- Não bộ là nơi nhạy cảm với sự thiếu
oxy nhất. Khi đeo khẩu trang liên lục
gây tình trạng thiếu oxy có thể gây
buồn ngủ, mất tập trung. Trẻ con
không biết nói có thể bị miếng khẩu
trang chặn ngang mũi chết ngạt mà
không ai biết.
- Người có chứng hôi miệng, có bệnh
về nha chu sẽ phải hít vào hơi thở ô
nhiễm từ miệng của mình gây viêm
phổi.
26 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2652 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bản tin khoa học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ở các khớp và khó
di chuyển trong 2 tuần, bạn nên đi
khám bác sĩ để xác định loại THK.
Việc chẩn đoán và điều trị sớm sẽ giúp
giảm thiểu đáng kể cơn đau và nguy
cơ tàn phế. Hiện có 2 phương pháp
điều trị: dùng thuốc và không dùng
thuốc. Tùy theo thể trạng bệnh mà bác
sĩ sẽ có phương pháp áp dụng thích
hợp.
Những khớp dễ bị thoái hóa.
Làm gì để phòng ngừa THK?
Để phòng ngừa và hạn chế các cơn
đau do THK trong sinh hoạt cũng như
ăn uống, bạn nên lưu ý những điều sau
đây:
Giảm cân: hãy giảm cân nếu cân nặng
của bạn vượt chuẩn. Đây là yếu tố
quan trọng hàng đầu, bởi nó sẽ giúp
giảm áp lực cho khớp.
- 4 -
Tập luyện: tập luyện sẽ đem lại những
ích lợi nhất định đối với người mắc
chứng viêm khớp. Sẽ là sai lầm nếu
cho rằng, khi các cơn đau hoành hành
thì càng ít hoạt động càng tốt, bởi điều
đó sẽ chỉ làm cảm giác đau đớn kéo
dài thêm. Tuy nhiên, bạn nên lựa chọn
hình thức luyện tập phù hợp với sức
khỏe bản thân. Ví như các động tác
nhẹ nhàng có tác dụng thư giãn các
khớp, tránh tình trạng để cho các khớp
bị “ỳ”, ít hoạt động.
Ngoài ra, bạn cũng có thể nhờ đến sự
giúp đỡ từ phía các nhà vật lý trị liệu,
để thực hiện các bài tập “chống lại”
các cơn đau khớp. Hoặc áp dụng các
biện pháp châm cứu.
Chế độ ăn uống: trong chế độ ăn cũng
nên lưu ý những điểm sau:
- Hạn chế đồ uống có cồn. Bạn cần
tránh sử dụng những loại đồ uống như
rượu, bia và các đồ uống có chứa
nhiều cồn khác.
- Tránh ăn những thực phẩm có hàm
lượng purin và fructozo cao như: cá
trích, thịt gia súc, gan và thịt lợn muối.
- Cần tránh tất cả món ăn làm tăng mỡ
trong máu như: thịt mỡ, bơ, xúc xích,
dăm bông và ngay cả bánh kẹo cũng
nên hạn chế, vì sẽ làm gia tăng tình
trạng viêm tấy. Nên ăn bổ sung thêm
thực phẩm có chứa acid omega -3,
tăng cường vitamin D qua chế độ ăn
uống và uống viên nén sẽ có tác dụng
giảm đau lâu dài.
- Tăng cường các loại trái cây như: đu
đủ, dứa, chanh, bưởi vì các loại trái
này là nguồn cung ứng men kháng
viêm và sinh tố C, 2 hoạt chất có tác
dụng kháng viêm.
BS. Trọng Nghĩa
(
TỰ XOA BÓP PHÒNG CHỒNG
CẢM MẠO
Cảm mạo (bao gồm cả bệnh cúm) là
một bệnh chứng của y học cổ truyền
bao hàm các bệnh lý cấp tính thuộc
đường hô hấp do virut hoặc vi
khuẩn gây nên trong y học hiện đại,
đặc biệt là tình trạng viêm long
đường hô hấp trên do virut. Những
bệnh lý này thường khởi phát đột
ngột, bệnh tình nặng nhẹ khác nhau
nhưng đều có những triệu chứng
chính như sốt, đau đầu, đau mình
mẩy, ngạt mũi, chảy nước mũi, ho,
hắt hơi, rát họng, sợ lạnh hoặc sợ
gió ở các mức độ khác nhau...
Trong y học cổ truyền, cảm mạo
thường được chia làm hai thể: cảm
mạo phong hàn và cảm mạo phong
nhiệt. Trên thực tế lâm sàng, tùy từng
thể bệnh khác nhau mà các thầy thuốc
lựa chọn những phương pháp điều trị
không giống nhau. Tuy nhiên, những
biện pháp dân gian như cạo gió, đánh
gió, sử dụng nồi xông, ăn cháo giải
cảm, xoa bóp, bấm huyệt... vẫn có một
giá trị khá quan trọng và nếu được kết
hợp với các biện pháp khác của cả
- 5 -
Đông y và Tây y thì hiệu quả trị liệu
chắc chắn sẽ nhanh chóng và chắc
chắn hơn nhiều. Dưới đây xin giới
thiệu một quy trình tự xoa bóp giải
cảm để độc giả có thể tham khảo và
vận dụng khi cần thiết.
Chọn tư thế nằm trên giường hoặc
ngồi trên ghế tựa nhưng tốt nhất là tư
thế nửa nằm nửa ngồi, thả lỏng cơ thể,
thở nhẹ đều và sâu, tư tưởng tập trung
vào các huyệt vị được xoa bóp.
Dùng ngón giữa của cả hai bàn tay đặt
chụm giữa trán rồi miết tỏa ra hai bên
thái dương, làm sát lông mày trước rồi
chuyển dần lên cho đến chân tóc trước
trán rồi ngược lại, làm 10 lần như vậy.
Tiếp đó, dùng ngón trỏ và ngón cái véo
từ đầu lông mày tới đuôi lông mày mỗi
bên 5 lần.
Day ấn huyệt thái dương: dùng ngón
tay giữa day ấn đồng thời hai huyệt thái
dương từ nhẹ đến nặng trong 2 phút
sao cho đạt cảm giác căng tức là được.
Vị trí huyệt thái dương: ở đuôi mắt đo
ra sau 1 thốn.
Day ấn huyệt nghinh hương: dùng
ngón tay giữa hoặc ngón tay trỏ day ấn
đồng thời hai huyệt nghinh hương
trong 1 phút, sao cho đạt cảm giác
căng tức cả hai cánh mũi và gò má là
được. Vị trí huyệt nghinh hương: từ
chân cánh mũi ngang ra, huyệt ở trên
rãnh mũi mép.
Xát gáy và day ấn huyệt phong trì:
dùng các ngón tay của cả hai bàn tay
đan lại với nhau ôm sau gáy rồi kéo
qua kéo lại 10 lần. Tiếp đó, dùng hai
ngón tay cái day ấn đồng thời cả hai
huyệt phong trì trong 1 phút với một
lực tương đối mạnh, sao cho đạt cảm
giác căng tức cả vùng gáy và nửa đầu
sau là được. Vị trí huyệt phong trì: ở
chỗ lõm dưới xương chẩm, bên ngoài
khối cơ nổi sau cổ, khi ấn có cảm giác
tức nặng, mỗi bên một huyệt.
Day ấn huyệt kiên tỉnh: dùng ngón tay
trỏ hoặc ngón tay giữa day ấn huyệt
kiên tỉnh trong 1 phút, sao cho đạt cảm
giác tức nặng cả hai vai và lan lên cổ là
được. Vị trí huyệt kiên tỉnh: cúi cổ để
xác định hai đốt xương gồ cao nhất ở
cổ (C7 và D1), huyệt nằm ở điểm giữa
đường thẳng nối khe của hai đốt xương
này với mỏm cùng vai.
Day ấn huyệt khúc trì: dùng ngón tay
trỏ hoặc ngón tay giữa day ấn huyệt
khúc trì với một lực tương đối mạnh
trong 1 phút, sao cho đạt cảm giác
căng tức lan xuống bàn tay là được. Vị
trí huyệt khúc trì: gập cẳng tay vào
Day huyệt phong trì.
- 6 -
cánh tay, bàn tay để phía trên ngực
cho nổi rõ nếp gấp khuỷu, đánh dấu
đầu ngoài nếp gấp khuỷu để xác định
vị trí huyệt rồi đặt tay lại cho cẳng tay
vuông góc với cánh tay để day bấm.
Day ấn huyệt hợp cốc: dùng ngón tay
cái hoặc ngón tay trỏ day ấn huyệt hợp
cốc từng bên, mỗi bên 1 phút sao cho
đạt cảm giác căng tức lan sang ngón
tay út là được. Vị trí huyệt hợp cốc: ở
chỗ lõm giữa hai xương bàn tay thứ
nhất và thứ hai (ngón cái và ngón trỏ),
dùng ngón tay cái ấn men theo bờ
xương bàn tay thứ hai tìm điểm khi ấn
có cảm giác đau tức nhất và lan sang
ngón tay út thì đó là vị trí của huyệt.
Cũng có thể xác định bằng cách: xòe
rộng ngón tay cái và ngón tay trỏ, lấy
nếp gấp giữa đốt 1 và đốt 2 của ngón
tay cái bên kia để vào hố khẩu tay này,
đặt áp đầu ngón tay cái lên mu bàn
tay, giữa 2 xương bàn tay 1 và 2, đầu
ngón cái ở đâu chỗ đó là huyệt.
Quy trình trên có thể làm từ 1 - 2 lần
trong ngày, cường độ day bấm phải
tương đối mạnh, tiến hành càng sớm
thì hiệu quả càng cao. Sau khi làm thủ
thuật, cơ thể sẽ cảm thấy nhẹ nhõm và
dễ chịu, nếu có mồ hôi thì dùng khăn
khô lau sạch, ăn cháo hành, tía tô nóng
có đập 1 quả trứng gà rồi nằm nghỉ nơi
kín gió là được.
ThS. Hoàng Khánh Toàn
(
TRỊ CHỨNG KHÓ NGỦ
BẰNG HOA HOÈ
Hoa hoè màu trắng hay vằn lục nhạt,
mọc thành chùm ở đầu cành. Mùa hoa
vào tháng 5 đến tháng 8. Thu hoạch
hoa hoè lúc còn nụ, phơi hay sấy khô;
dùng sống hay sao hơi vàng để pha
nước uống, hoặc cho vào nồi đất đun
to lửa, sao cháy tồn tính (80%) để cầm
máu. Theo Đông y, hoa hoè vị đắng,
tính hơi lạnh, có công dụng thanh
nhiệt, lương huyết và chỉ huyết,
thường được dùng để chứa các chứng
bệnh như tràng phong tiện huyết (đại
tiện ra máu), trĩ huyết (trĩ chảy máu),
niệu huyết (tiểu tiện ra máu), huyết
lâm (đái ra máu, bụng dưới trướng
đau), băng lậu (băng huyết, băng kinh,
rong huyết, rong kinh), nục huyết
(chảy máu mũi hoặc chảy máu ở các
khiếu như nhãn nục là chảy máu ở
mắt, nhĩ nục là chảy máu ở tai...), xích
bạch lỵ (kiết lỵ phân ra màu trắng đỏ
xen lẫn nhau), trị mụn nhọt, viêm
loét...
Theo nghiên cứu Dược học cho thấy:
Hoa hoè có các tác dụng nâng cao sức
Day huyệt hợp cốc.
- 7 -
bền thành mạch, cầm máu; kháng
khuẩn và chống viêm, chống co thắt
cơ trơn ở đường ruột và phế quản;
hưng phấn nhẹ và tăng cường sức co
bóp cơ tim, hạ huyết áp, hạ mỡ máu và
làm chậm quá trình vữa xơ động
mạch; lợi niệu, chống phóng xạ, bình
suyễn và chống viêm loét.
Đơn thuốc có sử dụng hoa hoè:
Trị vảy nến: Hoa hòe sao vàng tán bột
mịn, luyện mật làm hoàn mỗi lần uống
3g, ngày 2 lần, dùng nước sôi để nguội
uống sau bữa cơm.
Chữa viêm loét: Hoa hoè 15g, kim
ngân hoa 15g, sắc với 2 bát rượu uống
cho ra mồ hôi. Với tổn thương viêm
loét về mùa hè có thể dùng hoa hoè
60g sắc đặc rồi dùng bông thấm dịch
thuốc bôi lên nơi bị nhiều lần trong
ngày.
Trị mụn nhọt mùa hè: Dùng hoa hòe
khô 30 - 60g cho nước 1500ml sắc lấy
nước, lấy bông thấm nước rửa tại chỗ,
nước có thể hâm nóng mỗi ngày rửa 2
- 3 lần, bã thuốc đắp vào chỗ đau.
Chữa tăng huyết áp: Hoa hoè 25g, tang
ký sinh 25g, hạ khô thảo 20g, cúc hoa
20g, thảo quyết minh 20g, xuyên
khung 15g, địa long 15g, sắc uống
ngày một thang, ngày uống 3 lần. Nếu
mất ngủ gia thêm toan táo nhân sao
15g, dạ giao đằng 25g; đau ngực gia
đan sâm 20g, qua lâu nhân 25g; có cơn
đau thắt ngực gia huyền hồ sách 12g,
phật thủ 20g, bột tam thất 7,5g.
Đại tiện ra máu: Hoa hoè, trắc bá diệp,
kinh giới và chỉ xác, mỗi vị 45g, sấy
khô, tán bột, mỗi lần uống 6g với nước
cơm. Hoặc: Hoa hoè 60g, địa du 45g,
thương truật 45g, cam thảo 30g, sao
thơm sấy khô, tán bột uống mỗi ngày 2
lần, mỗi lần 6g.
Chữa băng huyết, khí hư: Hoa hoè lâu
năm 30g, bách thảo sương 15g, tán bột,
uống mỗi lần 9-12g với rượu ấm để
chữa băng huyết; hoa hoè sao, mẫu lệ
nung, mỗi vị 30g, tán bột, uống mỗi lần
9g với rượu ấm để chữa bạch đới (khí
hư máu trắng).
Trị bệnh trĩ: Hoa hòe 12g, trắc bá than
12g, kinh giới 8g, chỉ xác 12g tán bột
mịn uống với nước sôi nguội hoặc làm
thang uống.
Chữa khó ngủ: Hoè hoa, hạt muỗng
mỗi vị 40g, sấy khô, tán bột, mỗi lần
uống 5g, ngày dùng 8g, uống làm 2
lần.
Bác sĩ Minh Hằng
(
VIÊM TUỴ CẤP
CÓ THỂ GÂY TỬ VONG
Viêm tụy cấp là một bệnh lý cấp
tính của tuyến tụy, có thể thay đổi
từ viêm tụy phù nề cho đến viêm tụy
xuất huyết và hoại tử. Tần suất xuất
hiện bệnh thay đổi tùy theo từng
nước và phụ thuộc vào các yếu tố
nguyên nhân như rượu, sỏi, do
thuốc... Ở Việt Nam thường do sỏi
hoặc do giun đũa chui vào ống tụy,
- 8 -
tuy nhiên trong những năm gần đây
tỷ lệ viêm tụy cấp do rượu đang
tăng lên rõ rệt.
Nguyên nhân gây bệnh
Có nhiều nguyên nhân trong bệnh sinh
viêm tụy cấp, nhưng cơ chế chủ yếu
của viêm tụy cấp đến nay vẫn chưa
được hoàn toàn biết rõ. Trong đó
nguyên nhân đầu tiên là do các yếu tố
tắc nghẽn đường dẫn mật tụy như do
sỏi, giun, u, do chèn ép từ ngoài đã làm
viêm tụy cấp hoặc do kích thích tiết
quá nhiều dịch tụy như ăn quá nhiều,
nhất là sau một thời gian nhịn đói, sự
tắc nghẽn này thường kèm theo sự trào
ngược dịch ruột và dịch tụy đã được
hoạt hóa khi đến tá tràng có thể kèm
theo dịch mật là những yếu tố gây hoạt
hóa men tụy.
Nguyên nhân thứ hai là do rượu, rượu
có thể gây viêm tụy cấp nhưng cũng
có thể gây viêm tụy mạn.
Sau phẫu thuật, nhất là sau phẫu thuật
bụng.
Sau chấn thương vùng bụng.
Sau nội soi mật tụy ngược dòng.
Ngoài ra còn có một số nguyên nhân
khác như nhiễm khuẩn (sau quai bị,
viêm gan virut), do dùng thuốc (thuốc
lợi tiểu thiazid, furosemid, thuốc ngừa
thai...).
Biểu hiện của bệnh
Khởi phát cấp tính, đột ngột với cơn
đau bụng cấp - triệu chứng chính
thường gặp. Đau có thể thay đổi từ
nhẹ đến nặng mà bệnh nhân không
chịu nổi, đau thường xuyên và có cơn
trội hẳn lên. Đau ở vùng thượng vị và
ở vùng quanh rốn hoặc hạ sườn trái,
tương ứng vùng tụy, đau lan lên ngực
trái hoặc ra sau lưng, đau tăng khi nằm
ngửa, giảm khi cúi gập mình ra phía
trước. Đau có thể làm bệnh nhân vật
vã bất an, toát mồ hôi hoặc choáng
ngất. Với biểu hiện đau này gần giống
với đau bụng cấp trong bệnh lý dạ dày
- tá tràng, nhất là xuất hiện sau khi
uống rượu bia nhiều sẽ làm chúng ta
chủ quan không đi khám bác sĩ ngay,
nhiều trường hợp đã để lại những hậu
quả nghiêm trọng. 70 - 80% các
trường hợp có nôn.
Toàn thân có hội chứng nhiễm khuẩn,
với các biểu hiện như sốt, đau đầu,
môi khô, lưỡi bẩn; nhất là trong
trường hợp do giun và sỏi có thể xảy
ra ngày đầu hoặc ngày thứ hai, còn
trong viêm tụy cấp do rượu, nhiễm
khuẩn thường đến muộn sau 5 - 7
ngày do bội nhiễm.
Ngoài ra nếu trong trường hợp có
viêm tụy cấp hoại tử thì có thêm các
biểu hiện khác như mạch nhanh nhỏ,
huyết áp hạ, đầu chi lạnh, tím tái...
Các biến chứng có thể xảy ra
Thể viêm tụy cấp phù nề: điều trị tốt,
kịp thời thì bệnh sẽ ổn sau 5 - 7 ngày,
không để lại di chứng.
Thể hoại tử từng phần: đáp ứng điều
trị chậm chạp hơn, nếu không kịp thời
- 9 -
có thể tử vong, diễn tiến có thể dẫn
đến áp - xe tụy hoặc nang giả tụy.
Thể xuất huyết: tiên lượng nặng nề, tỷ
lệ tử vong cao.
Ngoài ra có thể gây các biến chứng
nặng nề trên các cơ quan như gan,
thận, tim mạch... Tuy nhiên các biến
chứng này chủ yếu gặp ở các thể hoại
tử, xuất huyết. Cụ thể:
- Biến chứng ở phổi: tràn dịch màng phổi
nhất là đáy phổi trái, xẹp phổi hoặc viêm
đáy phổi trái. Biến chứng nặng nhất về hô
hấp là hội chứng suy hô hấp cấp ở người
lớn.
- Biến chứng trên hệ tim mạch: giảm
huyết áp, hoặc trụy tim mạch là do
giảm thể tích tuần hoàn hoặc do sốc mà
nguyên nhân là do phối hợp nhiều yếu
tố, nhiễm khuẩn, nhiễm độc, xuất huyết
và thoát dịch.
Có thể gây hội chứng đông máu rải rác
nội mạch, như trong trường hợp viêm
ruột xuất huyết hoại tử.
- Biến chứng trên hệ tiêu hóa: đó là
biểu hiện của viêm loét dạ dày - tá
tràng cấp thường biểu hiện dưới dạng
xuất huyết và được coi như là một
biến chứng stress do đau và nhiễm
khuẩn, nhiễm độc.
- Trên thận: thiểu niệu hoặc vô niệu do
suy thận chức năng vì giảm thể tích
tuần hoàn, kèm theo urê máu cao, đây
là một yếu tố tiên lượng nặng.
Điều trị và dự phòng
Phần lớn viêm tụy cấp là thể phù (85-
90%), điều trị chủ yếu bằng phương
pháp nội khoa, bệnh sẽ thoái triển sau
5-7 ngày. Các biện pháp thông thường
là: hút dịch vị, nuôi dưỡng bằng
đường tĩnh mạch khi các triệu chứng
đau giảm nhiều mới bắt đầu cho ăn
dần, bắt đầu là nước đường, đến nước
cháo đường, rồi cháo để giảm sự tiết
dịch tụy; bù nước và điện giải để đảm
bảo thăng bằng kiềm toan, tùy theo
điều kiện và nguyên nhân mà bác sĩ sẽ
chỉ định cho dùng các loại thuốc giảm
tiết, kháng sinh cho phù hợp.
Ở bệnh nhân có tiền sử sỏi hoặc giun
chui đường mật, hoặc sau bữa ăn thịnh
soạn có sử dụng nhiều rượu, mà xuất
hiện đau bụng cấp, cần đến ngay cơ sở
y tế nơi gần nhất để khám và điều trị
hợp lý, kịp thời tránh các biến chứng
đáng tiếc có thể xảy ra. Cách tốt nhất
với mỗi chúng ta cần giữ gìn vệ sinh
trong ăn uống, định kỳ 6 tháng đến
một năm tẩy giun một lần để tránh
mắc ký sinh trùng đường ruột; ăn uống
hợp lý, tránh việc sử dụng bia, rượu
quá nhiều để đảm bảo cho cơ thể luôn
luôn được khỏe mạnh.
BS. Nguyễn Bạch Đằng
(
BỆNH UNG THƯ
LIÊN QUAN ĐẾN ĂN UỐNG?
Hai nhà dịch tễ học nổi tiếng người
Anh - Doll và Peto trong danh tác
“nguyên nhân của ung thư (UT)” xuất
- 10 -
bản vào năm 1982 cho thấy: “Trong
những ca tử vong do UT, có khoảng
35% liên quan đến bữa ăn và dinh
dưỡng”. Nói khác đi, nếu thực hành dự
phòng bằng bữa ăn đạt hiệu quả, có thể
giúp bệnh UT giảm đi 1/3.
UT tuyến vú
Là khối u ác tính thường gặp nhất của
nữ giới, vài năm gần đây được gọi là
“sát thủ” số một của phụ nữ thành thị,
bên cạnh độ tuổi phát bệnh có khuynh
hướng trẻ hóa. Hàng năm cả thế giới có
khoảng 1,2 triệu phụ nữ phát sinh UT
tuyến vú, có 500 ngàn phụ nữ tử vong
do UT tuyến vú.
Cho dù cơ chế phát bệnh UT tuyến vú
rất phức tạp, nhưng nếp sống và kết
cấu ăn uống vẫn là một trong những
nguyên nhân quan trọng nhất gây ra
bệnh. Nghiên cứu y học chứng minh,
giới nữ thời gian dài ăn uống nhiều
chất béo và giàu đạm dễ mắc UT
tuyến vú. Thiếu nữ dinh dưỡng quá
thừa, vượt cân và béo phì có thể làm
cho kinh nguyệt lần đầu đến sớm, đều
có thể tăng nguy cơ mắc UT tuyến vú
sau khi trưởng thành.
Phòng ngừa:
- Ít ăn thức ăn giàu chất béo, nhất là
chất béo động vật, không dùng thức ăn
chiên mỡ, thức ăn ngâm, ủ, xông khói.
- Khống chế chất đạm thích đáng.
- Ăn nhiều rau cải, trái cây tươi, lương
thực chứa các vitamin, chất khoáng và
xơ.
- Khống chế cân nặng nghiêm ngặt.
UT thực quản
Nguyên nhân gây UT thực quản cho
đến nay vẫn chưa hoàn toàn làm rõ,
nhưng có liên quan đến những nguyên
nhân ăn uống dưới đây:
Nghiên cứu khám phá tầng thượng bì
thực quản của người hút thuốc phì đại,
tế bào biểu hiện tính không điển hình,
thực trạng này tăng nặng tùy theo
lượng thuốc hút và sự kéo dài của thời
gian.
Bản thân rượu không mang tính gây
UT, nhưng có tác dụng “thúc đẩy”.
Ethanol có thể xem là chất dung dịch
dẫn đến UT, thúc đẩy chất UT đi vào
thực quản. Tổn thương niêm mạc thực
quản là điều kiện chế tác xảy ra UT
thực quản.
Hợp chất nitrosamine là một chất gây
UT mạnh, có hơn 10 loại nitrosamine
có thể gây UT thực quản ở động vật.
Nghiên cứu cho thấy, thức ăn thô, ăn quá
nhanh, ăn nóng thời gian dài… cũng là
những nguyên nhân thúc đẩy UT thực
quản.
Phòng ngừa:
- Bỏ thuốc lá, ít uống rượu.
- Không ăn hay ít ăn thực phẩm ngâm,
ủ, xông khói, quay, nướng…
- Không ăn thức ăn thối rữa biến chất.
- Không ăn thức ăn quá nóng, nhanh,
thô.
- Chú ý bổ sung đủ vitamin và chất
khoáng.
UT dạ dày
- 11 -
UT dạ dày là khối u ác tính thường gặp,
đứng thứ tư về khối u ác tính ở các nước
phát triển, đứng thứ hai ở các nước đang
phát triển. Theo nghiên cứu dịch tễ học
nước ngoài cho biết, UT dạ dày phát
sinh có liên quan đến những nguyên
nhân dưới đây:
Thức ăn trong quá trình xông khói,
quay, nướng sẽ sản sinh nhiều chất
polycyclic aromatic hydrocarbons,
trong đó có chứa benzpyrene là chất
gây UT mạnh, nó có thể thấm đến toàn
bộ thức ăn. Trong quá trình chế biến,
chất đạm dưới nhiệt độ cao nhất là khi
nướng khét sẽ phân giải sản sinh thành
phần gây UT.
Hàm lượng nitrate, nitrite trong nước
uống và lương thực hơi cao; Nitrate
trong dạ dày có thể kết hợp với amin,
hình thành nitrosamine, đây là chất gây
UT rất mạnh.
Khám phá lương thực và thực phẩm
của vùng phát bệnh UT dạ dày cao bị
ô nhiễm nấm mốc nghiêm trọng, thậm
chí trong dịch vị của người bệnh cũng
kiểm thấy được nấm mốc và độc tố.
Nghiện rượu gây tổn thương niêm mạc
dạ dày, gây viêm dạ dày mạn tính.
Ethanol thúc đẩy hấp thu chất gây UT,
tổn hại và làm suy giảm chức năng
giải độc của gan.
Thích ăn nóng, ăn nhanh, ăn không
đúng giờ cũng là nguyên nhân gây UT
dạ dày.
Phòng ngừa:
- Ít uống rượu hay bỏ rượu.
- Không ăn hay ít ăn thực phẩm xông
khói, quay, nướng, nhiều muối…
- Không ăn thực phẩm thối rữa biến
chất.
- Không ăn nóng, quá nhanh, thô.
- Ăn cơm đúng giờ đúng liều.
- Chú ý uống nước vệ sinh.
- Chú ý bổ sung đủ vitamin và chất
khoáng.
- Điều trị thiếu máu ác tính.
UT gan
Theo thống kê, hàng năm cả thế giới
có khoảng 315.000 người mắc UT gan
nguyên phát, với vùng Đông-Nam
châu Phi là cao nhất, kế đến là Đông-
am Á và Trung Quốc, hàng năm Trung
Quốc có tỷ lệ tử vong do UT gan là
20.370/100.000 ca bệnh UT.
Nguyên nhân gây UT gan đến nay
chưa xác định, thông qua điều tra dịch
tễ học và nghiên cứu trong phòng thí
nghiệm khám phá ra một vài nguyên
nhân ăn uống có liên quan đến UT gan
như sau:
Độc tố aflatoxin quan hệ mật thiết với
UT gan. Nghiên cứu khám phá, độc tố
aflatoxin có thể bộc phát UT gan.
Ngoài ra, aflatoxin với viêm gan,
nghiện rượu có tác dụng “đồng hành”
gây UT, nghiên cứu dịch tễ học cho
thấy, tiếp xúc với aflatoxin cùng lúc
nhiễm phải virus viêm gan siêu vi B là
nhân tố nguy hiểm gây bệnh UT gan.
- 12 -
Tùy vào mức độ nước uống bị ô nhiễm
nặng, tỷ lệ phát bệnh UT gan cũng
tương ứng nâng cao. Chuyên gia cho
rằng, điều này có liên quan đến một số
hợp chất hữu cơ nào đó có trong nước.
Vài năm gần đây khám phá, độc tính
trong nước của tảo và tảo xanh có tác
dụng thúc đẩy UT.
UT gan cũng liên quan đến nghiện
rượu, thiếu nguyên tố vi lượng.
Phòng ngừa:
- Ít uống rượu hay bỏ rượu.
- Không ăn hay ít ăn thực phẩm ngâm,
ủ, hun khói, quay, nướng, nhiều
muối…
- Không ăn thực phẩm thối rữa biến
chất, nhất là đậu phộng, hạt bắp bị
mốc…
- Chú ý uống nước vệ sinh.
- Chú ý bổ sung vừa đủ vitamin và
nguyên tố vi lượng.
UT tuyến tụy
UT tuyến tụy là một khối u ác tính chủ
yếu đến từ tế bào ống tụy, vài năm gần
đây tỷ lệ phát bệnh tăng lên thấy rõ, do
bệnh này khó chẩn đoán thời kỳ đầu,
mức độ ác tính cao, phát triển nhanh
chóng, tỷ suất sống còn tự nhiên
thường không vượt quá nửa năm.
Nguyên nhân UT tuyến tụy, trước mắt
vẫn không khẳng định được, những
nguyên nhân liên quan đến ăn uống
gồm: Hút thuốc, uống rượu lâu dài là
nguyên nhân quan trọng gây UT tuyến
tụy.
Ăn uống hấp thu quá nhiều chất béo
và đạm động vật.
Phòng ngừa:
- Bỏ rượu và thuốc lá.
- Khống chế lượng hấp thu chất béo và
đạm từ động vật.
- Không ăn hay ít ăn thức ăn mang
tính kích thích, thức ăn rác.
- Ăn nhiều thực phẩm giàu xơ như rau
cải, trái cây, lương thực.
- Tránh nhiều bữa ăn no.
- Bổ sung thích đáng vitamin và
nguyên tố vi lượng.
Lương y Bàng Cầm
(
CÁ MỰC – MÓN ĂN NGON,
VỊ THUỐC QUÝ
Cá mực còn gọi là mực nang, mực mai,
mực ván, ô tặc ngư, mặc ngư, thuộc họ
mực nang (Sepiidae), tên khoa học là
Sepia spp. Cá mực là loại động vật
không xương sống, cơ thể chia làm 2
phần: đầu và thân. Phần đầu có 8 – 10
tay với những hàng giác bám, tay xúc
giác dài hơn thân. Miệng ở dưới bụng.
Phần thân mềm chiếm 70% trọng
lượng, có hình bầu dục, mặt lưng có
nhiều vân gợn sóng. Mai mực là lớp
vỏ trong bằng đá vôi xốp bọc một lớp
sừng mỏng. Mực nang có nhiều ở
vùng biển nhiệt đới, chúng sống ở tầng
nước sâu có độ mặn cao, thành từng
đàn ở dưới đáy. Mực nang ăn cá, giun
và các động vật nhỏ hơn. Mùa sinh đẻ
vào tháng 4 – 9. Bộ phận dùng làm
- 13 -
thuốc chủ yếu là mai mực với tên gọi
là ô tặc cốt hay hải phiêu tiêu. Mùa
khai thác vào tháng 6 – 8. Mực đem về
mổ lấy thịt, giữ lại mai, rửa sạch muối
bám ở ngoài, phơi khô. Khi dùng cạo
sạch vỏ cứng ở ngoài mai, cắt thành
miếng nhỏ hoặc tán bột, rây mịn.
Trong mai mực có các muối canxi
dưới dạng carbonat, phosphat, sulfat,
các chất hữu cơ và chất keo. Mai mực
có vị mặn, chát, mùi hơi tanh, tính ấm,
không độc, có tác dụng chỉ huyết, làm
se.
Thịt cá mực cũng được dùng làm thuốc
nhưng không phổ biến. Trong thịt mực
có protid, lipid, Ca, P, Fe, vitamin B1,
B2, B6, PP. Thịt cá mực có vị ngọt,
chua, tính bình, có tác dụng bổ trung,
ích khí, điều kinh.
Thuốc chữa bệnh từ mai mực
Chữa ho ra máu, phụ nữ bị băng huyết,
trẻ em chậm lớn: Ngày uống 4 – 8g
bột mai mực, có thể đến 12g. Dùng
liền 7 – 10 ngày, nghỉ một tuần, sau lại
tiếp tục nếu cần thiết.
Đại tiện ra máu: Mai mực nướng vàng,
tán bột, mỗi lần uống 4 – 8g với nước
sắc cây mộc tặc (Nam dược thần hiệu).
Đau mắt hột: Mai mực vót nhọn ngâm
vào dung dịch rễ hoàng liên với tỷ lệ 1
– 5%, rồi đánh mắt.
Chữa bỏng: Mai mực đốt thành than,
rây bột mịn, trộn với dầu vừng hoặc dầu
dừa, bôi ngày 2 lần. 1 tuần sau vết loét
sẽ se lại.
- Chữa lở loét ở âm hộ: Mai mực đốt
thành than trộn với lòng trắng trứng gà,
bôi hằng ngày.
Chữa cam tẩu mã, loét mũi, viêm tai
chảy nước: Mai mực 12g, hoàng liên
12g, thanh đại 12g, hồng đơn 12g, ngũ
bội tử 12g, tế tân 12g, nhân trung bạch
12g, phèn phi 8g, mai hoa 4g. Sao
riêng từng vị (trừ hồng đơn, mai hoa,
thanh đại) rồi tán nhỏ mịn, trộn đều.
Khi dùng rắc vào vết thương, vết loét.
Thở khò khè, thở gấp, đờm nhiều: Mai
mực sấy khô, mỗi lần uống 15g với
một ít đường đỏ.
Chữa đau loét dạ dày, tá tràng, ợ chua,
đại tiện táo:
+ Mai mực 20g, cam thảo 12g, thổ bối
mẫu 6g. Tất cả tán nhỏ, rây bột mịn.
Ngày uống 2 lần, mỗi lần 6g vào trước
bữa ăn 30 phút.
+ Mai mực 60g, mẫu lệ nung 30g, gạo
tẻ 30g (sao vàng), hoàng bá 20g (sao
vàng), màng mề gà 20g (sao vàng),
cam thảo 20g, hàn the 10g (phi). Tất
cả tán nhỏ, rây bột mịn. Ngày uống 2
lần, người lớn mỗi lần 8g, trẻ em 5 –
10 tuổi mỗi lần 2g, trẻ em trên 10 tuổi
mỗi lần 4g.
+ Mai mực 120g, cam thảo 200g, màng
mề gà 20g, hương phụ 20g, chế với
giấm và nước tiểu, sao vàng, lá cà độc
dược khô 12g, hàn the 10g (phi), phèn
chua 10g (phi), vỏ quýt 8g. Tất cả tán
bột, rây mịn. Ngày uống 2 – 3 lần giữa
hai bữa ăn. Người lớn mỗi lần 4g chiêu
với nước ấm. Lưu ý: phụ nữ và trẻ nhỏ
không được dùng.
- 14 -
Thuốc từ thịt cá mực
Chữa tắc kinh: Thịt cá mực tươi 1 con,
nhân hạt đào 15g, nấu chín, ăn hết một
lần.
Bổ máu, tăng cường thể lực cho phụ nữ
sau sinh: Thịt cá mực tươi 250g, rửa
sạch, thái nhỏ, xào chín với ít muối và 1
– 2 thìa nước gừng, ăn trong bữa cơm
hằng ngày.
Thanh nhiệt, giải độc, giảm mỡ, hạ
huyết áp: Thịt cá mực tươi 50 – 100g
thái miếng, luộc chín, để ráo, cho vào
bát cùng với gừng 5g, hành 10g, giấm
10g, dầu vừng đen 10g, muối ăn 5g.
Tất cả trộn đều, ăn trong ngày.
BS. Nguyễn Văn Trường
(
RƯỢU TỎI GIÚP NGĂN NGỪA BỆNH
TĂNG HUYẾT ÁP VÀ UNG THƯ
Rượu tỏi từng được người Trung Quốc
sử dụng như một loại thuốc dân gian
nhằm chống lại chứng viêm phổi và
các chứng bệnh về đường ruột. Tuy
nhiên, trong một nghiên cứu của các
nhà khoa học Nga, ngoài tác dụng nêu
trên, rượu tỏi còn có thể được sử dụng
như thuốc nhằm chữa trị các vết rắn
cắn, bệnh truyền nhiễm và bệnh dịch
trong đó có dịch cúm. Nhóm các nhà
khoa học Nga đã tìm thấy trong thành
phần của tỏi có chứa một hàm lượng
lớn chất allicin - một chất có tác dụng
kháng khuẩn cao cho cơ thể.
Bản thân tỏi cũng có chứa rất nhiều
các phân tử tự do, nhờ đó giúp bảo vệ
cơ thể khỏi sự viêm nhiễm. GS.
Mirelman - người đứng đầu nhóm
nghiên cứu cho biết: việc cho thêm
một lượng 10 - 15g tỏi vào chế độ ăn
hằng ngày đối với bệnh nhân tăng
huyết áp sẽ giúp giảm huyết áp. Ngoài
ra ở những bệnh nhân bị ung thư dạ
dày, uống 10 - 15 giọt rượu tỏi có thể
giúp hạn chế quá trình phát triển của
các khối u ác tính. Với người khỏe
mạnh, thì loại rượu này sẽ có tác dụng
phòng ngừa ung thư nhờ vào các thành
phần như selen, nguyên tố germani,
kẽm...
Nhiều nghiên cứu khác cũng cho thấy:
trong tỏi có chứa nhiều tinh dầu,
glycoside allicin, ngoài ra còn có các
vitamin B, C, carbonhydrat, kẽm,
canxi, clo, phospho, iod, các lysozym
và các nguyên tố vi lượng khác có tác
dụng rất tốt đối với việc tăng cường hệ
miễn dịch và bảo vệ cơ thể.
Lê Huy (Theo Pravda, 2009)
SIÊU ÂM SÀNG LỌC
UNG THƯ BUỒNG TRỨNG
Khi một khối u buồng trứng được phát
hiện, bác sĩ thường cho thử máu để
xem nồng độ protein CA-125 có cao
không để xác định khối u là lành tính
hay ác tính. Tuy nhiên, mới đây các
nhà nghiên cứu Bỉ đã khẳng định siêu
âm chẩn đoán chính xác hơn thử
nghiệm máu.
Công trình nghiên cứu nhắm đến việc
khảo sát hình thái trên hình ảnh siêu
âm để phân loại khối u buồng trứng.
Cuộc nghiên cứu được thực hiện trên
- 15 -
1.000 phụ nữ đã được phẫu thuật để
cắt bỏ khối u. Tất cả các bệnh nhân
này đều được khám siêu âm trước khi
phẫu thuật và hầu như đều được thử
máu. Các nhà nghiên cứu đã phân tích
các mẫu máu để định lượng CA-125
cũng như phân tích các kết quả siêu
âm. Sau đó họ đã so sánh kết quả giữa
2 bên.
Kết quả cho thấy siêu âm đã chẩn
đoán xác định được 93% trường hợp
khối u là lành tính hay ác tính. Trong
khi đó thử nghiệm CA-125 chỉ xác
định được 83% trường hợp các khối u.
Với kết quả này các nhà nghiên cứu
hy vọng cộng đồng y học sẽ khuyến
cáo việc sử dụng siêu âm rộng rãi hơn
nữa trong chẩn đoán sản phụ khoa.
(Theo DrKoop.com, 2009)
BS. Nguyễn Văn Thông
MỐI NGUY HẠI TỪ THUỶ NGÂN
Thủy ngân (TN) ký hiệu hóa học là Hg,
xuất xứ từ tiếng Hy Lạp: Hydrargyrum
(trong đó Hydros: nước và argyros: bạc).
Đó là một trong 3 kim loại (TN, chì,
cadmium) được coi là nguy hiểm nhất đối
với con người, đã thế nó còn là một chất
không có chức năng gì đối với cơ thể.
TN có mặt ở khắp nơi và mức độ gây
hại đang ngày một nghiêm trọng hơn
những gì các nhà khoa học từng đánh
giá về nó cách đây vài năm. ở dạng
nguyên chất, mức độc chỉ ở dạng
trung bình vì nó lưu chuyển nhanh,
khắp cơ thể khiến cho ít bộ phận nào
kịp có thời gian hấp thu nó. Nguy
hiểm là nó làm nhiễm bẩn không khí,
chuyển thành dạng methyl TN, bền
vững và bám dính trong quá trình
chuyển hóa một thời gian dài trong cơ
thể. Methyl TN là chất độc thần kinh
rất mạnh. Người bị nhiễm độc TN
thường có những triệu chứng lâm sàng
như:
- Thể nhẹ: nhức đầu, chóng mặt, mệt
mỏi, khó ngủ, tanh mùi kim loại ở
miệng, khó thở, đau thắt ngực. Khám
thấy: viêm lợi, mi mắt co giật liên tục,
tính tình cáu gắt, hưng phấn khác
thường.
- Thể vừa: Tổn thương viêm tủy sống
hay các dây thần kinh, nếu nặng sẽ bị
viêm não, viêm tủy sống, viêm dây
thần kinh, có khi liệt tứ chi. Trí nhớ bị
giảm sút, tập trung tư tưởng kém, lao
động suy yếu, ăn mất ngon, không ngủ
được. Cuối cùng dẫn tới hội chứng
bệnh não.
- Thể mạn: rối loạn thần kinh thực vật
và tim mạch. Chức năng chống độc
của gan giảm, hàm lượng TN trong
nước tiểu tăng: 0,04 - 0,10mg/l.
TN còn ảnh hưởng rõ rệt đến thai nhi:
mù, điếc, dị dạng, trí thông minh giảm
sút...
Những trường hợp ngộ độc thủy
ngân
Trong mỹ phẩm
Thời trung cổ, nhiều phụ nữ đã chết
một cách kỳ lạ mà không ai hiểu tại
sao. Ngày nay, khoa học, sau khi đã
phân tích kỹ và chính xác - đã kết luận
- 16 -
nạn nhân bị tử vong do đã sử dụng các
mỹ phẩm trong đó có chứa các chất
độc: TN, chì, asen... Việc phân tích
các mẫu xương còn lại của một số nữ
hoàng, công chúa, công tước được lưu
lại tại các hầm mộ từ thế kỷ 15 ở Nga
cho thấy mức độ tập trung TN và chì
cao gấp hàng trăm lần so với mức bình
thường. Một trong những nghi án lớn
nhất của lịch sử Nga là cái chết của Sa
hậu Anatassia Romanova (vợ Ivan bạo
chúa) qua đời khi mới ở tuổi 25, nổi
tiếng lạm dụng mỹ phẩm. Phân chất
trong bím tóc màu nâu của bà, thấy
muối thuỷ ngân có tỷ lệ cao (4,8mg/g).
Bà chết vào năm 1560, khi còn rất trẻ
và gây tai họa cho nhiều người vì Ivan
bạo chúa cho rằng có kẻ đã ám sát vợ
mình (!). Những cuộc khai quật hầm
mộ ở Ai Cập, thu được những túi nhỏ
mỹ phẩm trong mộ phần của nhiều
phụ nữ, phân tích thấy có chứa nhiều
TN, chì...
Trong các thuốc tráng dương, trường
sinh bất tử
Các vua chúa và các nhà quyền quý ưa
chuộng các loại tân dược được chế tạo
từ khoáng vật, thực vật... nhằm kéo dài
tuổi thọ, tăng cường khoái cảm, tráng
kiện, hoạt động tình dục không biết
mỏi mệt. Cái chết của Hán Thành tổ
Lưu Ngao (thế kỷ I trước CN) được
coi là ông vua đầu tiên trong lịch sử
Trung Hoa băng hà vì lạm dụng đan
dược, được chính sử ghi chép lại.
Nguyên liệu luyện đan thường có các
khoáng thạch: hùng hoàng, tiêu thạch,
vân mẫu, chu sa, thần sa... Trong các
thuốc này có chứa hàm lượng cao: TN,
chì, asen..., như chu sa chứa selenua
thủy ngân.
Trong động vật
Tiến hành thử nghiệm trên các loài
chim di trú ở miền Đông Bắc nước Mỹ,
các nhà nghiên cứu phát hiện mức
thủy ngân tiềm ẩn trong máu của hơn
175 loài từng được coi là "chim sạch".
TN còn tồn tại trong cơ thể gấu Bắc
cực, chồn nước, rái cá, báo. Các nhà
khoa học Hokkaido (Nhật Bản) đã
phát hiện trên 26 mẫu gan cá voi,
lượng TN trung bình cao hơn 900 lần
lượng cho phép (0,4mcg/g).
Bác sĩ Jane Hightower (California -
Mỹ) đã đưa ra nhận xét: Qua xét
nghiệm máu của 123 người, có triệu
chứng tóc rụng, mệt mỏi, nhức đầu,
mất trí nhớ, do thường ăn cá biển loại
to (cá mũi kiếm, cá ngừ), nhận thấy
90% có hàm lượng TN cao hơn mức
cho phép của Cơ quan bảo vệ môi
trường Mỹ (EPA), trong đó hơn 50%
cao gấp đôi, gấp 3 hoặc 4 lần. Ngừng
ăn các loại cá to này một thời gian dài
các triệu chứng khó chịu trên sẽ biến
mất.
Cơ quan quản lý thực phẩm và
thuốc của Mỹ (FDA) khuyến cáo: các
bà mẹ mang thai hay đang có dự định
mang thai, không nên ăn các loại cá:
mũi kiếm, ngừ, thu, mập... hoặc hạn
- 17 -
chế ăn cá (dưới 200g một tuần).
Khuyến cáo này đã được phổ biến tại
45 tiểu bang, các quầy bán cá phải có
bảng cảnh báo về TN có trong cá bán.
Trong một số hóa chất bảo quản
Ở Pakistan, năm 1971 có hơn 6.000
người chết vì thóc bảo quản bằng chất
có chứa oxyd TN. Đáng tiếc hơn là
sau sự kiện trên không được rút kinh
nghiệm, nên năm 1972 lại gây cho 300
người dân Irak chết vì lý do tương tự.
Trong nha khoa và một số dụng cụ y
khoa
Việc dùng Amalgam để trám răng đã
có từ 1833 do hai anh em người Pháp
tên là Crawcowz tìm ra: hợp chất độn
amalgam bằng bạc có chứa tới 50%
TN. Qua khảo sát thấy trong máu một
số nha sĩ có tỷ lệ TN cao hơn mức
bình thường, một số ít có biểu hiện rối
loạn thần kinh trung ương và ngoại
biên. Còn với người bệnh được trám
răng, có ý kiến cho rằng: các miếng
trám amalgam đã được nhốt kín trong
chất này nên an toàn nhưng nếu không
làm đúng quy trình kỹ thuật thì TN sẽ
rò rỉ, ngấm trực tiếp vào máu và gây
hại. Có ý kiến là các nha sĩ nên lưu ý
bệnh nhân sau trám amalgam nên nhai
kẹo cao su để có thể lấy đi phần nào
TN phóng thích từ răng trám. Một
nghiên cứu ở Đức năm 1996 thấy
nước bọt của 90% bệnh nhân trám
răng bằng loại amalgam trên có tỷ lệ
TN cao gấp 5 lần tiêu chuẩn cho phép
TN có trong nước uống của châu Âu.
ở Pháp đã có một số nha sĩ bị bệnh
nhân kiện vì họ có triệu chứng nhiễm
độc TN. ở một số nước Đức, Canada,
Úc, Thụy Điển... đã cấm dùng loại
amalgam trên và thay bằng các loại
nhựa tổng hợp. Sự thay thế này còn
gây nhiều tranh cãi vì dùng loại nhựa
này đắt gấp 5 lần và phải thay trong
vòng 2-3 năm nhất là tính vô hại của
chúng chưa được chứng minh.
TN có trong một số dụng cụ y khoa:
Huyết áp kế, nhiệt kế. Riêng nhiệt kế
do thân làm bằng thủy tinh nên dễ vỡ,
làm TN có trong đó thoát ra ngoài
thành những hạt tròn nhỏ lăn tròn trên
mặt đất. Nếu không sớm thu hồi, xử lý
thì chúng sẽ bốc hơi vào không khí,
xâm nhập vào cơ thể người bằng con
đường hô hấp, thấm qua da, gây độc.
Kiểm soát nguồn tạo TN
Thủ phạm gây ô nhiễm TN còn xuất
xứ từ các xưởng hóa chất, từ các bãi
khai thác vàng, từ các nhà máy điện
chạy bằng than đá, từ các vùng rừng
đầm lầy, các lò thiêu, các đồ phế thải ở
các bãi rác (pin, bình điện, đèn huỳnh
quang, hộp đựng sơn...).
Mỹ là quốc gia đứng đầu thế giới gây
ra nạn ô nhiễm TN. Với 440 nhà máy
chạy điện bằng than đá đã tạo ra
khoảng 48 tấn TN/năm, các lò thiêu và
ngành công nghiệp khai thác đã phun
vào bầu khí quyển khoảng 150 tấn
TN/năm. Thấy được vấn đề này, cuối
- 18 -
nhiệm kỳ của B. Clinton, chính phủ
nước này đã đưa ra kế hoạch cắt giảm
50% lượng TN thải ra từ các nhà máy
điện vào năm 2008. Nhiều chính
quyền ở các tiểu bang nước Mỹ cũng
đặt ra luật riêng nhằm kiểm soát ô
nhiễm của TN. Nhiều quốc gia châu
Âu, Canada, Australia và Nhật đã bắt
tay vào kiểm soát ô nhiễm TN và giảm
mức sử dụng kim loại này từ 5-10 năm
nay.
Hy vọng từ những động thái tích cực
trên, mối nguy hại của TN đối với con
người ngày càng giảm, tạo sự trong
lành cho môi trường sống của con
người và động, thực vật...
Phạm Hương
KHUYẾN CÁO MỚI TRONG CHẨN
ĐOÁN BỆNH VIÊM XƯƠNG KHỚP GỐI
BS. Weiya Zhang, Trường Đại học
Nottingham, Anh, trên cơ sở các bằng
chứng của các nghiên cứu từ năm
1950- 2008, với sự đồng thuận của 17
chuyên gia về viêm xương khớp từ 12
nước, đã trình bày các khuyến cáo mới
về chẩn đoán viêm xương khớp gối ở
EULAR 2009 (Hội nghị châu Âu hàng
năm về thấp khớp) gồm 3 khuyến cáo:
- Các yếu tố nguy cơ viêm xương
khớp gối gồm: giới nữ, độ tuổi, thừa
cân, chấn thương khớp, sai lệch khớp,
khớp lỏng lẻo, sử dụng khớp trong
nghề nghiệp và trong giải trí, tiền sử
gia đình, các nốt Heberden’s (quá phát
của xương) ở các khớp ngón xa của
ngón tay.
- Chẩn đoán lâm sàng gồm: 3 triệu
chứng: đau khi sử dụng khớp, cứng
khớp vào buổi sáng trong thời gian
ngắn, hạn chế chức năng và 3 dấu
hiệu: tiếng răng rắc, cử động hạn chế,
và xương to ra. Dựa vào 3 triệu chứng
và 3 dấu hiệu có thể nhận dạng chính
xác đến 99% các trường hợp viêm
xương khớp gối.
- Phim chụp khớp gối: chụp khi có
mang nặng, góc bán duỗi, nghiêng và
theo đường chân trời. Biểu hiện gồm:
các khoảng hẹp, các chồi xương và xơ
cứng xương dưới sụn. Chụp cộng
hưởng từ MRI, siêu âm và chụp nhấp
nháy đồ hiếm khi cần thiết. Đây là tiêu
chuẩn tham khảo vì một số bệnh nhân
có hình ảnh tổn thương trên phim chụp
X-quang có thể không có các triệu
chứng và một số bệnh nhân có triệu
chứng lại có thể không có bằng chứng
tổn thương trên phim chụp X-quang.
Các khuyến cáo có ứng dụng hữu ích
trên lâm sàng với các bác sĩ chẩn đoán
ban đầu vì tính an toàn, đơn giản và
chính xác. Tài liệu đầy đủ về 10
khuyến cáo sẽ được sớm công bố.
(Theo medscape)
BS. LÊ THỊ THANH HÀ
TĂNG CƯỜNG SỨC MIỄN DỊCH
ĐỂ PHÒNG CHỐNG CẢM CÚM
- 19 -
Phòng bệnh hơn chữa bệnh. Vận
động dều dặn phối hợp với chế độ ăn
có bổ sung một số thực dưỡng có tác
dụng giải độc và tăng cường hệ miễn
dịch sẽ giúp nâng cao sức đề kháng
để phòng chống dịch cúm.
Thông tin về đại dịch cúm A/H1N1
hiện nay đã cho biết một số trường
hợp dương tính với cúm H1N1 nhưng
không có triệu chứng gì rõ ràng.
Trong điều kiện hội nhập và giao lưu
phát triển như hiện nay, việc bảo đảm
cách ly, không tiếp xúc với nguồn
bệnh không phải lúc nào cũng dễ
dàng. Mặt khác, một số người nhiễm
bệnh mà hệ miễn dịch tốt “Người mắc
bệnh tự hồi phục, không cần chăm
sóc y tế đặc biệt cũng có thể tự
khỏi”i[i]. Nói chung, khi cơ thể khoẻ
mạnh, sức đề kháng tốt, nguy cơ
nhiễm bệnh sẽ ít hơn. Những yếu tố
làm cơ thể suy yếu bao gồm tuổi già,
hút thuốc, stress, ăn uống không đủ
chất dinh dưỡng, mệt mỏi, thiếu ngủ
hoặc làm việc quá lao lực. Ngược lại,
ngoài những nhóm chất căn bản, việc
bổ sung một số thức ăn có tác dụng
giải độc và tăng cường hệ miễn dịch
kèm theo chế độ vận động đều đặn sẽ
giúp nâng cao sức đề kháng để phòng
chống bệnh tật bao gồm các chứng
cảm cúm.
Vận động trung bình và đều đặn giúp
gia tăng sức kháng bệnh.
Nhiều nghiên cứuii[ii] cho thấy vận
động trung bình liên quan đến những
đáp ứng miễn dịch tích cực, sự gia
tăng tạm thời những đại thực bào, loại
tế bào chủ chốt có nhiệm vụ tấn công
những vi trùng, vi khuẩn gây bệnh.
Trong khi vận động, tế bào miễn dịch
di chuyển nhanh hơn và khả năng đối
kháng với vi trùng cũng tốt hơn. Sau
khi vận động, hệ miễn dịch thường trở
lại tình trạng bình thường trong vòng
vài giờ. Tuy nhiên, theo Giáo sư
David Nieman, trường Đại học
Appalachian, vận động đều đặn hàng
ngày hoặc gần như hàng ngày có tác
dụng tích luỹ dẫn đến gia tăng
những đáp ứng miễn dịch dài hạn.
Nghiên cứu của ông đã cho thấy
những người vận động trung bình và
đều đặn trên cơ sở 40 phút mỗi ngày
đã giảm được phân nửa số ngày nghỉ
bệnh do cảm cúm và đau họng so với
những người không vận động. Các
hoạt động không cố sức như đi bộ, đi
xe đạp, tập aerobics, chèo thuyền . .
được xem là vận động trung bình.
Vận động quá sức làm suy giảm hệ
miễn dịch.
Nghiên cứu cũng cho thấy những vận
động viên tập luyện ở cường độ cao
với thời gian quá 90 phút thường dễ
nhiễm bệnh trong vòng 72 giờ sau khi
tập. Điều nầy rất có ý nghĩa đối với
những người phải tập luyện hoặc tham
gia những đợt thi đấu dài ngày. Các
- 20 -
nhà khoa học cho rằng vận động quá
sức làm giảm sút tạm thời chức năng
miễn dịch. Điều nầy liên quan đến
hoạt động nội tiết. Một số hormon
stress như cortisol, adrenaline có tác
dụng làm tăng áp huyết, gia tăng độ
cholesterol và làm suy giảm hệ miễn
dịch.
Như vậy, không chỉ những stress vật
lý khi lao lực hoặc vận động quá độ,
những căng thẳng tâm lý trong cuộc
sống gây tăng tiết nội tiết tố stress
cũng làm giảm chức năng miễn dịch
của cơ thể và làm gia tăng nguy cơ bị
cảm nhiễm bởi vi trùng, vi khuẩn. Áp
lực tâm lý nầy cũng góp phần làm suy
giảm sức đề kháng ở những vận động
viên phải luyện tập hoặc thi đấu dài
ngày. Nói chung, trong những lúc cuối
của một giai đoạn căng thẳng hoặc
những lúc phải đáp ứng với những cao
điểm của công việc, nhiều người dễ bị
cảm, cúm vì stress làm suy giảm sức
miễn dịch. Vận động và thư giãn, ngủ
nghỉ là 2 yếu tố tương phản luôn cần
được thực hành điều hòa để giữ gìn sức
khỏe.
Một số thực dưỡng giúp tăng cường hệ
miễn dịch.
Ngoài những thực dưỡng hàng đầu
như nhân sâm, hoàng kỳ, kỷ tử, hoa
cúc, một số thực phẩm sau đây thường
được đánh giá cao trong vai trò tăng
cường tính miễn dịch.
Nước súp gà. Súp gà, cháo gà với một
số gia vụ như tiêu, hành hoặc một vài
loại rau, củ để cung cấp thêm nhiều
sinh tố, chất chống oxy hóa là một loại
thực dưỡng chống cảm và giải cảm
thông dụng của y học dân gian. Kết
quả nghiên cứu của bác sĩ Stephen
Rennard thuộc trường Đại học
Nebraska, Mỹ cho biết nước súp gà
giúp làm tan những chỗ sung huyết,
phù nề, làm loãng dịch tiết và giảm
tình trạng nghẹt mũi. Các nhà khoa
học còn cho biết nước súp gà có thành
phần của cysteine, một amino acid có
thể phối hợp với những sinh tố C, E và
chất selenium trong tác dụng chống
oxy hoá. Cysteine còn có tác dụng
kích thích tế bào bạch cầu trong hoạt
động miễn dịch, đặc biệt là có khả
năng làm loãng và đánh tan những chỗ
ngăn nghẹt do đờm dịch đọng lại ở bộ
máy hô hấp.
Tỏi. Tỏi có hàm lượng những chất
chống oxy hoá mạnh nhất trong số
những gia vị thông dụng. Tỏi vị cay,
tính ấm, có thể tăng cường sự lưu
thông khí huyết, sát trùng, sát khuẩn,
cải thiện độ mỡ trong máu, tăng cường
sức đề kháng để phòng chống nhiều
loại bệnh khác nhau bao gồm các
chứng cảm cúm. Mỗi bửa ăn nên ăn
một vài tép tỏi dưới hình thức xắt lát
móng hoặc đập dập dùng với nước
chấm hoặc ăn với rau trộn trong bửa ăn
hàng ngày. Trong những đợt dịch cúm
- 21 -
có thể sử dụng dung dịch tỏi pha loãng
nhỏ mũi giúp ngừa cúm và ngặn chận
một số chứng nhiễm trùng hoặc các
loại bệnh lây lan qua đường hô hấp.
Giã nát 3 tép tỏi, hãm trong 50g nước
sôi khoảng nửa giờ. Chắt lấy nước, nhỏ
vào mũi mỗi bên khoảng 2 hay 3 giọt,
ngày 2 hoặc 3 lần. Cũng có thể hít hơi
tỏi qua mũi sau khi đun sôi khoảng
200g tỏi giã nát trong 300cc nước
khoảng 10 phút. Hít thở sâu khi nước
tỏi còn nóng thông qua 1cái phễu úp
trên miệng ấm khi vừa bắt xuống. Độ
nóng và hít sâu vừa với khả năng chịu
đựng của cơ thể để tránh bị phỏng.
Sữa chua. Từ lâu người ta đã biết sữa
chua là một nguồn dinh dưỡng giàu
calcium và những chất đạm dễ tiêu
hoá, nhất là đối với những người có cơ
địa không dung nạp đường lactose
họăc dị ứng với những protein có
trong sữa. Sữa chua cũng là một món
ăn tự nhiên giúp cân bằng hệ vi sinh
vật đường ruột và tăng cường khả
năng miễn dịch. Sữa chua đặc biệt
hữu ích cho người già, trẻ em, những
bệnh nhân tiểu đường, cao huyết áp
hoặc những trường hợp rối loạn khuẩn
đường ruột do tiêu chảy, kiết lỵ hoặc
dùng thuốc kháng sinh dài ngày. Sữa
chua tốt nhất là loại sữa chua ít chất
béo có thêm trái cây nghiền nát để
được bổ sung thêm nhiều chất chống
oxy hoá.
Các loại cá, hải sản, nhất là hàu, ốc.
Ngoài những loại chất đạm và chất
béo hữu ích, những loại thực phảm
nầy, nhất là hàu, có hàm lượng rất cao
khoáng chất kẽm, yếu tố cần thiết cho
việc sản xuất và hoạt hoá những tế bào
của hệ miễn dịch. Chế độ ăn thiếu kẽm
có liên quan đến việc suy giảm chức
năng sinh dục cà cả khả năng miễn
dịch của cơ thể. Không chỉ kẽm,
những loại hải sản nầy còn có hàm
lượng cao selenium, một chất chống
oxy hoá mạnh. Selenium cũng có tác
dụng kích thích hoạt động của hệ
miễn nhiễm.
Rau quả sậm màu, màu vàng, màu
đỏ. Quá trình sinh hoạt, môi trường ô
nhiễm và chế độ ăn uống, nhất là ăn
uống nhiều thịt động vật thực phẩm
công nghiệp làm tích luỹ nhiều cặn bả
độc hại là 1 nguyên nhân quan trọng
làm suy giảm hệ miễn dịch. Chế độ ăn
nhiều rau quả vừa giúp thanh lọc cơ
thể vừa tăng cường tính kiềm để ổn
định độ PH giúp duy trì khả năng bình
thường của chức năng miễn dịch. Đặc
biệt, các loại loại rau quả sậm màu,
màu vàng, màu đỏ như các loại rau
xanh, khoai lang, bí đỏ, cà rốt, bông
bí, bầu, quả gấc, nho tím, dâu tây . . có
hàm lượng cao những sinh tố C, A,
chất beta caroten và nhiều hợp chất
chất chống oxy hoá khác có khả năng
trung hoà những gốc tự do, bảo vệ
- 22 -
màng tế bào giúp tăng cường sức
chống bệnh.
Rong biển. Ngày nay, các loại
rong biển cũng được các nhà dinh
dưõng đánh giá rất cao trong vai trò
giải độc và cung cấp nhiều vi chất
dinh dưỡng giúp phòng chống bệnh
tật. Bên cạnh hàm lượng đạm dễ
chuyển hóa rất cao, rong biển còn có
nhiều sinh tố A và những carotenoids
là những chất chống oxy hóa mạnh có
tác dụng kháng viêm, bảo vệ màng tế
bào. Những polysaccharides trong
rong biển có tác dụng tăng cường tính
miễn dịch và nâng cao sức chịu đựng
của cơ thể đối với những thay đổi của
môi trường. Các nhà khoa học Nhật
bản cũng xác định được
polysaccharide Sprulan (Ca-Sp) trong
rong biển có tác dụng kháng virus
HIV và virus Herpes. (ykhoanet.com)
MỘT TRONG NHỮNG PHƯƠNG THỨC
PHÒNG CHỒNG CÚM …PHẢN KHOA HỌC
VÀ LÀM GIÀU CHO “CON BUỐN”
Nguyễn Đình Nguyên
"Cho đến nay, chưa có một bằng
chứng nào cho thấy việc đeo khẩu
trang cho người chưa mắc cúm
ngoài cộng đồng có thể ngăn ngừa
được bất kỳ loại cúm nào, thậm chí
có nghiên cứu còn cho thấy có hại
hơn là không đeo!
(
ticlerender.fcgi?tool=pubmed&pubme
did=19193267) Tổ chức Y tế Thế giới
cũng như Trung tâm kiểm soát bệnh
tật của Mỹ (CDC) cũng ra khuyến cáo
là KHÔNG NÊN đeo khẩu trang để
ngăn ngừa cúm. Ấy thế mà...
Khuyến cáo của WHO về khẩu trang:
s/
Adviceusemaskcommunity.pdf
Một trí năng bình thường nhìn vào các
cảnh này cũng thấy rằng mang khẩu
trang còn nguy hại hơn là không!
Chẳng thể nào bắt các cháu phải "có ý
thức" được cả trong việc ngừa lây
bệnh, vô hình chung các cháu cứ phải
khư khư cái khẩu trang của mình, đôi
tay vấy bẩn mới là thủ phạm. Và như
thế thì nguy cơ lây lan và mắc bệnh là
ở đây! Các quan y tế "dạy" là không
được cho tay lên mặt, mặt khác bắt các
cháu phải dùng cả hai tay mà chụp lấy
mũi và ôm chặt cái khẩu trang!!!"
Ơ hay sao hai "quan" không chịu
mang khẩu trang mà cười toe thế???!!!
Trích lời "quan ngự y", Tiến sĩ
Nguyễn Công Tảo: "Chúng tôi khuyến
cáo NÊN đeo khẩu trang THƯỜNG
- 23 -
XUYÊN, KHÔNG NHỮNG ở công
sở, trường học MÀ cả những khu vực
công cộng. Người dân không hoang
mang trong giai đoạn hiện nay, mà
phải bình tĩnh thực hiện đúng theo các
khuyến cáo của ngành y tế."
Ôi! Tội nghiệp cháu bé, hy vọng là
cháu không quá đỗi ngạt vì thiếu khí
thở
(Nên nhớ rằng buồng phổi của trẻ con
rất nhỏ, chứa ít khí, trong khi đó nhu
cầu trao đổi khí của trẻ cao gấp nhiều
lần so với người lớn nếu tính trên tỷ
trọng cơ thể. Cho nên đối với trẻ nhỏ,
chỉ cần thiếu thông khí trong một thời
gian ngắn là có thể ảnh hưởng đến
nuôi dưỡng não bộ rồi!!!)
Nguồn:
Khuyến cáo của CDC về khẩu trang:
m
Nói thêm của YKHOANET:
- Bác sĩ ngoại khoa khi mổ cho bệnh
nhân phải đeo khẩu trang không phải
là để tự bảo vệ mình mà là bảo vệ cho
bệnh nhân. Người ta lo ngại rằng nước
bọt, nuớc mũi của bác sĩ sẽ văng vào
vết mổ gây nhiễm trùng. Nếu lỡ bác sĩ
có ngứa mũi hắt hơi thì chất đàm nhớt,
nuớc bọt sẽ dính ngay vào khẩu trang
và tự bác sĩ ... ngửi lấy.
- Virus có kích thước nhỏ bằng một
phần ngàn hạt bụi. Khi ta thở, không
khí không được lọc qua khẩu trang dù
là một lớp hay 3 lớp. Ta vẫn hít thở
không khí qua các khe hở bên cạnh
mũi, dưới hàm. Và vì vậy, nếu còn thở
thì virus vẫn ra vào thoải mái, không
hề có chút gì gọi là cản trở. Bạn không
tin thì hãy lấy miếng khẩu trang bịt
cho kín các khe hở xung quanh xem
có thở được không?
- Não bộ là nơi nhạy cảm với sự thiếu
oxy nhất. Khi đeo khẩu trang liên lục
gây tình trạng thiếu oxy có thể gây
buồn ngủ, mất tập trung. Trẻ con
không biết nói có thể bị miếng khẩu
trang chặn ngang mũi chết ngạt mà
không ai biết.
- Người có chứng hôi miệng, có bệnh
về nha chu sẽ phải hít vào hơi thở ô
nhiễm từ miệng của mình gây viêm
phổi.
Cùng bạn đọc!
Bản tin khoa học của Trường Cao đẳng Y tế Quảng Ninh là một hình thức chuyển
tải những thông tin khoa học thiết yếu tới CBGV của nhà trường, được phát hành theo
Quyết định số 119/QĐ-CĐYT, ngày 11 tháng 7 năm 2007 của Hiệu trưởng trường Cao
đẳng Y tế Quảng Ninh.
Việc phát hành Bản tin khoa học là một cố gắng của nhà trường; nhằm tạo ra một
diễn đàn để chia sẻ và tiếp nhận những thông tin khoa học hữu ích; góp phần phát triển
các kỹ năng giảng dạy và nghiên cứu khoa học cho đội ngũ CBGV của trường, đặc
biệt là kỹ năng viết các bài báo khoa học, tham luận, bình luận và phản biện khoa học.
Để hoàn thành sứ mạng của mình, Bản tin khoa học mong nhận được sự hưởng
ứng tích cực của các độc giả bằng cách:
1. Ứng dụng thông tin thu được từ Bản tin khoa học để nghiên cứu cải thiện năng
xuất và chất lượng công việc hàng ngày của mình.
2. Tích cực tham gia viết và gửi bài cho Bản tin khoa học:
- Bài gửi đăng tải có thể là bài báo khoa học, bài tham khảo chuyên đề, bài tham
luận, bình luận hoặc phản biện khoa học, hoặc các thông tin định hướng cho sự
phát triển kỹ năng nghề nghiệp của các CBGV của nhà trường.
- Bài gửi đăng tải có thể là bài do tác giả biên soạn, biên dịch hoặc sưu tầm. Nếu
là bài biên dịch hoặc sưu tầm cần ghi rõ nguồn gốc thông tin.
- Nên gửi bài dưới dạng file điện tử được đánh máy bằng mã UNICODE, font
chữ TIME NEW ROMAN, cỡ chữ 13.
3. Phản hồi, góp ý để Bản tin khoa học ngày càng hoàn thiện hơn về nội dung và
hình thức.
Trân trọng !
Ban biên tập
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nskh_01_7656.pdf