Trọng tài thương mại, một hình thức giải quyết tranh chấp với rất nhiều ưu việt, đã nhanh chóng phát triển ở Việt Nam trong những năm gần đây, là lựa chọn hàng đầu của các chủ thể kinh doanh, vì có những lợi thế nhất định mà tòa án kinh tế không có được. Tuy nhiên, vì nhiều lí do khác nhau mà sự phát triển của trọng tài thương mại ở nước ta vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, để tạo điều kiện cho loại hình giải quyết tranh chấp này phát trển hơn nữa, cần phải tạo ra những tiền đề cho sự phát triển, nhất là về mặt pháp lý.
Luật Trọng tài Thương mại 2010 thay thế cho Pháp lệnh Trọng tài Thương mại 2003, hạn chế được phần nào các quy định còn chưa phù hợp. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều quy định còn chưa thích hợp với thời kỳ hậu WTO. Thêm vào đó sự hỗ trợ của Nhà nước còn hạn chế. Thiết nghĩ, trong thời gian tới chúng ta cần có một cơ chế hoàn thiện hơn cho định hướng phát triển của loại hình giải quyết tranh chấp thương mại này.
17 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3167 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập học kì Thương mại 2 - Trọng tài thương mại hiện hành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NỘI DUNG
Trang
Mở đầu
Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp, theo đó các bên thỏa thuận đưa những tranh chấp ra trước một trọng tài viên hoặc hội đồng trọng tài để giải quyết và trọng tài sau khi xem xét vụ việc sẽ đưa ra một phán quyết ràng buộc các bên tranh chấp. Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của trọng tài viên, với tư cách là một bên thứ ba độc lập nhằm chấm dứt các xung đột bằng cách đưa ra một phán quyết buộc các bên tham gia tranh chấp phải thực hiện. Đây là hình thức giải quyết tranh chấp rất phổ biến, được áp dụng rộng rãi do những ưu điểm và lợi thế mà các hình thức giải quyết tranh chấp khác không có được.
Khái quát chung
Tranh chấp thương mại.
“Tranh chấp thương mại hay tranh chấp kinh doanh là thuật ngữ quen thuộc trong đời sống kinh tế xã hội ở các nước trên thế giới. Khái niệm này đã đựoc sử dụng phổ biến ở nước ta trong mấy năm gần đây cùng với sự nhường bước của tranh chấp kinh tế - một khái niệm quen thuộc của cơ chế kế hoạch hoá đã ăn sâu vào tiềm thức và tư duy pháp lý của người Việt Nam Trích Giáo trình luật thương mại Việt Nam (tập 2), trang 427.
”. Như vậy, dù tranh chấp thương mại hay tranh chấp kinh doanh thì đó cũng là sự thể hiện của sự bất đồng về lợi ích, quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể khi tham gia vào hoạt động thương mại.
Tranh chấp thương mại: là các tranh chấp diễn ra giữa các thương nhân, chủ thể tham gia kinh doanh. Cụ thể, đó là những tranh chấp phát sinh trong quá trình các thương nhân thực hiện các hoạt động thương mại nhằm mục đích lợi nhuận. Tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với quốc gia tiếp nhận đầu tư: Loại hình tranh chấp này nảy sinh trong việc thực hiện các hợp đồng BTO, BT, BOT, thực hiện các điều ước quốc tế khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương và đa phương…Tranh chấp giữa các quốc gia trong việc thực hiện các điều ước quốc tế về thương mại song và đa phương. Tranh chấp giữa các quốc gia với các thiết chế kinh tế quốc tế trong việc thực hiện các điều ước quốc tế về thương mại đa phương.
Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại.
Giải quyết tranh chấp thương mại là một biện pháp cần thiết để bảo vệ lợi ích hợp pháp của các chủ thể, đây cũng là biện pháp cần thiết để laọi trừ các tranh chấp sẽ phát sinh trong tương lai, và cũng là bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật. Để giải quyết tranh chấp thương mại các chủ thể có thể lựa chọn các phương thức giải quyết tranh chấp là: thương lượng, hoà giải, trọng tài thương mại và toà án.
Tuy nhiên khi lựa chọn các hình thức giải quyết này, các chủ thể cần lựa chọn các phương án phù hợp với mức độ và phạm vi của tranh chấp, nhất là không nên làm lộ bí mật kinh doanh của mình.
Các hình thức trọng tài thương mại
Để giải quyết tranh chấp bằng trọng tài các bên tranh chấp có thể lựa chọn các hình thức trọng tài; trọng tài thường trực (trọng tài quy chế), trọng tài vụ việc (trọng tài ad-hoc). Tùy từng trường hợp tranh chấp cụ thể các bên có thể lựa chọn các hình thức trọng tài khác nhau để giải quyết tranh chấp của mình. Tuy nhiên có những sự khác biệt giữa trọng tài thường trực với trọng tài ad-hoc. Luật trọng tài thương mại được Quốc hội thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2010, tại kì họp thứ 7 khóa XII. Tại khoản 6 Điều 3 có quy định: “Trọng tài quy chế là hình thức giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài theo quy định của Luật này và quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài đó.” Và khoản 7 Điều 3 cũng quy định: “ Trọng tài vụ việc là hình thức giải quyêt tranh chấp theo quy đinh của Luật này và trình tự, thủ tục do các bên thỏa thuận.
So với trọng tài thường trực thì trọng tài vụ việc có một số lợi thế nhất định sau Giáo trình luật thương mại 2, trang 448 & 449
;
Thứ nhất, trọng tài vụ việc có thể giải quyết một cách nhanh chóng vụ tranh chấp và ít tốn kém hơn, xét cho cùng của vấn đề thì trọng tài vị việc phụ thuộc vào ý chí của các bên tranh chấp.
Thứ hai, quyền lựa chọn các trọng tài viên của các bên đương sự không bị giới hạn bởi các danh sách trọng tài viên sãn có như hình thức trọng tài thường trực mà có thể lựa chọn bất kì trọng tài viên trong và ngoài danh sách trọng tài viên của bất kì trung tâm trọng tài nào.
Thứ ba, các bên tranh chấp có quyền rộng rãi xác định các quy tắc tố tụng để giải quyết tranh chấp giữa các bên. Trong khi đó, ở trọng tài thường trực, các bên chủ yếu chịu sự rang buộc bởi các quy tắc tố tụng của chính trung tâm tâm trọng tài mà các bên đã lựa chọn.
Tuy nhiên có những điểm mà trọng tài vụ việc không có được so với trọng tài thường trực như; trọng tài thường trực có bộ máy ổn định, có tư cách pháp nhân, có một đội ngũ trọng tài viên thường trực, có quy tắc tố tụng xác định. Và điều cơ bản đây là một hình thức phổ biến trên thế giới.
Sự hình thành và phát triển trọng tài thương mại ở Việt Nam.
Ở Việt Nam, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trong kinh doanh bằng đã được pháp luật quy định từ những năm đầu của cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Trọng tài kinh tế ra đời ở Việt Nam trên cơ sở Nghị định số 20/TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 14/1/1960. Theo quy định tại các văn bản pháp luật của thời kì đó từ Nghị định số 20 đến Pháp lệnh Trọng tài kinh té ngày 10/1/1990, Trọng tài kinh tế nằm trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước, có chức năng quản lý nhà nước đối với hợp đồng kinh tế và giải quyết các tranh chấp hợp đồng kinh tế, xử lý vi phạm pháp luật về hợp đồng kinh tế. Thời kì này cùng với các tổ chức trọng tài của Nhà nước còn có các tổ chức trọng tài phi chính phủ: Hội đồng trọng tài Ngoại thương (thành lập và hoạt động theo Nghị định số 59/NĐ-CP, ngày 30/4/1963) và Hội đồng trọng tài Hàng hải (thành lập theo Nghị định số 153/NĐ-CP, ngày 5/10/1964), hai Hội đồng trọng tài này có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán ngoại thương, hợp đồng vận tải hàng hóa quốc tế, hợp đồng bảo hiểm…khi có một bên chủ thể là tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài. Tổ chức, chức năng và nhiệm vụ của Trọng tài kinh tế dần được hoàn thiện, đặc biệt là trong Pháp lệnh Trọng tài kinh tế do Hội đồng Nhà nước thông qua ngày 10/1/1990.
Ngày 1/7/1994, hệ thống trọng tài kinh tế của Nhà nước chấm dứt hoạt động. Để đáp ứng yêu cầu giải quyết tranh chấp kinh tế trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước. Chính phủ đã ra Nghị định số 116/NĐ-CP, ngày 5/9/1994, quy định tổ chức và hoạt động của Trọng tài kinh tế, một tổ chức xã hội – nghề nghiệp được tổ chức ở các tỉnh, thành phố có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh tế theo các quy định của pháp luật. Trước đó, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 204/TTg, ngày 28/4/1993 về việc thành lập Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam – một tổ chức phi chính phủ - trên cơ sở hợp nhất của hai hội đồng trọng tài kinh tế Ngoại thương và Hàng hải, có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh tế phát sinh từ quan hệ kinh tế quốc tế.
Sau một thời gian hoạt động, các Trung tâm trọng tài kinh tế đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế, ngày 25/2/2003 Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Trọng tài thương mại, quy định về tổ chức và tố tụng trọng tài để giải quyết các tranh chấp trong hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở của Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003, ngày 17/6/2010, Quốc hội đã thông qua Luật Trọng tài thương mại 2010. Luật gồm 13 Chương và 82 Điều, quy định về các quy tắc tố tụng trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung, vấn đề hủy quyết định của trọng tài, điều kiện thành lập các trung tâm trọng taì, điều kiện của trọng tài viên… Đặc biệt kể từ sau khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), ngày 11/1/2007, Luật đã có sự kế thừa tham khảo về luật của nhiều quốc gia trên thế giới, Luật mẫu về Trọng tài Thương mại được Ủy ban của Liên Hiệp quốc về luật Thương mại quốc tế (UNCITRAL), thông qua ngày 21/6/1985 và áp dụng cho các quốc gia có nền kinh tế thị trường.
Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
Ưu thế của giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài.
Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài đã chứng tỏ ưu thế vượt trội của mình trong hệ thống các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bởi vì tố tụng của nó đã mang lại những lợi ích thiết thực cho nhà kinh doanh. Có thể nhận thấy những ưu thế này trong các đặc trưng của trọng tài :
Thứ nhất, trọng tài thương mại đảm bảo nguyên tắc tự định đoạt của các bên trong giải quyết tranh chấp. Tố tụng trọng tài cho phép các bên: tự do lựa chọn hình thức trọng tài là trọng tài theo vụ việc hay trong tài thường trực, tự do lựa chọn và chỉ định các trọng tài viên mà họ tín nhiệm. Nguyên tắc này giúp các bên tìm thấy sự công bằng trong việc bảo vệ quyền lợi cho mình. Mặt khác, trọng tài viên được lựa chọn là bất kỳ cá nhân nào phù hợp với đòi hỏi của vụ tranh chấp cụ thể, được các bên tín nhiệm như luật gia, các nhà chuyên môn, các nhà kinh doanh...
Thứ hai, nguyên tắc xét xử không công khai của trọng tài : Nguyên tắc này tạo cho trọng tài trở nên một lợi thế rất lớn để đảm bảo cho các bên giữ gìn uy tín và bí mật trong kinh doanh. Các thương nhân khi có tranh chấp xảy ra, họ thường không muốn đưa vụ việc ra tranh luận công khai, thứ nhất là do sự đòi hỏi bí mật trong kinh doanh, họ không muốn các thương nhân khác biết họ có tranh chấp, ngoài ra, báo chí cũng là vấn đề mà các bên e ngại, vì chuyện “đổ thêm dầu vào lửa” khi kể lại một vụ tranh chấp nào đó là việc rất có thể xảy ra. Việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vì vậy sẽ bảo vệ danh tiếng cũng như sự nghiệp kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường thông qua tính bảo mật thông tin kinh doanh khi giải quyết tranh chấp.
Thứ ba, tính nhanh chóng khi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cũng là một ưu điểm nỗi bật và chính ưu điểm này mà các nhà kinh doanh xem trọng tài thương mại là lựa chọn hàng đầu khi xảy ra tranh chấp. Bởi vì, quyết định trọng tài có giá trị chung thẩm mà không phải trải qua nhiều cấp xét xử như toà án. Đối với nhà kinh doanh thì “thời gian là tiền bạc, là cơ hội”, là những yếu tố góp phần vào sự thành bại trong kinh doanh. Vì thế trọng tài trở nên hấp dẫn đối với những ai không muốn đồng vốn của mình bị giam giữ quá lâu vì sự kiện tụng kéo dài.
Thứ tư, tố tụng trọng tài là một thể thức hết sức mền dẻo, linh hoạt, phù hợp với tính chất kinh doanh thể hiện ở những nội dung như các bên tranh chấp có thể chọn bất kỳ nơi nào thuận tiện để giải quyết tranh chấp, thậm chí có thể thỏa thuận giải quyết tranh chấp không cần dựa theo pháp luật mà chỉ dựa vào sự công bằng trên nguyên tắc không trái với pháp luật. Có nghĩa là họ giao toàn bộ niềm tin của mình cho các trọng tài viên mà họ đã lựa chọn. Trên lĩnh vực thương mại quốc tế, các bên có thể thỏa thuận chọn luật và thông lệ quốc tế nào mà họ cho là có lợi nhất cho họ.
Thứ năm, với tính chất là một tổ chức phi chính phủ, ưu điểm của trọng tài thể hiện ở việc trọng tài viên hoàn toàn độc lập, không bị chi phối bởi một cơ quan chủ quản nào. Họ xét xử vụ việc theo pháp luật và theo khả năng hiểu biết của mình. Hơn nữa, chính là sự gần gũi và quan tâm của trọng tài viên đối với các bên tranh chấp cũng là một ưu điểm của trọng tài so với tố tụng tư pháp thông thường. Đây là yếu tố thuận lợi cho các bên tranh chấp khi sử dụng phương pháp này, vì trong quá trình giải quyết tranh chấp các bên đôi khi thiếu sự bình tĩnh, trọng tài viên sẽ là người bám sát, theo dõi tiến triển vụ việc và có sự giúp đở kịp thời cho các bên. Hơn thế nữa, do trọng tài viên là những người được sự lựa chọn từ chính các bên tranh chấp, cho nên, trọng tài viên sẽ là người gần gũi và biết tận dụng những biên lề của quy phạm pháp luật, bảo vệ tối đa lợi ích của các bên.
Ưu điểm và hạn chế của giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại với Tòa án.
Mục
Tranh tụng tại Toà án
Trọng tài thương mại
Tính
chung thẩm
Phán quyết của Tòa không tránh khỏi bị kháng cáo
Hầu hết các phán quyết không dễ bị kháng cáo
Sự công nhận
quốc tế
Rất ít có sự công nhận. Trừ một số
Ngoại lệ như các nước EU
Có sự công nhận thông qua công ước Niu-oóc 1958.
Tính trung lập
Thường một bên tranh chấp có
quốc tịch tại nơi xét xử
Có sự bình đẳng về nơi xét xử
Năng lực
chuyên môn
Không phải các thẩm phán đều chuyên về một lĩnh vực
Có thể lựa chọn các trọng tài có trình
độ & chuyên môn cao, có tính độc lập.
Sự linh hoạt
Bị ràng buộc bởi các quy tắc tố tụng
Có thể linh hoạt về quy tắc, thời gian..
Biện pháp
tạm thời
Tòa án có thể có hành động kịp thời
& hiệu quả
Trọng tài không thể ra mệnh lệnh
Nhân chứng
Có quyền yêu cầu và triệu tập
Không có thẩm quyền
Tốc độ
Có thể kéo dài nhiều thời gian
Tương đối nhanh.
Bí mật
Các phiên xét xử thường công khai
Có thể bí mật hoặc công khai
Chi phí
Án phí vừa phải, tuy nhiên chi phí
là dành cho các luật sư là chủ yếu
Tương đối cao
Tùy theo mức độ và sự cần thiết mà các bên có thể lựa chọn các hình thức giải quyết tranh chấp khác nhau, phù hợp với quy mô và mức độ của các tranh chấp.
Thẩm quyền của trọng tài thương mại.
Trong việc giải quyết các tranh chấp bằng trọng tài các bên có thể thỏa thuận trao cho thẩm quyền nhất định, tuy nhiên điều này cần phải dựa trên các quy định của pháp luật, như Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 được thay thế bằng Luật Trọng tài thương mại 2010.
Trọng tài có thẩm quyền các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại nếu được các bên thỏa thuận và được tiến hành theo một trình tự và thủ tục nhất định. Theo như Nghị định số 25/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/1/2004 đã quy định chi tiết về thẩm quyền của trọng tài thương mại.
Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
Giải quyết tranh chấp trên cơ sở thỏa thuận trọng tài, trọng tài chỉ giải quyết khi có thỏa thuận của các bên về đưa tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài. Hay thỏa thuận trọng tài là căn cứ để áp dụng phương thức giải quyết thương mại bằng trọng tài. Quyền tự do kinh doanh là quyền tối cao của các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, bao hàm cả quyền lựa chọn các phương thức giải quyết các tranh chấp phát sinh. Vì vậy, khi có tranh chấp các bên có thể lựa chọn các hình thức giải quyết phù hợp nhất, có thể bằng thương lượng, hòa giải, tòa án hoặc trọng tài thương mại. Nếu các bên lựa chọn trọng tài giải quyết tranh chấp thì yêu cấu băt buộc đặt ra là các bên phải có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài phải có hiệu lực pháp lý.
Lựa chọn trọng tài, tranh chấp giữa các bên được giải quyết tại Hội đồng trọng tài do Trung tâm trọng tài tổ chức hoặc Hội đồng trọng tài do các bên thành lập. Hội đồng trọng tài gồm ba trọng tài hoặc một trọng tài duy nhât. Các bên có thể lựa chọn các hình thức trọng tài phù hợp; trọng tài thường trực và trọng tài vụ việc, theo thỏa thuận của các bên để giải quyết tranh chấp.
Áp dụng pháp luật, Điều 14 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định như sau: đối với vụ tranh chấp mà không có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng Luật tương ứng để giải quyết tranh chấp. Việc lựa chọn luật nước ngoài sẽ không được chấp nhận. Đây cũng là nguyên tắc xác định chủ quyền tối cao trên lãnh thổ nước ta; đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn. nếu không có thỏa thuận thì Hội đồng trọng tài lựa chọn áp dụng mà cho là phù hợp nhất. Tuy nhiên, khi lựa chọn pháp luật nước ngoài thì pháp luật đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Đây là quy định phù hợp với Luật mẫu UNCITRAL. Nếu các bên không lưạ chọn luật, Ủy ban trọng tài sẽ áp dụng luật đươc xác định bởi nguyên tắc xung đột pháp luật mà Ủy ban trọng tài thấy là thích hợp.
Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư khi giải quyết tranh chấp, trong một quá trình giải quyết tranh chấp không có ai có quyền can thiệp vào hoạt động của trọng tài. Nếu các vụ tranh chấp do Hội đồng trọng tài tiến hành thì trọng tài viên hoàn toàn bình đẳng, xét xử độc lập căn cứ vào hợp đồng thỏa thuận và những quy định của pháp luật hiện hành. Trọng tài viên phải đảm bảo nguyên tắc vô tư, khách quan, nếu không muốn không muốn các bên khước từ nếu có căn cứ chứng minh. Nguyên tắc này được đặt ra đối với các trọng tài viên giải quyết tranh chấp bởi lẽ tính độc lập, khách quan và vô tư của trọng tài viên có thể ảnh hưởng đến tính đúng đắn, khách quan và khả năng thi hành phán quyết của trọng tài. Ngoài ra đây cũng là tôn trọng thỏa thuận của các bên trong suốt quá trình giải quyết tranh chấp.
Giải quyết một lần, khi các bên lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có nghĩa là muốn giải quyết tranh chấp càng nhanh càng tốt. Họ không muốn các tranh chấp kéo dài làm ảnh hưởng đến công việc kinh doanh của mình. Vì thủ tục tố tụng trọng tài tương đối ngắn gọn, không có nhiều giai đoạn như tố tụng tại Tòa án, và cũng không dễ bị kháng cáo.
Các giai đoạn cơ bản trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Thỏa thuận trọng tài.
Điều 3.2, Luật Trọng tài thương mại quy định “thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng Trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh.”. Trọng tài là cơ quan giải quyết tranh chấp do các bên lựa chọn và chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi có thỏa thuận của các bên về việc đưa tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài. Nói cách khác, thỏa thuận trọng tài là căn cứ để áp dụng phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Nếu các bên lựa chọn trọng tài giải quyết tranh chấp thì một bên yêu cầu bắt buộc đặt ra là các bên phải có thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận này có thể được lập trước hoặc sau khi tranh chấp phát sinh. Điều này có nghĩa rằng các trung tâm trọng tài chỉ được thụ lý đơn khi các đương sự đã có thỏa thuận trọng tài.
Thỏa thuận trọng tài phải được lập thành văn bản, thư điện tử, telex, fax, hoặc hình thức khác có thể hiện ý chí của các bên về việc giải quyết tranh chấp đó bằng trọng tài. Luật mẫu UNCITRAL về trọng tài thương mại quốc tế, thỏa thuận là văn bản nếu nó nằm trong một văn bản được các bên ký kết bằng sự trao đổi qua thư từ, telex, điện tín hoặc qua các hình thức trao đổi viễn thông khác mà ghi nhận sự trao đổi đó thể hiện sự tồn tại của việc ghi nhận hoặc bên kia không phủ nhận.
Thỏa thuận trọng tài có thể là một điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc có thể là một thỏa thuận riêng biệt độc lập với hợp đồng. Đối với những điều khoản trọng tài tồn tại độc lập với hợp đồng thì việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, sự vô hiệu của hợp đồng không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của điều khoản trọng tài. Trong trường hợp vụ tranh chấp đã có thỏa thuận trọng tài, nếu một bên khởi kiện tại Tòa án thì Tòa án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Thỏa thuận trọng tài vô hiệu trong các trường hợp theo Điều 18, Luật Trọng tài thương mại 2010.
Nộp đơn kiện
Nguyên đơn phải làm đơn kiện gửi trung tâm trọng tài hoặc bị đơn. Kèm theo đơn kiện, nguyên đơn phải gửi bản chính hoặc bản sao thỏa thuận trọng tài, bản chính hoặc bản sao các chứng cơ tài liệu liên quan, bản sao phải có chứng thực hợp lệ.
Tố tụng trọng tài bắt đầu khi trung tâm trọng tài nhận được đơn kiện của nguyên đơn hoặc từ bị đơn nhận được đơn nhận được đơn kiện của nguyên đơn. Nếu giải quyết tại tại trung tâm trọng tài, thì trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ khi nhận được đơn kiện, trung tâm trọng tài phải gửi cho bị đơn bản sao đơn kiện của nguyên đơn và những chứng cớ tài liệu mà nguyên đơn đã gửi.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đơn kiện và các tài liệu liên quan, bị đơn có trách nhiệm gửi cho trung tâm trọng tài hoặc bị đơn bản tự bảo vệ, nếu trung tâm trọng tài không có quy định khác. Và bị đơn cũng có quyền kiện ngược lại nguyên đơn, thời gian và hình thức cũng tương tự nguyên đơn khởi kiện, nếu như bị đơn thấy như các nội dung mà nguyên đơn khởi kiện là không đúng.
Thành lập Hội đồng trọng tài.
Thành lập Hội đồng trọng tài tại Trung tâm trọng tài.
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện và yêu cầu chọn Trọng tài viên, bị đơn phải chọn phải chọn các Trọng tài viên có tên trong danh sách Trọng tài viên của Trung tâm Trọng tài và báo cáo cho Trung tâm Trọng tài biết hoặc yêu cầu Chủ tịch Trung tâm Trọng tài chỉ định cho mình. Hết thời hạn này, nếu bị đơn không chọn hoặc không yêu cầu thì Chủ tịch Trung tâm Trọng tài sẽ chỉ định Trọng tài viên trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày hết hạn quy định tại khoản này, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài chỉ định Trọng tài viên cho bị đơn.
Trong trường hợp vụ tranh chấp có nhiều bị đơn thì các bị đơn thống nhất chọn một Trọng tài viên trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện do Trung tâm Trọng tài gửi đến. Nếu các bị đơn không chọn Trọng tài viên, thì trong vòng 7 ngày làm việc, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài chỉ định Trọng tài viên cho các bị đơn.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Trọng tài viên được các bên lựa chọn hoặc Chủ tịch Trung tâm Trọng tài chỉ định, các trọng tài viên phải chọn Trọng tài viên thứ ba của Trung tâm Trọng tài và bầu làm Chủ tịch Hội đồng Trọng tài. Hết thời hạn 7 ngày việc mà chưa bầu được Chủ tịch Hội đồng Trọng tài thì Chủ tịch Trung tâm Trọng tài sẽ chỉ định Chủ tịch Hội đồng Trọng tài.
Thành lập Hội đồng Trọng tài vụ việc (trọng tài ad-hoc).
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nguyên đơn gửi đơn kiện cho bị đơn (trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác), bị đơn phải chọn Trọng tài viên và thông báo cho nguyên đơn biết Trọng tài viên mà mình đã chọn. Hết thời hạn này, nếu bị đơn không thông báo cho nguyên đơn tên Trọng tài viên mà mình đã chọn, thì nguyên đơn có quyền yêu cầu tòa án có thẩm quyền chỉ định Trọng tài viên cho bị đơn.
Trong trường hợp có nhiều bị đơn thì các bị đơn phải thống nhất chọn một Trọng tài viên trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn cùng các tài liệu kèm theo. Hết thời hạn này mà các bị đơn không chọn Trọng tài viên thì nguyên đơn có quyền yêu cầu tòa án có thẩm quyền, nơi có trụ sở hoặc cư trú của các bị đơn chỉ định Trọng tài viên cho các bị đơn.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày hai Trọng tài viên được, các Trọng tài viên này phải thống nhất chọn người thứ ba làm Chủ tịch Hội đồng Trọng tài. Hết thời hạn này mà các Trọng tài viên không chọn được, thì nguyên đơn có quyền yêu cầu tòa án có thẩm quyền chỉ định một Chủ tịch Hội đồng Trọng tài. Trọng tài viên được chọn làm chủ tịch có thể là Trọng tài viên trong và ngoài các Trung tâm Trọng tài của Việt Nam.
Trong trường hợp thỏa thuận một Trọng tài viên duy nhất giải quyết, nhưng không chọn được Trọng tài viên duy nhất, thì theo yêu cầu của một bên thì Tòa án có thẩm quyền chỉ định một Trọng tài viên duy nhất và trong thời hạn là 30 ngày. Quyết định của Trọng tài viên duy nhất có hiệu lực như quyêt định của Hội đồng Trọng tài.
Phiên họp giải quyết tranh chấp.
Là hình thức giải quyết chủ yếu của trọng tài, tại đây diễn ra quá trình tranh tụng, theo đó các bên tranh chấp phải phát biểu và trả lời những câu hỏi của Hội đồng trọng tài. Phiên họp giải quyết tranh chấp không công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Các bên có thể trực tiếp hay ủy quyền cho người đại diện tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp. Các bên có thể mời nhân chứng, luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp được các bên yêu cầu, Hội đồng trọng tài có thể cắn cứ vào hồ sơ để giải quyết tranh chấp mà không cần sự có mặt của các bên. Hội đồng trọng tài phải lập biên bản phiên họp giải quyết tranh chấp, đây là văn bản ghi nhận tiến trình của thủ tục trọng tài, cũng như toàn bộ nội dung của quá trình tranh tụng.
Khi tổ chức phiên họp giải quyết tranh chấp, Hội đồng trọng tài phải bảo đảm rằng các bên có đủ thời gian để tranh luận, các bên có thể trình bày qua điểm và đưa ra chứng cớ để chứng minh cho lập luận của mình. Hội đồng trọng tài có thể đặt câu hỏi để làm rõ một số điểm. Tuy nhiên, khi đặt câu hỏi Hội đồng cần tránh đặt ra những câu hỏi gây ra ấn tượng về tính thiên vị hoặc ngụ ý về bất kỳ vấn đề gì lien quan đến quyết định đến nội dung của vụ việc mà Hội đồng trọng tài đã dự kiến.
Phiên họp giải quyết tranh chấp là thủ tục bắt buộc của quá trình tố tụng, do đó việc Hội đồng trọng tài từ chối tổ chức phiên họp giải quyết tranh chấp có thể bị tòa án coi như là sự vi phạm về quy tắc giải quyết và có thể dẫn đến việc tòa án từ chối công nhận hoặc thi hành quyết định trọng tài.
Trọng tài ra quyết định và vấn đề hủy quyết định của trọng tài.
Quyết định của trọng tài là quyết định do Hội đồng Trọng tài hoặc do một Trọng tài viên duy nhất nhằm giải quyết các vấn đề chung thẩm các vấn đề được đưa ra để giải quyết .
Quyết định trọng tài được lập theo nguyên tắc đa số, trừ trường hợp do một Trọng tài viên duy nhất giải quyết, ý kiến thiểu số được ghi vào biên bản của cuộc họp.
Tòa án nhân cấp tỉnh có thẩm quyền hủy quyết định của trọng tài nếu có bên không đồng ý với quyết định trọng tài và có đơn gửi Tòa án nơi Hội đồng Trọng tài ra quyết định để yêu cầu hủy quyết định của trọng tài. Tòa án ra quyết định hủy quyết định của trọng tài nếu có bên yêu cầu chứng minh được Hội đồng Trọng tài đã ra quyết định thuộc các trường hợp sau đây:
Không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu;
Thành phần Hội đồng Trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên, hoặc trái với quy định của Luật này;
Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài; trường hợp phán quyết trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài thì nội dung đó bị hủy;
Chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng Trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo; Trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài;
Phán quyết của trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Thi hành quyết định của trọng tài.
Quyết định của trọng tài có thể được công bố ngay tại phiên họp cuối cùng hoặc sau đó nhưng chậm nhất là 30 ngày kể từ phiên họp cuối cùng (Điều 61.3, Luật Trọng tài thương mại). Phán quyết của trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực thi hành kể từ ngày ban hành. Trong trường hợp, một trong các bên yêu cầu tòa án hủy quyết định của trọng tài thì quyết định trọng tài được thi hành kể từ ngày quyết định của tòa án không hủy quyết định của trọng tài có hiệu lực.
Việc thi hành quyết định của trọng tài được thực hiện theo pháp luật về thi hành án dân sự.
Sự hỗ trợ của Tòa án với hoạt động tố tụng của trọng tài.
Do bản chất của giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vốn không dựa trên quyền lực nhà nước mà do các bên đương sự tự định đoạt vì thế cơ chế hỗ trợ và giám sát của Tòa án đối với quá trình tố tụng trọng tài là một tất yếu.
Trọng tài với tính chất là một tổ chức phi chính phủ nên Hội đồng trọng tài không có quyền ra các quyết định mang tính chất quyền lực Nhà nước. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết tranh chấp có thể phát sinh nhiều vấn đề nếu không giải quyết kịp thời thì chúng sẽ ảnh hưởng xấu đến quá trình giải quyết tranh chấp. Vì vậy, có sự giúp đỡ của Tòa án trong công việc giải quyết các vấn đề như thế là không thể thiếu được.
Sự hỗ trợ của Tòa án để đảm bảo thi hành điều khoản hoặc thỏa thuận trọng tài
Nếu các bên tranh chấp đã có thỏa thuận điều khoản trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài mà một trong các bên không thực hiện thì Tòa án hỗ trợ để đảm bảo thi hành. Tham khảo luật một số nước trên thế giới, ta thấy cơ chế này là khá chặt chẽ. Điều 26 Luật trọng tài Trung quốc quy định: “trong trường hợp giữa hai bên đã có thỏa thuận trọng tài mà một bên đưa đơn kiện đến Tòa án, còn bên kia xuất trình Tòa án bản thuận trọng tài trước khi phiên họp đầu tiên được tiến hành thì Tòa án nhân dân có thẩm quyền sẽ đình chỉ vụ kiện, trừ khi thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Nếu bên thứ hai không có đơn yêu cầu đình chỉ vụ kiện tại Tòa án trước khi mở phiên họp đầu tiên, thì coi như bên đó cũng đã từ chối thực hiện thỏa thuận trọng tài, do đó, Tòa án nhân dân sẽ tiếp tục xét xử vụ tranh chấp”. Luật trọng tài Thái lan (điều 10) và Luật trọng tài Malaysia (điều 6) thì quy định: nếu xét thấy điều khoản thỏa thuận trọng tài vẫn còn giá trị pháp lý, thì Tòa án sẽ ra quyết định buộc các bên tham gia quá trình trọng tài như đã thỏa thuận hoặc quyết định đình chỉ vụ kiện, chuyển các bên đến trọng tài đã lựa chọn theo đúng thỏa thuận.
Tiếp nhận luật mẫu UNCITRAL (Điều 8) đồng thời tham khảo kinh nghiệm luật trong tài các nước, Điều 6 của Luật Trọng tài thương mại ghi nhận: “trong trường hợp vụ tranh chấp đã có thỏa thuận trọng tài, nếu một bên khởi kiện đến Tòa án thì Tòa án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được.”
Đây là một quan điểm hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế và tạo điều kiện thuận lợi cho nước ta khi áp dụng Công ước New York. Khoản 2 điều 3 Công ước New York 1958 quy định: “Tòa án của một quốc gia thành viên, khi nhận được một đơn kiện về một vấn đề mà vấn đề đó các bên đã có thỏa thuận theo nội dung điều khoản này, sẽ theo yêu cầu của một bên, đưa các bên đến trọng tài, trừ khi thỏa thuận nói trên không có hiệu lực hoặc không thể thực hiện được”
Sự hỗ trợ của toà án trong việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời
Theo điều 48 Luật trọng tài thương mại, trong quá trình Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại, thì các bên có quyền làm đơn tới Tòa án nơi Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Bên có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải làm đơn gửi đến Toà án cấp tỉnh nơi Hội đồng Trọng tài đã thụ lý vụ tranh chấp. Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải gửi kèm theo bản sao đơn kiện và bản sao thoả thuận trọng tài. Các bản sao phải có chứng thực hợp lệ.
Tuỳ theo yêu cầu áp dụng loại biện pháp khẩn cấp tạm thời mà bên yêu cầu phải cung cấp cho Toà án bằng chứng cụ thể về các chứng cứ cần được bảo toàn, các chứng cứ về việc bị đơn tẩu tán, cất giấu tài sản có thể làm cho việc thi hành quyết định trọng tài không thể thực hiện được.
Bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải nộp một khoản tiền bảo đảm do Toà án ấn định, nhưng không quá nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện để bảo vệ lợi ích của bị đơn và ngăn ngừa sự lạm dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời từ phía người có yêu cầu. Các khoản tiền này được gửi giữ tại ngân hàng nơi có trụ sở của Toà án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Sau khi nhận được đơn yêu cầu và những tài liệu theo quy định, Chánh án Toà án cấp tỉnh nơi Hội đồng Trọng tài đã thụ lý vụ tranh chấp giao cho một Thẩm phán xem xét, giải quyết đơn yêu cầu. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày được giao, Thẩm phán phải kiểm tra tính chính xác của những tài liệu, trong phạm vi yêu cầu của nguyên đơn, có thể ra quyết định áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời. Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải được gửi ngay cho Hội đồng Trọng tài, các bên tranh chấp và Viện Kiểm sát cùng cấp.
Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được thi hành ngay. Việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
Viện trưởng Viện Kiểm sát cùng cấp có quyền kiến nghị, bị đơn có quyền yêu cầu Chánh án Toà án đã ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời xem xét, giải quyết việc thay đổi, huỷ bỏ hoặc giữ nguyên các biện pháp đó trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Chánh án Toà án phải có quyết định và trả lời cho Viện Kiểm sát hoặc bị đơn trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được kiến nghị của Viện Kiểm sát hoặc yêu cầu của bị đơn.
Sự hỗ trợ của tòa án đối với Hội đồng trọng tài do các bên thành lập.
Hỗ trợ chỉ định trọng tài viên: Điều 41, Luật Trọng tài thương mại quy định trong trường hợp Hội đồng Trọng tài do các bên thành lập khi nguyên đơn gửi đơn kiện cho bị đơn, bị đơn phải chọn trọng tài viên và thông báo cho nguyên đơn biết Trọng tài viên mà mình chọn. Nếu như bị đơn không chọn được trọng tài viên hoặc hai trọng tài viên không thể chọn được Trọng tài viên thứ ba thì Tòa án có thẩm quyền nơi bị đơn có trụ sở hoặc cư trú chỉ định trọng tài viên. Và thẩm quyền chỉ định trọng tài viên duy nhất hoặc trọng tài viên thứ ba sẽ được Chánh án Tòa án giao cho một Thẩm phán thực hiện việc này. Trọng tài viên do các bên chọn hoặc do Tòa án chỉ định có thể là Trọng tài viên trong danh sách hoặc ngoài danh sách trọng tài viên của các Trung tâm trọng tài của Việt Nam.
Kết luận.
Trọng tài thương mại, một hình thức giải quyết tranh chấp với rất nhiều ưu việt, đã nhanh chóng phát triển ở Việt Nam trong những năm gần đây, là lựa chọn hàng đầu của các chủ thể kinh doanh, vì có những lợi thế nhất định mà tòa án kinh tế không có được. Tuy nhiên, vì nhiều lí do khác nhau mà sự phát triển của trọng tài thương mại ở nước ta vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, để tạo điều kiện cho loại hình giải quyết tranh chấp này phát trển hơn nữa, cần phải tạo ra những tiền đề cho sự phát triển, nhất là về mặt pháp lý.
Luật Trọng tài Thương mại 2010 thay thế cho Pháp lệnh Trọng tài Thương mại 2003, hạn chế được phần nào các quy định còn chưa phù hợp. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều quy định còn chưa thích hợp với thời kỳ hậu WTO. Thêm vào đó sự hỗ trợ của Nhà nước còn hạn chế. Thiết nghĩ, trong thời gian tới chúng ta cần có một cơ chế hoàn thiện hơn cho định hướng phát triển của loại hình giải quyết tranh chấp thương mại này.
Danh mục tài liệu tham khảo
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại Việt Nam (tập 2), Nxb. CAND, Hà Nội, 2006.
Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Giáo trình pháp luât kinh tế, Nxb. Đại học Kinh tế quốc dân, 2008.
Luật Thương mại 2005
Luật Trọng tài Thương mại 2010.
Pháp lệnh Trọng Thương mại 2003.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập học kì Thương mại 2 - Trọng tài thương mại hiện hành.doc