A. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong nhiều năm gần đây, Đảng và nhà nước đã xác định rõ nhu cầu quản lí xã hội bằng pháp luật càng được xem xét, sử dụng đúng với vai trò là phương tiện có ý nghĩa quyết định đối với quản lí nhà nước, quản lí xã hội. Nhiều công trình khoa học được nghiên cứu, nhiều văn bản pháp luật được ban hành tạo ra hệ thống pháp luật toàn diện, thống nhất, đồng bộ làm cho chất lượng của hệ thống pháp luật được cải thiện rõ rệt, trong đó tính hợp pháp của VBPL đặc biệt được coi trọng. Tuy vậy, vì nhiều lí do khác nhau, thực tế vẫn còn tồn tại những văn bản bất hợp pháp ảnh hưởng tiêu cực tới hiệu quả điều chỉnh của pháp luật. Nhu cầu phát hiện, hạn chế, loại trừ các văn bản trái pháp luật luôn được đặt ra. Công tác Xây dựng và ban hành văn bản pháp luật của các cấp, các ngành đã góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần không nhỏ trong việc cải cách thể chế là một trong bốn nội dung của cải cách hành chính Nhà nước. Tuy nhiên, công tác xây dựng và ban hành văn bản pháp luật của các cơ quan, đơn vị (theo phân cấp và thẩm quyền) vẫn còn nhiều yếu kém; việc xây dựng và thực hiện ban hành các văn bản quy phạm pháp luật chưa thực sự có hiệu quả; quá trình soạn thảo và hoạt động tham gia soạn thảo chất lượng chưa cao, có không ít các văn bản pháp luật ban hành không theo quy định của Luật ban hành văn bản, sai về hình thức, thẩm quyền, nội dung mâu thuẫn, chồng chéo .
9 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3983 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ban hành các văn bản pháp luật khiếm khuyết, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong nhiều năm gần đây, Đảng và nhà nước đã xác định rõ nhu cầu quản lí xã hội bằng pháp luật càng được xem xét, sử dụng đúng với vai trò là phương tiện có ý nghĩa quyết định đối với quản lí nhà nước, quản lí xã hội. Nhiều công trình khoa học được nghiên cứu, nhiều văn bản pháp luật được ban hành tạo ra hệ thống pháp luật toàn diện, thống nhất, đồng bộ làm cho chất lượng của hệ thống pháp luật được cải thiện rõ rệt, trong đó tính hợp pháp của VBPL đặc biệt được coi trọng. Tuy vậy, vì nhiều lí do khác nhau, thực tế vẫn còn tồn tại những văn bản bất hợp pháp ảnh hưởng tiêu cực tới hiệu quả điều chỉnh của pháp luật. Nhu cầu phát hiện, hạn chế, loại trừ các văn bản trái pháp luật luôn được đặt ra.
Công tác Xây dựng và ban hành văn bản pháp luật của các cấp, các ngành đã góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần không nhỏ trong việc cải cách thể chế là một trong bốn nội dung của cải cách hành chính Nhà nước. Tuy nhiên, công tác xây dựng và ban hành văn bản pháp luật của các cơ quan, đơn vị (theo phân cấp và thẩm quyền) vẫn còn nhiều yếu kém; việc xây dựng và thực hiện ban hành các văn bản quy phạm pháp luật chưa thực sự có hiệu quả; quá trình soạn thảo và hoạt động tham gia soạn thảo chất lượng chưa cao, có không ít các văn bản pháp luật ban hành không theo quy định của Luật ban hành văn bản, sai về hình thức, thẩm quyền, nội dung mâu thuẫn, chồng chéo….
B. NỘI DUNG.
1. VBPL khiếm khuyết là gì?
VBPL khiếm khuyết được hiểu là văn bản “còn thiếu xót, chưa hoàn chỉnh” không đảm bảo về chất lượng mà nhà nước yêu cầu.
Việc soạn thảo và ban hành ra một VBPL phải do chủ thể có thẩm quyền ban hành VBPL thì các chủ thể trong hệ thống cơ quan hành chính Nhà nước có vai trò vị trí đặc biệt quan trọng, bởi lẽ đây là những chủ thể cơ bản, chủ yếu thực hiện hoạt động quản lí nhà nước trên tất cả các lĩnh vực khác nahu của đời sống xã hội.
2- Nguyên nhân của việc ban hành các văn bản pháp luật khiếm khuyết.
Văn bản pháp luật khiếm khuyết được ban hành có thể do yếu tố trực tiếp đầu tiên tác động đó là do không phù hợp với tình hình thực tiễn, không điều chỉnh và chi phối lên các mối quan hệ tồn tại trong xã hội.
Nguyên nhân thứ hai đó là do chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản còn bị hạn chế về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, về việc sử dụng ngôn ngữ cũng như những kĩ năng pháp lý, thậm chí còn không tuân thủ ngiêm chỉnh những quy định của pháp luật về thủ tục ban hành cũng như quản lý văn bản pháp luật. Dưới sự tác động của ý chí chủ quan của chủ thể có thẩm quyền ban hành đã dẫn tới việc ban hành văn bản pháp luật vi phạm về thủ tục và không đảm bảo tính hợp lý của một văn bản.
Các quy định của pháp luật hiện hành về công tác ban hành văn bản pháp luật nhất là văn bản áp dụng pháp luật còn chưa đầy đủ và được đặt ra trong nhiều văn bản khác nhau, vì vậy đã gây ra khó khăn trong việc thực hiện. Hiện nay, Nhà nước chưa ban hành văn bản pháp luật có hiệu lực pháp luật cao để quy định đầy đủ về hình thức và nội dung văn bản pháp luật cho nên trên thực tế hình thức của văn bản pháp luật còn chưa thống nhất. Đến nay mới chỉ có Thông tư liên tich số 55/2005/TTLT- BNV- VPCP ngày 06/05/2005 hướng dẫn về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản và Quyết định số 20/2002/QD- BKHCN của Bộ trưởng Bộ khoa học – công nghệ ngày 31/12/2002, ban hành Tiêu chuẩn Việt Nam số 5700 về mẫu văn bản quản lý nhà nước.
Bên cạnh đó, trong quá trình ban hành đôi khi các cơ quan soạn thảo còn lồng ghép lợi ích cục bộ của từng cấp, từng ngành vào nội dung văn bản. Xuất phát từ những nguyên nhân đó việc ban hành văn bản pháp luật khiếm khuyết đã xảy ra khá phổ biến ở nhều cấp, nhiều ngành chính vì thế mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải sử dụng biện pháp thích hợp để xử lý nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật đảm bảo cho việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong đời sống.
3- Thực trạng ban hành văn bản pháp luật khiếm khuyết.
Trước hết ta phải thấy được rằng nguyên nhân trực tiếp của một văn bản pháp luật khiếm khuyết là do ý chí chủ quan của chủ thể ban hành văn bản, mặt khác các mối quan hệ tồn tại trong xã hội thì luôn luôn vận động và phát triển không ngừng chính và thế nhiều khi các văn bản pháp luật được ban hành không còn phù hợp và không tác động, chi phối trực tiếp lên các mối quan hệ xã hội đấy được nữa.
Đối tượng điều chỉnh của văn bản quy phạm pháp luật là các mối quan hệ xã hội phong phú, đa dạng, luôn tồn tại khách quan. Vì thế việc nắm bắt thực trạng và phán đoán quy luật vận động của các quan hệ xã hội là rất khố khăn, phụ thuộc và nhiều yếu tố, dẫn đến nội dung văn bản quy phạm pháp luật không phù hợp với tình hình thực tế nữa.
3.1 – Văn bản pháp luật không đáp ứng được yêu cầu về chính trị.
Trước hết đó là các văn bản pháp luật (chủ yếu là các văn bản quy phạm pháp luật) có nội dung không phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Văn bản pháp luật đực ban hành nhưng có nội dung không phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng bị coi là khiếm khuyết và buộc cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành xử lý.
Ví dụ: vấn đề mở rộng địa giới hành chính phải được thực hiện bởi chủ thể có thẩm quyền tiến hành, trong thời gian qua việc mở rộng địa giới thành phố Hà Nội đã được tiến hành, đây là hoạt động ở cấp quốc gia chính vì thế phải được Quốc hội thông qua, và phê duyệt kiến nghị.
Bên cạnh đó, văn bản pháp luật có nội dung không phù hợp với ý chí và lợi ích chính đáng của nhân dân cũng bị coi là khiếm khuyết về chính trị. Văn bản pháp luật được ban hành nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện quyền công dân. Điều này được thể hiện rõ nét trong việc Đảng và Nhà nước ta không ngừng cầu thị, tích khắc phục những hạn chế để nâng cao năng lực quản lý; thường xuyên lắng nghe và tiếp thu có chọn lọc ý kiến của nhân dân để đưa vào ttrong văn bản pháp luật; tích cực tìm tòi, sáng tạo nhằm đề ra những giải pháp hữu hiệu để thực hiện và bảo đảm thực hiện quyền công dân một cách thuận lợi nhất mà việc điển hình là việc cải cách hành chính, loại bỏ những thủ tục gây phiền hà cho nhân dân. Tuy nhiên, cũng còn không ít văn bản pháp luật được ban hành ra nhưng không đáp ứng được nguyện vọng của người dân, ngược lại còn gây khó khăn, phiền hà cho họ.
Ví dụ: Nghị định 32/2007/ND-CP ngày 29/06/2007 quy định về một số gải pháp cấp bách nhằm kiềm chế tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông thì từ ngày 01/01/2008 tất cả các loại xe công nông, xe ba, bốn bánh tự chế phải ngừng lưu thông, nếu vi phạm sẽ bị tịch thu. Nhưng dư luận rất quan tâm đến sự cần thiết của quyết định này vì các vấn đề như chuyển đổi nghề nghiệp cho những người sống bằng nghề điều khiển xe công nông, xxe ba, bốn bánh tự chế này. Hiện nay luật đã đi được vào cuộc sống một thời gia khá dài, và hệ quả của nó là nhiều người dân trước đây sống chủ yếu bằng những nghề này thì nay lại thất nghiệp. Mặt khác, ở những vùng nông thôn các loại xe này vẫn lưu thông “chui” bất chấp điều cấm của pháp luật. rõ ràng văn bản pháp luật này được ban hành ra nhưng dường như lại đi ngược lại với ý chí nguyện vọng của người dân.
Đa số các văn bản pháp luật hiện nay đều xuất phát từ yêu cầu bức xúc của đời sống xã hội, đã cố nội dung phản ánh đúng và phù hợp với thực trạng của đời sống xã hội trong từng thời kỳ, ở từng ngành hay địa phương. Bên cạnh đó, một số văn bản pháp luật rơi vào tình trạng không khả thi vì có quy định không phù hợp với điều kiện khách quan của đới sống xã hội.
Ví dụ: Thông tư số 02/2003/TT-BCA ngày 13/01//2003 về việc hướng dẫn tổ chức cấp đăng ký biển số phương tiện giao thông cơ giới quy định mỗi người chỉ được đăng ký một xe moto hoặc xe gắn máy. Mục đích của quy định này là nhằm giảm lượng xe máy lưu hành để kiềm chế, giảm dần tai nạn và ùn tắc giao thông. Nhưng trên thực tế thì nó đã chứng tỏ đây là một văn bản pháp luật không có tính khả thi bởi số lượng xe lưu hành vẫn gia tăng do người dân thực sự có nhu cầu sử dụng xe đã tìm cách để có xe sử dụng. Không ai thống kê được công dân của thành phố Hà Nội đã phải nhờ công dân một địa phương nào đó đứng tên đăng ký tài sản. Chỉ thấy lượng xe máy gắn biển ngoại tỉnh xuất hiện trên đường phố Hà Nội mỗi lúc một nhiều. Nhiều luật gia gọi đây là hiện tượng “hồn Trương Ba da Hàng Thịt”. Tuy nhiên điều mà chúng ta quan tâm đó là mục tiêu giảm tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông đã giảm được hay chưa?
3.2 – Văn bản pháp luật không đáp ứng yêu cầu về mặt pháp lý.
- Văn bản pháp luật vi phạm thẩm quyền ban hành.
Văn bản vi phạm về mặt thẩm quyền ban hành bao gồm vi phạm về mặt hình thức và vi phạm về mặt nội dung của một văn bản pháp luật. Công tác kiểm tra văn bản theo quy định của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Viện kiểm sát trong thời gian 3 năm sau khi luật này được ban hành cho thấy trong tổng số 4.201 văn bản có sai phạm thì có tới 1.992 văn bản vi phạm về thẩm quyền, chiếm tỉ lệ 47,41%. Theo thống kê của Bộ Tư pháp, qua kiểm tra 1.506 văn bản pháp luật đã ban hành của cấp bộ và địa phương trong năm 2007 phát hiện 320 văn bản có dấu hiệu trái pháp luật. Năm 2008 kiểm tra 1.968 văn bản thì phát hiện 490 văn bản có dấu hiệu trái pháp luật (trong tổng số 93 văn bản cấp bộ và 397 văn bản của địa phương). Như vậy, có khoảng từ 20-25% số văn bản được kiểm tra có dấu hiệu vi phạm theo quy định của pháp luật.
Trước hết về mặt hình thức đó là văn bản được ban hành không đúng theo tên gọi của pháp luật quy định. Đó là việc cơ quan ban hành văn bản sử dụng hình thức văn bản pháp luật thuộc thẩm quyền của chủ thể khác. Ví dụ: Hội đồng nhân dân ban hành quyết định, ủy ban nhân dan ban hành nghị quyết…
Bên cạnh đó, vi phạm thẩm quyền về hình thức còn thể hiện ở việc sử dụng không đúng vai trò của văn bản trong việc giải quyết công việc cụ thể, như việc sử dụng công văn, thông báo để đặt ra các quy phạm pháp luật hoặc ban hành quyết định thay cho mệnh lệnh khám nơi cất giấu tang vật vi phạm….
Về mặt nội dung văn bản, đó là khi chủ thể ban hành sử dụng để giải quyết công việc không thuộc thẩm quyền do pháp luật quy định đối với chủ thể đó. Sự vi phạm này thể hiện ở việc cơ quan ban hành văn bản để giải quyết công việc hoàn toàn không thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể đó. Trong thời gian 3 năm (1997-1999) Viện kiểm sát kháng nghị 4.201 văn bản quy phạm pháp luật thì có tới 2.339 văn bản vi phạm về mặt nội dung. Kết quả của các đợt kiểm tra, rà saot văn bản pháp luật cũng phát hiện số lượng đáng kể các văn bản trái pháp luật. Năm 2005 Cụ Kiểm tra văn bản tiếp nhận để kiểm tra 3.902 văn bản đã phát hiện 522 văn bản có dấu hiệu trái pháp luật.
Việc ban hành một văn bản pháp luật nhiều khi còn mâu thuẫn nagy trong bản than quyết định hay mâu thuẫn với các quyết định có cùng hiệu lực pahps lý cũng rất đáng quan tâm. Ví dụ: Trong lĩnh vực thanh tra, khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng kết quả kiểm tra văn bản ban hành từ ngày 01/01/1999 đến ngày 30/06/2006 trong số 1296 văn bản có 71 văn bản có mâu thuẫn, chồng chéo. Một ví dụ cụ thể: Điểm c khoản 1 Điều 9 Nghị định 150/2005/ND-CP quy định “Vứt rác, xác động vật, chất thải hoặc bất cứ vật gì khác ra nơi công cộng, chỗ có vòi nước, giêng ăn, ao, đầm, hồ mà thường ngày nhân dân sử dụng trong sinh hoạt gây ô nhiễm môi trường hoặc làm mất vệ sinh” thì bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 60.000 đồng đến 100.000 đồng, Tại Nghị định số 45/2005/ND-CP ngày 06/04/2005 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế quy định “Để chất thải, nước thải gây ô nhiễm nguồn nước chi ăn uống và sinh hoạt của người dân” thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng. Hai hành vi nói trên không có những điểm khác nhau rõ rệt nhưng mức phạt lại chênh lệch tới 15 lần, gây ra sự chồng chéo trong quá trình áp dụng.
Ví dụ: Quyết định số 33/2008/QD- BYT về việc ban hành tiêu chuẩn sức khỏe người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ do Bộ y tế ban hành ngày 30/09/2008. Theo Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (Bộ y tế) thì việc Bộ y tế đơn phương ban hành quyết định tiêu chuẩn sức khỏe lái xe là không đúng thẩm quyền. Trong Công văn do Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật gửi Bộ y tế ngày 24/10/2008 nêu rõ: Căn cứ Điều 55 Luật Giao thông đường bộ và ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng chính phủ, việc quy định tiêu chuẩn sức khỏe của người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ phải do liên bộ ban hành Thông tư liên tịch. Việc Bộ y tế tự ban hành quyết định về tiêu chẩn sức khỏe này là hoàn toàn không đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, văn bản pháp luật vi phạm về mạt thẩm quyền nội dung còn thể hiện trong việc chủ thể ban hành văn bản để giải quyết công việc vượt thẩm quyền mà pháp luật quy định đối với chủ thể đó.
Ví dụ: Chiến sĩ công an nhân dân đang thi hành công vụ đã ra quyết định xử phạt một hành vi vi phạm hành chính với mức phạt là 250.000 đồng, tuy nhiên căn cứ theo quy định tại Điều 31 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính sửa đổi, bổ sung năm 2008 thì mức phạt tối đa của chiến sĩ công an nhân dân đang thhi hành công vụ có quyền được áp dụng là 200.000 đồng.
- Văn bản pháp luật có nội dung trái với quy định pháp luật.
Nội dung trái với quy định của pháp luật thể hiện trong việc viện dẫn hoặc viện dẫn sai những văn bản làm cơ sở pháp lý của văn bản đó.
Ví dụ: Trong Quyết định của ủy ban nhân dân tỉnh A về vấn đề quản lý, khai thác, bảo về tài nguyên khoáng sản trên địa bàn tỉnh, trong phần căn cứ pháp lý chỉ nêu Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân mà không viện dẫn Luật bảo vệ môi trường là văn bản quy định trực tiếp về thẩm quyền của ủy ban nhân dân tỉnh trong lĩnh vực này.
Mặt khác còn thể hiện trong trường hợp nội dung văn bản quy phạm pháp luật của cấp dưới trái với nội dung văn bản quy phạm pháp luật của cấp trên; văn bản hành chính có các quy định mang tính quy phạm trái với quy phạm của pháp luật hiện hành. Thể hiện ở tính bất hợp pháp về nội dung, các mệnh lệnh trong văn bản hành chính không dúng với những mệnh lệnh trong văn bản áp dụng pháp luật.
- Văn bản pháp luật có nội dung không phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Bởi vì muốn thực hiện tôt các cam kết quốc tế, Việt Nam không chỉ tiến hành việc nội luật hóa mà còn phải rà soát nhằm phát hiện các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành chưa phù hợp để sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ, thay thế bằng văn bản khác.
4 – Một số nhận xét và kiến nghị.
Xã hội ngày càng phát triển, đi cùng với nó là ngày càng nhiều các quan hệ xã hội đa dạng và phức tạp nảy sinh, chính vì thế mà các văn bản pháp luật được ban hành thường xuyên để đáp ứng nhu cầu quản lý hằng ngày của các chủ thể quản lý hành chính nhà nước. Hiện nay số lượng các văn bản pháp luật được ban hành ngày càng nhiều, chất lượng ngày càng được nâng cao, đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn quản lý xã hội, tuy nhiên bên cạnh đó còn khong ít các văn bản khiếm khuyết vẫn còn tồn tại gây khó khăn không nhỏ cho hoạt động áp dụng và thi hành trên thực tế.
Thứ nhất, cần tiến hành kiểm tra, rà soát văn bản pháp luật, để kịp thời bban hành các văn bản pháp luật để thực hiện các chủ trương, biện pháp, phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành, quản lý chính nhà nước của Trung ương, địa phương góp phần thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng – an ninh của đất nước.
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 được sửa đổi bổ sung năm 2002, năm 2008 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2004 quy định thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật thuộc nhiều cơ quan từ các co quan nhà nước ở Trung ương, các cơ quan cấp tỉnh, huyện, xã. Văn bản quy phạm pháp luật do nhiều cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, việc ban hành lại được thực hiện trong các hoàn cảnh, điều kiện, thời điểm khác nhau, do đó mâu thuẫn, chồng chéo, trùng lặp, sai thẩm quyền, trái pháp luật hoặc vi phạm quy định tại Thông tư số 55/2005/TTLT- BNV- VPCP ngày 06/05/2005 hướng dẫn thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản là điều khó tránh khỏi.
Thứ hai, đề nghị các cơ quan chuyên môn các cấp tham mưu giúp việc trong quá trình được giao xây dựng, chủ trì soạn thảo cần xây dựng và soạn thảo đảm bảo đúng quy trình, đặc biệt là các văn bản do Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện trong việc tham gia góp ý kiến và dự thảo văn bản quy phạm pháp luật (quy định tại Điều 4 Luật ban hành văn bản năm 2004).
Thứ ba, Các cơ quan chuyên môn được giao chủ trì soạn thảo, cơ quan kiểm soát văn bản trước khi trình ký các văn bản phải thực hiện ngiêm túc và đầy đủ các yêu cầu của pháp luật (tuân thủ quy định của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân ngày 26/11/2003; Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2004; Nghị định số 91/2006/ND-CP ngày 06/09/2006 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân; Thông tư số 55/2005/TTLT-BNV-VPCP ngày 06/05/2005 hướng dẫn thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản…)
Thứ tư, kịp thời phát hiện những văn bản hết hiệu lực pháp luật; không còn phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành, để đè nghị với cơ quan cấp trên có thẩm quyền hủy bỏ, bãi bỏ các văn bản ban hành không tuân thủ các quy định của pháp luật.
Thứ năm, các cơ quan, đơn vị chuyên ngành (Văn phòng Chính phủ, Bộ nội vụ; Sở tư pháp; Văn phòng Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân tỉnh…), thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ để nâng cao kỹ năng soạn thảo văn bản cho đội ngũ cán bộ, công chức, để nâng cao chất lượng văn bản.
Thứ sáu, thực hiện nghiêm túc việc phân bổ kinh phí theo tinh thần Thông tư liên tịch 158/TT-BTC-BTP ngày 28/07/2007 của Bộ tài chính và Bộ tư pháp hướng dẫn về quản lý và sử dụng kinh phí hỗ trợ cho công tác kiểm tra.
5. Phần mở rộng của bài làm: Cách thức xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết.
Thực tế hiện nay cho thấy, một số ngành, địa phương đã lạm dụng vai trò quản lý của mình để ra những văn bản trái với văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên. Hàng loạt các nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định, chỉ thị, của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trái với Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội, chỉ thị, quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Ví dụ: Quyết định số 10/2006/QĐ-UBND ngày 05/04/2006 của Ủy ban nhân dân thị xã Cửa Lò về việc ban hành quy chế hoạt động du lịch tại khoản 5 Điều 12 quy định: “Các loại xe khi vào khu vực thị xã chỉ được phép chạy tối đa 30km/h”. Trong khi đó thẩm quyền quy định giới hạn tốc độ tối đa của các loại xe lưu thông trên các tuyến đường bộ thuộc Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải. Mặt khác theo quy định tại Nghị định 14/2003/NĐ-CP ngày 19/02/2003 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật giao thông đường bộ thì giới hạn tốc độ tối đa ở nội thành, nội thị là 40 km/h.Những quy định như trên của Ủy ban nhân dân Cửa Lò ban hành vừa không đúng thẩm quyền vừa có nội dung trái với nội dung của văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên.
Qua thực tế trên cho thấy việc xem xét và xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết cũng phải dựa trên những căn cứ nhất định, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động tiến hành xử lý diễn ra theo đúng như quy định của pháp luật, đảm bảo sự công khai, hợp lý, hợp pháp.
- Căn cứ để lựa chọn cách thức xử lý văn bản khiếm khuyết.
Trong quá trình xác định thẩm quyền xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết, cần xét đến tính chất, mức độ của mỗi dạng khiếm khuyết để lực chọn các biện pháp xử lý. Thông thường những văn bản pháp luật có nội dung không phù hợp với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, lợi ích chính đáng của người dân sẽ bị sửa đổi, bãi bỏ hoặc thay thế.
Vi phạm thẩm quyền ban hành, nội dung vi phạm nghiêm trọng pháp luật hiện hành hoặc vi phạm thủ tục ban hành sẽ bị hủy bỏ. Trong trường hợp văn bản vi phạm thủ tục ban hành mà vi phạm này làm mất cơ sở pháp lí của việc giải quyết công việc phát sinh thì hủy bỏ và đình chỉ việc giải quyết.
Nếu văn bản pháp luật chỉ có sai phạm về hình thức, trong khi nội dung vẫn còn phù hợp thì giữ lại nội dung để đưa vào văn bản mới. Văn bản pháp luật có nội dung không phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia thì sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ, thay thế.
Văn bản pháp luật có kĩ thuật pháp lí thấp như ngôn ngữ không chuẩn, phân chia, sắp xếp không lôgic, thếu chặt chẽ… thì sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế bằng văn bản khác.
- Căn cứ mức độ khiếm khuyết trong văn bản. Nếu văn bản có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng thì phải sử lí bằng biện pháp hủy bỏ, it nghiêm trọng thì sửa đổi, bổ sung.
- Căn cứ thẩm quyền xử lý để lực chọn biện pháp xử lý. Cấp trên có thẩm quyền áp dụng các biện pháp xử lý như hủy bỏ, bãi bỏ, tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành văn bản pháp luật của cấp dưới. Cơ quan ban hành văn bản pháp luật cũng có thẩm quyền xử lý với biện pháp hủy bỏ, bãi bỏ, tạm đình chỉ thi hành… ngoài ra còn có quyền thay thế văn bản mình ban hành băng văn bản pháp luật khác.
C. KẾT LUẬN.
Tóm lại hoạt động xây dựng và ban hành VBQPPL là một trong những công việc khó khăn và phức tạp, mang tính sáng tạo và đòi hỏi phải phù hợp với yêu cầu của thực tiễn áp dụng. Và để thực hiện tốt sự quản lí của Đảng và Nhà nước, đảy nhanh sự phát triển của xã hội, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước thì phải chú trọng phát huy vai trò của pháp luật, nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với xu hướng phát triển chung của tình hình thế giới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
………… * ……….. * ………… *………… * ………….
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, giáo trình xây dựng văn bản pháp luật.
NXB Công an nhân dân Hà Nội, Năm 2008.
2. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008.
3. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi. bổ sung năm 2008).
4. Thông tư liên của Bộ nội vụ và Văn phòng Chính phủ số 55/2005/TTLT-BNV-VPCP ngày 06/05/2005 hướng dẫn thể thức và cách thức trình bày văn bản.
5. Bùi Thị Đào, “Giám sát, kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật”, tạp chí nghiên cứu lập pháp số 09/2002.
6. Bùi Thị Đào, “Văn bản quy phạm pháp luật và xử lý văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật”, Tạp chí luật học sô 10/2007.
7. Đoàn Thị Tố Uyên, “Hoàn thiện quy định pháp luật về xử lý văn bản quy phạm pháp luật sai trái”, Tạp chí nhà nước và pháp luật sô 06/2008.
8. http: www.chinhphu.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập 9 điểm học kì môn xây dựng văn bản- ban hành các văn bản pháp luật khiếm khuyết.doc