài sản bị chiếm đoạt phải có giá trị từ 4 triệu trở lên còn nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới 4 triệu đồng thì phải kèm theo điều kiện gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm mới cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. - Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả: Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả thiệt hại là dấu hiệu bắt buộc của CTTP. Nguyên nhân là do A rút bớt tài sản trong mỗi chuyến hàng nên đã gây ra thiệt hại cho hợp tác xã Q số tiền là 5 triệu đồng. Hành vi trái pháp luật của A có mối quan hệ nhân quả với hậu quả thiệt hại trên. + Mặt chủ quan của tội phạm: - Lỗi của ngưòi phạm tội: Trong khi, A có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn và thực hiện một xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội nhưng A đã hành động để phạm tội A, đã lựa chọn cho mình một cách xử sự trái pháp luật. Vì vậy, hành vi của A được coi là có lỗi. Hành động của A là hành vi có ý thức và có ý chí. Về mặt lý trí: A đã nhận thức rõ tính chất hành vi của mình sẽ gây thiệt hại về tài sản cho công ty và cố tình thực hiện, điều này thể hiện trong tính toán của A "đã chở 4 chuyến, mỗi chuyến đúng 20 bao hàng. Đến chuyến thứ 5, A tự xếp thêm 1 bao hàng lên xe. Khi ra cổng, A điềm nhiên như chỉ chở 20 bao hàng như các chuyến trước và đưa phiếu xuất hàng cho thủ kho ký". A đã sử dụng thủ đoạn gian dối lợi dụng sự tin tưởng của thủ kho X và những yếu tố ngoại cảnh khác (thời điểm thực hiện hành vi phạm tội vào buổi trưa), đến chuyến thứ năm A tự ý xếp các bao hàng lên xe mà không vận chuyển theo đúng thỏa thuận. Về mặt ý chí: Có thể thấy rằng lỗi của A là lỗi cố ý trực tiếp. A mong muốn hậu quả xảy ra để tư lợi số tài sản trị giá 5 triệu đồng. Khi phân tích đề bài rất có thể có sự nhầm lẫn, cho rằng hành vi của A cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, vì vậy ở đây em xin phân biệt rõ. Giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản có 1 điểm khác nhau cơ bản đó là thời điểm phát sinh ý định chiếm đoạt, nếu như A trước khi ký hợp đồng vận chuyển dầu cho công ty X đã có ý định chiếm đoạt tài sản thì chắc chắn A phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, còn nếu sau khi A có được các bao hàng hóa một cách hợp pháp ( thông qua hợp đồng vận chuyển) mới nảy sinh ý định chiếm đoạt thì hành vi của A cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Có thể thấy trong đề nêu rằng “Hôm đó A đã chở được 4 chuyến, mỗi chuyến đúng 20 bao hàng. đến chuyến thứ 5 A tự xếp thêm một bao hàng lên xe.” Và theo giả thiết A còn rút thêm mỗi chuyến một số hàng nữa hơn nữa trong tình huống còn nêu :”do đã quen nhau nên thủ kho của công ty X thoả thuận và cho A vào kho tự bốc và xếp hàng lên xe” chứng tỏ A đã rất nhiều lần vận chuyển hàng hóa nên ý định phạm tội của A có thể coi là phát sinh sau khi ký được hợp đồng. Tuy nhiên, nếu ý định này phát sinh trước khi ký hợp đồng, hoặc hợp đồng vận chuyển hàng hóa được ký mỗi lần trước khi vận chuyển thì hành vi của A cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tóm lại, với những căn cứ pháp lý đã phân tích ở trên chúng ta định tội của A là: A phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, theo Khoản 1 Điều 140 BLHS. III. Giả định A đang có tiền án về tội giết người thì trường hợp phạm tội của A là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm? Tại sao? Giả định A đang có tiền án về tội giết người thì trường hợp phạm tội của A là tái phạm. Giải thích: - Áp dụng Điều 49 BLHS: "Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. 2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm: a) Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; b) Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý." - Xét trường hợp của A, A đang có tiền án về tội giết người. Áp dụng khoản 1,2 Điều 93 và khoản 3 Điều 8 BLHS, ta thấy: + Tội giết người theo khoản 1 Điều 93 là tội đặc biệt nghiêm trọng. + Tội giết người theo khoản 2 Điều 93 là tội rất nghiêm trọng. => A đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, và khi án tích chưa được xóa thì A lại phạm tội trộm cắp tài sản. Dựa trên cơ sở phân tích ở câu 1 thì hành vi của A thỏa mãn cấu thành tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 BLHS: "Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm." Áp dụng khoản 3 Điều 8 BLHS, thì tội trộm cắp tài sản mà A phạm là tội ít nghiêm trọng. - Từ tất cả những căn cứ trên, tội A đã phạm trước đó- tội giết người và chưa được xóa án tích tuy là tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do cố ý nhưng tội A phạm trong thời gian chưa xóa án tích là tội cố ý- một tội ít nghiêm trọng do cố ý nên trường hợp của A là tái phạm. Kết luận: Giả định A đang có tiền án về tội giết người thì trường hợp phạm tội của A là tái phạm. TÀI LIỆU THAM KHẢO Trường Đại học Luật Hà Nội – “Giáo trình Luật hình sự (tập 1)” – NXB CAND – Hà Nội – 2007. “Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa XHCN Việt Nam 1999” - NXB Chính trị Quốc gia - Hà Nội 2008. “Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (đã sửa đổi, bổ sung ngày 19/06/2009)” - NXB Lao động xã hội - Hà Nội 2009. TS Dương Tuyết Miên - “Định tội danh và quyết định hình phạt” - NXB Lao động - Xã hội - Năm 2007. “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự” - NXB Chính trị Quốc gia.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBài tập hình sự tình huống đề số 4.doc
Luận văn liên quan