Chế độ tài sản chung của vợ chồng được qui định tại các Điều 27, 28 Luật HN&GĐ năm 2000 là chế độ tài sản pháp định với hình thức chế độ cộng đồng tạo sản (tài sản mà vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân được xác định là tài sản chung, trừ những tài sản theo qui định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng). Về nguyên tắc, khi hôn nhân còn tồn tại thì tài sản chung cũng vẫn còn tồn tại, chế độ tài sản này chỉ chấm dứt khi hôn nhân chấm dứt về mặt pháp lý (ly hôn; một bên vợ, chồng chết hoặc bị Toà án tuyên bố là đã chết).
Tuy nhiên, trên thực tế nhiều cặp vợ chồng muốn được chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân (có thể xuất phát từ mâu thuẫn giữa vợ chồng trong quản lý sử dụng, định đoạt tài sản chung xuất phát từ mâu thuẫn về tình cảm, song họ không muốn ly hôn nhưng muốn được độc lập về tài sản để tránh phát triển mâu thuẫn và được độc lập trong cuộc sống )
I. Cơ sở lý luận.
1. Quyền sở hữu tài sản của vợ chồng đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất.
2. Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân.
2.1. Các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
2.2. Quyền yêu cầu chia và hình thức chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
2.3. Cách chia và hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
II. Cơ sở thực tiễn.
III. Giải pháp hoàn thiện.
12 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3086 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập lớn hôn nhân và gia đình chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chế độ tài sản chung của vợ chồng được qui định tại các Điều 27, 28 Luật HN&GĐ năm 2000 là chế độ tài sản pháp định với hình thức chế độ cộng đồng tạo sản (tài sản mà vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân được xác định là tài sản chung, trừ những tài sản theo qui định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng). Về nguyên tắc, khi hôn nhân còn tồn tại thì tài sản chung cũng vẫn còn tồn tại, chế độ tài sản này chỉ chấm dứt khi hôn nhân chấm dứt về mặt pháp lý (ly hôn; một bên vợ, chồng chết hoặc bị Toà án tuyên bố là đã chết).
Tuy nhiên, trên thực tế nhiều cặp vợ chồng muốn được chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân (có thể xuất phát từ mâu thuẫn giữa vợ chồng trong quản lý sử dụng, định đoạt tài sản chung xuất phát từ mâu thuẫn về tình cảm, song họ không muốn ly hôn nhưng muốn được độc lập về tài sản để tránh phát triển mâu thuẫn và được độc lập trong cuộc sống…)
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN.
1. Quyền sở hữu tài sản của vợ chồng đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất.
Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình quy định về tài sản chung của vợ chồng. Theo đó, việc xác định tài sản chung của vợ chồng phải dựa vào nguồn gốc phát sinh tài sản. Cụ thể tài sản chung của vợ chồng bao gồm những tài sản sau:
- Tài sản do vợ chồng làm ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh trong thời kì hôn nhân;
- Thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân: tiền lương, tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng xổ số mà vợ, chồng có được hoặc tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định của pháp luật;
- Các tài sản mà vợ chồng mua sắm được thu nhập bằng thu nhập nói trên;
- Tài sản mà vợ chồng được tặng, cho chung hoặc thừa kế chung;
- Tài sản mà vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn hoặc những tài sản mà vợ hoặc chồng được thừa kế riêng hay tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân nhưng đã thỏa thuận nhập vào khối tài sản chung theo pháp luật quy định là tài sản chung.
Như vậy, tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng do vợ, chồng tạo ra bằng công sức của mỗi người từ khi họ kết hôn cho đến khi hôn nhân chấm dứt và những tài sản khác do vợ chồng thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định. Cơ sở pháp lý để xác định nhưng tài sản phải đăng ký quyền sở hữu là tài sản chung của vợ chồng chính là giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản có ghi tên của cả vợ và chồng.
Đối với tài sản chung của vợ chồng thì vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt (khoản 2 Điều 219 Bộ luật dân sự năm 2005 và khoản 1 Điều 28 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000). Như vậy, về nguyên tắc, vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ bình đẳng với nhau trong việc xây dựng, phát triển và duy trì khối tài sản, đồng thời họ cũng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất. Đảm bảo cho vợ chồng cùng nhau xây dựng gia đình và lao động tạo ra tài sản vì lợi ích chung của gia đình. Những quy định đó còn là cơ sở trong việc chia tài sản chung của vợ chồng.
2. Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân.
Xuất phát từ tình hình thực tế các quan hệ hôn nhân và gia đình, đồng thời cũng nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của vợ chồng về vấn đề tài sản, luật hôn nhân và gia đình quy định các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng. Như chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ, chồng chết và chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ chồng ly hôn. Chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn tại là quy định mới của Luật hôn nhân và gia đình 1986 và Luật hôn nhân và gia đình 2000 so với Luật hôn nhân và gia đình năm 1959.
Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân:
“1. Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có thể thoả thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản; nếu không thoả thuận được thì có quyền yêu cầu Toà án giải quyết.
2. Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản không được pháp luật công nhận”.
Quy định này được áp dụng từ Luật hôn nhân và gia đình năm 1986. Tuy nhiên, cho đến nay các án kiện mà vợ chồng yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không nhiều. Đó là do tính chất của quan hệ hôn nhân. Vợ chồng chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân chỉ là trường hợp đặc biệt ngoại lệ.
1. Các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
- Một số trường hợp vì lý do kinh doanh buôn bán mà vợ chồng cần phải “chớp thời cơ” để đạt được hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên, liên quan đến tài vốn mà người vợ hoặc người chồng không đủ dùng vào công việc đầu tư kinh doanh, buôn bán; khi sử dụng tài sản chung, phía người chồng hoặc người vợ kia lại không đồng ý sử dụng vào công việc kinh doanh, buôn bán đó do không nhận thức được công việc làm ăn của người vợ hoặc người chồng mình hay vì lý do nào đó. Người vợ hoặc người chồng đã yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân với mục đích lấy phần tài sản của mình trong khối tài sản chung để làm vốn đầu tư kinh doanh. Mặt khác, quy định này còn nhằm bảo vệ lợi ích gia đình, bảo đảm cuộc sống ổn định của các thành viên trong gia đình tránh khỏi những ảnh hưởng tiêu cực của hoạt động đầu tư kinh doanh gây ra.
- Trường hợp vợ, chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng (như trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân, người vợ hoặc người chồng đó đã vay nợ (một khoản tiền hay tài sản) sử dụng vào nhu cầu riêng). Nếu tài sản riêng không có hoặc không đủ mà vợ chồng không thỏa thuận được về việc lấy tài sản chung để trả nợ riêng cho một bên thì vợ chồng có quyền yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để người vợ, chồng lấy phần tài sản của mình trong khối tài sản chung của vợ chồng nhằm thanh toán món nợ mà mình đã vay của người khác.
Quy định chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân còn nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng về tài sản của mỗi bên vợ, chồng cũng như quyền lợi của những người khác có liên quan tới tài sản của vợ chồng.
- Trường hợp có lý do chính đáng khác: Việc xác định có lý do chính đáng để chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn tại là xuất phát từ lợi ích của gia đình, lợi ích của vợ chồng hoặc của người thứ ba. Vì vậy, lý do chính đáng khác để chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân tồn tại tùy từng trường hợp khác nhau.
Xuất phát từ thực tế đời sống xã hội: có một số trường hợp vì lý do nào đó, vợ chồng dù có mâu thuẫn sâu sắc, nhưng không muốn ly hôn mà chỉ muốn ra ở riêng và có yêu cầu chia tài sản chung (như vợ chồng đã già, dù có mâu thuẫn sâu sắc nhưng ly hôn sợ ảnh hưởng đến hòa khí của gia đình, con, cháu lo buồn, hàng xóm chê cười, họ chỉ yêu cầu chia tài sản chung…). Hệ thống pháp luật hôn nhân và gia đình của nước ta từ cách mạng tháng Tám đến nay hoàn toàn không có quy định về vấn đề “ly thân”.
Ly thân là một giải pháp nhằm giải tỏa xung đột trong quan hệ vợ chồng, mặt khác, thời hạn mà vợ chồng sống ly thân do Tòa án quyết định sẽ tạo cơ hội để vợ chồng suy xét lại, nhằm hàn gắn mâu thuẫn giữa vợ chồng, vợ chồng chung sống đoàn tụ không phải ly hôn; nếu không thể đoàn tụ, vợ chồng có quyền yêu cầu Tòa án chuyển đối bản án của Tòa án đã quyết định cho vợ chồng được ly thân trước đó thành bản án ly hôn nhằm chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật.
Luật hôn nhân và gia đình của Nhà nước ta không quy định về vấn đề “ly thân” giữa vợ chồng. Nguyên tắc vợ chồng bình đẳng với nhau về mọi mặt phương diện, trong đó bình đẳng về quyền nhân thân của vợ chồng khi lựa chọn nơi cư trú chung (Điều 55 BLDS 2005; Điều 20 luật HN&GĐ 2000). Vợ chồng sống chung hay ở riêng phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh nghề nghiệp và nguyện vọng của các cặp vợ chồng. Hơn nữa, việc vợ chồng chung sống trong quan hệ hôn nhân là quyền của vợ chồng, là một vấn đề riêng tư pháp luật không thể can thiệp vào.
Như vậy, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định rõ hơn về các trường hợp để vợ chồng yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân: khi vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác (như vấn đề tuổi già, vợ chồng mâu thuẫn nhưng không muốn ly hôn mà chỉ muốn ở riêng và có yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân…).
2. Quyền yêu cầu chia và hình thức chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn tại như chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn. Khác với luật hôn nhân và gia đình năm 1986, luật hôn nhân và gia đình năm 2000 không quy định cụ thể phương thức chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân mà chỉ quy định “vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung”.
Nếu vợ chồng thỏa thuận được việc chia tài sản chung thì sự thỏa thuận đó được lập thành văn bản và việc phân chia tài sản được pháp luật công nhận. Trong trường hợp vợ chồng “không thể thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết”.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 tôn trọng sự thỏa thuận của vợ chồng. Khẳng định quyền của vợ chồng trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Bên cạnh việc tôn trọng quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng, Luật hôn nhân và gia đình cũng dự liệu đến những trường hợp có thể vợ chồng lạm dụng quyền của mình trong việc chia tài sản chung có thể gây hậu quả xấu, xâm phạm đến lợi ích hợp pháp khác được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, khoản 2 Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định:
“Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh trách nhiệm nghĩa vụ về tài sản không được pháp luật công nhận”.
Như vậy, nếu vợ chồng đã thỏa thuận hoặc yêu cầu tòa án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhưng sau đó có chứng cứ cho việc chia tài sản đó là nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản thì việc chia tài sản đó không được pháp luật công nhận.
3. Cách chia và hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là trường hợp chia tài sản đặc biệt. Vì vậy, vợ chồng có thể thỏa thuận hoặc yêu cầu tòa án chia toàn bộ hoặc một phần tài sản chung:
- Nếu chia toàn bộ tài sản chung thì phần của mỗi người sau khi chia và hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc quyền sở hữu riêng của mỗi người.
- Nếu chia một phần tài sản trong khối tài sản chung thì chỉ có một phần tài sản đã được chia và hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia mới là tài sản riêng của mỗi người. Phần tài sản chung còn lại không chia vẫn thuộc khối tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng. Sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì những thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi bên vợ, chồng là tài sản riêng của vợ chồng.
Điều 30 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về hậu quả chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân:
“Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người; phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng”.
Pháp luật chỉ cho phép chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn tại trong trường hợp thật sự cần thiết vì lợi ích của gia đình, của các đương sự hoặc của người thứ ba. Nếu áp dụng việc chia tài sản khi hôn nhân tồn tại một cách rộng rãi dễ phá vỡ thể chế gia đình, ảnh hưởng không tốt tới tính cộng đồng trong quan hệ hôn nhân.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN.
Thực tiễn giải quyết các vụ án ly hôn cho thấy khi mâu thuẫn vợ chồng phát sinh không phải mọi trường hợp vợ, chồng đều nộp đơn xin ly hôn ngay. Có nhiều trường hợp, khi mâu thuẫn phát sinh người vợ hoặc chồng bỏ về nhà cha mẹ đẻ hoặc tìm chỗ khác sống riêng. Sau một thời gian, có khi kéo dài đến hàng chục năm mới nộp đơn xin ly hôn. Nhưng trước khi bỏ ra sống riêng (ly thân), giữa vợ chồng không có thoả thuận về việc phân chia tài sản chung. Vậy, vấn đề đặt ra là trong thời gian ly thân, người vợ, người chồng tạo lập được một khối tài sản hoặc xác lập một nghĩa vụ dân sự (vay nợ) thì khối tài sản do vợ, chồng tạo lập được hay khoản nợ do một trong hai người xác lập có được xác định là tài sản riêng không? nợ riêng không?.
Và đã có những trường hợp, trong thời gian ly thân người vợ hoặc người chồng tạo lập được một khối tài sản nhưng khi bản thân người vợ, người chồng đó phát sinh một nghĩa vụ trả nợ hoặc vi phạm pháp luật phải gánh chịu hậu quả pháp lý về vật chất thì họ lại xác định khối tài sản mà họ tạo dựng được trong thời gian ly thân là tài sản chung của vợ chồng (vì vẫn chưa ly hôn). Từ đó, giảm bớt nghĩa vụ vật chất (chỉ phải chịu trách nhiệm bằng một nửa tài sản).
Thực tế xét xử hiện nay, nhiều Toà án đã xác định khoản nợ do vợ, chồng xác lập trong thời gian ly thân và nợ riêng của vợ hoặc chồng dựa trên cơ sở pháp lý Điều 28 quy định về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung và khoản 1 Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Như trường hợp: Năm 2005, chị NTK từ Hải Phòng vào TP.HCM làm việc rồi kết hôn với anh NTV. Đáng buồn là cuộc sống giữa chị và gia đình chồng sau khi cưới đã không thể hòa hợp. Cha mẹ chồng luôn có lời lẽ chê bai, xúc phạm chị ăn bám nhà họ dù chị vẫn có công việc ổn định. Để tránh đụng chạm, nhiều lần chị K đề nghị chồng ở riêng nhưng anh không đồng ý vì anh là con trai một. Anh lại rất được gia đình cưng chiều, có vợ rồi nhưng vẫn quen thói ỷ lại, không chịu giúp đỡ vợ bất cứ việc gì. Năm 2007 chị V nộp đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, nhưng không được chấp nhận vì hai anh chị không có mâu thuẫn gì lớn. Không thể chịu được cảnh sống như vậy, năm 2008 chị K sống “ly thân” với anh V. Dù vậy, anh V vẫn tiếp tục chời bời và nợ một khoản tiền rất lớn gia đình anh không đủ khả năng chi trả. Tháng 1 năm 2010 chị K nộp đơn lên Tòa án yêu cầu giải quyết cho vợ chồng chị chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Tòa án đã bác đơn yêu cầu của chị K với lý do chị K chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh nghĩa vụ về tài sản căn cứ theo khoản 2 Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Như vậy có quá bất công với chị K? khi hai chị đã ly thân hai năm nhưng chị vẫn phải chịu trách nhiệm chi trả khoản nợ lớn của anh V.
Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo qui định của pháp luật không làm thay đổi quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng và quan hệ giữa cha mẹ và con. Họ sử dụng chế định này là khi gia đình có những bất đồng khó có thể giải quyết. Sự độc lập về tài sản sau khi chia tài sản chung, có thể dẫn đến vợ chồng sống ly thân hoặc một trong các bên lại lẩn tránh trách nhiệm đối với gia đình, từ đó có tranh chấp về việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động, không có thu nhập, không có tài sản để tự nuôi mình.
Theo Điều 9 và Điều 10 Nghị định số 70 trong trường hợp vợ chồng có thoả thuận bằng văn bản về khôi phục chế độ tài sản chung, thì kể từ ngày văn bản thoả thuận khôi phục chế độ tài sản chung có hiệu lực, việc xác định phần tài sản thuộc sở hữu riêng của mỗi bên, phần tài sản thuộc sở hữu chung căn cứ vào sự thoả thuận của vợ chồng. Việc vợ chồng có quyền chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, đồng thời có quyền khôi phục chế độ tài sản chung mà không cần có sự xem xét của Toà án đã đưa Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 trở thành hình thức, chế độ tài sản pháp định không đảm bảo đúng bản chất pháp lý của nhà làm luật đề ra.
III. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN.
– Việc pháp luật HN&GĐ chỉ công nhận vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng có quyền yêu cầu Toà án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, quyền khởi kiện của người thứ ba trong trường hợp này không được thừa nhận (Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000), là hoàn toàn phù hợp về mặt nguyên tắc. Tuy nhiên, nếu áp dụng qui định này vào thực tiễn vẫn còn vấn đề bất cập. Theo luật hiện hành, khi vợ, chồng có nghĩa vụ tài sản riêng thì nghĩa vụ tài sản đó được thực hiện bằng tài sản riêng của họ, tài sản chung của vợ chồng không sử dụng cho việc thanh toán các khoản nợ này trừ khi vợ chồng có thoả thuận (Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2000). Vậy rất có thể người có nghĩa vụ tài sản không có hoặc không đủ tài sản riêng để thanh toán các khoản nợ và vợ chồng đã không có thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án chia tài sản chung để trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản. Trong trường hợp này, nếu không thừa nhận quyền yêu cầu của người có quyền (chủ nợ) về chia tài sản chung của vợ chồng để lấy phần tài sản của người có nghĩa vụ thanh toán nợ, thì quyền lợi của họ có được đảm bảo?
Trong trường hợp người có quyền có đủ chứng cứ cho rằng, vợ chồng không có thoả thuận hoặc không yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản, thì người có quyền có thể yêu cầu Toà án chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để lấy phần tài sản của người vợ hoặc người chồng có nghĩa vụ thực hiện thanh toán các khoản nợ. Yêu cầu của người có quyền sẽ không được Toà án công nhận, nếu việc chia tài sản chung ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích gia đình của người có nghĩa vụ hoặc bản thân vợ, chồng có nghĩa vụ có đủ tài sản riêng để thanh toán các khoản nợ.
– Khoản 1 Điều 29 Luật HN&GĐ qui định, vợ, chồng có thể yêu cầu Toà án giải quyết việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nếu không có hoặc không thoả thuận được. Tuy nhiên, Luật HN&GĐ và các văn bản hướng dẫn có liên quan chưa qui định cụ thể nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân khi việc chia tài sản chung đó thuộc thẩm quyền của Toà án. Do đó, trong thực tiễn áp dụng, Toà án sẽ gặp khó khăn khi vận dụng căn cứ pháp lý để giải quyết các tranh chấp phát sinh.
– Luật HN&GĐ năm 2000 và Nghị định số 70 qui định các trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân mà không có lý do chính đáng thì bị Toà án tuyên bố là vô hiệu. Tuy nhiên, Luật HN&GĐ lại không qui định ai là người có thể yêu cầu Toà án hủy bỏ thoả thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân trong trường hợp thoả thuận này vi phạm các điều kiện được qui định tại Điều 29 Luật HN&GĐ hoặc gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống gia đình, đến việc trông nom, nuôi dưõng, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Mặt khác, Luật HN&GĐ cũng chưa qui định hậu quả pháp lý của việc Tòa án tuyên bố vô hiệu đối với thoả thuận chia tài sản chung.
Vậy cần qui định rõ: Trong trường hợp thoả thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị Toà án tuyên bố vô hiệu, chế độ tài sản chung của vợ chồng được khôi phục lại tình trạng trước khi có thoả thuận chia tài sản chung.
– Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo qui định của pháp luật không làm thay đổi quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng và quan hệ giữa cha mẹ và con. Thực tế, việc vợ chồng áp dụng chế định này đã phản ánh những mâu thuẫn tồn tại trong quan hệ giữa họ. Sự độc lập về tài sản sau khi chia tài sản chung, có thể dẫn đến vợ chồng sống ly thân hoặc một trong các bên lại lẩn tránh trách nhiệm đối với gia đình, từ đó có tranh chấp về việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động, không có thu nhập, không có tài sản để tự nuôi mình.
Để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các con, pháp luật cần qui định rõ: Trong trường hợp sau khi chia tài sản chung, vợ chồng có tranh chấp về chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động, không có thu nhập và không có tài sản để tự nuôi mình, thì Toà án quyết định theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Việc giải quyết tranh chấp liên quan đến con áp dụng tương tự qui định về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con khi ly hôn.
Như vậy, Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam đã xác định rõ chế độ tài sản của vợ, chồng; quyền sở hữu tài sản của vợ chồng đối với tài sản chung hợp nhất. Quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với khối tài sản chung và mục đích của việc sử dụng tài sản chung nhằm đáp ứng nhu cầu chung của gia đình, đảm bảo cho vợ chồng cùng xây dựng gia đình và lao động ra tài sản vì lợi ích chung của gia đình. Đó là cơ sở cho việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân – một trường hợp đặc biệt về chia tài sản.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập lớn hôn nhân và gia đình Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân.doc