Bài tập Luật hình sự học kỳ module 2 - Bài số 3
Bài 3:
Trên đường đi uống rượu về, h và Q phát hiện chị B cùng với 2 người bạn đang say rượu và nằm mê mệt bên lề đường. Thấy chị B đeo nhiều nữ trang bằng vàng, H và Q lấy đi toàn bộ tài sản trị giá 10 triệu đồng. Gần sáng cơn say hết, chị B tỉnh giấc mới biết mình bị mất tài sản và đi trình báo công an. Về vụ việc này có các ý kiến sau đây về tội danh của H và Q:
1. H và Q phạm tội cướp tài sản.
2. H và Q phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
3. H và Q phạm tội trộm cắp tài sản.
Anh (chị) hãy xác định ý kiến nào là đúng, ý kiến nào là sai và giải thích.
11 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2967 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập Luật hình sự học kỳ module 2 - Bài số 3, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài 3:
Trên đường đi uống rượu về, h và Q phát hiện chị B cùng với 2 người bạn đang say rượu và nằm mê mệt bên lề đường. Thấy chị B đeo nhiều nữ trang bằng vàng, H và Q lấy đi toàn bộ tài sản trị giá 10 triệu đồng. Gần sáng cơn say hết, chị B tỉnh giấc mới biết mình bị mất tài sản và đi trình báo công an. Về vụ việc này có các ý kiến sau đây về tội danh của H và Q:
H và Q phạm tội cướp tài sản.
H và Q phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
H và Q phạm tội trộm cắp tài sản.
Anh (chị) hãy xác định ý kiến nào là đúng, ý kiến nào là sai và giải thích.
LỜI MỞ ĐẦU
Xã hội ngày càng phát triển, đời sống con người ngày càng nâng cao và kéo theo đó những tệ nạn xã hội cũng có xu hướng gia tăng, nhất là các tội phạm xâm phạm tới quan hệ sở hữu. Để có biện pháp đấu tranh loại tội này có hiệu quả trước tiên thì ta phải hiểu rõ dấu hiệu pháp lý của từng loại tội, phải phân biệt được tội này với tội kia. Có như vậy mới định tội danh và định khung hình phạt được chính xác. Mặc dù vậy trên thực tế có nhiều vụ án để định tội cho thật chính xác là điều không phải dễ dàng, do đó mà vẫn tồn tại nhiều vụ án oan sai, nhiều vụ bỏ lọt tội phạm. Thực tiễn xét xử ở các tòa án cho thấy, có nhiều vụ án có nhiều quan điểm khác nhau. Tình huống sau đây cũng có thể được coi là một ví dụ:
Trên đường đi uống rượu về, H và Q phát hiện ra chị B cùng với hai người bạn đang say rượu nằm mê mệt bên lề đường. Thấy chị B đeo nhiều nữ trang bằng vàng, H và Q lấy đi toàn bộ tài sản trị giá 10 triệu đồng. Gần sáng khi cơn say đã hết, chị B tỉnh giấc mới biết mình bị mất tài sản và đi báo công an. Về vụ án này có các ý kiến sau đây về tội danh của H và Q:
a. H và Q phạm tội cướp tài sản.
b. H và Q phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
c. H và Q phạm tội trộm cắp tài sản.
Anh (chị) hãy xác định ý kiến nào đúng, ý kiến nào sai và giải thích ?
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Xác định ý kiến nào đúng, ý kiến nào sai và giải thích rõ tại sao?
Sở dĩ vụ án này có 3 quan điểm khác nhau vì 3 tội danh nêu trên đều thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu nên các dấu hiệu pháp lí ( chủ thể, khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan ) của các tội này về cơ bản là giống nhau. Các tội này đều có những đặc điểm chung như: Đây là các tội có tính chất chiếm đoạt, được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp và gây ra thiệt hại về tài sản… Tuy nhiên hình thức thể hiện hành vi khách quan của các tội này là khác nhau. Theo quan điểm của cá nhân em thì các quan điểm: H, Q phạm tội cướp tài sản; H, Q phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là không chính xác, mà với tình huống được mô tả ở trên phải định tội mà H và Q đã thực hiện là trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 BLHS vì:
a. Nhận định H và Q phạm tội cướp tài sản là nhận định sai, vì:
- Thứ nhất: Tội cướp tài sản xâm phạm tới hai khách thể: quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu. Đây là đặc trưng cơ bản của tội cướp tài sản, nếu chỉ xâm phạm đến một trong hai quan hệ xã hội thì chưa phản ánh đầy đủ bản chất cảu tội cướp tài sản.
Xét tình huống đã cho ta thấy: H và Q không có bất kỳ hành vi nào là dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hay hành vi khác để đạt được mục đích chiếm đoạt tài sản mà H, Q chỉ thực hiện 1 hành vi duy nhất là lấy tài sản trên người chị B khi biết chị đang trong tình trạng say rượu. Rõ ràng H và Q chỉ xâm phạm tới một khách thể duy nhất đó là quan hệ sỡ hữu của chị B đối với tài sản của chị.
Thứ hai: Theo quy định tại Điều 133BLHS 1999 thì tội cướp tài sản là hành vi
“dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đọat tài sản”.
Ngay trong điều luật đã quy định rõ hành vi khách quan của tội này bao gồm 3 hành vi, đó là:
- Hành vi dựng vũ lực: dùng sức mạnh vật chất (có hoặc không có công cụ, phương tiện phạm tội) tác động vào người khác nhằm đè bẹp hoặc làm tê liệt sự chống cự của người này chống lại việc chiếm đoạt. Hành vi dùng vũ lực trong tội cướp tài sản phải ở mức độ có khả năng đè bẹp hoặc làm tê liệt sự chống cự, về mặt thực tế không xảy ra được hoặc xảy ra nhưng không có kết quả hoặc làm cho người bị tấn công bị tê liệt ý chí, không dám chống cự.
- Hành vi đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc: là trường hợp người phạm tội bằng lời nói hoặc bằng cử chỉ (hoặc cả hai) doạ sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc nếu chống cự lại việc chiếm đoạt. Dấu hiệu “ngay tức khắc”vừa dùng để chỉ sự nhanh chóng về mắt thời gian ( sẽ xảy ra ngay lập tức) vừa dùng để chỉ sự mãnh liệt của hành vi đe dọa. Sự đe dọa này khiến cho nạn nhân thấy rằng vũ lực sẽ xảy ra ngay, họ không có hoặc khó có điều kiện tránh khỏi, sự đe dọa này làm cho ý chí của người bị đe dọa bị tê liệt.
- Hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được ( ví dụ như hành vi đầu độc, hành vi dung thuốc gây mê…). Tuy không phải là hành vi dùng vũ lực hay đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc nhưng có khả năng đè bẹp hoặc làm tê liệt sự kháng cự làm cho người bị tấn công không thể ngăn cản được việc chiếm đoạt.
Chỉ cần người phạm tội có 1 trong 3 hành vi kể trên thì tội cướp tài sản đã hoàn thành chứ không cần quan tâm tới người phạm tội có chiếm đoạt được tài sản hay không.
Căn cứ vào dấu hiệu về mặt khách quan đã trình bày ở trên đối chiếu vào tình huống này ta thấy hành vi của H, Q không phải là hành vi dùng vũ lực như đánh, chém,…để tác động lên chị B. Hành vi của H và Q cũng không phải là hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc và càng không phải là hành vi làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được. Việc chị B lâm vào tình trạng không thể chống cự được hoàn toàn không phải là do hành vi của H và Q gây ra. Tình trạng “chị B cùng với hai người bạn đang say rượu nằm mê mệt bên lề đường” - lâm vào tình trạng không thể chống cự và không biểu lộ ý chí được đã xảy ra trước khi H và Q đến. Đồng thời H và Q không “dùng thủ đoạn khác” bởi lúc H và Q phát hiện ra chị B thì chị B đã nằm mê mệt bên lề đường. Rõ ràng việc chị B uống say không liên quan đến H và Q. H và Q chỉ lợi dụng hoàn cảnh đó để chiếm đoạt tài sản mà thôi.
Qua việc phân tích ở trên ta thấy, hành vi của H và Q thực hiện không thuộc một trong ba hành vi kể trên. Do đó , hành vi mà H và Q thực hiện không thỏa mãn dấu hiệu mặt khách quan của tội cướp tài sản. Như vậy, trong trường hợp này chúng ta hoàn toàn có thể khẳng đinh H, Q không phạm tội cướp tài sản. Kết luận: nhận định H và Q phạm tội cướp tài sản là nhận định sai.
b. Nhận định H và Q phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là nhận định sai, vì:
Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 137 BLHS 1999. Tuy tội công nhiên chiếm đoạt tài sản không được mô tả, nhưng qua thực tiển xét xử chúng ta có thể hiểu: “Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là lợi dụng chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản công nhiên chiếm đoạt tài sản của họ”. Do đặc điểm riêng của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, nên người phạm tội chỉ có hành vi khách quan duy nhất là hành vi chiếm đoạt, nhưng chiếm đoạt bằng hình thức công khai, với thủ đoạn lợi dụng sơ hở của người quản lý tài sản hoặc lợi dụng vào hoàn cảnh khách quan khác như thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh... Tính chất công khai, trắng trợn tuy không phải là hành vi khách quan nhưng lại là một đặc điểm cơ bản, đặc trưng đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Công nhiên chiếm đoạt tài sản trước hết là công nhiên với chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản, sau đó là công nhiên với mọi người xung quanh.Tính chất công khai của hành vi thể hiện ở chỗ người phạm tội không giấu diếm hành vi phạm tội của mình, trước, trong, hoặc ngay khi mất tài sản, người bị hại biết ngay người lấy tài sản của mình ( biết mà không thể giữ được). Có nghĩa là để cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản thì hành vi chiếm đoạt của người phạm tội phải có tính chất công khai, tức là người phạm tội ngang nhiên lấy tài sản trước mắt người quản lý tài sản mà họ không làm gì được ( không có biện pháp nào ngăn cản được hành vi chiếm đoạt của người phạm tội hoặc nếu có thì biện pháp đó cũng không đem lại hiệu quả, tài sản vẫn bị người phạm tội lấy đi một cách công khai) vì đã rơi và hoàn cảnh không có điều kiện để ngăn cản.
Xét tình huống đã cho, ta dễ dàng nhận thấy hành vi của B và Q là hành vi chiếm đoạt tài sản một cách trái pháp luật nhưng lại không mang tính chất công khai mà mang tính lén lút. Hành vi của H và Q chiếm đoạt tài sản trong tình trạng chị B đang say mê mệt. Lúc này chị B“đang say rượu nằm mê mệt bên lề đường” nên chị B không thể nhận thức và điều khiển hành vi để bảo vệ tài sản của mình. Lúc này về mặt lí trí chị B không hề hay biết hành vi của H và Q nên chị B không biểu lộ được ý chí đúng đắn của mình, và thực tế khi “gần sáng cơn say hết, chị B tỉnh giấc mới biết mình bị mất tài sản”. Như vậy, trên thực tế hành vi mà H và Q thực hiện không ngang nhiên lấy tài sản trước sự chứng kiến của chị B, chị B lúc này không biết và không thể biết hành vi mà 2 tên này thực hiện. Chị B không biết mình bị lấy tài sản, chỉ sau khi mất chị B mới biết mất mất tài sản và càng không biết ai đã lấy tài sản của mình. Do đó hành vi của H và Q là hành vi mang tính chất lén lút không thỏa mãn dấu hiệu công khai trước chủ tài sản. vì vậy hành vi của H, Q không cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
c. Nhận định H và Q phạm tội trộm cắp tài sản là nhận định đúng, vì:
Điều 138 BLHS không mô tả dấu hiệu của tội trộm cắp tài sản mà chỉ nêu tội danh. Qua thực tiễn xét xử có thể hiểu: “Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có chủ” và thuộc một trong các trường hợp sau:
Tài sản trộm cắp có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên;
Gây hậu quả nghiêm trọng;
Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản;
Đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản và chưa được xóa án tích.
Căn cứ vào Điều 138 BLHS, ta thấy hành vi của H, Q được mô tả trong tình huống đã đủ các dấu hiệu cấu thành tội trộm cắp tài sản.
Thứ nhất: khách thể của tội trộm cắp tài sản chính là quyền sở hữu của tổ chức và của công dân trong xã hội. Trong tình huống đã cho, hành vi phạm tội của H và Q “lấy đi toàn bộ tài sản trị giá 10 triệu đồng” rõ ràng đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu (bao gồm quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt) đối với tài sản của chị B. Thực tế, khi chị B tỉnh dậy thì số nữ trang kia không nằm trong sự quản lý của chị B nữa.
Thứ hai: hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản bao gồm 3 dấu hiệu: dấu hiệu hành vi chiếm đoạt tài sản, dấu hiệu lén lút (thể hiện tính chất của hành vi chiếm đoạt ) và dấu hiệu tài sản đang có chủ (thể hiện tính chất của đối tượng bị chiếm đoạt.
Đặc điểm nổi bật của tội trộm cắp tài sản là người phạm tội lén lút (bí mật) lấy tài sản mà chủ sở hữu hoặc người quản lí tài sản không biết mình bị lấy tài sản, chỉ sau khi mất họ mới biết mất mất tài sản.
Lén lút là dấu hiệu có nội dung trái ngược với dấu hiệu công khai ở tội công nhiên chiếm đoạt tài sản đã nêu ở trên. Dấu hiệu này vừa chỉ đặc điểm khách quan của hành vi chiếm đoạt tài sản khác vừa chỉ ý thức chủ quan của người thực hiện hành vi đó. Hành vi chiếm đoạt tài sản có đặc điểm khách quan là lén lút và ý thức chủ quan của người thực hiện cũng là lén lút.
Hành vi chiếm đoạt tài sản được coi là lén lút nếu được thực hiện bằng hình thức mà hình thức đó có khả năng không cho phép chủ tài sản biết có hành vi chiếm đoạt khi hành vi này xảy ra. Hình thức đó có thể là lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của người quản lý tài sản không trông giữ cẩn thận hoặc lợi dụng vào hoàn cảnh khách quan khác nhằm tiếp cận tài sản để thực hiện hành vi chiếm đoạt mà người quản lý tài sản không biết.
Ý thức chủ quan của người phạm tội là lén lút nếu khi thực hiện hành vi chiếm đoạt người phạm tội có ý thức che dấu hành vi đang thực hiện của mình. Việc che dấu này chỉ đòi hỏi đối với chủ tài sản. Đối với những người khác, ý thức chủ quan của người trộm cắp tài sản có thể vẫn là công khai. Nhưng trong thực tế ý thức chủ quan của người phạm tội trong phần lớn các trường hợp cũng là lén lút, che dấu đối với người khác.
Như vậy, xét tình huống đã cho ở trên, ta nhận thấy rằng hành vi mà H và Q thực hiện có đặc điểm khách quan là lén lút: thể hiện H và Q không cho chủ tài sản – chị B biết sẽ có hành vi chiếm đoạt tài sản của chị khi hành vi này xảy ra. Hai tên này đã lợi dụng hoàn cảnh trời tối, đường vắng vẻ, chị B và hai người bạn lại say mê mệt không biết gì để tiếp cận tài sản của chị B và thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Rõ ràng H và Q biết chị B say rượu nên không thể biết việc H và Q lấy đi toàn bộ tài sản. Hành vi mà 2 tên này thực hiện trong lúc chị B không có khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình, mang tính chất lén lút, giấu diếm, không công khai. Trường hợp 2 tên này chỉ che dấu hành vi phạm tội của mình trước chị B, nhưng trong lúc 2 tên đang thực hiện hành vi của mình 2 người bạn của chị B tỉnh dậy và phát hiện hành vi phạm tội của mình thì vẫn phạm tội trộm cắp tài sản. Mặt khác, trong quá trình thực hiện hành vi của mình ý thức chủ quan cũng mang tính lén lút. Hai tên này che dấu hành vi của mình đang thực hiện, mong muốn che dấu hành vi bất hợp pháp của mình, không muốn cho chị B cũng như hai người bạn của chị phát hiện ra.
Ngoài ra, dấu hiệu chiếm đoạt trong CTTP tội trộm cắp tài sản được hiểu là chiếm đoạt được, tội này chỉ coi là hoàn thành khi người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản.
- Nếu vật chiếm đoạt gọn nhỏ thì coi đã chiếm đoạt được khi người phạm tội đã giấu được tài sản trong người.
- Nếu vật chiếm đoạt không thuộc loại nói trên thì coi chiếm đoạt được khi đã mang được tài sản ra khỏi khu vực bảo quản.
- Nếu vật chiếm đoạt là tài sản để ở những nơi không hình thành khu vực bảo quản riêng thì coi là đã chiếm đoạt được khi đã dịch chuyển tài sản ra khỏi vị trí ban đầu.
Xét tình huống đã cho ta thấy, tài sản mà H và Q đã chiếm đoạt là đồ trang sức bằng vàng, những trang sức này nhỏ gọn, dễ dàng cất dấu. Thực tế khi 2 tên này lấy toàn bộ số nữ trang kia chị B không hề hay biết và chị chỉ biết mình mất tài sản khi “ gần sáng cơn say hết, chị B tỉnh giấc mới biết mình bị mất tài sản và đi báo công an”, có nghĩa là H và Q đã chiếm đoạt được tài sản. Số tài sản kia đã dịch chuyển khỏi vị trí ban đầu. Như vậy, tội trộm cắp tài sản mà 2 tên này thực hiện đã hoàn thành.
Tuy nhiên cần xét thêm vấn đề, trong khi đang thực hiện hành vi khách quan của tội này hoặc ngay sau đó H và Q đã bị phát hiện. H và Q không thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản một cách lén lút nữa, 2 tên này tiếp tục hành vi chiếm đoạt bằng các thủ đoạn khác thì hành vi phạm tội có thể cấu thành các tội khác. Các tội đó có thể là : tội cướp tài sản ( Điều 133 BLHS), tội công nhiên chiếm đoạt tài sản ( Điều 137 BLHS).
Quay trở lại tình huống, nếu 2 tên này ban đầu lén lút chiếm đoạt tài sản của chị B nhưng khi tội phạm đang được thực hiện, hành vi phạm tội bị chị B phát hiện, H và Q chuyển sang dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực để tiếp tục hành vi chiếm đoạt thì hành vi phạm tội của 2 tên này cấu thành tội cướp tài sản.
Nếu hai tên này khi bị phát hiện không thực hiện các thủ đoạn như dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực để tiếp tục hành vi chiếm đoạt lại cậy thế đông người công khai chiếm đoạt tài sản và chị B không có các điều kiện thuận lợi để ngăn cản hành vi chiếm đoạt thì hành vi chiếm đoạt cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, H và Q sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điều 137 BLHS.
Thứ 3: Lỗi của người phạm tội trộm cắp tài sản là lỗi cố ý trực tiếp. Khi thực hiện hành vi của mình 2 tên này cũng nhận thức được tình trạng sở hữu tài sản, biết được rằng tài sản họ chiếm đoạt là tài sản của người khác (đang thuộc quyền sở hữu của chị B ). Theo quy định chung của pháp luật hiện hành, họ phải có ý thức tôn trọng và không được xâm phạm. Có thể nói H và Q nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, có điều kiện lựa chọn cách xử sự khác nhưng H và Q vẫn lựa chọn việc phạm tội.
Thứ tư: chủ thể của tội trộm cắp tài sản là bất kỳ người nào có năng lực TNHS và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định. Ở đây đề bài không nêu H và Q có dấu hiệu hạn chế về năng lực hành vi, mắc bệnh tâm thần… và độ tuổi nên ta mặc nhiên coi H và Q đã đủ tuổi và không ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự.
Tóm lại, thông qua những dấu hiệu pháp lý vừa phân tích ở trên, ta thấy H, Q không dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đọat tài sản; cũng không ngang nhiên lấy tài sản trước mắt người quản lý tài sản mà họ không làm gì được vì đã rơi và hoàn cảnh không có điều kiện để ngăn cản mà hành vi của H, Q là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có chủ. Qua các dấu hiệu pháp lí vừa phân tích ở trên hành vi của H, Q đã đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản.
Vì vậy nhận định H, Q phạm tội trộm cắp tài sản là nhận định đúng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Bộ luật hình sự nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia.
Giáo trình luật hình sự Việt Nam, tập 2, trường đại học Luật Hà Nội, nhà xuất bản công an nhân dân.
Bình luận khoa học bộ luật hình sự phần các tội phạm, tập 2, Đinh Văn Quế, nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh.
Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học: luật hình sự, Luật tố tụng hình sự / Trường Đại học Luật Hà Nội , NXB Công an nhân dân, 1999.
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng chống tội trộm cắp tài sản Xã hội chủ nghĩa ở nước ta : Luận văn / Nguyễn Tất Tiến, Trường đại học Luật Hà Nội, 1987.
Phân biệt một số dấu hiệu đặc trưng của tội "trộm cắp tài sản" khi định tội danh / Trần Mạnh Hà // Tạp chí toà án. Toà án nhân dân tối cao, Số 10/2006.
Một số vấn đề cần hoàn thiện đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản / Nguyễn Văn Trượng // Tạp chí Toà án nhân dân. Toà án nhân dân tối cao, Số 24/2008.
Nguyễn Văn Dung phạm tội "cướp tài sản" hay "cưỡng đoạt tài sản" hoặc "công nhiên chiếm đoạt tài sản" / Nguyễn Chí Cường // Tạp chí Toà án nhân dân. Toà án nhân dân tối cao, Số 9/2008.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập Luật hình sự học kỳ module 2 - bài số 3.doc