Bài thu hoạch: Tổng quan máy tính

Kiểm soát các ứng dụng đang hoạt động: Kiểm soát sự hoạt động của các phần mềm trong hệ thống thông qua Task Manager hoặc các phần mềm của hãng thứ ba (chẳng hạn: ProcessViewer) để biết một phiên làm việc bình thường hệ thống thường nạp các ứng dụng nào, chúng chiếm lượng bộ nhớ bao nhiêu, chiếm CPU bao nhiêu, tên file hoạt động là gì.ngay khi có điều bất thường của hệ thống (dù chưa có biểu hiện của sự nhiễm virus) cũng có thể có sự nghi ngờ và có hành động phòng ngừa hợp lý. Tuy nhiên cách này đòi hỏi một sự am hiểu nhất định của người sử dụng. Loại bỏ một số tính năng của hệ điều hành có thể tạo điều kiện cho sự lây nhiễm virus: Theo mặc định Windows thường cho phép các tính năng autorun giúp người sử dụng thuận tiện cho việc tự động cài đặt phần mềm khi đưa đĩa CD hoặc đĩa USB vào hệ thống. Chính các tính năng này được một số loại virus lợi dụng để lây nhiễm ngay khi vừa cắm ổ USB hoặc đưa đĩa CD phần mềm vào hệ thống (một vài loại virus lan truyền rất nhanh trong thời gian gần đây thông qua các ổ USB bằng cách tạo các file autorun.ini trên ổ USB để tự chạy các virus ngay khi cắm ổ USB vào máy tính). Cần loại bỏ tính năng này bằng các phần mềm của hãng thứ ba như TWEAKUI hoặc sửa đổi trong Registry.Sử dụng thêm các trang web cho phép phát hiện virus trực tuyến

docx44 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2995 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài thu hoạch: Tổng quan máy tính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài thu hoach: Tổng quan máy tính MỤC LỤC CHƯƠNG I: PHẦN CỨNG MÁY TÍNH…………………………………….....Trang 2 Sự phát triển CPU Intel……………………………………………………………..Trang 2 Sự phát triển RAM………………………………………………………………….Trang6 Sự phát triển MAINBOARD………………………………………………………..Trang8 CHƯƠNG II: PHẦN MỀN PHÂN VÙNG Ổ ĐĨA……………………………...Trang 14 Partition Magic Pro 8.05………………………………………………………….Trang14 Sử dụng GUI mở rộng phân vùng hệ thống được tích hộp trong win7……………..Trang18 CHƯƠNG III: TIỆN ÍCH Ổ ĐĨA………………………………………………..Trang 19 CHƯƠNG TRÌNH PHÁT HIỆN LỖI Ổ CỨNG (DTI Surface Scanner)………..Trang19 CHƯƠNG TRÌNH SỮA LỖI Ổ CỨNG HDD REGERENERTOR 1.71*…………Trang21 CHƯƠNG IV: TIẾN TRÌNH CÀI ĐẶT WINXP………………………………….Trang 24 CHƯƠNG V:CÁCH SỮ DỤNG PHẦN MỀN GHOST…………………………...Trang30 CHƯƠNG VI: THỦ THUẬT MÁY TÍNH………………………………………...Trang35 CHƯƠNGVII: TÌM HIỂU VỀ VIRUT…………………………………………….Trang38 CHƯƠNG I: SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CPU, RAM, MAINBOARD Năm sản xuất HÌNH ẢNH CHI TIẾT 11/1971 4004 là BXL sử dụng trong máy tính (calculator) của Busicom. 4004 có tốc độ 740KHz, khả năng xử lý 0,06 triệu lệnh mỗi giây (milion instructions per second - MIPS); được sản xuất trên công nghệ 10 µm, có 2.300 transistor (bóng bán dẫn), bộ nhớ mở rộng đến 640 byte. 1972 8008 được sử dụng trong thiết bị đầu cuối Datapoint 2200 của Computer Terminal Corporation (CTC). 8008 có tốc độ 200kHz, sản xuất trên công nghệ 10 µm, với 3.500 transistor, bộ nhớ mở rộng đến 16KB. 1974 8080 sử dụng trong máy tính Altair 8800, có tốc độ gấp 10 lần 8008 (2MHz), sản xuất trên công nghệ 6 µm, khả năng xử lý 0,64 MIPS với 6.000 transistor, có 8 bit bus dữ liệu và 16 bit bus địa chỉ, bộ nhớ mở rộng tới 64KB. 1976 8085 sử dụng trong Toledo scale và những thiết bị điều khiển ngoại vi. 8085 có tốc độ 2MHz, sản xuất trên công nghệ 3 µm, với 6.500 transistor, có 8 bit bus dữ liệu và 16 bit bus địa chỉ, bộ nhớ mở rộng 64KB. 6/1978 8086 sử dụng trong những thiết bị tính toán di động. 8086 được sản xuất trên công nghệ 3 µm, với 29.000 transistor, có 16 bit bus dữ liệu và 20 bit bus địa chỉ, bộ nhớ mở rộng 1MB. Các phiên bản của 8086 gồm 5, 8 và 10 MHz. 6/1979 8088 là BXL được IBM chọn đưa vào chiếc máy tính (PC) đầu tiên của mình; điều này cũng giúp Intel trở thành nhà sản xuất BXL máy tính lớn nhất trên thế giới. 8088 giống hệt 8086 nhưng có khả năng quản lý địa chỉ dòng lệnh. 8088 cũng sử dụng công nghệ 3 µm, 29.000 transistor, kiến trúc 16 bit bên trong và 8 bit bus dữ liệu ngoài, 20 bit bus địa chỉ, bộ nhớ mở rộng tới 1MB. Các phiên bản của 8088 gồm 5 MHz và 8 MHz. 1982 80186 còn gọi là iAPX 186. Sử dụng chủ yếu trong những ứng dụng nhúng, bộ điều khiển thiết bị đầu cuối. Các phiên bản của 80186 gồm 10 và 12 MHz. 1982 80286 được biết đến với tên gọi 286, là BXL đầu tiên của Intel có thể chạy được tất cả ứng dụng viết cho các BXL trước đó, được dùng trong PC của IBM và các PC tương thích. 286 có 2 chế độ hoạt động: chế độ thực (real mode) với chương trình DOS theo chế độ mô phỏng 8086 và không thể sử dụng quá 1 MB RAM; chế độ bảo vệ (protect mode) gia tăng tính năng của bộ vi xử lý, có thể truy xuất đến 16 MB bộ nhớ. Pentium sử dụng công nghệ 0,8 µm chứa 3,1 triệu transistor, có các tốc độ 60, 66 MHz (socket 4 273 chân, PGA). Các phiên bản 75, 90, 100, 120 MHz sử dụng công nghệ 0,6 µm chứa 3,3 triệu transistor (socket 7, PGA). Phiên bản 133, 150, 166, 200 sử dụng công nghệ 0,35 µm chứa 3,3 triệu transistor (socket 7, PGA) 9/1995 Pentium Pro sử dụng công nghệ 0,6 và 0,35 µm chứa 5,5 triệu transistor, socket 8 387 chân, Dual SPGA, hỗ trợ bộ nhớ RAM tối đa 4GB. Điểm nổi bật của Pentium Pro là bus hệ thống 60 hoặc 66MHz, bộ nhớ đệm L2 (cache L2) 256KB hoặc 512KB (trong một số phiên bản). Pentium Pro có các tốc độ 150, 166, 180, 200 MHz 1996 Pentium phiên bản cải tiến của Pentium với công nghệ MMX được Intel phát triển để đáp ứng nhu cầu về ứng dụng đa phương tiện và truyền thông. MMX kết hợp với SIMD (Single Instruction Multiple Data) cho phép xử lý nhiều dữ liệu trong cùng chỉ lệnh, làm tăng khả năng xử lý trong các tác vụ đồ họa, đa phương tiện.Pentium MMX sử dụng công nghệ 0,35 µm chứa 4,5 triệu transistor, có các tốc độ 166, 200, 233 MHz (Socket 7, PGA). BXL Pentium II đầu tiên, tên mã Klamath, sản xuất trên công nghệ 0,35 µm, có 7,5 triệu transistor, bus hệ thống 66 MHz, gồm các phiên bản 233, 266, 300MHz.Pentium II, tên mã Deschutes, sử dụng công nghệ 0,25 µm, 7,5 triệu transistor, gồm các phiên bản 333MHz (bus hệ thống 66MHz), 350, 400, 450 MHz (bus hệ thống 100MHz). Celeron (năm 1998) được “rút gọn” từ kiến trúc BXL Pentium II, dành cho dòng máy cấp thấp. Phiên bản đầu tiên, tên mã Covington không có bộ nhớ đệm L2 nên tốc độ xử lý khá chậm, không gây được ấn tượng với người dùng. Phiên bản sau, tên mã Mendocino, đã khắc phục khuyết điểm này với bộ nhớ đệm L2 128KB. 1999-2001 Pentium III XEON - Tốc độ 500Mhz - 1.0Ghz: Tính năng tượng tự như Pentium III nhưng dung lượng Cache L2 đạt tới 2MB. Xeon sử dụng công nghệ đóng gói SECC2 và SC330. Penium III Xeon được sử dụng trong các máy chủ 2-đường đến 8-đường (2-way to 8-way server). 1998-2002 Celeron Tốc độ 266Mhz -1.8Ghz: Là dòng CPU giá thấp của Intel được giới thiệu lần đầu tiên vào năm 1998. Người ta thường gọi Celeron là dòng Pentium II "rẻ tiền". Các đời đầu tiên của Celeron (266 và 300Mhz) không có Cache L2 gắn ngoài nên không thể hiện được sức mạnh khi so sánh với các đời CPU Penrtium II bởi "tính chậm chạp, lờ đờ" của chúng và được xem là các đời sản phẩm "nháp". Tuy nhiên các đời CPU Celeron kế tiếp đã được bổ xung Cache L2 128KB (vào năm 1999) cho phép Celeron chạy ổn định và hiệu quả hơn. Trong thực tế, việc tung ra số lượng lớn sản phẩm với dung lượng Cache L2 khác nhau nhằm thỏa mãn nhu cầu sử dụng của các đối tượng khách hàng khác nhau là mục tiêu của Hãng Intel (CPU có cache L2 càng nhỏ thì giá càng thấp). 1999-2002 Pentium III Tốc độ 450Mhz - 1.4Ghz: Dòng CPU kế tục Pentium II của hãng Intel và được giới thiệu vào năm 1999 với tốc độ 450 và 500 Mhz. Pentium III có tên mã là Katmai. Kiến trúc của Pentium III tương tự như của Pentium II ngoại trừ việc nó có thêm bộ 70 lệnh hỗ trợ đồ họa, thường được gọi là SSE (Single SIMD Extensions). Đầu tiên Pentium III được thiết kế sử dụng công nghệ đóng gói kiểu SLOT 1 (SECC), kênh truyền hệ thống (system bus) là 100 Mhz và Cach L2 được xây dựng sẵn với dung lượng là 512KB. Tuy nhiên, sau này Intel cũng thiết kế các Pentium III đóng gói theo kiểu SECC2, FC-PGA và FC-PGA2 (Socket 370), kênh hệ thống 133 và Cache L2 là 256KB. Mobile Pentium iii (Pentium iii sử dụng cho máy tính xách tay) sử dụng công nghệ đóng gói BGA và Micro PGA. 2000-2002 Pentium 4 Tốc độ 1.2 Ghz - 2.8 Ghz chuyên sử dụng cho các máy tính để bàn, các trạm làm việc trên mạng và các máy chủ cấp thấp. Intel phát triển Pentium 4 dựa trên công nghệ Vi kiến trúc Netburst của mình. Bộ xử lý Pentium 4 được thiết kế cho các ứng dụng cao cấp như âm thanh, phim hoặc hình ảnh 3D trực tuyến, biên tập phim video, thiết kế kỹ thuật trên máy tính , trò chơi, truyền thông đa phương tiện và các môi trường người dùng đa nhiệmfloating-point operations). Các lệnh mới này làm tối ưu hóa khả năng thực hịên các ứng dụng như phim video, xử lý âm thanh - hình ảnh, mã hóa, tài chính, thiết kế và nghiên cứu khoa học, kết nối mạng trực tuyến... 2005 Pentium D là BXL lõi kép (dual core) đầu tiên của Intel, được cải tiến từ P4 Prescott nên cũng gặp một số hạn chế như hiện tượng thắt cổ chai do băng thông BXL ở mức 800 MHz (400 MHz cho mỗi lõi), điện năng tiêu thụ cao, tỏa nhiều nhiệt. Smithfield được sản xuất trên công nghệ 90nm, có 230 triệu transistor, bộ nhớ đệm L2 2 MB (2x1 MB, không chia sẻ), bus hệ thống 533 MHz (805) hoặc 800 MHz, socket 775LGA. Ngoài các tập lệnh MMX, SSE, SSE2, SSE3, Smithfield được trang bị tập lệnh mở rộng EMT64 hỗ trợ đánh địa chỉ nhớ 64 bit, công nghệ Enhanced SpeedStep (830, 840). Một số BXL thuộc dòng này như Pentium D 805 (2,66 GHz), 820 (2,8 GHz), 830 (3,0 GHz), 840 (3,2 GHz). 7/2006 Core 2 với đại diện X6800 2,93 Ghz, bộ nhớ đệm L2 đến 4 MB, bus hệ thống 1066 MHz, socket 775LGA. Cuối năm 2006, con đường phía trước của BXL tiếp tục rộng mở khi Intel giới thiệu BXL 4 nhân (Quad Core) như Core 2 Extreme QX6700, Core 2 Quad Q6300, Q6400, Q6600 và BXL 8 nhân Core 2 Duo, trước đây là Penryn, có 2 nhân xử lý và tốc độ xung nhịp từ 2.13 GHz đến 3.16 GHz. Chúng chủ yếu dựa trên công nghệ 45nm, Core i3: là bộ xử lý hạng bình dân của Intel. Loại chip mới nhất này luôn được giới thiệu cho PC cao cấp sau đó giảm xuống những chiếc máy tính cơ bản nhất. Intel cho biết chip Core i3 sẽ ra mắt vào đầu năm 2010. Các dự đoán về Core i3 đến giờ chỉ tập trung vào chip Arrandale và Clarkdale. Arrandale là CPU 32nm cho laptop, còn Clarkdale thì cho desktop. Những loại chip này sẽ không có một số tính năng cao cấp như Turbo Boost, nhưng được hy vọng sẽ là một bước tiến mới về tốc độ so với thế hệ trước.  Core i5 gồm các bộ xử lý tầm trung có 4 nhân và tốc độ xung nhịp từ 2.66 GHz tới 3.2GHz. Chúng cũng là Lynnfield, sản xuất trên công nghệ 45nm nhưng thiếu những tính năng cao cấp như Core i7 như Hyper-Threading. Các CPU này hướng vào đối tượng cho những PC chủ đạo, có thể chơi Game và media nhưng không mạnh như chip Core i7.  Core i7 bao gồm những bộ xử lý cho máy để bàn mới nhất Những bộ xử lý 45nm này dựa trên vi cấu trúc Nehalem của intel, có những tính năng như Hyper-Threading, cho phép chip thực thi 8 luồng dữ liệu cùng lúc trên 4 nhân xử lý, quản lý điện năng tốt hơn và mạch điều khiển bộ nhớ tích hợp. Core i7 dành cho máy để bàn gồm 2 loại chính: loại thường và loại cực mạnh. Loại thường có tên mã là Lynnfield, Core i7 loại nàysẽ có tốc độ xung nhịp từ 2.66GHz tới 3.06 GHz. Còn loại cực mạnh là Bloomfield, gồm 2 bộ xử lý có tốc độ xung nhịp lần lượt là 3.2 GHz và 3.33 GHz Lịch sử phát triển RAM RAM (viết tắt từ Random Access Memory) là một loại bộ nhớ chính của máy tính. RAM được gọi là bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên vì nó có đặc tính: thời gian thực hiện thao tác đọc hoặc ghi đối với mỗi ô nhớ là như nhau, cho dù đang ở bất kỳ vị trí nào trong bộ nhớ. Mỗi ô nhớ của RAM đều có một địa chỉ. Thông thường, mỗi ô nhớ là một byte (8 bit); tuy nhiên hệ thống lại có thể đọc ra hay ghi vào nhiều byte (2, 4, 8 byte). RAM khác biệt với các thiết bị bộ nhớ tuần tự (sequential memory device) chẳng hạn như các băng từ, đĩa; mà các loại thiết bị này bắt buộc máy tính phải di chuyển cơ học một cách tuần tự để truy cập dữ liệu. Bởi vì các chip RAM có thể đọc hay ghi dữ liệu nên thuật ngữ RAM cũng được hiểu như là một bộ nhớ đọc-ghi (read/write memory), trái ngược với bộ nhớ chỉ đọc ROM (read-only memory). Đặc trưng Bộ nhớ RAM có 4 đặc trưng sau: Dung lượng bộ nhớ: Tổng số byte của bộ nhớ ( nếu tính theo byte ) hoặc là tổng số bit trong bộ nhớ nếu tính theo bit. Tổ chức bộ nhớ: Số ô nhớ và số bit cho mỗi ô nhớ Thời gian thâm nhập: Thời gian từ lúc đưa ra địa chỉ của ô nhớ đến lúc đọc được nội dung của ô nhớ đó. Chu kỳ bộ nhớ: Thời gian giữa hai lần liên tiếp thâm nhập bộ nhớ. Mục đích Máy vi tính sử dụng RAM để lưu trữ mã chương trình và dữ liệu trong suốt quá trình thực thi. Đặc trưng tiêu biểu của RAM là có thể truy cập vào những vị trí khác nhau trong bộ nhớ và hoàn tất trong khoảng thời gian tương tự, ngược lại với một số kỹ thuật khác, đòi hỏi phải có một khoảng thời gian trì hoãn nhất định. Phân loại RAM Tùy theo công nghệ chế tạo, người ta phân biệt thành 2 loại: SRAM (Static RAM): RAM tĩnh DRAM (Dynamic RAM): RAM động RAM tĩnh 6 transistor trong một ô nhớ của RAM tĩnh RAM tĩnh được chế tạo theo công nghệ ECL (dùng trong CMOS và BiCMOS). Mỗi bit nhớ gồm có các cổng logic với 6 transistor MOS. SRAM là bộ nhớ nhanh, việc đọc không làm hủy nội dung của ô nhớ và thời gian thâm nhập bằng chu kỳ của bộ nhớ.nhưng sram là một nơi lưu RAM động 1 transistor và 1 tụ điện trong một ô nhớ củaRAM động RAM động dùng kỹ thuật MOS. Mỗi bit nhớ gồm một transistor và một tụ điện. Việc ghi nhớ dữ liệu dựa vào việc duy trì điện tích nạp vào tụ điện và như vậy việc đọc một bit nhớ làm nội dung bit này bị hủy. Do vậy sau mỗi lần đọc một ô nhớ, bộ phận điều khiển bộ nhớ phải viết lại nội dung ô nhớ đó. Chu kỳ bộ nhớ cũng theo đó mà ít nhất là gấp đôi thời gian thâm nhập ô nhớ. Việc lưu giữ thông tin trong bit nhớ chỉ là tạm thời vì tụ điện sẽ phóng hết điện tích đã nạp và như vậy phải làm tươi bộ nhớ sau khoảng thời gian 2μs. Việc làm tươi được thực hiện với tất cả các ô nhớ trong bộ nhớ. Công việc này được thực hiện tự động bởi một vi mạch bộ nhớ. Bộ nhớ DRAM chậm nhưng rẻ tiền hơn SRAM. Các loại DRAM Card RAM 4 MB của máy tính VAX 8600 sản xuất năm 1986. Các chip RAM nằm vào những vùng chữ nhật ở bên trái và bên phải *SDRAM (Viết tắt từ Synchronous Dynamic RAM) được gọi là DRAM đồng bộ. SDRAM gồm 3 phân loại: SDR, DDR, DDR2 va DDR3. * SDR SDRAM (Single Data Rate SDRAM), thường được giới chuyên môn gọi tắt là "SDR". Có 168 chân. Được dùng trong các máy vi tính cũ, bus speed chạy cùng vận tốc với clock speed của memory chip, nay đã lỗi thời. * DDR SDRAM (Double Data Rate SDRAM), thường được giới chuyên môn gọi tắt là "DDR". Có 184 chân. DDR SDRAM là cải tiến của bộ nhớ SDR với tốc độ truyền tải gấp đôi SDR nhờ vào việc truyền tải hai lần trong một chu kỳ bộ nhớ. Đã được thay thế bởi DDR2. * DDR2 SDRAM (Double Data Rate 2 SDRAM), Thường được giới chuyên môn gọi tắt là "DDR2". Là thế hệ thứ hai của DDR với 240 chân, lợi thế lớn nhất của nó so với DDR là có bus speed cao gấp đôi clock speed. RDRAM (Viết tắt từ Rambus Dynamic RAM), thường được giới chuyên môn gọi tắt là "Rambus". Đây là một loại DRAM được thiết kế kỹ thuật hoàn toàn mới so với kỹ thuật SDRAM. RDRAM hoạt động đồng bộ theo một hệ thống lặp và truyền dữ liệu theo một hướng. Một kênh bộ nhớ RDRAM có thể hỗ trợ đến 32 chip DRAM. Mỗi chip được ghép nối tuần tự trên một module gọi là RIMM (Rambus Inline Memory Module) nhưng việc truyền dữ liệu được thực hiện giữa các mạch điều khiển và từng chip riêng biệt chứ không truyền giữa các chip với nhau. Bus bộ nhớ RDRAM là đường dẫn liên tục đi qua các chip và module trên bus, mỗi module có các chân vào và ra trên các đầu đối diện. Do đó, nếu các khe cắm không chứa RIMM sẽ phải gắn một module liên tục để đảm bảo đường truyền được nối liền. Tốc độ Rambus đạt từ 400-800MHz. Rambus tuy không nhanh hơn SDRAM là bao nhưng lại đắt hơn rất nhiều nên có rất ít người dùng. RDRAM phải cắm thành cặp và ở những khe trống phải cắm những thanh RAM giả (còn gọi là C-RIMM) cho đủ. * DDR III SDRAM (Double Data Rate III Synchronous Dynamic RAM): có tốc độ bus 800/1066/1333/1600 Mhz, số bit dữ liệu là 64, điện thế là 1.5v, tổng số pin là 240. Cac loại mainboard Socket1: Số chân CPU:169 Điện áp: 5volt Main đời 486 Hổ trợ CPU: Intel 486X Socket2: Số chân CPU:238 Điện áp: 5volt Main đời 486 Hổ trợ CPU: Intel 486X, I486DX,I486DX2,I486DX4 Socket3: Số chân CPU:237 Điện áp: 5/3volt Main đời 486 Hổ trợ CPU: Intel 486X, I486DX,I486DX2,I486DX4 và AMD486, DX4. Socket4: Số chân CPU:273 Điện áp: 5volt Main đời 586 Hổ trợ CPU:Pentium 60 Mhz, Pentium 66Mhz. Socket5: Số chân CPU:320 Điện áp: 3.3volt Main đời 586 Hổ trợ CPU:Pentium 75->133 Mhz, Pentium Socket6: Số chân CPU:235 Điện áp: 3volt Main đời 486 Hổ trợ CPU: Intel 486 DX4. Socket7: Số chân CPU:321 Điện áp: 2.5/3.3volt Main đời Pentium Hổ trợ CPU: P75-233Mhz, Pentium MMX, AMD K5, AMD K6, AMD K6-2,Cyrix 6x86, IBM, 6X86 Socket8: Số chân CPU:387 Điện áp: 2.5volt Main đời: Pentium Pro Hổ trợ CPU: Pentium II Slot 1 Số chân CPU:242 điểm tiếp xúc Điện áp: 2.2volt Main đời: Pentium II/Pentium III. Hổ trợ CPU: Pentium II/Pentium III Slot 2 Số chân CPU:330 Hổ trợ CPU: Pentium II Xeon /Pentium III Xeon Socket 370: Số chân CPU:370 Điện áp: 2.2volt Main đời: Pentium III Hổ trợ CPU: PIII/Celeron. Socket 423: Số chân CPU:423 Điện áp: 1.8volt Main đời: Pentium IV Hổ trợ CPU: PIV ( đời đầu-9/2001) có tốc độ 1.4GHz. Socket 603: Số chân CPU:603 Điện áp: 1.8volt Main đời: Pentium IV Hổ trợ CPU: Intel Pentium IV Xeon. Socket 478: Số chân CPU:478 Điện áp: 1.5volt Main đời: Pentium IV Hổ trợ CPU: Intel Pentium IV/Coleron có tốc độ 1.4GHz-3.2GHz. Socket 754: Số chân CPU:754 Điện áp: 1.5volt Main đời: Abit KV8-Max3; Chaintech CT-Sk 8T800, Chaintech VNF3-250. XNF3-250. Hổ trợ CPU: AMD Sempron 3100+(1.8GHz); Athlon 64bit 2800+/3000+/3200+/3400+/3700+. Socket 775: Số chân CPU:775 Điện áp: 1.5volt Main đời: Pentium IV. Hổ trợ CPU: Intel Pentium IV có tốc độ 2.8Ghz-3.2Ghz. Mainboard của máy Pentium 2 Đặc điểm :     CPU gắn vào Mainboard theo kiểu khe Slot      Hỗ trợ tốc độ CPU từ 233MHz đến 450MHz     Hỗ trợ Bus của CPU ( FSB ) là 66MHz và 100MHz    Trên Mainboard có các Jumper để thiết lập tốc độ .     Sử dụng SDRam có Bus 66MHz hoặc 100MHz    Sử dụng Card Video AGP 1X Mainboard máy Pentium 3 Đặc điểm :     CPU gắn vào Mainboard theo kiểu đế cắm Socket 370    Hỗ trợ tốc độ CPU từ 500MHz đến 1,4GHz     Hỗ trợ Bus của CPU ( FSB ) là 100MHz và 133MHz     Trên Mainboard có các Jumper để thiết lập tốc độ, các đời về sau không có .     Sử dụng SDRam có Bus 100MHz hoặc 133MHz     Sử dụng Card Video AGP 2X Mainboard máy Pentium 4 soket 423 Đặc điểm :     CPU gắn vào Mainboard theo kiểu đế cắm Socket 423    Hỗ trợ tốc độ CPU từ 1,5GHz đến 2,5GHz     Sử dụng Card Video AGP 4X     => Mainboard này có thời gian tồn tại ngắn và hiện nay không thấy xuất hiện trên thì trường nữa . Mainboard máy Pentium 4 soket 478 Đặc điểm :     CPU gắn vào Mainboard theo kiểu đế cắm Socket 478     Hỗ trợ tốc độ CPU từ 1,5GHz đến trên 3GHz     Tốc độ Bus của CPU ( FSB ) từ 400MHz trở lên     Sử dụng Card Video AGP 4X, 8X    Sử dụng bộ nhớ DDRam có tốc độ Bus Ram từ 266MHz trở lên    => Mainboard này tồn tại trong thời gian dài và hiện nay (2006) vẫn còn phổ biến trên thị trường . Mainboard máy Pentium 4 socket 775 Đặc điểm :    CPU gắn vào Mainboard theo kiểu đế cắm Socket 775     Hỗ trợ tốc độ CPU từ 2GHz đến trên 3,8GHz     Tốc độ Bus của CPU ( FSB ) từ 533MHz trở lên     Sử dụng Card Video AGP 16X hoặc Card Video PCI Express 16X     Sử dụng bộ nhớ DDRam có tốc độ Bus từ 400MHz trở lên     => Mainboard này hiện nay(2006) đang được ưa chuộng trên thị trường . Mainboard Socket 775 hỗ trợ Chip Intel Core™ 2 Duo Processor! và hỗ trợ Dual DDR2 .    Mainboard hỗ trợ Dual DDR RAM Đây là công nghệ cho phép nhân đôi tốc độ RAM khi ta lắp đặt RAM theo một quy tắc nhất định . - Các Mainboard hỗ trợ Dual DDR có hai cặp khe cắm như hình dưới, mỗi cặp có 2 mầu khác nhau và hai cặp tương đương với nhau - Nếu bạn cắm 2 thanh DDR RAM trên hai khe cùng mầu ở hai cặp khác nhau thì tốc độ Ram Bus sẽ được nhân đôi . CHƯƠNG II: CHƯƠNG TRÌNH PHÂN VÙNG Ổ ĐĨA 1. Chạy Partition Magic Pro 8.05 từ đĩa CD Hiren’s Boot 10.1 Khởi động bằng đĩa CD Hiren’s Boot 10 rồi bấm phím xuống để chọn mục Start Hiren’s rồi bấm Enter. Bấm phím 1 để chọn mục Disk Partition Tools rồi bấm Enter. Bấm phím 1 để chọn mục Partition Magic Pro 8.05* > bấmEnter. Bạn sử dụng tổ hộp phím Alt+O để bắt đầu tạo phân vùng mới Tạo phân vùng chính dùng để cài WINDOWN thì bạn làm như sau: ở mục Create as:ban chọn Primary Patition, còn ở mục patition type thì chọn NTFS, Label là tên ổ đĩa bạn thích đặt gì thì tùy bạn, ở đây tôi đặt là WIN, còn mục Size là kích thước của ổ đĩa bạn nhập dung lượng bao nhiêu cũng được nhưng phải được tính toán hợp lí. Vì bạn còn phải để chia thêm ổ khác nữa. sau khi đã nhập xong thì bạn chọn OK. Tiếp theo bạn chia thêm phân vùng khác cách thực hiện tương tự như bước trên. Cuối cùng khi đã hài lòng với phân vùng đã chia thi bạn nhấn tổ hợp phím Alt+A Ở đây mình chỉ chia hai phân vùng, với phân vùng thứ 2 tên là CHUONGTRINH với dung lượng là 3G thôi. Sau khi đã dồng ý với cách chia đĩa đã chọn thì bạn hãy ấn tổ hợp phím Alt+A và chọn Yes luôn nhé Sau khi chương trình đã chia phân vùng chon bạn thành công thì bạn chọn tiếp OK và nhấn tổ hợp phím Alt+X để thoát khỏi chương trình Sử dụng GUI mở rộng phân vùng hệ thống được tích hộp trong win7 Mở Control Panel > System and Maintenance > Administrative Tools > Computer Management. Bạn có thể mở Computer Management bằng cách vào Start > Computer > chuột phải chọn Manage Chọn Storage -> Disk Management . Chọn ổ bạn muốn mở rộng, ví dụ ổ D Kích chuột phải vào ổ cần mở rộng,chọn “shrink volume” sau đó đợi chương trình chạy.Ở mục Total size before shrink in MB là dung lượng của ổ đĩa mà ta đã chọn, Size of avalable shrink space in MB là dung lượng mà ta có thể chia, còn mục Enter the amount of space to shrink in MB là ta nhập dung lượng của ồ đĩa để chia Chọn “Shrink” vậy là đã xong rồi đấy CHƯƠNG III: TIỆN ÍCH Ổ ĐĨA 1.CHƯƠNG TRÌNH PHÁT HIỆN LỖI Ổ CỨNG (DTI Surface Scanner) Đây là giao diện khi bạn bắt đầu phần cài đặt chương trình. Chọn Browes… để chỉ nơi cài đặt chương trình, sau khi đã chọn nơi cài đặt ta chọn Next> đẻ tiếp tục ở mục create a destop icon là tạo biểu tượng ngoài destop. Còn mục create shortcut in start menu la tạo shortcut trong menu ở start chọn next> để tiếp tục việc cài đặt Ta chọn Intall để cài đặt chương trình Tiếp tục chọn finish để kết thúc việc cài đăt. Thế là việc cài dặt đã thành công rùi Khi bạn khởi động chương trình , chương trình sẽ kêu bạn chấp nhận những điều khoản của nhà cung cấp dịch vụ. ta chọn I agree Đây là giao diện làm việc chính của chương trình Khi sử dụng bạn hãy chọn nút mount để chương nhận và bạn chọn tên ổ cứng trên khung physical media list, rùi chọn nút scan để quét ổ cứng. chương trình sẽ bắt đầu quét ổ cứng để tìm lỗi 2.CHƯƠNG TRÌNH PHỤC HỒI Ổ ĐĨA BỊ HỎNG Ở mình sẽ giới thiệu các bạn một chương trình rất tuyệt vời và được mọi người sử dụng phổ biến đó là chương trình. Đầu tiên bạn khởi động đĩa hiren’s boot lên sau đó bạn chọn Hard Disk Tool… Kế tiếp bạn chọn HDD Regerenertor 1.71* chương trình hỏi bạn có muốn tiếp tục không. Nếu bạn muốn tiếp tục thì hãy ấn một phím bất kì ngoại trừ phím Esc nhé vì phím đó dùng để thoát và không tiếp tục nữa. Bây giờ chương trình đưa ra cho bạn ba sự lựa chọn: 1 là quét và lặp lại 2 là quét nhưng không lặp lại( hiện thị các bad sector thôi) 3 là khôi phục lạ mọi sector ( kể cả sector đó không bị hư) Ở đây mình chọn khôi phục lạ mọi sector Chương trình kêu bạn nhập dung lượng nơi bắt đầu qua trình quét. ở đây mình sẽ quét toàn bô luôn nên mình nhấn Enter Ở đây thì chuong trình kêu bạn nhập dung lượng nơi mà sẽ kết thúc quá trình quét. Như trên mình đã nói là mình sẽ quét toàn bộ nên ở bước này bạn cũng nhấn Enter nhé Đây là sau khi chương trình đã quét xong 1 là hiển thị danh sách sector đã quét 2 là hiển thị danh sách bad sector 3 là hiển thị danh sách sector đã dược phục hồi 4 là xóa đi các số liệu. đó là phần thông tin thôi mình chỉ cần quan tâm mấy chữ xanh đỏ kia thôi, chữ “B” là những sector hử vẫn còn lại cái này mà xuất hiện thì đáng ngại đó. Tiếp theo là chữ “R” màu xanh lơ là những sector đã phục hồi. kế tiếp là chữ”N” là những sector mới xuất hiện. cuối cùng là chữ “R” màu đỏ là những sector xuất hiện trở lại cái này cũng đáng ngại không kém gì cái chữ “B” kia đâu CHƯƠNG IV: CÀI WINDOW Đầu tiên các bạn chỉnh boot = CD trong bios, cách chỉnh mỗi main mỗi khác nhưng cách làm chung là:Xem màn hình lúc khởi động sẽ có ghi: Press "**" to setup với "**" là 1 phím trên bàn phím. Sau khi vô được màn hình setup bạn chịu khó lục tìm mục Boot device và set first boot device là CD-Rom or DVD Rom tùy vào ổ dĩa bạn dùng là gì Sau khi set xong nhớ chọn save and exit. Các bạn bỏ đĩa winXP vào ổ Đĩa và để ý lúc boot sẽ có dòng chữ "Press any key to boot CD..." ở dưới cùng màn hình, bạn bấm phím bất kỳ. Màn hình xanh thứ 2 hiện lên cho bạn 3 lựa chọn : - Dòng đầu có nghĩa : nhấn Enter để tiến hành cài đặt WinXP ngay bi h. - Nhấn R để sửa chữa bộ WinXP đang dùng bị lỗi file hệ thống. - Nhấn F3 để Quit (thoát). Bạn nhấn Enter Tiếp đó bạn nhấn F8 để xác nhận Tôi đồng ý cài đặt (I agree) Bước tiếp theo là chọn ổ cứng cài đặt (nếu như trong máy bạn đang có 2 cái ổ cứng trở lên).Nhấn Enter để xác nhận.Rồi chọn ổ đĩa để cài đặt (ví dụ như ổ C).Rồi cũng nhấn ENTER. Bước tiếp để chọn định dạng ổ đĩa cài đặt Win.Bạn chọn dòng trên cùng,định dạng NTFS cho ổ đĩa. Tiếp đó là các bước định dạng ổ và copy các file hệ thống : Copy xong máy tiến hành khởi động lại,bạn có thể nhấn ENTER để khởi động ngay mà không cần đợi 10s. Trong lúc máy khởi động lại bạn cứ để yên cho đến khi vào các bước tiếp theo... Đến các bước này bạn nhập đầy đủ các thông tin vào các ô trống : Name : tên bạn (vd : nguyenhonghai). Oganization : tổ chức công ty bạn làm việc (vd : VSVC). Product key : hay chính là cdkey đó,bạn nhập cdkey theo trên bìa đĩa mà bạn mua về,khi mua nhớ bảo họ ghi lên mặt đĩa nếu chưa có nhé,ở bước này bạn hoàn toàn có thể cho đĩa ra để nhập vào,xong xuôi đẩy đĩa vào rồi tiếp tục cũng đc. Computer name : đặt tên cho chiếc máy tính của bạn đi   Administrator password : mật khẩu đăng nhập vào máy (có cũng được,không thì để trống) Confirm password : xác nhận lại mật khẩu nếu có. Time Zone : chọn múi giờ +7 có Bangcok,HaNoi,Giacacta... vì chung ta ở việt nam mà. Tiếp đó chọn NEXT.. Tiếp theo là 2 bước kiểm tra chế độ phân giải màn hình của bạn có thích hợp không,bạn chọn 2 lần OK. Nhấn NEXT... Rồi điền tên user và nhấn NEXT là xong CHƯƠNG V: BACKUP WINDOW Dùng đĩa Hiren Boot để Ghost lại máy! chỉnh boot của máy lại là nhận ổ đĩa CD trước,sau đó bỏ đĩa vào và ctrl+alt +del=restart. Khởi động đĩa boot len. Chọn Backup Toot… Tiếp đến chọn Norton Ghost 11.5*… Kế tiếp ta chọn Ghost (Normal) Bây giờ thì bạn nhấn Enter Chương trính sẽ cung cấp cho các bạn những sự lụa chọn sau: Disk là ghost từ đĩa này sang đĩa khác, partition là ghost từ phân vùng này sang phân vùng khác. Ở đây mình sẽ hưỡng dẫn các bạn ghost từ phân vùng này sang phân vùng khác. Ta bắt đầu nhé: đầu tiên bạn hãy chọn Local>Partition>To Image. Sau đó chọn ổ đĩa bạn muốn ghost bây giờ thì bạn chon nơi lưu tại ô Look in và đặt tên cho file ghost, ở đây bạn có thể chọn No hoặc Fast hay Hight gì cũng được. như vậy bạn đã ghost xong rùi đấy. tiếp theo sau đây mình sẽ hướng dẫn các bạn bung file ghost ra. Các bạn làm theo mình nhé. Ta cũng chọn Local>Partition> nhưn thay vì ta chọn To Image thì ta chọn From Image Bây giờ thì bạn hãy tìm tới nơi mà bạn đã lưu file ghost nhé. Sau khi đã chọn file ghost thì chon Open Bạn hãy chọn Yes để chương trình ghost cho bạn nhé Xong rùi đấy. bây giờ thì chọn Reset Computer thôi CHƯƠNG VI: THỦ THUẬT MÁY TÍNH Hôm nay mình sẽ hướng dẫn cac bạn về cac phím tắt trong window7 1. Phím Windows + L Khi bạn đang làm việc trên máy tính ở nơi công cộng và cần phải rời máy trong giây lát thì tổ hợp phím này sẽ giúp bạn nhanh chóng chuyển máy của bạn về cửa sổ đăng nhập của Windows, nơi mà bạn phải đánh lại mật khẩu mới có thể đăng nhập và tiếp tục làm việc.  2. Shift + Delete Đây Là tổ hợp phím giúp bạn xóa một tập tin mà không lưu lại ở thùng rác của máy tính. Nhưng cũng nên cân nhắc kĩ lưỡng trước khi sử dụng nó vì bạn sẽ không dễ dàng lấy lại những file đã lỡ xóa như khi xóa bằng phím delete thông thường. 3. Phím Windows + Tab Với những bạn sử dụng hệ điều hành Windows từ bản Vista trở đi các bạn sẽ được sử hữu cách chuyển cửa sổ bằng bàn phím mới với phong cách 3D cực hấp dẫn. tổ hợp phím này có lẽ là sự thay thế hoàn hảo cho combo Alt + Tab cũ kĩ của các phiên bản trước. 4. Shift + Ctrl + N Windows 7 có nhiều sự bổ xung nho nhỏ cho các thao tác người dùng trong Windows Explorer đối với các hệ điều hành cũ. Một trong số đó phải kể để phím tắt tạo thư mục nhanh. Thay vì phải Click chuột phải vào vùng trống trên vị trí định tạo thư mục mới rồi chọn đến [I]New > Folder [/I]để tạo thư mục thì bạn chỉ cần nhấn tổ hợp phí Ctrl + Shift + N. Một thư mục mới sẽ được tạo ngay tại nơi bạn đang xem với phần tên được bôi đen sẵn và bạn chỉ việc đặt tên cho thư mục này. 5. Windows + M Nếu bạn đang phải làm việc với quá nhiều chương trình cùng lúc, và lúc nào đó bạn chợt thấy màn hình của mình thật quá bừa bộn thì tổ hợp phím Windows + M thực sự là thứ hữu ích. Tổ hợp phím này sẽ nhanh chóng đẩy tất cả các cửa sổ đang hoạt động trên màn hình về chế độ Minimize và nằm gọn trên thanh Taskbar. Khi muốn mở lại các cửa sổ vừa làm lặn mất bạn chỉ cần bấm lại tổ hợp phím Windows + Shift + M. 6. Windows + Spacebar (nút cách chữ) Nếu bạn chỉ muốn nhìn qua màn hình Desktop hiện tại của mình 1 chút thì tổ hợp phím Windows + Spacebar thực sự hữu ích. Khi nhấn tổ hợp phím này (vẫn giữ phím Windows sau khi bấm Spacebar) bạn sẽ nhìn thấy toàn bộ màn hình nền của mình cho tới khi bạn nhả phím Windows trong tổ hợp phím ra thì mọi thứ là trở về trạng thái ban đầu. Tổ hợp phím này có tác dụng giống như khi bạn di chuột vào nút Show Desktop ở cạnh đồng hồ trong Windows 7 vậy. 7. Windows + Shift + phím mũi tên sang trái hoặc sang phải Tổ hợp phím này tỏ ra hữu ích đối với những máy tính sử dụng 2 màn hình. Khi bấm tổ hợp phím Windows + Shift + phím mũi tên sang trái bạn sẽ nhanh chóng chuyển một cửa sổ đang hoạt đông từ màn hình bên phải sang màn hình phía bên trái và tác dụng ngược lại khi nhấn cùng phím mũi tên sang phải. 8. Windows + 1, 2, 3, 4 ... Windows 7 được Microsoft cung cấp 1 tính năng tương đối thú vị đó là khả năng ghim 1 ứng dụng lên thanh Taskbar để có thể mở chúng nhanh chóng. Và để mở các ứng dụng này nhanh hơn, các bạn có thể bấm phím Windows kèm với số thứ tự của chương trình được đính trên Taskbar. Số thứ tự sẽ được tính từ trái sang phải với ứng dụng gần nút Start nhất sẽ là số 1 và kế đến là số 2, số 3... 9. Windows + T Nếu như sử dụng phím Windows cùng với những phím số sẽ giúp bạn mở nhanh các ứng dụng được ghim trên Taskbar, thì bạn sẽ phải làm sao để mở những ứng dụng đã được mở trước đó ? Chỉ cần nhấn tổ hợp phím WIndows + T là bạn có thể chuyển đến vị trí ứng dụng đang mở đầu tiên trên Taskbar, tiếp tục nhấn tổ hợp phím này 1 lần nữa để chuyển sang ứng dụng đang mở thứ 2, thứ 3... 10. Windows + Phím dấu cộng (hoặc trừ) Nếu mắt bạn hơi kém hoặc do màn hình máy tính để quá xa so với vị trí ngồi của bạn khiến bạn phải nheo mắt mỗi khi muốn nhìn những dòng chữ nhỏ trên màn hình. Thì với tổ hợp phím này bạn sẽ dễ dàng đọc được nhứng dòng chữ nhỏ bé đó mà không cần phải với người lại gần màn hình hay nheo mắt nữa. Khi sử dụng tổ hợp phím Windows + phím dấu cộng thì Windows sẽ phóng to màn hình vào vị trí con trỏ chuột đang chỉ, bấm thêm lần nữa để phóng to hơn nữa. Ngược lại, để thủ nhỏ bạn chỉ cần nhấn tổ hợp phím Windows + phím dấu trừ và cũng nhấn nhiều lần để thu nhỏ hơn. CHƯƠNG VII: TÌM HIỂU VỀ VIRUT 1.Virut là gì? Virút là chương trình lây nhiễm vào những chương trình khác bằng các bản sao của chính nó. Nó tự sao từ đĩa nầy sang đĩa khác hoặc từ hệ thống nầy sang hệ thống khác trên mạng. Virút phá hoại chương trình khi chương trình đó bị nhiễm và chạy. Chỉ có phần chương trình chạy mới bị nhiễm bởi virút. Trước đây, chỉ có các chương trình thực thi mới bị lây nhiễm, nhưng có những virút mới tấn công các macro trong những chương trình như Microsoft Word và phá hủy khi thực hiện các macro. Sức phá hoại của virút có thể không nguy hại, chẳng hạn như hiển thị lời chức mừng sinh nhật (của người tạo virút) vào một ngày nào đó. Nhưng virút cũng có thể làm tổn hại đáng kể bằng cách phá hủy bản ghi khởi động, bảng tập tin và những dữ liệu quí giá trên đĩa. Để tránh mối đe dọa về virút, bạn nên thường xuyên liên lạc với những nhà cung cấp và các tổ chức liệt kê cuối phần nầy. Đa số các web site có nhiều thông tin về virút, gồm CSDL, các hoạt động hiện nay và các trò chơi khăm bằng virút. 2.Phân loại virut Nếu bạn là người muốn tìm hiểu sâu hơn về virus thì hãy đọc phần này, nó sẽ giúp bạn có thêm một số kiến thức về các loại virus máy tính, để có thể tự tin trong việc phòng chống chúng. Tuy nhiên, nếu không cũng không sao, bạn chỉ cần nhớ câu nói trong phần trên là đủ: "Dường như tất cả mọi thứ đều có thể nhiễm virus, chúng không tha bất cứ cái gì và chúng sẽ thâm nhập vào tất cả những gì có thể". Virus Boot Khi bạn bật máy tính, một đoạn chương trình nhỏ để trong ổ đĩa khởi động của bạn sẽ được thực thi. Đoạn chương trình này có nhiệm vụ nạp hệ điều hành mà bạn muốn (Windows, Linux hay Unix...). Sau khi nạp xong hệ điều hành bạn mới có thể bắt đầu sử dụng máy. Đoạn mã nói trên thường được để ở trên cùng của ổ đĩa khởi động, và chúng được gọi là "Boot sector". Những virus lây vào Boot sector thì được gọi là virus Boot. Virus Boot thường lây lan qua đĩa mềm là chủ yếu. Ngày nay ít khi chúng ta dùng đĩa mềm làm đĩa khởi động máy, vì vậy số lượng virus Boot không nhiều như trước. Tuy nhiên, một điều rất tệ hại là chúng ta lại thường xuyên để quên đĩa mềm trong ổ đĩa, và vô tình khi bật máy, đĩa mềm đó trở thành đĩa khởi động, điều gì xảy ra nếu chiếc đĩa đó có chứa virus Boot? Virus File Là những virus lây vào những file chương trình như file .com, .exe, .bat, .pif, .sys... Có lẽ khi đọc phần tiếp theo bạn sẽ tự hỏi "virus Macro cũng lây vào file, tại sao lại không gọi là virus File?". Câu trả lời nằm ở lịch sử phát triển của virus máy tính. Như bạn đã biết qua phần trên, mãi tới năm 1995 virus macro mới xuất hiện và rõ ràng nguyên lý của chúng khác xa so với những virus trước đó (những virus File) nên mặc dù cũng lây vào các File, nhưng không thể gọi chúng là virus File. Virus Macro Là loại virus lây vào những file văn bản (Microsoft Word) hay bảng tính (Microsoft Excel) và cả (Microsoft Powerpoint) trong bộ Microsoft Office. Macro là những đoạn mã giúp cho các file của Ofice tăng thêm một số tính năng, có thể định một số công việc sẵn có vào trong macro ấy, và mỗi lần gọi macro là các phần cái sẵn lần lượt được thực hiện, giúp người sử dụng giảm bớt được công thao tác. Có thể hiểu nôm na việc dùng Macro giống như việc ta ghi lại các thao tác, để rồi sau đó cho tự động lặp lại các thao tác đó với chỉ một lệnh duy nhât. Con ngựa Thành Tơ-roa - Trojan Horse Thuật ngữ này dựa vào một điển tích cổ, đó là cuộc chiến giữa người Hy Lạp và người thành Tơ-roa. Thành Tơ-roa là một thành trì kiên cố, quân Hy Lạp không sao có thể đột nhập vào được. Người ta đã nghĩ ra một kế, giả vờ giảng hoà, sau đó tặng thành Tơ-roa một con ngựa gỗ khổng lồ. Sau khi ngựa được đưa vào trong thành, đêm xuống những quân lính từ trong bụng ngựa xông ra và đánh chiếm thành từ bên trong. Phương pháp trên cũng chính là cách mà các Trojan máy tính áp dụng. Đầu tiên kẻ viết ra Trojan bằng cách nào đó lừa cho đối phương sử dụng chương trình của mình, khi chương trình này chạy thì vẻ bề ngoài cũng như những chương trình bình thường (một trò chơi, hay là những màn bắn pháo hoa đẹp mắt chảng hạn). Tuy nhiên, song song với quá trình đó, một phần của Trojan sẽ bí mật cài đặt lên máy nạn nhân. Đến một thời điểm định trước nào đó chương trình này có thể sẽ ra tay xoá dữ liệu, hay gửi những thứ cần thiết cho chủ nhân của nó ở trên mạng (ở Việt Nam đã từng rất phổ biến việc lấy cắp mật khẩu truy nhập Internet của người sử dụng và gửi bí mật cho chủ nhân của các Trojan). Khác với virus, Trojan là một đoạn mã chương trình HOÀN TOÀN KHÔNG CÓ TÍNH CHẤT LÂY LAN. Nó chỉ có thể được cài đặt bằng cách người tạo ra nó "lừa" nạn nhân. Còn virus thì tự động tìm kiếm nạn nhân để lây lan.Sâu Internet -Worm quả là một bước tiến đáng kể và đáng sợ nữa của virus. Worm kết hợp cả sức phá hoại của virus, sự bí mật của Trojan và hơn hết là sự lây lan đáng sợ mà những kẻ viết virus trang bị cho nó, cũng một phần. Một kẻ phá hoại với vũ khí tối tân. Tiêu biểu như Mellisa hay Love Letter. Với sự lây lan đáng sợ chúng đã làm tê liệt hàng loạt các hệ thống máy chủ, làm ách tắc đường truyền. Worm thường phát tán bằng cách tìm các địa chỉ trong sổ địa chỉ (Address book) của máy mà nó đang lây nhiễm, ở đó thường là địa chỉ của bạn bè, người thân, khách hàng... của chủ máy. Tiếp đến, nó tự gửi chính nó cho những địa chỉ mà nó tìm thấy, tất nhiên với địa chỉ người gửi là chính bạn, chủ sở hữu của chiếc máy. Điều nguy hiểm là những việc này diễn ra mà bạn không hề hay biết, chỉ khi bạn nhận được thông báo là bạn đã gửi virus cho bạn bè, người thân thì bạn mới vỡ lẽ rằng máy tính của mình bị nhiễm virus (mà chưa chắc bạn đã tin như thế!!?). Với cách hoàn toàn tương tự trên những máy nạn nhân, Worm có thể nhanh chóng lây lan trên toàn cầu theo cấp số nhân, điều đó lý giải tại sao chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ mà Mellisa và Love Letter lại có thể lây lan tới hàng chục triệu máy tính trên toàn cầu. Cái tên của nó Worm hay "Sâu Internet" cho ta hình dung ra việc những con virus máy tính "bò" từ máy tính này qua máy tính khác trên các "cành cây" Internet 3.Cách virut hoạt động Có rất nhiều con đường mà virus có thể lợi dụng để xâm nhập vào máy tính. Virus có thể lây qua mạng nội bộ (mạng LAN), qua email, qua các file tải về từ Internet hay từ các ổ đĩa USB. Tinh vi hơn, chúng có thể lợi dụng các lỗ hổng phần mềm, kể cả hệ điều hành để xâm nhập, lây nhiễm lên máy tính thông qua mạng.Email là một trong những con đường lây lan virus chủ yếu và phổ biến nhất trên Internet hiện nay. Từ một máy tính, virus thu thập các địa chỉ email trong máy và gửi email giả mạo có nội dung hấp dẫn kèm theo file virus để lừa người nhận mở các file này. Các email virus gửi đều có nội dung khá "hấp dẫn". Một số virus còn trích dẫn nội dung của một email trong hộp thư của nạn nhân để tạo ra phần nội dung của email giả mạo, điều đó giúp cho email giả mạo có vẻ “thật” hơn và người nhận dễ bị mắc lừa hơn. Với cách thức tương tự như vậy trên những máy nạn nhân khác, virus có thể nhanh chóng lây lan trên toàn cầu theo cấp số nhân. Những thiết bị lưu trữ USB cũng là một nguồn lây lan virus đáng kể, nhất là tại Việt Nam hiện nay, khi USB đang là phương tiện trao đổi dữ liệu của phần lớn người sử dụng máy tính. Từ máy tính bị nhiễm, virus sẽ copy chính nó vào tất cả các ổ USB mà người sử dụng đưa vào máy tính. Lúc này, những ổ đĩa USB đã trở thành những “mầm bệnh” thực sự và khi chúng được đưa sang sử dụng trên máy tính khác, virus sẽ lại lây nhiễm từ USB ra máy tính đó. Máy tính cũng có thể bị nhiễm virus nếu chúng ta chạy một chương trình không rõ nguồn gốc tải từ Internet hay copy chương trình từ một máy tính bị nhiễm virus khác. Lý do là chương trình này có thể đã bị lây nhiễm virus từ trước hoặc bản thân là một virus giả dạng, khi chúng ta chạy nó cũng là lúc chúng ta đã tự mở cửa cho virus lây vào máy của mình.Bên cạnh đó, phải kể tới một tỉ lệ không nhỏ các virus xâm nhập xuống máy tính của người sử dụng thông qua các đoạn mã nguy hiểm được treo trên các website độc hại. Chủ nhân những website này thường tìm cách để lừa nạn nhân ghé thăm trang web của chúng, ngay khi đó, những đoạn mã lệnh nguy hiểm đã chuẩn bị sẵn sẽ được thực thi và máy tính của người sử dụng sẽ bị nhiễm virus. Điển hình cho kiểu này là những virus lây lan qua các chương trình chat như Yahoo! Messenger, Windows Messenger...Các phần mềm (kể cả hệ điều hành) luôn chứa đựng những lỗi tiềm tàng mà không phải lúc nào cũng có thể dễ dàng phát hiện ra. Các lỗi này khi được phát hiện có thể gây ra những sự cố không lớn, nhưng cũng có thể là những lỗi rất nghiêm trọng và không lâu sau đó sẽ có hàng loạt virus mới ra đời khai thác lỗi này để lây lan. Đây là một con đường lây lan virus đáng sợ vì người dùng không thể phòng chống chỉ bằng biện pháp cảnh giác. Bởi vì ngay cả khi bạn rất cảnh giác, không mở file đính kèm trong các email lạ, không vào web lạ hay chạy bất cứ file chương trình khả nghi nào, máy tính của bạn vẫn có thể bị nhiễm virus do chúng “chui” qua lỗ hổng các phần mềm (kể cả hệ điều hành) bạn đang sử dụng. 4. Cách phòng viut hiệu quả Sử dụng phần mềm diệt virus Bảo vệ bằng cách trang bị thêm một phần mềm diệt virus có khả năng nhận biết nhiều loại virus máy tính và liên tục cập nhật dữ liệu để phần mềm đó luôn nhận biết được các virus mới.Trên thị trường hiện có rất nhiều phần mềm diệt virus.Trong nước (Việt Nam): Bkav, CMC.Của nước ngoài: Avira, Kaspersky, AVG, ESET.Và phát hành bởi Microsoft: Microsoft Security Essentials. Sử dụng tường lửa Tường lửa (Firewall) không phải một cái gì đó quá xa vời hoặc chỉ dành cho các nhà cung cấp dịch vụ internet (ISP) mà mỗi máy tính cá nhân cũng cần phải sử dụng tường lửa để bảo vệ trước virus và các phần mềm độc hại. Khi sử dụng tường lửa, các thông tin vào và ra đối với máy tính được kiểm soát một cách vô thức hoặc có chủ ý. Nếu một phần mềm độc hại đã được cài vào máy tính có hành động kết nối ra Internet thì tường lửa có thể cảnh báo giúp người sử dụng loại bỏ hoặc vô hiệu hoá chúng. Tường lửa giúp ngăn chặn các kết nối đến không mong muốn để giảm nguy cơ bị kiểm soát máy tính ngoài ý muốn hoặc cài đặt vào các chương trình độc hại hay virus máy tính. Sử dụng tường lửa bằng phần cứng nếu người sử dụng kết nối với mạng Internet thông qua một modem có chức năng này. Thông thường ở chế độ mặc định của nhà sản xuất thì chức năng "tường lửa" bị tắt, người sử dụng có thể truy cập vào modem để cho phép hiệu lực (bật). Sử dụng tường lửa bằng phần cứng không phải tuyệt đối an toàn bởi chúng thường chỉ ngăn chặn kết nối đến trái phép, do đó kết hợp sử dụng tường lửa bằng các phần mềm. Sử dụng tường lửa bằng phần mềm: Ngay các hệ điều hành họ Windows ngày nay đã được tích hợp sẵn tính năng tường lửa bằng phần mềm, tuy nhiên thông thường các phần mềm của hãng thứ ba có thể làm việc tốt hơn và tích hợp nhiều công cụ hơn so với tường lửa phần mềm sẵn có của Windows. Ví dụ bộ phần mềm ZoneAlarm Security Suite của hãng ZoneLab là một bộ công cụ bảo vệ hữu hiệu trước virus, các phần mềm độc hại, chống spam, và tường lửa. Cập nhật các bản sửa lỗi của hệ điều hành Hệ điều hành Windows (chiếm đa số) luôn luôn bị phát hiện các lỗi bảo mật chính bởi sự thông dụng của nó, tin tặc có thể lợi dụng các lỗi bảo mật để chiếm quyền điều khiển hoặc phát tán virus và các phần mềm độc hại. Người sử dụng luôn cần cập nhật các bản vá lỗi của Windows thông qua trang web Microsoft Update (cho việc nâng cấp tất cả các phần mềm của hãng Microsoft) hoặc Windows Update (chỉ cập nhật riêng cho Windows). Cách tốt nhất hãy đặt chế độ nâng cấp (sửa chữa) tự động (Automatic Updates) của Windows. Tính năng này chỉ hỗ trợ đối với các bản Windows mà Microsoft nhận thấy rằng chúng hợp pháp. Vận dụng kinh nghiệm sử dụng máy tính Cho dù sử dụng tất cả các phần mềm và phương thức trên nhưng máy tính vẫn có khả năng bị lây nhiễm virus và các phần mềm độc hại bởi mẫu virus mới chưa được cập nhật kịp thời đối với phần mềm diệt virus. Người sử dụng máy tính cần sử dụng triệt để các chức năng, ứng dụng sẵn có trong hệ điều hành và các kinh nghiệm khác để bảo vệ cho hệ điều hành và dữ liệu của mình. Một số kinh nghiệm tham khảo như sau: Phát hiện sự hoạt động khác thường của máy tính: Đa phần người sử dụng máy tính không có thói quen cài đặt, gỡ bỏ phần mềm hoặc thường xuyên làm hệ điều hành thay đổi - có nghĩa là một sự sử dụng ổn định - sẽ nhận biết được sự thay đổi khác thường của máy tính. Ví dụ đơn giản: Nhận thấy sự hoạt động chậm chạp của máy tính, nhận thấy các kết nối ra ngoài khác thường thông qua tường lửa của hệ điều hành hoặc của hãng thứ ba (thông qua các thông báo hỏi sự cho phép truy cập ra ngoài hoặc sự hoạt động khác của tường lửa). Mọi sự hoạt động khác thường này nếu không phải do phần cứng gây ra thì cần nghi ngờ sự xuất hiện của virus. Ngay khi có nghi ngờ, cần kiểm tra bằng cách cập nhật dữ liệu mới nhất cho phần mềm diệt virus hoặc thử sử dụng một phần mềm diệt virus khác để quét toàn hệ thống. Kiểm soát các ứng dụng đang hoạt động: Kiểm soát sự hoạt động của các phần mềm trong hệ thống thông qua Task Manager hoặc các phần mềm của hãng thứ ba (chẳng hạn: ProcessViewer) để biết một phiên làm việc bình thường hệ thống thường nạp các ứng dụng nào, chúng chiếm lượng bộ nhớ bao nhiêu, chiếm CPU bao nhiêu, tên file hoạt động là gì...ngay khi có điều bất thường của hệ thống (dù chưa có biểu hiện của sự nhiễm virus) cũng có thể có sự nghi ngờ và có hành động phòng ngừa hợp lý. Tuy nhiên cách này đòi hỏi một sự am hiểu nhất định của người sử dụng. Loại bỏ một số tính năng của hệ điều hành có thể tạo điều kiện cho sự lây nhiễm virus: Theo mặc định Windows thường cho phép các tính năng autorun giúp người sử dụng thuận tiện cho việc tự động cài đặt phần mềm khi đưa đĩa CD hoặc đĩa USB vào hệ thống. Chính các tính năng này được một số loại virus lợi dụng để lây nhiễm ngay khi vừa cắm ổ USB hoặc đưa đĩa CD phần mềm vào hệ thống (một vài loại virus lan truyền rất nhanh trong thời gian gần đây thông qua các ổ USB bằng cách tạo các file autorun.ini trên ổ USB để tự chạy các virus ngay khi cắm ổ USB vào máy tính). Cần loại bỏ tính năng này bằng các phần mềm của hãng thứ ba như TWEAKUI hoặc sửa đổi trong Registry.Sử dụng thêm các trang web cho phép phát hiện virus trực tuyến Bảo vệ dữ liệu máy tính Nếu như không chắc chắn 100% rằng có thể không bị lây nhiễm virus máy tính và các phần mềm hiểm độc khác thì bạn nên tự bảo vệ sự toàn vẹn của dữ liệu của mình trước khi dữ liệu bị hư hỏng do virus (hoặc ngay cả các nguy cơ tiềm tàng khác như sự hư hỏng của các thiết bị lưu trữ dữ liệu của máy tính). Trong phạm vi về bài viết về virus máy tính, bạn có thể tham khảo các ý tưởng chính như sau: Sao lưu dữ liệu theo chu kỳ là biện pháp đúng đắn nhất hiện nay để bảo vệ dữ liệu. Bạn có thể thường xuyên sao lưu dữ liệu theo chu kỳ đến một nơi an toàn như: các thiết bị nhớ mở rộng (ổ USB, ổ cứng di động, ghi ra đĩa quang...), hình thức này có thể thực hiện theo chu kỳ hàng tuần hoặc khác hơn tuỳ theo mức độ cập nhật, thay đổi của dữ liệu của bạn. Tạo các dữ liệu phục hồi cho toàn hệ thống không dừng lại các tiện ích sẵn có của hệ điều hành (ví dụ System Restore của Windows Me, XP...) mà có thể cần đến các phần mềm của hãng thứ ba, ví dụ bạn có thể tạo các bản sao lưu hệ thống bằng các phần mềm ghost, các phần mềm tạo ảnh ổ đĩa hoặc phân vùng khác

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxthu_hoach_lap_rap_cai_dat_3039.docx
Luận văn liên quan