Việt Nam đã và đang từng bước hội nhập sâu vào đời sống quốc tế bằng
việc tham gia và đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của các tổ chức quốc tế
cũng như khu vực. Và việc tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN
là một bước đi đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Kể từ khi gia nhập tổ chức
này, có thể thấy diện mạo của Việt Nam đã thay đổi một cách nhanh chóng. Bên
cạnh đó, chúng ta cũng tích cực đóng góp vào sự phát triển chung của tổ chức
ASEAN. Đóng góp lớn nhất chính là việc góp phần củng cố môi trường hòa bình,
ổn định, hợp tác và phát triển trong ASEAN thông qua việc góp phần xác định
phương hướng và các chính sách hợp tác của ASEAN. Chúng ta đã dựa vào mối
quan hệ tốt với các nước ngoài khu vực để làm cầu nối thúc đẩy sự hợp tác về mọi
mặt của họ với tổ chức ASEAN. Bên cạnh đó, chúng ta cũng có những sáng kiến
hợp lý vào những thời điểm thích hợp để hoặc là tháo gỡ những khó khăn mà tổ
chức ASEAN đang gặp phải, hoặc là nhằm tạo tiền đề thúc đẩy đà phát triển cho
tổ chức.
15 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2505 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập lớn Chính sách đối ngoại (phần II), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài tập lớn
Chính sách đối ngoại (phần II)
Sinh viên: Vũ Thùy Linh
Lớp I33
Học viện Ngoại giao Việt Nam
LỜI NÓI ĐẦU
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (viết tắt là ASEAN), ra đời năm 1967,
cho đến nay đã được 42 năm. Trải qua những bước thăng trầm lịch sử và những
khó khăn, đến nay, ASEAN đã phát triển thành một khối liên minh vững chắc và
có những đóng góp rất lớn trong sự phát triển chung trên mọi lĩnh vực đời sống
quốc tế.
Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức ASEAN vào ngày 28
tháng 7 năm 1995. Kể từ khi gia nhập cho đến nay, Việt Nam đã có những đóng
góp đáng kể cho sự phát triển chung của ASEAN, được cộng đồng ASEAN ghi
nhận. Trong phạm vi bài tiểu luận này, chỉ xin phân tích những đóng góp của Việt
Nam trong vòng 10 năm kể từ khi gia nhập (từ năm 1995 đến năm 2005).
Chỉ chọn nghiên cứu thời điểm từ năm 1995 đến năm 2005, bởi:
- 10 năm có thể coi là dấu mốc đáng kể, đáng nhớ đầu tiên để ghi nhận, xem xét
và đánh giá một chặng đường kể từ khi gia nhập.
- Quãng thời gian 10 năm (1995 – 2005) là quãng thời gian chứng kiến bước
chuyển mình của ASEAN với những bước thay đổi, phát triển vượt bậc với
những thành tựu tiêu biểu, mặc dù phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trên
mọi lĩnh vực.
Chính vì vậy, chọn thời điểm 10 năm, kể từ năm 1995 đến năm 2005 để
nhìn nhận sự đóng góp tích cực của Việt Nam vào sự phát triển chung của Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN để có thể có cách nhìn rõ ràng nhất về vai
trò của Việt Nam trong cộng đồng này.
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ASEAN
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (Association of Southeast Asia Nations,
viết tắt là ASEAN) là một liên minh chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của các
quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Tổ chức này được thành lập ngày 8 tháng 8
năm 1967 với các thành viên đầu tiên là Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Singapore,
và Philippines, để tỏ rõ tình đoàn kết giữa các nước trong cùng khu vực với nhau,
đồng thời hợp tác chống tình trạng bạo động và bất ổn tại những nước thành viên.
Sau Hội nghị Bali năm 1976, tổ chức này bắt đầu chương trình cộng tác kinh tế,
nhưng các hợp tác bị thất bại vào giữa thập niên 1980. Hợp tác kinh tế chỉ thành
công lại khi Thái Lan đề nghị khu vực thương mại tự do năm 1991. Hàng năm, các
nước thành viên đều luân phiên tổ chức các cuộc hội họp chính thức để trao đổi
hợp tác.
1. Các thành viên:
Hiện nay, tổ chức này gồm 10 quốc gia thành viên được liệt kê theo ngày gia
nhập:
Các quốc gia sáng lập (ngày 8 tháng 8 năm 1967):
Cộng hoà Indonesia
Liên bang Malaysia
Cộng hoà Philippines
Cộng hòa Singapore
Vương quốc Thái Lan
Các quốc gia gia nhập sau:
Vương quốc Brunei (ngày 8 tháng 1 năm 1984)
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (ngày 28 tháng 7 năm 1995)
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (ngày 23 tháng 7 năm 1997)
Liên bang Myanma (ngày 23 tháng 7 năm 1997)
Vương quốc Campuchia (ngày 30 tháng 4 năm 1999)
Hai quan sát viên và ứng cử viên:
Papua Tân Guinea: quan sát viên của ASEAN.
Đông Timo: ứng cử viên của ASEAN
2. Mục đích:
Giữ vững hòa bình, an ninh, ổn định khu vực, xây dựng một cộng đồng hòa hợp,
hợp tác để cùng nhau phát triển kinh tế-xã hội.
3. Nguyên tắc hoạt động:
- Nguyên tắc về quan hệ song phương và đa phương: Tôn trọng chủ quyền và
không can thiệp vào nội bộ của nhau, và tiến tới tuân thủ các quy định chung trong
Hiến chương ASEAN khi Hiến chương này được tất cả mười thành viên trong
Khối phê chuẩn và có hiệu lực. Hiến chương này được xem là Hiến pháp của toàn
Khối. Hiến chương Asean sẽ được thông qua vào Tháng Mười Hai, 2008. Nếu
được thông qua, Hiến chương sẽ có hiệu lực từ ngày thứ 30 sau khi Văn kiện Phê
chuẩn được đệ trình lên Tổng Thư ký của Khối.
- Nguyên tắc điều phối hoạt động: có 3 nguyên tắc chủ yếu là nguyên tắc nhất
trí, nguyên tắc bình đẳng và nguyên tắc 6-X -Trong quan hệ với nhau, các thành
viên của khối đều tuân theo 6 nguyên tắc chính được nêu lên trong Hiệp ước thân
thiện và hợp tác ở Đông Nam á (Hiệp ước Ba-li), kí tại Hội nghị Cấp cao ASEAN
lần thứ I tại Ba-li năm 1976, là:
Cùng tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc
dân tộc của tất cả các dân tộc;
Quyền của mọi quốc gia được lãnh đạo hoạt động của dân tộc mình, không
có sự can thiệp, lật đổ hoặc cưỡng ép của bên ngoài;
Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau;
Giải quyết bất đồng hoặc tranh chấp bằng biện pháp hoà bình, thân thiện;
Không đe doạ hoặc sử dụng vũ lực;
Hợp tác với nhau một cách có hiệu quả.
II. LỢI ÍCH CÓ ĐƯỢC TỪ VIỆC GIA NHẬP ASEAN
Quan hệ buôn bán và đầu tư giữa Việt Nam và các nước ASEAN ngày càng
được tăng cường, đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế của Việt nam. Trước
khi Việt Nam gia nhập ASEAN, trong giai đoạn 6 năm (1988 - 1994), tổng số dự
án của các nước ASEAN vào Việt Nam là 160 dự án, với số vốn đăng ký là 2,7 tỷ
USD. Sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN, những con số trên đã tăng vọt. Kết quả
là trong giai đoạn 1995 - 2000, các nước ASEAN đã có 296 dự án đầu tư vào Việt
nam, với tổng số là 7,365 tỷ USD, chiếm 16% về số dự án và gần 30% tổng số vốn
mà các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới đầu tư vào Việt Nam. Trong các nước
ASEAN, Singapore là nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam, tiếp theo là các nước
Malaysia, Thái lan, Phillippines và Indonexia. Chỉ riêng Singapore, tính đến tháng
12 năm 2001 đã có 244 dự án với tổng số vốn là 6,88 tỷ USD, trong tổng số 3.043
dự án đầu tư nước ngoài ở Việt nam và vốn đầu tư là 37,6 tỷ USD.
Các dự án đầu tư của ASEAN vào Việt Nam cũng đã có sự thay đổi cơ cấu
rõ rệt, từ các lĩnh vực thương mại, khách sạn, dịch vụ chuyển mạnh sang lĩnh vực
công nghiệp và sản xuất. Trong tổng số 115 dự án và 1,2 tỷ USD vốn đầu tư của
Malaysia ở Việt Nam thì lĩnh vực công nghiệp chiếm khoảng 44% số dự án và
70% số vốn. Tiếp theo Malaysia là Thái Lan với 112 dự án và 1,16 tỷ USD vốn
đầu tư. Một số khu công nghiệp và chế xuất mà các nước ASEAN tham gia ở Việt
Nam đã hoạt động có hiệu quả như: khu công nghiệp Việt Nam - Singapore (Bình
Dương), Khu công nghiệp Việt Nam - Thái Lan (Amata), Khu chế xuất Việt Nam
- Malaysia (Đà Nẵng), khu công nghiệp Việt Nam - Malaysia (Nội Bài)... Có thể
nói, đầu tư từ các nước ASEAN đã và đang là một trong những nguồn lực quan
trọng đóng góp vào phát triển kinh tế Việt nam, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá, và đưa Việt Nam tiến kịp các nước
trong khu vực.
Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước ASEAN cũng không
ngừng gia tăng trong những năm qua. Riêng năm 2000, kim ngạch buôn bán giữa
Việt Nam và ASEAN đã đạt 7,1 tỷ USD, chiếm 24% tổng kim ngạch buôn bán của
Việt Nam. Singapore, Thái Lan, Philiippines, Malaysia và Indonexia là các bạn
hàng lớn trong ASEAN của Việt Nam. Năm 2002, Indonexia đã ký hợp đồng nhập
500.000 tấn gạo của Việt Nam trong tổng số 1 triệu tấn gạo mà nước này dự định
nhập khẩu từ nước ngoài. Việt Nam và Thái Lan đã thoả thuận hợp tác về xuất
khẩu gạo nhằm nâng giá gạo trên thị trường quốc tế đang còn quá thấp. Quan hệ
thương mại giữa hai nước không ngừng được cải thiện cả về kim ngạch hai chiều
lẫn cơ cấu mặt hàng với việc Việt Nam đã xuất trở lại Thái Lan các hàng công
nghệ, linh kiện điện tử và hàng tiêu dùng. Cùng với quan hệ thương mại, các quan
hệ chính trị và những mối quan hệ khác được tăng cường hơn, đã góp phần thúc
đẩy sự hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và các nước ASEAN.
Sau khi trở thành thành viên ASEAN, Việt Nam đã chính thức tham gia
Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) từ ngày 1/1/1996. Với việc tham gia
AFTA, cả Việt nam và các nước ASEAN đều có điều kiện hơn nữa để thúc đẩy
quan hệ thương mại theo những qui định về giảm thuế quan có hiệu lực chung
(CEPT).
III. ĐÓNG GÓP CỦA VIỆT NAM TRONG 10 NĂM (1995 – 2005)
Trong vòng 10 năm kể từ khi gia nhập (1995), Việt Nam đã có rất nhiều đóng
góp tích cực trong mọi mặt của ASEAN, góp phần làm thay đổi diện mạo của
ASEAN trên trường quốc tế. Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài tiểu luận này, chỉ xin
đi vào phân tích chi tiết 2 đóng góp sau đây:
1. Đóng góp tích cực cho việc thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa ASEAN và các
nước đối thoại.
Sự tham gia có hiệu quả của Việt Nam trong ASEAN đã góp phần quan
trọng cho việc mở rộng hợp tác của ASEAN với các nước láng giềng bên ngoài,
nhất là các đối tác và láng giềng của Việt Nam.
a. Quan hệ ASEAN – Trung Quốc
Sự cải thiện nhanh chóng quan hệ Việt – Trung, vị thế chiến lược và sự
phát triển năng động của Việt Nam đã giúp Việt Nam thực sự đóng góp một phần
quan trọng vào việc tăng cường mối quan hệ hợp tác, tăng cường hiểu biết giữa
Trung Quốc và ASEAN. Cùng với sự lớn mạnh của ASEAN, Việt Nam đóng góp
không nhỏ vào thế cân bằng chiến lược và ảnh hưởng giữa các nước lớn đặc biệt là
cân bằng chiến lược Mỹ - Trung – một vấn đề lớn có ý nghĩa trong việc duy trì hòa
bình, ổn định và hợp tác Đông Nam Á. Ông Ong Keng Yong, nguyên tổng thư ký
Liên Hợp Quốc đã có những nhận xét vệ sự đóng góp của Việt Nam trong việc
thúc đẩy mối quan hệ giữa ASEAN và Trung Quốc như sau: “Là nước láng giềng
của Trung Quốc, Việt Nam thường xuyên đem những kinh nghiệm lịch sử của
mình để giúp ASEAN thúc đẩy quan hệ với Trung Quốc… Trong quan hệ với
Trung Quốc, Việt Nam luôn đưa ra những đề xuất tích cực và mang tính xây dựng.
Đây không phải là vấn đề cảm tính mà là vấn đề tư duy”.
Nhờ phát huy tích cực vai trò là cầu nối giữa ASEAN và Trung Quốc của
Việt Nam, quan hệ ASEAN – Trung Quốc đã và đang ngày càng khăng khít, gắn
bó chặt chẽ với nhau. Bằng chứng là sự tham gia của Trung Quốc trong các cơ chế
ASEAN + 1 và ASEAN + 3, cũng như các diễn đàn đa phương của khu vực, quan
hệ song phương với từng nước ASEAN. Cụ thể hơn nữa, trong lĩnh vực kinh tế -
thương mại, năm 2002, Trung Quốc - ASEAN đã ký Hiệp định khung về hợp tác
kinh tế toàn diện, mở đường cho việc thiết lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -
Trung Quốc (ACFTA) vào năm 2010. Sự phát triển năng động và mạnh mẽ giữa
ASEAN và Trung Quốc đã đưa đến kết quả là năm 2003, hai bên đã ký Tuyên bố
chung về quan hệ đối tác chiến lược vì hòa bình và thịnh vượng; và cũng ngay
trong năm đó, Trung Quốc đã ký TAC với ASEAN. Trong những sự kiện quan
trọng này giữa ASEAN và Trung Quốc thì Việt Nam luôn đóng vai trò quan trọng
như một cầu nối chiến lược.
b. Quan hệ ASEAN - Ấn Độ
Việt Nam và Ấn Độ là những người bạn tốt của nhau. Vì vậy, mỗi khi
ASEAN đề cập đến những vấn đề liên quan đến Ấn Độ, đôi lúc là những cuộc
thảo luận về các vấn đề rất nhạy cảm, Việt Nam thường xuyên nêu lại những kinh
nghiệm và tình hữu nghị của mình với Ấn Độ, gợi ý là tăng cường quan hệ với Ấn
Độ sẽ mang lại nhiều lợi ích cho các bên, và còn nói "Nếu chúng ta tổ chức hội
nghị thượng đỉnh Đông Á, chúng ta nên mời Ấn Độ tham dự, bởi vì họ có những ý
tưởng hay”. Và thực tế đã chứng minh Ấn Độ là một đối tác lớn đầy tiềm năng của
ASEAN.
Từ nhiều năm nay, Ấn Độ và ASEAN tổ chức thường xuyên các cuộc gặp
thượng đỉnh, đối thoại, làm việc với các nhóm công tác, các quan chức chính
phủ... của hai bên. Ấn Độ đặc biệt quan tâm đến việc tham gia các dự án thuộc tiểu
vùng sông Mê Công như: Dự án nối sông Hằng với sông Mê Công, Sáng kiến vịnh
Ben-gan về hợp tác trong lĩnh vực kinh tế và công nghiệp. Tháng 11-2004, Ấn Độ
và ASEAN đã ký văn kiện Đối tác Ấn Độ - ASEAN vì hòa bình, tiến bộ, cùng
chia sẻ thịnh vượng.
Kim ngạch thương mại của Ấn Độ với ASEAN chiếm khoảng 30% tổng
ngoại thương của Ấn Độ. Tháng 8-2008, Ấn Độ và ASEAN đã hoàn tất đàm phán
về Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Ấn Độ. Ấn Độ cũng đã được mời tham
dự Hội nghị cấp cao Đông Á ngay từ lần thứ nhất (năm 2005).
c. Quan hệ ASEAN – Các đối tác chiến lược khác
Nhìn chung, Việt Nam luôn đóng vai trò rất quan trọng trong tiến trình ra
quyết định về các vấn đề đối ngoại giữa ASEAN và các đối tác (Mỹ, Nhật Bản,
Liên bang Nga, EU). VN đã sử dụng tốt những kinh nghiệm lịch sử của mình
trong quan hệ với các nước nhằm đề xướng những nguyên tắc trong quan hệ đối
ngoại của ASEAN, giúp ASEAN tăng cường quan hệ với những đối tác này. Và
sự phát triển về mọi mặt quan hệ hợp tác giữa ASEAN và các đối tác chiến lược
chính là minh chứng cho những đóng góp tích cực của Việt Nam:
Với Nhật Bản, tính đến thời điểm này, Nhật Bản đã tham gia tất cả các cơ
chế, diễn đàn đa phương của ASEAN; tích cực triển khai các hoạt động liên kết
như: chuyển giao công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý hiện đại, giáo dục - đào
tạo nhân lực, xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, phòng chống dịch bệnh, hỗ trợ
khắc phục thiên tai, giao lưu văn hóa... Những năm gần đây, kim ngạch thương
mại hai chiều ASEAN - Nhật Bản cũng đạt mức cao (khoảng 150 tỉ USD mỗi
năm).
Với Nga, thế mạnh hợp tác giữa ASEAN và Nga là trên lĩnh vực an ninh –
quân sự. Từ sau khi Nga trở thành một bên đối tác, đối thoại đầy đủ của ASEAN
(tháng 7-1996), quan hệ Nga - ASEAN bước sang một giai đoạn mới, tạo tiền đề
cho những thay đổi về chất trong quan hệ hợp tác giữa hai bên. Cũng từ đó, cơ cấu
đối thoại ASEAN - Nga được định hình, bao gồm 4 thiết chế: Ủy ban hợp tác hỗn
hợp ASEAN - Nga; Ủy ban quản lý hỗn hợp ASEAN - Nga của Quỹ hợp tác
ASEAN - Nga; Hội đồng kinh doanh ASEAN - Nga; và ủy ban ASEAN tại Mát-
xcơ-va. Năm 2003, Nga và ASEAN đã ký Tuyên bố chung giữa các bộ trưởng
ngoại giao về quan hệ đối tác vì hòa bình, an ninh, thịnh vượng và phát triển;
năm 2004 ký Tuyên bố chung ASEAN - Nga về phòng chống tội phạm quốc tế,
đồng thời ký TAC. Đặc biệt, Hội nghị thượng đỉnh ASEAN - Nga lần đầu tiên
được tổ chức tại Ma-lai-xi-a (tháng 12-2005) đã chứng tỏ một bước tiến quan
trọng trong quan hệ giữa hai bên. Tại Hội nghị này, Nga và ASEAN đã ký kết một
số văn kiện quan trọng: Tuyên bố chung về quan hệ đối tác toàn diện và tiến bộ;
Hiệp định hợp tác kinh tế và phát triển Liên bang Nga - ASEAN 2005 - 2015.
Với Mỹ, hợp tác giữa Mỹ và các nước ASEAN đã được triển khai trên tất cả
các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, an ninh, quân sự, văn hóa - xã hội. Về kinh tế, kim
ngạch thương mại Mỹ - ASEAN suốt từ năm 2001 đến nay tăng liên tục, vượt quá
ngưỡng 100 tỉ USD (năm 2005 gần 150 tỉ USD). Về chính trị, ASEAN và Mỹ nhất
trí đưa ra Tuyên bố tầm nhìn chung về quan hệ đối tác tăng cường ASEAN - Mỹ
(tháng 11-2005). Về an ninh, tháng 8-2002, Mỹ và ASEAN đã ký Tuyên bố
chung về hợp tác chống khủng bố.
2. Đóng vai trò quan trọng trong việc xác định phương hướng hợp tác và các
quốc sách lớn của ASEAN, từ đó củng cố môi trường hòa bình, ổn định, hợp
tác và phát triển trong ASEAN.
Trong khoảng thời gian 10 năm kể từ khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã
có những đóng góp quan trọng trong việc xác định phương hướng hợp tác và các
quốc sách lớn của ASEAN. Tại lễ kết nạp Việt Nam vào ASEAN, Ngoại trưởng
Indonesia đã tuyên bố việc Việt Nam vào ASEAN sẽ làm tăng sức sống và sức
mạnh tập thể của ASEAN chứ không chỉ đơn thuần tăng thêm số thành viên từ 6
lên 7. Ngoại trưởng Philippines cũng tin tưởng rằng Việt Nam sẽ tạo động lực
chung để tăng cường vai trò và ảnh hưởng quốc tế của ASEAN. Chẳng phải ngẫu
nhiên mà các nước lại tin tưởng vào những đóng góp đáng kể mà Việt Nam sẽ
đem đến như thế:
Trong 10 năm (1995 – 2005), Việt Nam đã tham gia tích cực vào các khuôn
khổ, diễn đàn và các hoạt động hợp tác khác nhau của ASEAN về kinh tế, chính trị
an ninh cũng như hợp tác chuyên ngành: hợp tác á - Âu (ASEM - 1996); hợp tác
ASEAN với 3 nước Đông Bắc á là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc (ASEAN
+ 3 - 1997); Hội nghị ARF 7 năm 1999; giúp ASEAN duy trì đoàn kết, hợp tác và
củng cố vị thế quốc tế trong lúc Hiệp hội đang ở thời điểm khó khăn nhất do tác
động của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính năm 1997, nhất là việc hoàn tất ý
tưởng một ASEAN-10; tổ chức thành công Hội nghị cấp cao ASEAN VI tại Hà
nội tháng 12 năm 1998… Việt Nam đã cống hiến tích cực vào việc củng cố những
nguyên tắc cơ bản đã được thỏa thuận, xác định rõ các phương hướng phát triển
của khu vực cũng như thông qua Chương trình Hành động Hà Nội (HPA) để thực
hiện Tầm nhìn ASEAN 2020, Tuyên bố Hà Nội về thu hẹp khoảng cách phát triển,
Chương trình Tiểu vùng Mê Kông, Sáng kiến phát triển Hành lang Đông-Tây...
Trong đó, "Kế hoạch hành động Hà Nội", được thông qua tại Hội nghị thượng
đỉnh ASEAN lần thứ 6 tại VN năm 1998 đã mang lại sự hiện thực hoá sớm của
AFTA và giúp các nước trong khu vực hồi phục kinh tế mạnh sau cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ năm 1997. Ngoài ra, Việt Nam còn đề xuất ý tưởng về
"Cộng đồng văn hóa xã hội" một trong 3 trụ cột chính xây dựng cộng đồng
ASEAN.
Từ tháng 7/2000 – 7/2001, Việt Nam đã hoàn thành tốt vai trò Chủ tịch ủy
ban Thường trực ASEAN; tổ chức thành công Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần
thứ 34 (AMM-34) cũng như một loạt các Hội nghị Bộ trưởng ASEAN về môi
trường, ma tuý, tội phạm xuyên quốc gia các năm sau này... Các Bộ/ngành của
Việt Nam cũng đăng cai nhiều Hội nghị cấp Bộ trưởng và cấp Quan chức cao cấp
(SOM) về kinh tế và hợp tác chuyên ngành. Việt Nam cũng đã đăng cai và tổ chức
thành công Hội nghị Liên minh Nghị viện ASEAN (AIPO) tháng 9/2002...
Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng trên tất cả các lĩnh vực hợp tác
của Hiệp hội, đã cùng các nước ASEAN tiến hành đàm phán và thúc đẩy hợp tác
và tự do hoá về thương mại, dịch vụ, đầu tư trong và với các Đối tác bên ngoài
như thực hiện AFTA; tham gia tích cực vào tất cả các lĩnh vực hợp tác chuyên
ngành của ASEAN.
Việt Nam cũng đóng vai trò không nhỏ trong cân bằng chiến lược và ảnh
hưởng giữa các nước lớn, đặc biệt là trong cân bằng chiến lược Mỹ-Trung. Đây là
vấn đề lớn, có ý nghĩa trong việc duy trì hòa bình, ổn định và hợp tác ở Đông Nam
Á.
Hơn nữa, VN cũng có những đóng góp quan trọng vào việc tăng cường hợp
tác giữa ASEAN với các nước đối thoại, trong đó có nhiều nước và trung tâm lớn
của thế giới, nâng cao vị thế của ASEAN trên trường quốc tế. Việt Nam đã đảm
nhiệm tốt vai trò nước điều phối quan hệ đối ngoại giữa ASEAN với các nước lớn
như Mỹ, Nga, Nhật… Cùng với quan hệ Việt -Trung được cải thiện nhanh chóng
trong thập niên qua, vị thế địa lý chiến lược và sự phát triển năng động của Việt
Nam thực sự đã và đang đóng góp một phần quan trọng làm cho ASEAN-Trung
Quốc xích lại gần nhau hơn, hiểu biết và hợp tác nhiều hơn. (như đã chứng minh ở
trên).
Việt Nam cũng đã tham gia tích cực vào quá trình kết nạp các nước thành
viên mới bao gồm Lào, Myanmar và Campuchia vào ASEAN, hình thành một
khối ASEAN thống nhất gồm tất cả 10 quốc gia ở Đông - Nam Á, tạo ra bước
ngoặt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong lịch sử hình thành và phát triển của
ASEAN. Lần đầu tiên sau nhiều thập kỷ chia rẽ và đối đầu, các nước Đông - Nam
Á đã vượt qua những trở ngại để trở thành một khối thống nhất trong đa dạng,
đoàn kết và hợp tác trong một tổ chức khu vực, cùng hướng tới mục tiêu xây dựng
một khu vực hòa bình, ổn định và thịnh vượng.
Sự hội nhập mạnh mẽ của Việt Nam và các thành viên mới của ASEAN đã
góp phần quan trọng tạo nên sự chuyển biến về chất trong nội dung hợp tác khu
vực Đông Nam Á. Từ một hợp tác có tính chất đóng cửa thành một hợp tác có tính
chất mở cửa. Từ hợp tác bởi các mục tiêu chính trị sang hợp tác do thị trường thúc
đẩy, từ hợp tác giữa các nền kinh tế có trình độ phát triể tương tự nhau sang hợp
tác giữa các nền kinh tế có trình độ phát triển chênh lệch nhau, từ hợp tác hướng
vào bên trong và chia sẻ thị trường sang hợp tác hướng ra bên ngoài và góp chung
nguồn lực, v.v… Bước chuyển đổi này là kết quả của quá trình liên tục đổi mới
của tất cả các quốc gia trong ASEAN trong đó có thể coi Việt Nam là một thí dụ
điển hình.
IV. KẾT LUẬN
Việt Nam đã và đang từng bước hội nhập sâu vào đời sống quốc tế bằng
việc tham gia và đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của các tổ chức quốc tế
cũng như khu vực. Và việc tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN
là một bước đi đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Kể từ khi gia nhập tổ chức
này, có thể thấy diện mạo của Việt Nam đã thay đổi một cách nhanh chóng. Bên
cạnh đó, chúng ta cũng tích cực đóng góp vào sự phát triển chung của tổ chức
ASEAN. Đóng góp lớn nhất chính là việc góp phần củng cố môi trường hòa bình,
ổn định, hợp tác và phát triển trong ASEAN thông qua việc góp phần xác định
phương hướng và các chính sách hợp tác của ASEAN. Chúng ta đã dựa vào mối
quan hệ tốt với các nước ngoài khu vực để làm cầu nối thúc đẩy sự hợp tác về mọi
mặt của họ với tổ chức ASEAN. Bên cạnh đó, chúng ta cũng có những sáng kiến
hợp lý vào những thời điểm thích hợp để hoặc là tháo gỡ những khó khăn mà tổ
chức ASEAN đang gặp phải, hoặc là nhằm tạo tiền đề thúc đẩy đà phát triển cho
tổ chức.
Giáo sư Carl Thayer – một chuyên gia về Việt Nam hiện đang giảng dạy tại
Học viện Quốc phòng Australia – đã chia sẻ quan điểm của mình về vị thế và vai
trò của Việt Nam trong khối ASEAN nhân kỷ niệm 40 năm ngày thành lập
ASEAN. Ông so sánh Việt Nam khi mới gia nhập ASEAN giống như một cầu thủ
bóng đá được mời ngồi ghế dự bị. Việt Nam ngồi và quan sát các cầu thủ khác
chơi như thế nào và học tập những kinh nghiệm của họ. Nhưng kể từ năm 1998,
khi Việt Nam đăng cai Hội nghị thượng đỉnh ASEAN, Việt Nam đã bắt đầu thể
hiện vai trò tiên phong hơn trong các vấn đề của Hiệp hội. Việt Nam đã khiến các
thành viên phát triển của ASEAN công nhận sự cần thiết đặc biệt của nhóm các
nước CLMV - Campuchia, Lào, Myanmar, Việt Nam và đã thể hiện tốt vai trò
Chủ tịch Uỷ ban thường trực ASEAN, tổ chức thành công Hội nghị thượng đỉnh
ASEAN. Trước đây, Việt Nam thụ động và chờ liệu có tiến tới sự đồng thuận hay
không trước khi đưa ra quyết định cần làm gì, nhưng giờ Việt Nam đã tự tin hơn
trong việc đề xuất những chính sách mới và phát huy nhiều nguồn lực của mình.
Việt Nam đã “ghi bàn” khi đề xuất khá nhiều chính sách có ý nghĩa thiết thực. Các
nhà quan sát kỳ vọng Việt Nam sẽ đóng vai trò to lớn hơn trong tương lai.
NGUỒN CÁC TÀI LIỆU ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG BÀI
1.
2. Tạp chí phát triển khoa học & công nghệ, tập 10, số 09 – 2007.
3.
4.
5.
6.
7. Sài Gòn Giải phóng, 8/2005
8.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vuthuylinh_i33_2038.pdf