Bài tập luật hình sự học kì - Số 6

Vì ghen tuông, A có ý định giết B. A rủ B đi chơi, đến chỗ vắng. A rút dao đâm B ba nhát. Tưởng rằng B chết, A bỏ đi. Do được phát hiện và cấp cứu kịp thời, B đã được cứu sống. Tòa án xác định A phạm tội giết người theo khoản 2 Điều 93 BLHS. Câu hỏi: 1. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS, hãy phân loại tội phạm đối với tội giết người. 2. Hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội nào? Giải thích rõ tại sao. 3. Hãy chỉ ra đối tượng tác động của tội phạm và công cụ phạm tội trong vụ án. 4. Giả sử A mới đâm B một nhát, thấy B bị thương, máu ra nhiều, A sợ quá bỏ đi, không tiếp tục đâm B đến chết. B bị thương tích với tỉ lệ thương tật là 21%. A có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Giải thích rõ tại sao. 5. Giả sử A đâm B ba nhát, tưởng rằng B đã chết, A bỏ đi nhưng do được phát hiện và cấp cứu kịp thời, B đã được cứu sống. Tòa án áp dụng khoản 2 Điều 93 BLHS tuyên hình phạt đối với A là 13 năm tù thì hình phạt Tòa án quyết định đối với A có đúng không? Giải thích rõ tại sao. 6. Giả sử A là người nước ngoài đang là nhân viên làm thuê cho một công ty lien doanh ở Hà Nội. Hành vi nói trên của A xảy ra ở Hà Nội thì A có bị xử lí theo pháp luật hình sự Việt Nam không? Giải thích rõ tại sao.

doc8 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3476 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập luật hình sự học kì - Số 6, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài tập 6: Vì ghen tuông, A có ý định giết B. A rủ B đi chơi, đến chỗ vắng. A rút dao đâm B ba nhát. Tưởng rằng B chết, A bỏ đi. Do được phát hiện và cấp cứu kịp thời, B đã được cứu sống. Tòa án xác định A phạm tội giết người theo khoản 2 Điều 93 BLHS. Câu hỏi: 1. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS, hãy phân loại tội phạm đối với tội giết người. 2. Hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội nào? Giải thích rõ tại sao. 3. Hãy chỉ ra đối tượng tác động của tội phạm và công cụ phạm tội trong vụ án. 4. Giả sử A mới đâm B một nhát, thấy B bị thương, máu ra nhiều, A sợ quá bỏ đi, không tiếp tục đâm B đến chết. B bị thương tích với tỉ lệ thương tật là 21%. A có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Giải thích rõ tại sao. 5. Giả sử A đâm B ba nhát, tưởng rằng B đã chết, A bỏ đi nhưng do được phát hiện và cấp cứu kịp thời, B đã được cứu sống. Tòa án áp dụng khoản 2 Điều 93 BLHS tuyên hình phạt đối với A là 13 năm tù thì hình phạt Tòa án quyết định đối với A có đúng không? Giải thích rõ tại sao. 6. Giả sử A là người nước ngoài đang là nhân viên làm thuê cho một công ty lien doanh ở Hà Nội. Hành vi nói trên của A xảy ra ở Hà Nội thì A có bị xử lí theo pháp luật hình sự Việt Nam không? Giải thích rõ tại sao. Bài làm: 1. Theo khoản 1 Điều 93 BLHS năm 1999: “ Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:…” Theo đó, mức cao nhất của khung hình phạt cho tội giết người tại khoản 1 Điều 93 BLHS năm 1999 là tử hình. Xét theo khoản 3 Điều 8 BLHS năm 1999 ta thấy: “…tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.” Như vậy, căn cứ theo khoản 3 Điều 8 BLHS năm 1999 thì tội giết người theo khoản 1 Điều 93 là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Theo khoản 2 Điều 93 BLHS năm 1999: “Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 điều này, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.” Theo đó mức cao nhất của khung hình phạt cho tội giết người tại khoản 2 Điều 93 BLHS năm 1999 là mười lăm năm tù. Xét theo khoản 3 Điều 8 BLHS năm 1999 ta thấy: “…tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù;…” Như vậy, căn cứ theo khoản 3 Điều 8 BLHS năm 1999 thì tội giết người theo khoản 2 Điều 93 BLHS năm 1999 là tội phạm rất nghiêm trọng. 2. Hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. “Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội”(Điều 18 BLHS) Theo luật hình sự Việt Nam, có ba dấu hiệu xác định trường hợp phạm tội chưa đạt. * Dấu hiệu thứ nhất: Người phạm tội đã bắt đầu thực hiện tội phạm. Đây là dấu hiệu phân biệt phạm tội chưa đạt với chuẩn bị phạm tội. Sự bắt đầu này thể hiện ở chỗ: Người phạm tội đã thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong CTTP. Ví dụ: Trong tình huống kể trên, việc A rút dao đâm B ba nhát là đã thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng của B, đây là hành vi được mô tả trong CTTP tội giết người (Điều 93). *Dấu hiệu thứ hai: Người phạm tội không thực hiện tội phạm được đến cùng (về mặt pháp lí), nghĩa là hành vi của họ chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu (thuộc mặt khách quan) của CTTP. Ví dụ: Trường hợp hành vi phạm tội chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu (thuộc mặt khách quan) của CTTP có thể xảy ra ở tình huống kể trên khi chủ thể của tội phạm là A, đã thực hiện hành vi khách quan nhưng chưa gây ra hậu quả của tội phạm. Đó là khi A đã đâm được B, nhưng B không chết. *Dấu hiệu thứ ba: Người phạm tội không thực hiện tội phạm được đến cùng là do những nguyên nhân ngoài ý muốn của họ. Bản thân người phạm tội vẫn muốn tội phạm hoàn thành nhưng tội phạm không hoàn thành. Ví dụ: A không thực hiện tội phạm của mình được đến cùng là do những nguyên nhân ngoài ý muốn. Trên thực tế thì A vẫn muốn B chết, bằng chứng là việc “Tưởng rằng B đã chết, A bỏ đi.”. Xét thấy, hành vi phạm tội của A đã có đầy đủ các dấu hiệu của phạm tội chưa đạt. Bây giờ ta đi sâu nghiên cứu về các trường hợp phạm tội chưa đạt. Để nghiên cứu về các trường hợp phạm tội chưa đạt, các nhà làm luật đã dựa vào các căn cứ để phân ra làm 2 loại : Thứ nhất, căn cứ vào thái độ tâm lí của người phạm tội đối với hành vi mà họ đã thực hiện Dựa vào căn cứ này, có thể phân biệt phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. - Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành là trường hợp phạm tội chưa đạt, trong đó người phạm tội vì những nguyên nhân khách quan chưa thực hiện hết các hành vi cho là cần thiết để gây ra hậu quả của tội phạm. Ví dụ: A định giết B và đã đâm B. Nhưng mới đâm được một nhát sượt qua cánh tay B thì bị bắt giữ, không đâm tiếp được như ý muốn. Kết quả B chỉ bị thương. Trong trường hợp này, người phạm tội biết hành vi của mình chưa thể gây ra hậu quả chết người mà mình mong muốn. Như vậy, trường hợp này không thỏa mãn tình huống đã cho. - Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là trường hợp phạm tội chưa đạt nhưng người phạm tội đã thực hiện được hết các hành vi cho là cần thiết để gây ra hậu quả nhưng do nguyên nhân ngoài ý muốn, hậu quả vẫn không xảy ra. Ví dụ: A định giết B và đã chém B nhiều nhát, chắc B chết nên không chém nữa. Nhưng B đã không chết do được phát hiện và cấp cứu kịp thời. Trong trường hợp này, người phạm tội tin là hành vi của mình đã gây ra hậu quả chết người mà mình mong muốn. Như vậy, trường hợp này thỏa mãn tình huống đã cho. Thứ hai, căn cứ vào tính chất đặc biệt của nguyên nhân dẫn đến việc chưa đạt Theo căn cứ này, luật hình sự phân biệt trường hợp chưa đạt vô hiệu với các trường hợp chưa đạt khác. Chưa đạt vô hiệu là trường hợp phạm tội chưa đạt mà nguyên nhân khách quan của việc chưa đạt gắn với công cụ, phương tiện, với đối tượng tác động của tội phạm. Phạm tội vô hiệu bao gồm hai trường hợp sau: - Trường hợp thứ nhất là trường hợp chủ thể thực hiện hành vi nhằm gây thiệt hại cho khách thể nhưng thực tế không gây thiệt hại được vì không có đối tượng tác động Như vậy trường hợp này không thỏa mãn tình huống đã cho. - Trường hợp thứ hai là trường hợp phạm tội chưa đạt do người phạm tội sử dụng nhầm phương tiện mà người đó muốn. Trong trường hợp phạm tội chưa đạt vô hiệu này, phương tiện mà người phạm tội muốn sử dụng có khả năng gây ra hậu quả của tội phạm nhưng phương tiện cụ thể mà người đó đã sử dụng không có khả năng đó Như vậy trường hợp này không thỏa mãn tình huống đã cho. Từ những căn cứ trên, ta có thể kết luận rằng hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. 3. Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận khách thể của tội phạm, bị hành vị phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Sự gây thiệt hại cho khách thể dù ở hình thức cụ thể nào cũng luôn luôn diễn ra trên cơ sở hành vi phạm tội làm biến đổi tình trạng của các đối tượng tác động – các bộ phận cấu thành của quan hệ xã hội. Một trong số các bộ phận của khách thể có thể bị tác động là: “Đối tượng tác động của các quan hệ xã hội” – là các sự vật khác nhau của thế giới bên ngoài cũng như các lợi ích mà qua đó các quan hệ xã hội phát sinh và tồn tại. Bất cứ tội phạm nào cũng đều tác động làm biến đổi tình trạng của những đối tượng tác động cụ thể. Sự làm biến đổi tình trạng này là phương thức gây thiệt hại cho quan hệ xã hội. Luật hình sự Việt Nam bảo vệ các quan hệ xã hội thong qua việc bảo đảm tình trạng bình thường cho các bộ phận cấu thành của các quan hệ xã hội đó. Sự bảo vệ các đối tượng tác động cụ thể luôn luôn có ý nghĩa là bảo vệ các bộ phận của quan hệ xã hội và qua đó để bảo vệ toàn bộ quan hệ xã hội. Con người có thể là đối tượng tác động của tội phạm. Con người với ý nghĩa vừa là thực thể tự nhiên vừa là thực thể xã hội có thể là chủ thể của nhiều quan hệ xã hội khác nhau. Trong số những quan hệ xã hội đó có những quan hệ chỉ có thể bị gây thiệt hại khi có sự biến đổi tình trạng bình thường của con người. Quan hệ nhân thân là quan hệ xã hội thuộc loại này. Trong tình huống kể trên, đối tượng tác động của tội phạm là con người (cụ thể là B). Hành vi phạm tội của A là hành vi tước đoạt tính mạng của B. Quan hệ nhân thân của B là quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ và bị A xâm phạm. Công cụ phạm tội là đối tượng được người phạm tội sử dụng để tác động đến đối tượng tác động của tội phạm. Dựa vào căn cứ: “A rút dao đâm B ba nhát” trong tình huống trên, ta có thể kết luận công cụ phạm tội chính là con dao mà A đã sử dụng để đâm B. 4. A vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự. Vì hành vi phạm tội của A là tội phạm chưa đạt chưa hoàn thành đối với tội giết người, nhưng nó đã đầy đủ các yếu tố để cấu thành tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác. Theo Điều 19 BLHS: “Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự ý mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản. Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn TNHS về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu TNHS về tội này.” A đâm B một nhát, thấy B bị thương, máu ra nhiều, A sợ quá bỏ đi không tiếp tục đâm B đến chết. Việc A dừng lại, không tiếp tục đâm B nữa hoàn toàn do động lực bên trong chứ không phải do trở ngại khách quan chi phối. Theo luật hình sự Việt Nam, người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn TNHS về tội định phạm. Trong trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, người phạm tội về mặt chủ quan đã hoàn toàn tự nguyện từ bỏ hẳn ý định phạm tội của mình, không còn mong muốn thực hiện tội phạm đến cùng như ở trường hợp phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành. Xét về mặt khách quan, hành vi đã thực hiện của người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội chưa có tính nguy hiểm đầy đủ của loại tội định phạm vì chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu của CTTP. Trong trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, người phạm tội chỉ được miễn TNHS về tội định phạm. Điều đó có nghĩa, nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ các yếu tố của tội khác thì người đó phải chịu TNHS về tội này. Do vậy, trong trường hợp này A chỉ phải chịu TNHS về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho người khác ( Điều 104 BLHS). 5. Giả sử A đâm B ba nhát, tưởng rằng B đã chết, A bỏ đi nhưng do được phát hiện và cấp cứu kịp thời, B đã được cứu sống. Tòa án áp dụng khoản 2 Điều 93 BLHS tuyên hình phạt đối với A là 13 năm tù thì hình phạt Tòa án quyết định đối với A là không đúng. Hành vi giết người của A đã thỏa mãn hết các dấu hiệu được mô tả trong CTTP giết người nên tội phạm của A là tội phạm hoàn thành. Thời điểm tội phạm hoàn thành không phụ thuộc vào việc người phạm tội đã đạt được mục đích của mình hay chưa. Khái niệm tội phạm hoàn thành không dùng để chỉ thời điểm người phạm tội đạt được mục đích của mình, khi tội phạm hoàn thành thì cũng có thể người phạm tội đã đạt được mục đích của mình nhưng cũng có thể chưa đạt được mục đích đó. Trong tình huống trên, hành vi giết người của A tuy là đã hoàn thành nhưng A vẫn chưa đạt được mục đích cuối cùng của mình là tước đoạt mạng sống của B. Hành vi phạm tội của A trong thuộc giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. Căn cứ theo khoản 3 Điều 52 BLHS: “ Đối với những trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có qui định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì chỉ có thể áp dụng các trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật qui định.” Theo khoản 2 Điều 93 qui định hình phạt cao nhất là đến mười lăm năm tù. Như vậy, mức hình phạt mà A phải chịu không quá ba phần tư của mười lăm năm tù giam, nghĩa là không quá mười một năm ba tháng tù. Vậy mức án 13 năm tù tòa án quyết định với A là không đúng. 6. Tội phạm được coi là phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam khi tội phạm ấy có một trong những giai đoạn thực hiện tội phạm được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam. Nghĩa là, tội phạm ấy được bắt đầu hoặc diễn ra hoặc kết thúc trên lãnh thổ Việt Nam. Khoản 1 Điều 5 BLHS quy định: “ BLHS được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”. Như vậy, theo nguyên tắc lãnh thổ nói trên, đạo luật hình sự Việt Nam có hiệu lực tuyệt đối với mọi hành vi phạm tội được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam dù người thực hiện tội phạm là công dân Việt Nam, người nước ngoài hay người không quốc tịch. Nguyên tắc lãnh thổ có biệt lệ đối với người nước ngoài được hưởng quyền đặc miễn tư pháp theo luật quốc tế. Nếu những người này phạm tội ở Việt Nam thì vấn đề TNHS của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao với chính phủ nước họ. Trong trường hợp trên A là người nước ngoài đang là nhân viên làm thuê cho một công ty liên doanh ở Hà Nội. Hành vi nói trên của A vẫn phải chịu xử lí theo pháp luật Việt Nam, vì A không thuộc trường hợp được ưu đãi, miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam tập I, Tập II ( Trường Đại Học Luật Hà Nội) 2. Bình luận KHBLHS phần các tội phạm, Tập 2 ( Đinh Văn Quế, NXB TP Hồ Chí Minh 2002) 4. Bộ Luật Hình sự 1999 5. Bộ Luật Hình sự 2005

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBài tập Luật hình sự học kì số 6.doc
Luận văn liên quan