Qua sự xem xét các quy định của pháp luật về công ty hợp danh ở trên. Chúng ta đã thấy rõ được sự thay đổi trong tư duy của các nhà lập pháp ở Việt Nam. Theo đó pháp luật đã có sự quy định một cách khá hoàn chỉnh về loại hình doanh nghiệp mới này, với phương châm “dân giàu thì nước mạnh” nên trong những năm qua các văn bản pháp luật không ngừng được đổi mới và hoàn thiện nhằm đáp ứng nhu cầu pháp lý của người dân trong tất cả các lĩnh vực nói chung và lĩnh vực kinh doanh nói riêng. Tuy nhiên đó mới chỉ là sự đáp ứng một phần mong mỏi của người dân, do vậy trong thời gian tới pháp luật cần có những quy định cụ thể hơn, chi tiết hơn về loại hình doanh nghiệp này, tránh tình trạng bất bình đẳng như hiện nay giữa các loại hình doanh nghiệp.
15 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4419 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập lớn luật thương mại 1, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I – MỞ ĐẦU.
Kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới kinh tế mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đề ra là chuyển nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung và bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước, hàng triệu người dân đã bỏ công, bỏ của đầu tư sản xuất kinh doanh. Với quan điểm: “dân giàu thì nước mạnh”, các thành phần kinh tế đều được Nhà nước khuyến khích phát triển, đặc biệt là kinh tế tư nhân.
Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, sự xuất hiện của nhiều tổ chức, hình thức kinh doanh là điều tất yếu. Pháp luật của Nhà nước ta hiện nay, đặc biệt là Luật doanh nghiệp năm 2005 đã ghi nhận nhiều hình thức, tổ chức kinh doanh để người kinh doanh có thể lựa chọn hình thức tổ chức kinh doanh phù hợp với điều kiện và khả năng của mình. Trong đó có công ty hợp danh, công ty hợp danh đã xuất hiện từ lâu và trở thành phổ biến ở các nước trên thế giới. Nhưng lại là một loại hình kinh doanh khá mới mẻ ở Việt Nam. Chính vì vậy mà em xin chọn đề “bình luận các quy định của Luật doanh nghiệp 2005 về công ty hợp danh” để làm bài tập lớn học kỳ cho mình. Để thông qua đó có thể hiểu rõ hơn, sâu sắc hơn về loại hình công ty này.
II – NỘI DUNG.
1. Khái niệm và đặc điểm của công ty hợp danh theo pháp luật nước ngoài.
Công ty hợp danh là loại hình đặc trưng của công ty đối nhân xuất hiện từ rất sớm, sớm hơn rất nhiều so với các loại hình công ty đối vốn khác. Theo các nhà nghiên cứu lịch sử công ty, vào cuối thế kỷ XIII, đầu thế kỷ XIV ở một số thành phố lớn có điều kiện địa lý thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán ở châu Âu đã xuất hiện những công ty được tổ chức theo mô hình công ty hợp danh. Ngay sau khi được ra đời mô hình này đã được thừa nhận ở hầu khắp các châu lục. Cho đến nay, nó vẫn tồn tại và ngày càng hoàn thiện hơn rất nhiều so với mô hình sơ khai ban đầu của nó. Theo khái niệm chung nhất, công ty hợp danh được hiểu là loại hình công ty trong đó các thành viên cùng tiến hành hoạt động dưới một hãng chung và cùng liên đới chịu trách nhiệm vô hạn đối với mọi khoản nợ của công ty. Theo khái niệm trên thì công ty hợp danh có một số đặc điểm sau:
- Thứ nhất: Đặc điểm cơ bản và quan trọng nhất của công ty hợp danh chính là tính chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới giữa các thành viên trong việc gánh chịu mọi khoản nợ của công ty. Nghĩa là các thành viên phải chịu trách nhiệm một cách trực tiếp chủ nợ có thể đòi bất kỳ một thành viên nào toàn bộ số tiền nợ. Trách nhiệm này không hề bị giới hạn bởi bất kỳ thành viên nào trong công ty. Nếu họ có thỏa thuận khác thì lập tức công ty sẽ chuyển sang công ty hợp vốn đơn giản. Bởi vì tài sản trong công ty hợp danh không có sự phân biệt rõ ràng giữa tài sản công ty và tài sản của cá nhân, sự dịch chuyển quyền sở hữu đối với khối tài sản chung sang tài sản riêng là rất dễ dàng và khó có thể kiểm soát. Do đó về nguyên tắc ngay cả khi một thành viên mới tham gia công ty chưa được hưởng chút lợi nhuận nào họ vẫn phải gánh chịu trách nhiệm. Đây là một trong những ưu điểm rất lớn của công ty hợp danh trong việc tạo niềm tin đối với bạn hàng cũng như đối với các chủ nợ, nhưng ngược lại đó cũng chính là một điểm yếu rất lớn của công ty, bởi nếu công ty thua lỗ các thành viên rất dễ bị phá sản.
- Thứ hai: Về số lượng thành viên: Công ty hợp danh có số lượng thành viên ít và thường là những người tài năng, uy tín, danh tiếng, các thành viên này đều có tư cách thương gia riêng, họ phải ghi tên mình vào sổ thương mại. Công ty là một tổ chức biệt lập nhưng nếu công ty bị phá sản thì mỗi thành viên cũng đương nhiên bị tuyên bố phá sản.
- Thứ ba: Trong công ty hợp danh mỗi thành viên đều có phần của mình gọi là phần lợi. Phần lợi này tương ứng với phần vốn góp của các thành viên, vốn góp có thể bằng tiền hoặc bằng tài sản hiện vật. Phần vốn góp của các thành viên có thể bằng nhau hoặc không bằng nhau, nhưng chúng không được chia thành các cổ phần và không thể tự do chuyển nhượng dưới bất kỳ hình thức nào. Trong trường hợp một thành viên chết thì phần vốn góp đó cũng không được chuyển nhượng cho người thừa kế để người đó đương nhiên trở thành viên của công ty mà công ty chỉ có thể thanh toán phần vốn góp của người đã chết cho người thừa kế hoặc giải tán công ty.
Từ những đặc điểm trên ta thấy công ty hợp danh có các ưu, nhược điểm sau:
- Ưu điểm: Là một loại hình công ty với chế độ trách nhiệm vô hạn, nên công ty thường có uy tín rất cao đối với khách hàng và chủ nợ; tổ chức quản lý đơn giản; ít chịu sự ràng buộc của pháp luật… nên công ty thường hoạt động rất có hiệu quả.
- Nhược điểm: cũng chính tính chịu trách nhiệm vô hạn trước các bạn hàng của công ty, nên nguy cơ rủi ro thường rất lớn. Việc thay đổi thành viên cũng rất khó khăn dẫn đến tính ổn định của công ty thấp cũng chính là một hạn chế của công ty so với các loại hình doanh nghiệp khác.
2. Công ty hợp danh theo quy định của Luật doanh nghiệp Việt Nam.
2.1. Khái niệm công ty hợp danh (Điều 130).
Theo quy định tại khoản 1 Điều 130 Luật doanh nghiệp năm 2005 thì “Công ty hợp danh là doanh nghiệp trong đó:
a, Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là các thành viên hợp danh); ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn;
b, Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty;
c, Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty”.
Luật doanh nghiệp năm 2005 trên cơ sở kế thừa và phát triển của Luật doanh nghiệp năm 1999, đã quy định một cách cụ thể và chi tiết về các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam. Theo đó công ty hợp danh là một loại hình công ty đối nhân có ít nhất hai thành viên trở lên và có thể chỉ có một loại thành viên, đó là thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty (trách nhiệm vô hạn) và trách nhiệm liên đới (chịu trách nhiệm thay cho các thành viên khác). Hoặc công ty hợp danh cũng có thể là loại công ty vừa có cả thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới với thành viên góp vốn chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty (trách nhiệm hữu hạn). Điều này khác so với quan niệm của các nhà làm luật nước ngoài. Nhưng việc quy định như vậy lại hoàn toàn phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam, ở nước ta công ty hợp danh là một loại hình doanh nghiệp mới nên chưa trở thành phổ biến như các loại hình doanh nghiệp khác. Chính vì lẽ đó mà các nhà làm luật ở Việt Nam đã gộp cả hai loại hình công ty là công ty hợp vốn đơn giản và công ty hợp danh thành một loại duy nhất lấy tên là công ty hợp danh. Việc quy định này nhằm khuyến khích cho loại hình doanh nghiệp này phát triển, tạo sức hút đối với các nhà đầu tư.
Đồng thời cũng theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 130 thì công ty hợp danh còn được quy định là một loại hình công ty có tư cách pháp nhân kể từ khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Công ty hợp danh không được phép phát hành chứng khoán. Việc quy định như vậy đã tạo thuận lợi rất nhiều cho công ty trong quá trình hoạt đông. Bởi lẽ ở Việt Nam vẫn còn một số văn bản pháp luật hạn chế hoạt động đối với các doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân trong một số lĩnh vực xây dựng và đấu thầu. Việc quy định này đã thể hiện sự đổi mới trong tư duy của các nhà làm luật Việt Nam và có ý nghĩa tạo ra nhiều hình thức hoạt động hơn cho các nhà đầu tư. Việc thừa nhận tính pháp nhân của công ty hợp danh có lợi hơn, nhằm đảm bảo cho loại hình doanh nghiệp này có đầy đủ tư cách pháp lý khi tham gia vào các giao dịch cũng như tham gia tố tụng, phù hợp xu thế phát triển của nền kinh tế nước nhà.
Cũng theo quy định trên thì công ty hợp danh không được quyền phát hành chứng khoán. Bản chất của việc phát hành chứng khoán là để huy động vốn từ quần chúng, do đó một trong những điều kiện để được phát hành chứng khoán là tổ chức kinh tế phải có tài sản độc lập với thành viên để đảm bảo một sự chắc chắn cho khách hàng. Công ty hợp danh là loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân nhưng lại không được phép phát hành chứng khoán để huy động vốn từ quần chúng.
2.2. Quy chế pháp lý về thành viên trong công ty hợp danh.
2.2.1. Thành viên hợp danh (Điều 134, 133).
Khác với quy định của một số nước theo hộ thống comom law như Mỹ, pháp luật thừa nhận người chưa thành niên có thể trở thành thành viên công ty hợp danh, Luật doanh nghiệp Việt Nam không cho phép người chưa thành niên tham gia thành lập doanh nghiệp nói chung và công ty hợp danh nói riêng. Ngoài ra theo quy định của pháp luật thì các đối tượng như cán bộ, công chức, sỹ quan, hạ sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp...trong các cơ quan, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các doanh nghiệp Nhà nước...theo quy định tại khoản 2 Điều 13 Luật doanh nghiệp không được quyền thành lập doanh nghiệp nói chung và công ty hợp danh nói riêng. Đồng thời cũng theo quy định tại Điều 130 thì thành viên hợp danh phải có ít nhất là hai người và phải là cá nhân chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các nghĩa vụ của công ty. Ngoài ra đối với một số nghành nghề kinh doanh pháp luật còn quy định thành viên hợp danh phải có giấy chứng chỉ hành nghề
Do tính chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới với các nghĩa vụ của công ty các thành viên hợp danh có quyền ngang nhau trong quản lý công ty; có một phiếu biểu quyết cho dù số vốn nhiều hay ít, đây là một điểm khác biệt cơ bản so với công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Quyền quản lý công ty thể hiện ở chỗ các thành viên hợp danh trực tiếp tham gia hoạt động kinh doanh của công ty, tham gia thảo luận và biểu quyết về các vấn đề của công ty, tiến hành các hoạt động kinh doanh nhân danh công ty; được sử sụng tài sản của công ty để phục vụ cho lợi ích của công ty; được nhận thông tin về hoạt động kinh doanh và quản lý của công ty, xem xét sổ kế toán và các hồ sơ khác của công ty; yêu cầu công ty bù dắp thiệt hại từ hoạt động kinh doanh trong thẩm quyền nếu thiệt hại đó xảy ra không phải do sai sót của chính cá nhân thành viên đó; được chia lợi nhuận tương ứng với tỷ lệ góp hoặc theo thỏa thuận quy định tại điều lệ công ty; khi công ty phá sản hoặc giải thể được chia một một phần giá trị tài sản còn lại theo tỷ lệ góp vốn vào công ty; trường hợp thành viên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì người thừa kế của thành viên được hưởng phần giá trị tài sản tại công ty khi đã trừ đi phần nợ thuộc trách nhiệm của thành viên đó; các quyền khác theo quy định của Luật doanh nghiệp và điều lệ của công ty.
Bên cạnh những quyền hạn như trên thì các thành viên hợp danh cũng phải có những nghĩa vụ nhất định, những nghĩa vụ đó là: Tiến hành các hoạt động kinh doanh một cách trung thực, cẩn trọng và đảm bảo tốt nhất lợi ích của công ty cũng như của các thành viên; liên đới chịu trách nhiệm thanh toán hết số nợ còn lại của công ty nếu tài sản của công ty không đủ để thanh toán nợ; tiến hành quản lý và hoạt động kinh doanh của công ty theo đúng quy định của pháp luật , điều lệ công ty; không được sử dụng tài sản của công ty để tư lợi hoặc phục vụ cho tổ chức, cá nhân khác;...Trong trường hợp công ty kinh doanh thua lỗ thì các thành viên hợp danh phải chịu lỗ theo nguyên tắc đã được các thành viên thống nhất và thỏa thuận trong điều lệ công ty. Trong qúa trính quản lý công ty hoặc thực hiện các hoạt động kinh doanh nhân danh công ty hay đại diện cho công ty các thành viên hợp danh phải hành động một cách trung thực, định kỳ hành tháng báo cáo chính xác bằng văn bản tình hình và kết quả kinh doanh của mình với công ty. Hơn nữa do dặc điểm của công ty hợp danh là loại hình công ty đối nhân được thiết lập chủ yếu dựa trên nền tảng tin cậy, hiểu biết lẫn nhau nên để bảo đảm tính ổn định trong hoạt động kinh doanh cho công ty, đảm bảo khả năng tồn tại cho công ty. Theo quy định tại Điều 133 Luật doanh nghiệp thì thành viên hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp danh của công ty hợp danh khác, trừ trường hợp được sự nhất trí của các thành viên còn lại. Điều này cũng dễ hiểu, bởi trong công ty hợp danh các thành viên hợp danh đều cùng nhau chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới, mặt khác cũng nhằm bảo vệ quyền lợi của công ty, cũng như khác hàng. Các thành viên hợp danh phải có nghĩa vụ không được cạnh tranh với công ty.
Ngoài ra theo quy định tại Điều 133 thì thành viên hợp danh không được quyền chuyển một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình tại công ty cho người khác nếu không được sự chấp thuận của các thành viên hợp danh còn lại.
Tư cách thành viên công ty hợp danh chấm dứt khi thành viên hợp danh chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết, hoặc khi thành viên hợp danh mất tích, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, trong trường hợp này thì công ty hợp danh vẫn có quyền sử dụng tài sản tương ứng với trách nhiệm của thành viên đó để thực hiện các nghĩa vụ của công ty. Đồng thời tư cách thành viên cũng chấm dứt trong trường hợp thành viên đó tự nguyên rút khỏi công ty hoặc bị khai trừ khỏi công ty, khi đó thành viên hợp danh này vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty đã phát sinh trước khi đăng ký việc chấm dứt tư cách thành viên với cơ quan đăng ký kinh doanh.
2.2.2. Thành viên góp vốn (Điều 140).
Theo Điều 130 Luật doanh nghiệp, thì thành viên góp vốn chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Như vậy thành viên góp vốn chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn, nên thành viên góp vốn có thể là cá nhân, tổ chức trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 13 Luật doanh nghiệp.
Do tính chịu trách nhiệm hữu hạn trong công ty hợp danh nên các thành viên góp vốn không được quyền tham gia điều hành, quản lý công ty hoặc hoạt động nhân danh công ty. Điều này nhằm tránh cho bên thứ ba khi tham gia giao dịch với công ty có thể nhầm tưởng về tư cách của thành viên góp vốn. Mặt khác thành viên hợp danh được quyền quản lý công ty là vì tính chịu trách việm vô hạn của các thành viên này, trong khi thực tế nếu để thành viên góp vốn can thiệp vào công việc quản lý, điều hành hoạt động của công ty thì rất có thể thành viên hợp danh sẽ phải chịu ảnh hưởng của thành viên góp vốn. Như vậy hoạt động của công ty lúc này sẽ bị các thành viên này thao túng, các thành viên hợp danh không có quyền gì mà ngược lại còn phải chịu trách nhiệm trên cả tài sản cá nhân mình. Để tránh tình trạng này pháp luật một số nước như Thái Lan có quy định nếu thành viên góp vốn tham gia vào quản lý công ty thì thành viên này phải chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới đối với tất cả các nghĩa vụ của công ty như một thành viên hợp danh.
Đối với các công việc nội bộ khác của công ty, thì thành viên góp vốn cũng có một số quyền hạn như: tham gia thảo luận và biểu quyết tại đại hội đồng cổ đông về việc sửa đổi, bổ sung điều lệ công ty, sửa đổi, bổ sung các quyền và nghĩa vụ của thành viên góp vốn; được nhận các thông tin về hoạt động kinh doanh của công ty, được xem sổ kế toán và các hồ sơ khác của công ty; được chia lợi nhuận hàng năm tương ứng với tỷ lệ phần vốn góp, được chia giá trị tài sản còn lại của công ty khi công ty giải thể hoặc phá sản; khác với các thành viên hợp danh trong công ty thì thành viên góp vốn có quyền tự do hơn trong việc chuyển nhượng phần vốn góp của mình tại công ty cho người khác, và cũng kể từ thời điểm chuyển nhượng phần vốn góp này tư cách thành viên góp vốn trong công ty bị chấm dứt. Thông thường sự ra đi của thành viên hợp danh là lý do để giải thể công ty nhưng đối với thành viên góp vốn thì sự ra đi của họ vẫn đảm bảo cho công ty hoạt động bình thường; các quyền khác theo quy định của Luật doanh nghiệp và điều lệ công ty.
Bên cạnh những quyền lợi như trên thì các thành viên góp vốn cũng phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định, trong đó quan trọng nhất là phải góp đủ số vốn đã cam kết góp vào công ty và chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết đó. Ngoài ra các thành viên góp vốn cũng cần phải tuân thủ các quy định của pháp luật cũng như điều lệ của công ty và quyết định của hội đồng thành viên.
2.3. Cơ chế về vốn và tài sản của công ty (Điều 131, 132).
Vốn điều lệ của công ty được ghi nhận trong điều lệ, hình thành từ các phần vốn góp của thành viên. Các thành viên đều có nghĩa vụ góp vốn vào công ty theo tỷ lệ thỏa thuận và cam kết. So với doanh nghiệp tư nhân thì khả năng huy động vốn của công ty là lớn hơn gấp bội vì công ty có nhiều thành viên góp vốn.
Khác với công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần với tính chất là công ty đối vốn, phần vốn góp vào công ty chỉ đơn thuần mang tính vật chất như tiền bạc, tài sản. Đối với công ty hợp danh ngoài phần vốn góp của các thành viên hợp danh thì yếu tố nhân thân lại rất quan trọng, yếu tố này quyết định tới việc thành lập và hoạt động của công ty. Trong công ty hợp danh thì yếu tố nhân nhân thân là quan trọng, căn cứ trước nhất chính là sự tin cậy, sự quen biết chặt chẽ giữa các thành viên, uy tín cá nhân của mỗi thành viên. Những người này thỏa thuận với nhau để thành lập công ty hợp danh và cùng nhau chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các nghĩa vụ của công ty. Do vậy khi một thành viên chết thì phần vốn của thành viên đó chỉ có thể để lại cho người thừa kế của thành viên đó sau khi đã trừ đi hết các nghĩa vụ của thành viên đó. Còn đối người thừa kế thì có thể có hoặc không thể trở thành thành viên của công ty là tùy thuộc vào sự quyết định của hội đồng thành viên công ty đó.
Các thành viên góp vốn vào công ty dựa trên sự tự nguyện, tự thỏa thuận. Và khi thành viên góp đủ vốn sẽ được công ty cấp giấy chứng nhận phần vốn góp, trong trường hợp bị mất giấy hoặc giấy bị hỏng thì các thành viên có thể xin công ty cấp lại giấy chứng nhận đó. Đồng thời luật cũng quy định rõ số vốn chưa góp đủ là khoản nợ của thành viên đối với công ty và việc góp chậm, góp không đủ số vốn như đã cam kết sẽ là một trong những lý do khiến cho thành viên đó bị loại ra khỏi công ty. Trong thời gian chưa góp đủ số vốn như đã cam kết nếu có thiệt hại gì trong công ty thì thành viên đó phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Việc thành viên góp vốn vào công ty có thể là tiền, vàng, ngoại tệ và các tài sản trị giá khác. Đối với các tài sản trị giá khác như ô tô, nhà ở, đất,... thì theo quy định tại điều 29 Luật doanh nghiệp phải làm thủ tục chuyển quyền sở tài sản cho công ty.
Bên cạnh đó, Điều 132 Luật doanh nghiệp cũng quy định rõ về nguồn gốc hình thành nên tài sản của công ty. Các tài sản đó có được là do sự đóng góp của các thành viên như trên đã nói. Ngoài ra tài sản của công ty còn có các nguồn hình thành khác như: tài sản thu được từ hoạt động kinh doanh của công ty, các tài sản được tặng cho, được hỗ trợ từ Nhà nước, các cá nhân, tổ chức nước ngoài... và các nguồn tài sản khác theo quy định cảu pháp luật. Nhưng một điểm đáng lưu ý ở đây là tất cả các tài sản có được đó phải mang tên công ty.
2.4. Quản lý, điều hành công ty hợp danh (Điều 135, 136, 137).
Do tính chất chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới trong công ty, nên các thành viên hợp danh là những người có quyền ngang nhau trong việc điều hành và quản lý hoạt động của công ty mà không phụ thuộc vào tỷ lệ phần vốn góp của mình tại công ty. Ngược lại với tính chất chịu trách nhiệm hữu hạn về các nghĩa vụ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty nên các thành viên góp vốn không có quyền tham gia điều hành và quản lý công ty. Theo quy định của pháp luật nhiều nước, tất cả các thành viên hợp danh đều có quyền nhân danh công ty để giao dịch vì họ đều có quyền điều hành, đại diện cho công ty như một giám đốc. Đối với công ty hợp danh ở Việt Nam theo Điều 135 thì tất cả các thành viên hợp danh hợp lại thành hội đồng thành viên, hội đồng thành viên bầu một thành viên làm chủ tịch đồng thời kiêm luôn tổng giám đốc hoặc giám đốc của công ty nếu điều lệ của công ty không có quy định khác.
Như vậy theo quy định trên thì cơ quan quyết định cao nhất của công ty hợp danh chính là hội đồng thành viên. Hội đồng thành viên bao gồm tất cả các thành viên hợp danh. Hội đồng thành viên quyết định tất cả các vấn đề liên quan đến hoạt động của công ty, quyết định của hội đồng thành viên phải được ghi vào sổ biên bản và lưu giữ tại trụ sở chính của công ty. Khi quản lý, điều hành các hoạt động của công ty, các quyết định về hoạt động của công ty phải được đa số các thành viên thông qua trừ một số quyết định quan trọng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của công ty thì phải được sự chấp thuận của tất cả các thành viên có quyền biểu quyết như: Quyết định về việc cử giám đốc, tiếp nhận thành viên mới, quyết định khai trừ thành viên hợp danh, quyết định tổ chức lại, giải thể công ty, bổ sung, sửa đổi điều lệ của công ty...Khi biểu quyết các thành viên hợp danh chỉ có một phiếu biểu quyết. Giống với quy định của các nước như Pháp, Đức, Thủy Điển...Luật doanh nghiệp năm 2005 cũng quy định các thành viên hợp danh có quyền tự mình quyết định các giao dịch của công ty và các thành viên khác phải chịu hậu quả của các giao dịch đó. Các thành viên hợp danh có quyền nhân danh công ty thực hiện các giao dịch đối với bên thứ ba. Đây là một trong những vấn đề không được đề cập ở trong Luật doanh nghiêp năm 1999. Bởi vì lúc đó điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều hiện tượng lừa đảo, gian lận trong thương mại...thêm vào đó các thành viên hợp danh trong công ty không đủ kinh nghiệm thương trường để có thể tự bản thân mình quyết định các vấn đề liên quan tới quyền và lợi ích của nhiều thành viên khác.
Ngoài hội đồng thành viên ra trong công ty hợp danh còn có ban giám đốc và một số ban khác. Ban giám đốc là cơ quan do hội đồng thành viên bầu ra để thực hiện công việc quản lý của công ty, theo quy định tại khoản 4 Điều 137 chủ tịch hội đồng thành viên, giám đốc hoặc tổng giám đốc có các nhiệm vụ sau: Quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty; triệu tập, tổ chức họp hội đồng thành viên; phân phối, phân công công việc kinh doanh giữa các thành viên hợp danh; đại diện theo pháp luật cho công ty; các nhiệm vụ khác do điều lệ công ty quy định.
3. Nhận xét các quy định của pháp luật về công ty hợp danh.
Công ty hợp danh là một trong những hình thức tổ chức kinh doanh mới ở nước ta. Nó bắt đầu xuất hiện và du nhập vào Việt Nam từ những năm đầu 90 và phát triển khá mạnh kể từ khi có Luật Doanh nghiệp năm 2005. Luật doanh nghiệp năm 2005 ra đời đã ghi nhận một cách đầy đủ và chi tiết về công ty hợp danh tại chương V với 11 Điều trong đó có 9 Điều mới và 2 Điều được sửa đổi bổ sung. Trải qua hơn bốn năm kể từ khi Luật doanh nghiệp 2005 ra đời đã mang lại những thành tựu đáng kể đối với công ty hợp danh, theo đó:
- Lần đầu tiên Luật đã quy định Công ty hợp danh là loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân. Việc quy định như vậy đã tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động của công ty, bởi lẽ ở Việt Nam vẫn còn có một số văn bản đòi hỏi công ty phải có tư cách pháp nhân trong một số lĩnh vực cụ thể. Việc quy định này đã giúp cho các nhà đầu tư an tâm khi lựa chọn loại hình kinh doanh này, đồng thời nó cũng tạo điều kiện cho doanh nghiệp có đầy đủ tư cách pháp lý khi tham gia vào các giao dịch cũng như các quan hệ tố tụng.
- Luật cũng quy định không bắt buộc các nhà đầu tư khi kinh doanh phải có giấy chứng chỉ hành nghề như Luật năm 1999. Việc quy định này đã tạo điều kiện cho các nhà đầu tư thoải mái lựa chọn loại hình kinh doanh phù hợp với khả năng của mình.
- Luật quy định một cách chi tiết về hoạt động điều hành công ty của hội đồng thành viên cũng như ban giám đốc. Quy định chi tiết về cách thức tiến hành, triệu tập họp hội đồng thành viên.
- Ngoài ra theo quy định tại Điều 131 khi thành viên góp đủ số vốn như đã cam kết thì công ty sẽ cấp cho họ giấy chứng nhận góp vốn, đồng thời khi mà thành viên chưa góp đủ số vốn mà trong quá trình hoạt động đó phát sinh ra thiệt hại cho công ty thì thành viên đó phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Cũng theo quy định tại Điều 132 Luật đã quy định rõ các nguồn gốc hình thành nên tài sản của công ty.
Tuy nhiên bên cạnh những mặt đã đạt được như trên thì các quy định của Luật doanh nghiệp về công ty hợp danh cũng còn bộc lộ những hạn chế nhất định đó là:
- Việc luật quy định công ty hợp danh có tư cách pháp nhân, thì lẽ di nhiên là công ty hợp danh phải có quyền phát hành chứng khoán. Nhưng ở đây công ty hợp danh lại không có quyền đó. Mà bản chất của việc phát hành chứng khoán lại là một trong những hình thức huy động vốn từ công chúng. Thế nên việc luật doanh nghiệp quy định như vậy là chưa phù hợp, gây khó khăn cho việc huy động vốn từ quần chúng của công ty.
- Theo pháp luật của một số nước trên thế giới thì công ty hợp danh gồm hai loại thành viên là thành viên là thành viên hợp danh và thành viên góp vốn. Theo đó công ty hợp danh cũng có thể chỉ có một loại thành viên duy nhất là thành viên hợp danh, còn nếu khi công ty có thêm thành viên góp vốn thì lập tức công ty hợp danh lúc đó sẽ trở thành công ty hợp vốn đơn giản. Việc các nhà làm luật ở Việt Nam quy định vấn đề trên như vậy liệu có phù hợp không, và việc quy định như vậy thì tính chất hợp danh của công ty có được đảm bảo hay không.
III – KẾT LUẬN.
Qua sự xem xét các quy định của pháp luật về công ty hợp danh ở trên. Chúng ta đã thấy rõ được sự thay đổi trong tư duy của các nhà lập pháp ở Việt Nam. Theo đó pháp luật đã có sự quy định một cách khá hoàn chỉnh về loại hình doanh nghiệp mới này, với phương châm “dân giàu thì nước mạnh” nên trong những năm qua các văn bản pháp luật không ngừng được đổi mới và hoàn thiện nhằm đáp ứng nhu cầu pháp lý của người dân trong tất cả các lĩnh vực nói chung và lĩnh vực kinh doanh nói riêng. Tuy nhiên đó mới chỉ là sự đáp ứng một phần mong mỏi của người dân, do vậy trong thời gian tới pháp luật cần có những quy định cụ thể hơn, chi tiết hơn về loại hình doanh nghiệp này, tránh tình trạng bất bình đẳng như hiện nay giữa các loại hình doanh nghiệp.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thương mại, tập 1, NXB. CAND, Hà Nội, 2006.
Luật doanh nghiệp năm 2005.
ThS – LS. Phan Thông Anh (chủ biên), So sánh Luật doanh nghiệp năm 1999 và Luật doanh nghiệp năm 2005, NXB. Tư pháp, Hà Nội, 2006.
Website:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bt lớn luật thương mại 1.doc