Bài tập học kì luật Hình sự - Đề số 6

A, B, C bàn nhau tìm kiếm tiền bằng cách tổ chức trò chơi đỏ đen trên xe khách liên tỉnh. Ngày 20 tháng 1 năm 2008 chúng giả làm hành khách đi xe trên tuyến Hà Nội – Vinh và dụ dỗ hành khách cùng chơi. Sau một vài ván biểu diễn thử trò chơi làm cho hành khách trên xe tò mò và thấy dễ thắng mà tham gia, chúng đã dụ được M và N tham gia trò chơi. Khi thấy M đặt cược 5 triệu đồng, chúng dùng thủ đoạn tráo bài để dành phần thắng. Để tìm cách gỡ lại số tiền bị mất, M tiếp tục đặt cược 3 triệu đồng và lại thua. Hỏi: 1. A, B, C phạm tội gì? 2. M và N có phạm tội không? Nếu phạm tội thì là tội gì? Tại sao?

doc11 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2997 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập học kì luật Hình sự - Đề số 6, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Trang ĐẶT VẤN ĐỀ......................................................................................1 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ....................................................................2 1. A, B, C phạm tội gì?..................................................................................2 2. M và N có phạm tội không? Nếu phạm tội thì là tội gì? Tại sao?.............6 KẾT THÚC VẤN ĐỀ.......................................................................8 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÚ THÍCH MỘT SỐ TỪ VIẾT TẮT 1. BLHS : Bộ luật hình sự 2. CTTP : Cấu thành tội phạm ĐẶT VẤN ĐỀ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là loại tội chiếm tỉ lệ tương đối lớn trong nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt cả về số vụ và số người phạm tội. Nhiều nghiên cứu của chuyên ngành tội phạm học đã chứng minh rằng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong các tội gây thiệt hại lớn nhất về tài sản trong nhóm tội xâm phạm sở hữu, số nạn nhân cũng rất lớn. Đặc biệt, tính chất của tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thể hiện qua thủ đoạn phạm tội được thực hiện với rất nhiều hình thức khác nhau và ngày càng tinh vi xảo quyệt. Nguy hiểm hơn nữa, có những thủ đoạn của tội này còn dẫn đến làm cho nạn nhân phạm tội khác. Một trong những thủ đoạn mà người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thường sử dụng là tổ chức các trò chơi có thưởng, nạn nhân thường là những người nhẹ dạ, có “máu cờ bạc”, hám lợi nên dễ bị lừa và chính vì vậy nên cũng dễ dẫn đến việc nạn nhân phạm tội đánh bạc. Tình huống sau đây là một ví dụ điển hình về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thủ đoạn như trên và nạn nhân của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã phạm tội đánh bạc. Nội dung tình huống: “A, B, C bàn nhau tìm kiếm tiền bằng cách tổ chức trò chơi đỏ đen trên xe khách liên tỉnh. Ngày 20 tháng 1 năm 2008 chúng giả làm hành khách đi xe trên tuyến Hà Nội – Vinh và dụ dỗ hành khách cùng chơi. Sau một vài ván biểu diễn thử trò chơi làm cho hành khách trên xe tò mò và thấy dễ thắng mà tham gia, chúng đã dụ được M và N tham gia trò chơi. Khi thấy M đặt cược 5 triệu đồng, chúng dùng thủ đoạn tráo bài để dành phần thắng. Để tìm cách gỡ lại số tiền bị mất, M tiếp tục đặt cược 3 triệu đồng và lại thua. Hỏi: 1. A, B, C phạm tội gì? 2. M và N có phạm tội không? Nếu phạm tội thì là tội gì? Tại sao?” GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Để định tội cho một hành vi cụ thể, người áp dụng Luật hình sự phải căn cứ vào cấu thành tội phạm (CTTP) được rút ra từ những quy định của Bộ luật hình sự (BLHS). Nếu tình tiết của một hành vi phạm tội phù hợp với các dấu hiệu thuộc về khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể của một CTTP cụ thể được quy định trong BLHS, thì hành vi đó được xác định theo tội danh của CTTP đó. Căn cứ vào hành vi thực tế mà A, B, C và M, N đã thực hiện được mô tả trong tình huống và các Điều 139, 248, 249 BLHS năm 1999 và các văn bản hướng dẫn thi hành BLHS năm 1999, định tội danh cho các đối tượng trên như sau: A, B, C đồng phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Khoản 1 Điều 139 BLHS 1999 còn M và N phạm tội đánh bạc theo Khoản 1 Điều 248 BLHS 1999. 1. A, B, C phạm tội gì? Thứ nhất, hành vi của A, B, C được mô tả trong tình huống: “...kiếm tiền bằng cách tổ chức trò chơi đỏ đen trên xe khách liên tỉnh. Ngày 20 tháng 1 năm 2008 chúng giả làm hành khách đi xe trên tuyến Hà Nội – Vinh và dụ dỗ hành khách cùng chơi. Sau một vài ván biểu diễn thử trò chơi làm cho hành khách trên xe tò mò và thấy dễ thắng mà tham gia, chúng đã dụ được M và N tham gia trò chơi. Khi thấy M đặt cược 5 triệu đồng, chúng dùng thủ đoạn tráo bài để dành phần thắng….”. Thứ hai, giả sử rằng hành vi của A, B, C có thể phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139) hoặc tội đánh bạc (Điều 248) hoặc tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc (Điều 249). Thứ ba, căn cứ vào các Điều luật trên và tình tiết thực tế thì A, B, C phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Khoản 1 Điều 139 BLHS 1999: Hành vi của A, B, C thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Khoản 1 Điều 139 BLHS năm 1999: “1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”. Theo quy định tại Điều 139 BLHS năm 1999, Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối, đưa ra những thông tin sai sự thật để người chủ tài sản hoặc người quản lý hợp pháp về tài sản tin mà giao cho người phạm tội và chiếm đoạt tài sản đó. Như vậy, hành vi của A, B, C thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau: - Khách thể của tội phạm: tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xâm hại đến quan hệ sở hữu mà không xâm hại đến quan hệ nhân thân, đây là điểm khác biệt với một số tội có tính chiếm đoạt khác. Ở đây, A, B, C chỉ nhằm mục đích “kiếm tiền” nên chỉ xâm hại đến quan hệ sở hữu của người khác. Đối tượng mà bọn chúng nhắm tới là tài sản của hành khách (cụ thể trong tình huống trên là tiền của hành khách trên xe). - Mặt khách quan của tội phạm: Hành vi khách quan: Về hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139 BLHS năm 1999) còn có nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chỉ có một hành vi chiếm đoạt bằng thủ đoạn gian dối nhưng quan điểm khác lại cho rằng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có hai hành vi khác nhau: hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt, giữa hai hành vi này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong đó hành vi lừa dối là điều kiện để hành vi chiếm đoạt xảy ra còn hành vi chiếm đoạt là mục đích và là kết quả của hành vi lừa dối. Xem xét hai quan điểm này cùng với thực tiễn xét xử thấy quan điểm thứ hai dễ dàng trong việc định tội danh. Hành vi của A, B, C như đã tóm tắt ở trên: “... tổ chức trò chơi đỏ đen trên xe khách...dụ dỗ...dùng thủ đoạn tráo bài để dành phần thắng...”. Rõ ràng, việc tổ chức trò chơi đỏ đen dễ thắng là hành vi lừa dối nhằm làm cho hành khách tin đó là sự thật rằng có thể thắng một cách dễ dàng. Hành vi lừa dối là hành vi cố ý đưa ra những thông tin không đúng sự thật nhằm để người khác tin đó là sự thật bằng những cách thức thủ đoạn khác nhau (ngôn ngữ, đưa ra các giấy tờ giả mạo, giả danh...) làm cho người chủ tài sản tin đó là sự thật sau đó người chủ tài sản tự nguyện giao tài sản của mình cho người có hành vi gian dối. Ba tên A, B, C đã thực hiện hành vi gian dối bằng cách “...Sau một vài ván biểu diễn thử trò chơi làm cho hành khách trên xe tò mò và thấy dễ thắng mà tham gia, chúng đã dụ được M và N tham gia trò chơi...” nhằm thực hiện việc chiếm đoạt tài sản của những người tham gia chơi. Hành vi A, B, C “dùng thủ đoạn tráo bài để dành phần thắng” là hành vi chiếm đoạt với hình thức thể hiện là hành vi nhận tài sản bị chiếm đoạt đang trong sự chiếm hữu của chủ tài sản – người bị lừa dối (tức là M). Vì M đã tin vào thông tin chúng đưa ra nên đã giao tổng số tài sản của mình cho chúng là 8 triệu đồng. Hành vi dùng thủ đoạn để tráo bài dành phần thắng của A, B, C chứng tỏ rằng không thỏa mãn dấu hiệu hành vi của tội đánh bạc (Điều 248 BLHS năm 1999) vì: về hình thức thì cũng gần giống hành vi của tội đánh bạc trái phép ở chỗ đều tham gia vào trò chơi đỏ đen trong đó người thắng được nhận một khoản lợi ích vật chất từ người thua hoặc người tổ chức và chỉ được coi là trò chơi khi việc thắng thua phụ thuộc vào khả năng của người chơi hoặc do ngẫu nhiên. Đây cũng chính là điểm khác biệt cơ bản giữa tội đánh bạc và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Còn trường hợp này, về hình thức giống như trò chơi nhưng việc thắng thua lại hoàn do một phía nhóm A, B và C quyết định bằng việc đánh tráo bài nên đây không phải là trò chơi cờ bạc mà là thủ đoạn gian dối của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Cho nên, hành vi của A, B và C không phạm tội đánh bạc theo Điều 248 BLHS năm 1999 mặc dù số tiền đã thỏa mãn dấu hiệu của tội đánh bạc. Hành vi trên của A, B, C cũng không thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội tổ chức đánh bạc (Điều 249 BLHS năm 1999) vì: tổ chức đánh bạc là chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, cưỡng bức, đe dọa người khác tham gia trò chơi được thua bằng tiền hoặc tài sản dưới bất kì hình thức nào. Nhưng trò chơi đỏ đen mà A, B, C tổ chức không phải là đánh bạc như đã lập luận nên không cấu thành tội tổ chức đánh bạc. Hậu quả của tội phạm: M bị thiệt hại về tài sản tổng trị giá là 8 triệu đồng bị A, B, C chiếm đoạt. - Về chủ thể của tội phạm: Tuy trong tình huống không nêu rõ tuổi và năng lực TNHS của A, B, C nhưng trong phạm vi bài này ta chỉ xét A, B, C là người bình thường đều đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo Luật định. - Mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi của A, B, C khi thực hiện tội phạm là lỗi cố ý trực tiếp; A, B, C đã hành động để phạm tội. Hành động của bọn chúng là có ý thức và có ý chí. Cả 3 tên A, B, C đều biết mình có hành vi lừa dối và mong muốn hành vi lừa dối đó có kết quả để có thể chiếm được tài sản của hành khách trên xe – cụ thể ở trong tình huống trên nạn nhân của hành vi lừa dối là M và N. Mục đích là chiếm đoạt tài sản, biến tài sản của người khác thành tài sản của mình; chúng cùng “bàn nhau kiếm tiền” là việc đã được xác định ngay từ trước khi thực hiện hành vi. Thứ tư, cả A, B, và C cùng cố ý thực hiện tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Vì vậy, A, B, C trong tình huống trên là đồng phạm. Tóm lại: Hành vi của A, B, C thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Khoản 1 Điều 139 BLHS năm 1999 và thỏa mãn dấu hiệu đồng phạm của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. 2. M và N có phạm tội không? Nếu phạm tội thì là tội gì? Tại sao? Qua các tình tiết được mô tả trong tình huống, thì M và N mặc dù là nạn nhân của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (quy định tại Điều 139 BLHS năm 1999) do A, B, C thực hiện nhưng căn cứ vào hành vi tham gia trò chơi đỏ đen được thua bằng tiền và Điều 248 BLHS năm 1999 đã cấu thành tội đánh bạc theo Khoản 1 Điều 248 BLHS năm 1999. Vì: Đánh bạc là tham gia trò chơi được thua bằng tiền hoặc tài sản dưới bất kì hình thức nào. Hành vi của M và N thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội đánh bạc. Khoản 1 Điều 248: Tội đánh bạc quy định: “1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm”. - Về chủ thể của tội phạm: tội đánh bạc không phải là chủ thể đặc biệt mà chỉ cần là chủ thể thường đạt độ tuổi luật định và có năng lực trách nhiệm hình sự. Ở đây, ta coi như M và N đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có đủ năng lực trách nhiệm hình sự theo luật định về tội đánh bạc. - Về khách thể của tội phạm: hành vi đánh bạc của M và N đã xâm phạm đến trật tự công cộng; nếp sống văn minh, sự ổn định, tính có kỉ luật và tính có tổ chức của xã hội và đây cũng là một tệ nạn xã hội. - Về mặt khách quan của tội phạm: Hành vi khách quan: hành vi của M và N là đánh bạc trái phép. Cụ thể là tham gia vào trò chơi đỏ đen được thua bằng tiền trong đó người thắng được nhận một khoản lợi ích vật chất từ người thua hoặc người tổ chức. Theo điều văn của luật thì người có hành vi đánh bạc dưới bất kì hình thức nào được thua bằng tiền hoặc hiện vật đều bị coi là hành vi phạm tội. Tuy nhiên, trong thực tế chỉ có các trò chơi bất hợp pháp mới bị coi là hành vi đánh bạc. Ở trường hợp của M và N là hành vi bất hợp pháp nên thỏa mãn dấu hiệu của tội đánh bạc. Hậu quả: không phải là dấu hiệu bắt buộc cũng không phải là dấu hiệu định khung hình phạt mặc dù hành vi đánh bạc có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng cho xã hội. Ở đây, hậu quả là M đã bị “thua” 8 triệu đồng. Dấu hiệu khách quan khác: mặc dù điều luật không quy định hậu quả là dấu hiệu bắt buộc nhưng lại quy định giá trị tiền hay hiện vật dùng đánh bạc là dấu hiệu bắt buộc của tội này. Điều này có ý nghĩa lớn trong quá trình định tội danh vì nếu có hành vi đánh bạc mà giá trị tiền hay hiện vật dùng đánh bạc có giá trị được xác định chưa đủ lớn như điều luật dự liệu mức tối thiểu thì chưa cấu thành tội đánh bạc. Theo hướng dẫn quy định tại tiểu mục 6.2 mục 6 Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự thì: “Tiền hoặc hiện vật có giá trị từ một triệu đồng đến dưới 10 triệu đồng là có giá trị lớn; Tiền hoặc hiện vật có giá trị từ 10 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng là có giá trị rất lớn; Tiền hoặc hiện vật có giá trị từ một trăm triệu đồng trở lên là có giá trị đặc biệt lớn”. Như vậy, thì tiền hoặc hiện vật dùng vào việc đánh bạc phải có giá trị từ 1 triệu đồng đến dưới 10 triệu đồng. - Về mặt chủ quan của tội phạm: M và N phạm tội với lỗi cố ý. Mục đích của M và N nhằm kiếm lợi. Như vậy, căn cứ vào hành vi của M và N tham gia trò chơi đỏ đen bất hợp pháp được thua bằng tiền và Điều 248 BLHS năm 1999 cùng một số văn bản hướng dẫn khác thì M và N đã phạm tội đánh bạc theo Khoản 1 Điều 248 BLHS năm 1999. Tóm lại: Qua các tình tiết nêu trong tình huống và căn cứ vào các Điều 139, Điều 248, và Điều 249 và một số điều khác của BLHS năm 1999 cùng các văn bản hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS năm 1999 ta thấy rằng: A, B, C là đồng phạm phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Khoản 1 Điều 139; còn M và N phạm tội đánh bạc theo khoản 1 Điều 248 BLHS năm 1999. Qua việc định tội danh cho các đối tượng trong tình huống nêu trên thấy được nạn nhân của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không chỉ bị thiệt hại về tài sản mà còn có thể bị xử lí về hình sự nếu bị lừa dối rồi thực hiện hành vi trái pháp luật. Đây là một trong những thủ đoạn mà người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản lợi dụng tâm lý hám lợi của nạn nhân. C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ Qua việc nghiên cứu về các tội xâm phạm sở hữu và trật tự công cộng, Nhà nước đã có những hình phạt trừng trị thích đáng đối với tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng như tội đánh bạc nói riêng. Nhưng tại sao trên thực tế, tội phạm vẫn xảy ra và tiếp diễn không ngừng trong xã hội? Đó là do thói quen coi thường pháp luật của người dân, và trong một bộ phận nhân dân vẫn có tư tưởng “Phép vua thua lệ làng” tạo ra ý thức tuân thủ pháp luật nói chung rất thấp. Thêm vào đó, trong những năm qua, chất lượng giáo dục và đào tạo thấp hơn rất nhiều so với yêu cầu, còn có nhiều hiện tượng tiêu cực đáng lo ngại; trong công tác quản lý, giáo dục tuyên truyền pháp luật cũng có nhiều bất cập và bị buông lỏng, làm nảy sinh khuynh hướng không lành mạnh. Vì vậy, pháp luật cần phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện, Đảng và Nhà nước nên cố gắng hơn nữa trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chính quyền nhân dân, lợi ích chính đáng của công dân, trật tự an toàn xã hội và pháp chế xã hội chủ nghĩa. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Tâp1 & 2, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. CAND, Hà Nội, 2009. 2. Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Tâp1 & 2, Khoa Luật Đại học Quốc gia, Nxb. ĐHQG, Hà Nội, 2009. 3. Bộ Luật Hình sự Việt Nam năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009). 4. Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 12 tháng 05 năm 2003 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ Luật Hình sự. 5. Lê Đăng Doanh, Đấu tranh phòng, chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2009. 6. Đinh Văn Quế, Chánh án tòa hình sự TANDTC, Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự phần các tội phạm (trọn bộ 10 tập), tập II & IX, Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2006. 7. TS. Phùng Thế Vắc – TS. Trần Văn Luyện – Luật sư. Th.S Phạm Thanh Bình – Th.S Nguyễn Đức Mai – Th.S Nguyễn Sĩ Đại – Th.S Nguyễn Mai Bộ, Bình luận khoa học BLHS 1999 (Phần các tội phạm), Nxb. CAND, Hà Nội, 2001. 8. GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Mô hình Luật Hình sự Việt Nam, Nxb.CAND, Hà Nội, 2008. http: //www.thongtinphapluatdansu.wordpress.com http: //www.laws.gov.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBài tập học kì luật Hình sự - đề số 6.doc