Bàn về các vấn đề của pháp luật vỡ nợ quốc tế

BÀN VỀ CÁC VẤN ĐỀ CỦA PHÁP LUẬT VỠ NỢ QUỐC TẾ PHAN HUY HỒNG TS., GV Khoa Luật Thương mại, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh I. Lời mở đầu Điều 2 của Dự thảo II “Luật phá sản” có quy định rằng, “Luật này áp dụng khi giải quyết việc phá sản đối với các thương nhân hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam và cũng được áp dụng với cả những thành viên của nó hoạt động ngoài lãnh thổ Việt Nam”. Trong một cuộc hội thảo bàn về dự thảo này, một luật sư người Pháp đã cho ý kiến về điều luật trên như sau: “Tôi không hiểu Ban soạn thảo hiểu thế nào về cụm từ thứ hai trong câu này, bởi vì các bạn không thể áp đặt cho một quốc gia khác phải áp dụng luật của các bạn, cho dù chỉ là áp dụng đối với một doanh nghiệp Việt Nam đóng trên lãnh thổ của quốc gia đó. Để một quyết định Tòa án Việt Nam có giá trị áp dụng ở nước khác thì quyết định đó phải không đi ngược lại trật tự công cộng của quốc gia sở tại đó”1. Tạm thời ở đây không bình luận gì thêm về quy định này. Sau khi phân tích một số vấn đề cơ bản của pháp luật vỡ nợ quốc gia trên cơ sở luật pháp của một số quốc gia Châu Âu cũng như của Liên minh Châu Âu chúng ta sẽ quay lại vấn đề này. II. Khái quát về pháp luật phá sản quốc tế2 1. Hai chữ “quốc tế” trong khái niệm “Pháp luật vỡ nợ quốc tế” có thể gây nhầm lẫn rằng đây là một lĩnh vực pháp luật có nguồn là các hiệp định song phương hoặc đa phương giữa các chủ thể của pháp luật quốc tế. Trái lại, pháp luật vỡ nợ quốc tế trước hết là pháp luật quốc gia về các mối quan hệ pháp luật vỡ nợ có yếu tố nước ngoài. Nhưng bên cạnh đó, trong các nỗ lực nhằm hài hòa hay thậm chí thống nhất pháp luật quốc gia điều chỉnh các mối quan hệ này hay nhằm giảm thiểu hoặc loại bỏ các cản trở trong việc tiến hành thủ tục vỡ nợ đối với con nợ ở nước này có tài sản ở một nước khác, các quốc gia có thể ký kết các hiệp định song phương hoặc đa phương nhằm điều chỉnh chính các mối quan hệ mà thông thường thuộc chủ quyền tư pháp của từng quốc gia. Trong trường hợp tồn tại một hiệp định như vậy giữa nhiều quốc gia thì các quy định của hiệp định sẽ trực tiếp áp dụng cho các mối quan hệ pháp luật phá sản có liên hệ đến các quốc gia đó. Còn các quy định của pháp luật quốc gia của mỗi nước được áp dụng trong mối quan hệ với các nước thứ ba. Ngoài ra, đã có liên minh các quốc gia tiến tới ban hành luật vỡ nợ áp dụng chung cho các quốc gia thành viên. Trong lĩnh vực này tiêu biểu là Nghị định của Hội đồng Liên minh Châu Âu về thủ tục vỡ nợ3. Còn Luật mẫu về phá sản xuyên quốc gia của Ủy ban Liên hiệp quốc về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL)4 được Liên hiệp quốc thông qua trong Đại hội đồng ngày 15-12- 1997 – như các luật mẫu khác của UNCITRAL – là sự “giới thiệu” cho các quốc gia thành viên trong việc ban hành các quy định của pháp luật quốc gia về vỡ nợ quốc tế. Giá trị của Luật mẫu này là ở chỗ nó thể hiện sự đồng thuận quốc tế cao trong nhận thức về các vấn đề và các giải pháp đối với thủ tục vỡ nợ có yếu tố nước ngoài; bởi vậy, nó không chỉ được các quốc gia riêng lẻ tham khảo khi ban hành luật của mình mà còn được Liên minh Châu Âu tham khảo khi ban hành nghị định nói trên. 2. Nhiệm vụ của pháp luật vỡ nợ quốc tế một mặt là quy định luật áp dụng đối với các quan hệ pháp luật vỡ nợ có yếu tố nước ngoài. Các quy phạm pháp luật quy định vấn đề này gọi là các quy phạm xung đột. Tương tự như trong tư pháp quốc tế nói chung, trong pháp luật vỡ nợ quốc tế cũng có hai loại quy phạm xung đột. Đó là quy phạm xung đột đơn phương và quy phạm xung đột đa phương. Loại quy phạm thứ

pdf32 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2447 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bàn về các vấn đề của pháp luật vỡ nợ quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀN VỀ CÁC VẤN ĐỀ CỦA PHÁP LUẬT VỠ NỢ QUỐC TẾ PHAN HUY HỒNG TS., GV Khoa Luật Thương mại, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh I. Lời mở đầu Điều 2 của Dự thảo II “Luật phá sản” có quy định rằng, “Luật này áp dụng khi giải quyết việc phá sản đối với các thương nhân hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam và cũng được áp dụng với cả những thành viên của nó hoạt động ngoài lãnh thổ Việt Nam”. Trong một cuộc hội thảo bàn về dự thảo này, một luật sư người Pháp đã cho ý kiến về điều luật trên như sau: “Tôi không hiểu Ban soạn thảo hiểu thế nào về cụm từ thứ hai trong câu này, bởi vì các bạn không thể áp đặt cho một quốc gia khác phải áp dụng luật của các bạn, cho dù chỉ là áp dụng đối với một doanh nghiệp Việt Nam đóng trên lãnh thổ của quốc gia đó. Để một quyết định Tòa án Việt Nam có giá trị áp dụng ở nước khác thì quyết định đó phải không đi ngược lại trật tự công cộng của quốc gia sở tại đó”1. Tạm thời ở đây không bình luận gì thêm về quy định này. Sau khi phân tích một số vấn đề cơ bản của pháp luật vỡ nợ quốc gia trên cơ sở luật pháp của một số quốc gia Châu Âu cũng như của Liên minh Châu Âu chúng ta sẽ quay lại vấn đề này. II. Khái quát về pháp luật phá sản quốc tế2 1. Hai chữ “quốc tế” trong khái niệm “Pháp luật vỡ nợ quốc tế” có thể gây nhầm lẫn rằng đây là một lĩnh vực pháp luật có nguồn là các hiệp định song phương hoặc đa phương giữa các chủ thể của pháp luật quốc tế. Trái lại, pháp luật vỡ nợ quốc tế trước hết là pháp luật quốc gia về các mối quan hệ pháp luật vỡ nợ có yếu tố nước ngoài. Nhưng bên cạnh đó, trong các nỗ lực nhằm hài hòa hay thậm chí thống nhất pháp luật quốc gia điều chỉnh các mối quan hệ này hay nhằm giảm thiểu hoặc loại bỏ các cản trở trong việc tiến hành thủ tục vỡ nợ đối với con nợ ở nước này có tài sản ở một nước khác, các quốc gia có thể ký kết các hiệp định song phương hoặc đa phương nhằm điều chỉnh chính các mối quan hệ mà thông thường thuộc chủ quyền tư pháp của từng quốc gia. Trong trường hợp tồn tại một hiệp định như vậy giữa nhiều quốc gia thì các quy định của hiệp định sẽ trực tiếp áp dụng cho các mối quan hệ pháp luật phá sản có liên hệ đến các quốc gia đó. Còn các quy định của pháp luật quốc gia của mỗi nước được áp dụng trong mối quan hệ với các nước thứ ba. Ngoài ra, đã có liên minh các quốc gia tiến tới ban hành luật vỡ nợ áp dụng chung cho các quốc gia thành viên. Trong lĩnh vực này tiêu biểu là Nghị định của Hội đồng Liên minh Châu Âu về thủ tục vỡ nợ3. Còn Luật mẫu về phá sản xuyên quốc gia của Ủy ban Liên hiệp quốc về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL)4 được Liên hiệp quốc thông qua trong Đại hội đồng ngày 15-12- 1997 – như các luật mẫu khác của UNCITRAL – là sự “giới thiệu” cho các quốc gia thành viên trong việc ban hành các quy định của pháp luật quốc gia về vỡ nợ quốc tế. Giá trị của Luật mẫu này là ở chỗ nó thể hiện sự đồng thuận quốc tế cao trong nhận thức về các vấn đề và các giải pháp đối với thủ tục vỡ nợ có yếu tố nước ngoài; bởi vậy, nó không chỉ được các quốc gia riêng lẻ tham khảo khi ban hành luật của mình mà còn được Liên minh Châu Âu tham khảo khi ban hành nghị định nói trên. 2. Nhiệm vụ của pháp luật vỡ nợ quốc tế một mặt là quy định luật áp dụng đối với các quan hệ pháp luật vỡ nợ có yếu tố nước ngoài. Các quy phạm pháp luật quy định vấn đề này gọi là các quy phạm xung đột. Tương tự như trong tư pháp quốc tế nói chung, trong pháp luật vỡ nợ quốc tế cũng có hai loại quy phạm xung đột. Đó là quy phạm xung đột đơn phương và quy phạm xung đột đa phương. Loại quy phạm thứ nhất chỉ quy định luật của quốc gia đó được áp dụng trong trường hợp nào. Loại quy phạm thứ hai lại quy định luật của quốc gia nào sẽ phải được áp dụng nếu các quan hệ pháp luật phá sản có một mối quan hệ nhất định đến quốc gia đó. Trong pháp luật vỡ nợ quốc tế có thể đồng thời tồn tại hai loại quy phạm đó. Mặt khác, các quy định về thẩm quyền quốc tế của tòa án cũng thuộc về pháp luật vỡ nợ quốc tế. Ở đây cũng có hai loại quy định. Loại thứ nhất quy định khi nào thì Tòa án và Tòa án nào của quốc gia đó có thẩm quyền tiến hành thủ tục vỡ nợ. Loại thứ hai quy định Tòa án của quốc gia nào có thẩm quyền tiến hành thủ tục vỡ nợ khi các mối quan hệ vỡ nợ có mối liên hệ nhất định đến các quốc gia đó. Tuy nhiên loại quy định thứ hai này không nhằm áp đặt mà cũng không thể áp đặt cho một quốc gia khác. Bởi vì chủ quyền tư pháp của mỗi quốc gia không cho phép loại quy định này có một hiệu lực như vậy. Các quy định loại này chỉ có ý nghĩa “dẫn chiếu” đối với quốc gia khác. Quốc gia đó có thể “chấp nhận” dẫn chiếu đó bằng quy định với nội dung rằng tòa án của mình có thẩm quyền nếu được luật pháp của quốc gia khác dẫn chiếu. 3. Yếu tố nước ngoài trong quan hệ pháp luật vỡ nợ rất đa dạng. Con nợ trong nước có thể có tài sản ở nước ngoài dưới nhiều hình thức. Ngược lại, con nợ ở nước ngoài cũng có thể có tài sản ở trong nước dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong những trường hợp này việc tiến hành thủ tục vỡ nợ sẽ không chỉ gói gọn trong một quốc gia mà còn trở thành một thủ tục “vượt ra biên giới” và đòi hỏi có sự tham gia của pháp luật cũng như các cơ quan tiến hành tố tụng của nhiều quốc gia. Bởi vậy, pháp luật vỡ nợ quốc tế của mỗi nước không thể chỉ giải quyết một chiều các quan hệ vỡ nợ, nghĩa là không thể chỉ quy định về hiệu lực các quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng của mình mà còn về hiệu lực của quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng nước ngoài trên lãnh thổ của mình. Một luật pháp vỡ nợ quốc tế đạt được mục tiêu đối xử công bằng với các chủ nợ, có nghĩa là không loại trừ hoặc hạn chế quyền yêu cầu tài sản của các chủ nợ ở nước ngoài, còn có tác dụng tạo ra một môi trường pháp luật đáng tin cậy cho thương mại và đầu tư quốc tế. III. Các vấn đề 1. Các vấn đề từ thực tiễn 1.1 Sự gia tăng trao đổi hàng hóa, dịch vụ và đầu tư quốc tế cũng như sự tự do hóa ở mức độ nhất định khả năng di chuyển, cư trú, hành nghề và xác lập quyền sở hữu đối với tài sản ở các quốc gia khác nhau đã dẫn đến những tình huống là ngày càng có nhiều con nợ không còn tài sản đáng kể ở trong nước, trong khi đó họ lại có những tài sản giá trị ở nước ngoài. Những tài sản như vậy có khi là những tài sản được xác lập quyền sở hữu một cách hợp pháp theo pháp luật của nước ngoài trên cơ sở mua bán thông thường, nhưng cũng có thể là những quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trong quan hệ hợp đồng thương mại hàng hóa hay dịch vụ quốc tế, hoặc là những tài sản đầu tư ở nước ngoài dưới hình thức một công ty độc lập, là sự góp vốn vào một công ty ở quốc gia khác hay là tài sản tại một chi nhánh hoặc cơ sở phụ thuộc khác ở nước ngoài. Nhưng cũng có khi, hay thậm chí ngày càng phổ biến, đó là những tài sản do con nợ tẩu tán ra nước ngoài nhằm trốn tránh trách nhiệm tài sản. Người ta có thể liệt kê một danh sách dài về các hình thức tồn tại tài sản của một con nợ ở nước ngoài. 1.2 Hai ví dụ sau đây nhằm minh họa một số tình huống nêu trên5: Thứ nhất, Tòa án vỡ nợ mở thủ tục vỡ nợ đối với tài sản của một công ty X tại Cộng hòa Liên bang Đức. Người được tòa án bổ nhiệm làm “người quản lý vỡ nợ” đã áp dụng các biện pháp nhằm buộc con nợ thực hiện các nghĩa vụ kê khai tài sản và hợp tác trong việc thu hồi tài sản nhưng không có kết quả. Từ cơ quan điều tra hình sự, người quản lý vỡ nợ biết được rằng con nợ có một khoản tiền lớn tại một tài khoản ở ngân hàng Thụy Sỹ. Thứ hai, tòa án vỡ nợ mở thủ tục vỡ nợ đối với một cá nhân ở Cộng hòa Liên bang Đức. Con nợ không còn tài sản gì đáng kể ở trong nước, nhưng lại có một số bất động sản rất có giá trị ở Hoa Kỳ. Người quản lý vỡ nợ muốn thanh lý các bất động sản này để thanh toán cho các chủ nợ ở trong nước. Ở các quốc gia khác nhau, các tình huống xảy ra khá phổ biến. Vấn đề đặt ra là, người quản lý vỡ nợ có thể thu hồi được các tài sản đó không và bằng cách nào. 1.3 Trường hợp con nợ là một công ty, nhưng lại có phần vốn góp vào một công ty khác hay có một công ty con ở nước ngoài hoặc một chi nhánh ở nước ngoài là phổ biến. Bởi vì những công ty hay những chi nhánh như vậy ở nước ngoài đều là những chủ thể độc lập hay không độc lập, có năng lực pháp luật đầy đủ hay hạn chế theo pháp luật nước đó. Nên vấn đề đặt ra lúc này còn là pháp luật công ty và pháp luật vỡ nợ của nước sở tại chấp nhận hiệu lực của các quyết định của tòa án nước khác được ban hành trong thủ tục vỡ nợ ở mức độ nào. 1.4 Trong điều kiện Việt Nam hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, tăng cường trao đổi hàng hóa và dịch vụ, khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài thì những tình huống tương tự đang và sẽ xảy ra ngày càng nhiều trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước. 2. Các vấn đề của luật 2.1 Các tình huống con nợ không chỉ có tài sản ở trong nước mà còn có tài sản ở (các) nước ngoài, dù dưới hình thức tài sản cá nhân hay tài sản trong một doanh nghiệp, đều đặt pháp luật vỡ nợ của mỗi quốc gia trước hai tình thế pháp lý căn bản sau đây: Thứ nhất, cần phải làm gì để tài sản của con nợ ở nước ngoài có thể được thu hồi để thanh toán cho các chủ nợ trong thủ tục vỡ nợ ở trong nước. Và ngược lại, thứ hai, có cho phép các quyết định của tòa án vỡ nợ ở nước ngoài có hiệu lực ở trong nước để cơ quan tiến hành thủ tục vỡ nợ nước ngoài có thể thu hồi tài sản của con nợ nước ngoài ở trong nước để thanh toán trong thủ tục vỡ nợ ở nước ngoài hay không. Cả hai tình thế pháp lý này đều cần được pháp luật vỡ nợ mỗi quốc gia đồng thời giải quyết, bởi vì trong thực tiễn cả hai tình huống như trên đều xảy ra. Mặt khác, quan hệ quốc tế, mặc dù không nhất thiết6, nhưng thông thường dựa trên nền tảng của nguyên tắc có đi có lại7. Việc thu hồi tài sản của con nợ ở nước ngoài còn là để đảm bảo sự đối xử bình đẳng với các chủ nợ. Bởi vì trong khi tài sản của con nợ thu hồi được ở trong nước được thanh toán bình đẳng cho cộng đồng chủ nợ, thì có thể có một số – và chỉ một số – chủ nợ vẫn tìm cách đòi được nợ đối với con nợ từ tài sản của nó ở nước ngoài, chẳng hạn thông qua việc cưỡng chế thi hành án ở nước ngoài. 2.2 Ngoài hai tình thế pháp lý căn bản trên, thực tiễn cũng làm nảy sinh tình huống như sau: Con nợ không chỉ có chủ nợ ở trong nước mà còn có chủ nợ ở nước ngoài, có thể chỉ bởi những quan hệ cá nhân, nhưng cũng rất phổ biến do được xác lập trong quan hệ kinh doanh. Khi đó, pháp luật vỡ nợ phải giải đáp vấn đề là nếu thủ tục vỡ nợ được mở ở trong nước thì có cho phép các chủ nợ ở nước ngoài đăng ký đòi nợ không. Ngược lại, khi thủ tục vỡ nợ được mở ở nước ngoài thì cần phải làm gì để đảm bảo quyền được thanh toán nợ của các chủ nợ ở trong nước khi con nợ nước ngoài có tài sản ở trong nước. IV. Các giải pháp 1. Các đạo luật phá sản lần lượt được ban hành ở các quốc gia công nghiệp phương Tây vào cuối thế kỷ 19 đều xuất phát từ nguyên tắc lãnh thổ trong việc xử lý các quan hệ pháp luật phá sản quốc tế8. Chẳng hạn Luật phá sản năm 1877 của Đức9 xuất phát từ quan điểm cho rằng phá sản là một thủ tục cưỡng chế thi hành toàn bộ của nhà nước. Các hiệu lực của nó dựa trên cơ sở quyết định mở thủ tục phá sản của tòa án với tư cách là một hành vi thực thi chủ quyền quốc gia. Mở thủ tục phá sản – là sự can thiệp mạnh mẽ nhất đến sự tồn tại của con nợ – về nguyên tắc chỉ được phép có hiệu lực trong phạm vi lãnh thổ của mỗi quốc gia10. Trên nguyên tắc chủ quyền quốc gia thì quan điểm đó tỏ ra hợp lý. Bởi vì chủ quyền quốc gia giới hạn tại biên giới của nó, và như vậy về nguyên tắc thì chính tòa án phá sản của Đức phải tự giới hạn chủ quyền tư pháp của mình. Điều đó có nghĩa là một tòa án Đức thông thường không thể tuyên bố phá sản đối với tài sản ở nước ngoài của con nợ. Ngược lại, chừng nào nền tảng kinh tế và nhà nước còn mang tính quốc gia dân tộc thì quyết định mở thủ tục phá sản của tòa án nước ngoài đối với tài sản trong nước của con nợ cũng được xem là sự can thiệp vào chủ quyền kinh tế của nước này. Việc không áp dụng nguyên tắc lãnh thổ sẽ tạo ra cơ hội cho nước ngoài can thiệp vào nền kinh tế quốc dân, điều mà nhà nước phải ngăn cản bởi trách nhiệm bảo vệ công dân và doanh nghiệp của mình11. Nguyên tắc này thể hiện rất rõ trong các Điều 5, 237 và 238 Luật phá sản năm 1877 của Đức. 2. Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc lãnh thổ phương hại đến sự đối xử bình đẳng đối với các chủ nợ. Bởi vì khi áp dụng nguyên tắc này thì cộng đồng chủ nợ chỉ có thể trông vào khối tài sản trong nước của con nợ. Trong khi đó, chỉ có một số chủ nợ – là chủ nợ trong nước hoặc chủ nợ nước ngoài – có điều kiện để được thanh toán nợ từ tài sản của con nợ ở nước ngoài. Khi sự giao lưu hàng hóa, dịch vụ, tiền tệ và vốn đầu tư ngày càng được tự do hóa trên bình diện quốc tế thì càng xảy ra nhiều trường hợp tài sản vỡ nợ của con nợ ở trong nước hầu như không còn đáng kể, vì con nợ đã chuyển ra nước ngoài bằng nhiều hình thức khác nhau. Bởi vậy kể từ năm 1983, Tòa án Liên bang Đức đã thay đổi quan điểm áp dụng Luật phá sản này thông qua việc cho rằng quyết định mở thủ tục phá sản của tòa án trong nước có hiệu lực đối với tài sản ở nước ngoài của con nợ và qua đó nhìn nhận rằng con nợ có trách nhiệm hỗ trợ người quản lý phá sản trong việc thanh lý tài sản ở nước ngoài của mình12. Quan điểm này vẫn có thể được lập luận trên cơ sở đạo luật nói trên, vì nó không can thiệp vào chủ quyền tư pháp của quốc gia khác mà chỉ xác lập nên trách nhiệm hỗ trợ của con nợ đối với người quản lý phá sản trong việc thanh lý tài sản ở nước ngoài. Đây là bước chuyển từ nguyên tắc lãnh thổ sang nguyên tắc toàn cầu trong áp dụng Luật phá sản nói trên. 3. Bây giờ Luật vỡ nợ cải cách năm 1994 của Cộng hòa Liên bang Đức13 đã pháp điển hóa nguyên tắc toàn cầu bởi quy định rằng, “tài sản vỡ nợ là toàn bộ tài sản của con nợ vào thời điểm mở thủ tục vỡ nợ và tài sản mà con nợ có được trong thời gian tiến hành thủ tục vỡ nợ” (Điều 35). Luật phá sản doanh nghiệp của Cộng hòa Pháp cũng có quy định tương tự như vậy14. Như vậy, tài sản vỡ nợ là toàn bộ tài sản thuộc về con nợ, bất kỳ các tài sản đó ở trên lãnh thổ quốc gia nào. Quy định này bao hàm sự công nhận tính bình đẳng của việc mở thủ tục vỡ nợ đối với tài sản của con nợ bởi một tòa án trong nước hay tòa án nước ngoài, mặc dù quy định này không nhằm trực tiếp công nhận hiệu lực trong nước của quyết định mở thủ tục vỡ nợ của tòa án nước ngoài. 4. Khi quy định công nhận hiệu lực trong nước của quyết định mở thủ tục vỡ nợ của tòa án nước ngoài, pháp luật vỡ nợ quốc tế của mỗi quốc gia đều đặt ra các điều kiện công nhận. Dưới góc độ này pháp luật vỡ nợ quốc tế vừa được cải cách của Cộng hòa Liên bang Đức và Luật mẫu của UNCITRAL đã có sự “gặp gỡ”15. Theo đó, quyết định mở thủ tục vỡ nợ của tòa án nước ngoài cũng có hiệu lực thu hồi đối với tài sản của con nợ ở trong nước, trừ phi “các tòa án của quốc gia mà thủ tục vỡ nợ được mở ở đó không có thẩm quyền mở thủ tục vỡ nợ căn cứ theo pháp luật trong nước, hoặc việc công nhận thủ tục nước ngoài có thể dẫn đến một kết quả (hậu quả), mà kết quả đó rõ ràng không phù hợp với các nguyên tắc căn bản của pháp luật trong nước, đặc biệt là không phù hợp với các quyền căn bản”. Hai điều kiện công nhận này thực ra cũng không còn xa lạ về mặt nguyên tắc với pháp luật Việt Nam trong vấn đề công nhận bản án và quyết định dân sự của tòa án nước ngoài16. Điều kiện tòa án nước ngoài phải có thẩm quyền theo pháp luật trong nước có nghĩa là: Nếu chẳng hạn pháp luật trong nước quy định rằng tòa án chỉ được phép mở thủ tục vỡ nợ đối với con nợ thường trú hoặc có có trụ sở ở trong nước, nhưng tòa án nước ngoài lại mở thủ tục vỡ nợ đối với con nợ không thường trú hoặc không có trụ sở ở nước đó, thì quyết định mở thủ tục vỡ nợ này sẽ không được công nhận ở trong nước. Điều kiện việc công nhận không được phép dẫn đến một kết quả không phù hợp với các nguyên tắc căn bản của luật pháp trong nước đã trở thành một nguyên tắc phổ biến trong tư pháp quốc tế của các quốc gia trên thế giới dưới khái niệm “order public”17. Nhưng cũng chính ở đây, nội dung của nó phụ thuộc vào việc từng quốc gia nhìn nhận các nguyên tắc cơ bản đó là những nguyên tắc nào. Chẳng hạn một số quốc gia sẽ không công nhận việc mở thủ tục vỡ nợ nhằm một mục đích xa lạ với pháp luật vỡ nợ, như nhằm tịch thu sung công tài sản hay doanh nghiệp của con nợ, hoặc các tài sản bị tịch biên trong thủ tục đó theo pháp luật trong nước là không được phép tịch biên hoặc các chủ nợ bị phân biệt đối xử. Đặc biệt, các quốc gia phương Tây đặt yêu cầu tiên quyết cho việc công nhận bản án của tòa án nước ngoài nói chung cũng như các quyết định của tòa án vỡ nợ nói riêng là các quyết định đó phải được ban hành trong một thủ tục tố tụng đảm bảo được một nguyên tắc căn bản của nhà nước pháp quyền là đương sự phải có quyền được tham gia, được thẩm vấn và được đảm bảo đầy đủ cơ hội để bảo vệ quyền của mình cũng như tự vệ trước đối phương18. 5. Công nhận thủ tục vỡ nợ của nước ngoài cũng đồng thời là việc công nhận sự bổ nhiệm người quản lý vỡ nợ của tòa án vỡ nợ nước ngoài. Nghĩa là người quản lý vỡ nợ đó được phép thực hiện các công việc thuộc thẩm quyền của mình trên lãnh thổ của quốc gia công nhận. Tuy nhiên, điều này cũng không thể không có hạn chế. Chẳng hạn người quản lý vỡ nợ trong thủ tục vỡ nợ nước ngoài đó không thể trực tiếp tiến hành các biện pháp cưỡng chế ở trong nước, cho dù người này có thẩm quyền đó theo pháp luật nước ngoài. Các quốc gia sẽ không tự hạn chế chủ quyền quốc gia dưới góc độ này – nghĩa là quyền thi hành các biện pháp cưỡng chế nhân danh nhà nước trong lãnh thổ của mình – để người quản lý vỡ nợ trong thủ tục vỡ nợ nước ngoài có thể thi hành những biện pháp như vậy ở trong nước. Ngay cả ở pháp luật vỡ nợ quốc tế của Liên minh Châu Âu cũng không cho phép người quản lý vỡ nợ trong thủ tục vỡ nợ của một nước thành viên tiến hành các biện pháp cưỡng chế trên lãnh thổ của một nước thành viên khác19. 6. Một công cụ quan trọng của người quản lý vỡ nợ nhằm thu hồi những tài sản mà con nợ tẩu tán dưới nhiều hình thức nhằm gây thiệt hại cho các chủ nợ hoặc nhằm đối xử ưu tiên cho một số chủ nợ trong khi những chủ nợ này không có quyền được ưu tiên như vậy chính là quyền phủ quyết các giao dịch hoặc hành vi này của con nợ. Thẩm quyền phủ quyết của người quản lý vỡ nợ căn cứ trên pháp luật vỡ nợ của quốc gia mà thủ tục vỡ nợ được mở ở đó. Sự công nhận thủ tục vỡ nợ của nước ngoài cũng bao hàm sự công nhận thẩm quyền này của người quản lý vỡ nợ ở trong nước. Tuy nhiên, ở đây cũng không thể không có sự hạn chế. Bởi vì pháp luật các quốc gia quy định các loại hành vi hoặc giao dịch bị phủ quyết và điều kiện phủ quyết có thể rất khác nhau, nên để đảm bảo sự an toàn trong giao dịch pháp luật trong nước và bảo vệ quyền lợi chính đáng của đối thủ quyền phủ quyết, luật pháp vỡ nợ quốc tế của CHLB Đức đã quy định rằng, một giao dịch pháp luật mà hiệu lực của nó chiếu theo luật trong nước thì người quản lý vỡ nợ nước ngoài chỉ có thể phủ quyết, nếu giao dịch đó theo pháp luật trong nước cũng có thể bị phủ quyết hoặc vì một lý do khác mà không có hiệu lực20. 7. Bên cạnh việc công nhận thủ tục vỡ nợ nước ngoài, pháp luật vỡ nợ quốc tế của các quốc gia cũng có thể cho phép mở một thủ tục vỡ nợ đặc biệt đối với tài sản trong nước của con nợ nước ngoài21. Thủ tục đặc biệt này có thể được mở mà không phụ thuộc vào việc một thủ tục vỡ nợ có được mở đối với con nợ ở nước ngoài hay không22. Sự cho phép mở một thủ tục vỡ nợ đặc biệt như vậy thông thường nhằm mục đích đảm bảo tốt hơn các lợi ích trong nước, bao gồm lợi ích chủ nợ và lợi ích công cộng của quốc gia đó. Bởi vì thủ tục này sẽ được tiến hành theo quy định của pháp luật vỡ nợ trong nước. Trường hợp trước đó một thủ tục vỡ nợ đã được mở ở nước ngoài đối với con nợ, thì không cần đặt điều kiện người đặt đơn yêu cầu phải chứng minh con nợ mất khả năng thanh toán để được mở thủ tục vỡ nợ đặc biệt ở trong nước23. Điều này là phù hợp với sự công nhận quyết định mở thủ tục vỡ nợ của tòa án nước ngoài. Ngay cả ở Liên minh Châu Âu, nơi mà thủ tục vỡ nợ được mở ở một nước thành viên đương nhiên được công nhận ở các nước thành viên khác và người quản lý vỡ nợ có thể thực hiện thẩm quyền của mình trên lãnh thổ các nước thành viên khác, thì Nghị định về thủ tục vỡ nợ nói trên cũng cho phép mở một thủ tục vỡ nợ phụ ở một nước thành viên khác24. Một thủ tục phụ như vậy, ngoài nhằm mục đích bảo vệ các quyền lợi trong nước, cũng còn có chức năng đảm bảo việc giải quyết vỡ nợ được tiến hành một cách có hiệu quả, nhất là trong các trường hợp quan hệ tài sản ở trong nước của con nợ phức tạp (chẳng hạn sự góp vốn của con nợ vào nhiều doanh nghiệp khác nhau và móc xích với nhau), hay có sự khác biệt lớn trong các quy định của các quốc gia khác nhau về tiến hành thủ tục vỡ nợ. Tuy nhiên, trong trường hợp này chỉ người quản lý vỡ nợ trong thủ tục vỡ nợ chính mới có quyền đặt đơn yêu cầu mở thủ tục vỡ nợ phụ ở một nước khác. Điều đó cũng nhằm đảm bảo có sự liên hệ chặt chẽ giữa thủ tục chính và thủ tục phụ. 8. Việc mở một thủ tục đặc biệt trong nước đối với con nợ nước ngoài có thể được tiến hành như thủ tục vỡ nợ thông thường đối với con nợ trong nước. Tuy nhiên, các quan hệ pháp luật vỡ nợ có yếu tố nước ngoài này đòi hỏi phải có một số quy định có tính đến những điểm khác biệt của các quan hệ đó. Đấy chẳng hạn là các quy định về thẩm quyền mở thủ tục (thẩm quyền chức năng và thẩm quyền lãnh thổ), các quy định về quyền, thủ tục và thời hạn gửi yêu cầu đòi tài sản của các chủ nợ ở nước ngoài cũng như việc tham gia của các chủ nợ này vào thủ tục vỡ nợ. V. Trở lại với dự án Luật phá sản Việt Nam Đối chiếu các dự thảo Luật phá sản sửa đổi với các vấn đề được trình bày ở trên chúng ta có thể nhận thấy rằng các vấn đề về phá sản quốc tế đã không được quan tâm ở mức độ thích đáng. Quy định “Luật này và các quy định của các luật khác có liên quan được áp dụng khi giải quyết việc phá sản đối với các thương nhân hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam và cũng được áp dụng với cả những thành viên của nó hoạt động ngoài lãnh thổ Việt Nam”25 là trái với nguyên tắc chủ quyền quốc gia và với nó là chủ quyền tư pháp trong pháp luật quốc tế. Trước một quy định với nội dung rằng, “Việc giải quyết phá sản tại Việt Nam có liên quan đến cá nhân, tổ chức nước ngoài được thi hành theo luật này, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác”26, thì khi một tình huống vỡ nợ quốc tế xảy ra các cơ quan tiến hành tố tụng và các đương sự sẽ phải đặt câu hỏi, vậy họ phải làm gì và làm như thế nào. Dự thảo luật này không cho họ câu trả lời. Việc Việt Nam ký kết các hiệp định song phương hoặc đa phương về vấn đề vỡ nợ quốc tế là ít có khả năng xảy ra, và nếu có những hiệp định như vậy thì chúng cũng chỉ giới hạn trong phạm vi các quốc gia ký kết. Bởi vậy việc ban hành các quy định về vỡ nợ quốc tế trước hết là nhiệm vụ của pháp luật quốc gia.· 1 Đó là ý kiến của Luật sư De Frémont ở Versailles trong cuộc Hội thảo “Pháp luật về phá sản doanh nghiệp” tổ chức tại Nhà pháp luật Việt-Pháp tại Hà Nội từ ngày 16 đến ngày 18-4-2002. Xem tài liệu “Hội thảo Pháp luật về phá sản doanh nghiệp”, trang 5 – 6. 2 Khái niệm “phá sản” (bankruptcy) được sử dụng phổ biến trong pháp luật các quốc gia từ thế kỷ thứ 19 cho đến gần cuối thế kỷ 20. Tuy nhiên nhiều luật được ban hành từ cuối thế kỷ 20 đã chuyển sang sử dụng khái niệm “vỡ nợ” (insolvency). Nguyên nhân là do thông thường các luật phá sản giới hạn đối tượng áp dụng vào các doanh nghiệp và thủ tục phá sản có thể dẫn đến việc chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp, trong khi đó các luật vỡ nợ thường mở rộng đối tượng áp dụng tới cả các cá nhân không kinh doanh (người tiêu dùng) là những chủ thể pháp luật không thể bị “triệt tiêu” bởi thủ tục vỡ nợ. Sau đây cả hai khái niệm này cùng được sử dụng ở những vị trí thích hợp. 3 Ordinance on Council of EC on the Insolvency Proceedings, dated 29 May 2000 (nguồn: Công báo của Liên minh Châu Âu (ABL), L 160/1 30-6-2000). Nghị định này được ban hành trên cơ sở sáng kiến của Cộng hòa Liên bang Đức và Cộng hòa Phần Lan, và có hiệu lực áp dụng từ ngày 31-5-2002 đối với tất cả các nước thành viên Liên minh Châu Âu. 4 UNCITRAL Model Law On Cross-border Insolvency, dated 15 December 1997. 5 Phỏng theo Stefan Smid: Grundzuede des Insolvenzrechts, Muenchen 2002, S. 5f. 6 Ví dụ như pháp luật vỡ nợ quốc tế của Cộng hòa Liên bang Đức công nhận hiệu lực trong nước của quyết định mở thủ tục vỡ nợ của tòa án nước ngoài mà không đặt điều kiện có đi có lại. So sánh Điều 102 Luật áp dụng Luật vỡ nợ (EGInsO) ngày 2-10- 1994 của Cộng hòa Liên bang Đức. 7 Chẳng hạn như pháp luật phá sản của Cộng hòa Áo; tham khảo Leitner, Der grebzueberschreitende Konkurs, 1995, S. 22f. 8 Tham khảo Stefan Smid: sđd, tr. 502-503; Peter Gottwald (Herausgeber): Insolvenzrecht – Handbuch, Muenchen 2001, p 122. 9 Konkursordnung vom 10-02-1877. Luật này cùng với Luật thủ tục hòa giải năm 1935 (Vergleichsordnung vom 26-02-1935) đã được thay thế bằng Luật vỡ nợ năm 1994 (Insolvenzordnung vom 05-10-1994). 10 Tham khảo Haesemeyer: Insolvenzrecht, 2. Auflage 1998, RdNr. 35.05-35.7. 11 Tham khảo Stefan Smid: sđd, tr. 503. 12 So sánh bản án của Tòa án Liên bang Đức ngày 13-7-1983 (nguồn: BGHZ Bd.88, 147, 150) và bản án ngày 11-7-1985 (nguồn: BGHZ Bd. 95, 256, 264). 13 Luật vỡ nợ ngày 5-10-1994 (Insolvenzordnung vom 05-10-1994). 14 Tham khảo Nhà pháp luật Việt - Pháp, sđd, tr. 9. 15 So sánh Điều 102 Luật áp dụng vỡ nợ của Cộng hòa Liên bang Đức và Điều 20 Luật mẫu của UNCITRAL. 16 So sánh các Điều 2 và 16 Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài ngày 17-4-1993. Tuy nhiên điểm 3 Điều 16 Pháp lệnh này chỉ loại trừ sự công nhận nếu vụ án thuộc thẩm quyền xét xử riêng biệt của tòa án Việt Nam, chứ không yêu cầu tòa án nước ngoài đó cũng phải có thẩm quyền căn cứ theo pháp luật Việt Nam. Trái lại, trước khi Việt Nam có những văn bản pháp luật về công nhận bản án của tòa án nước ngoài thì trong Công văn số 11-TATC ngày 12-7-1974 hướng dẫn giải quyết các vấn đề ly hôn có yếu tố nước ngoài Tòa án nhân dân tối cao đã đưa ra những điều kiện công nhận bản án ly hôn của tòa án nước ngoài, trong đó có điều kiện là tòa án nước ngoài phải có thẩm quyền theo các quy định của pháp luật tố tụng Việt Nam (mục IV). 17 Về “order public” so sánh chẳng hạn Điều 26 Nghị định của Hội đồng Liên minh châu Âu về thủ tục vỡ nợ (nguồn: chú thích 3). 18 Tham khảo Stefan Smid, sđd, tr. 506-507, về các điều kiện công nhận thủ tục vỡ nợ của nước ngoài trong pháp luật vỡ nợ quốc tế của Cộng hòa Liên bang Đức. 19 So sánh Điều 18 khoản 3 Nghị định của Hội đồng Liên minh Châu Âu về thủ tục vỡ nợ. 20 So sánh Điều 102 khoản 2 Luật áp dụng Luật vỡ nợ của Cộng hòa Liên bang Đức. 21 Như pháp luật vỡ nợ quốc tế của Cộng hòa Liên bang Đức (Điều 102 khoản 3 Luật áp dụng Luật vỡ nợ), hay pháp luật vỡ nợ quốc tế của Thụy Sỹ. Tuy nhiên, ở Thụy Sỹ, một thủ tục vỡ nợ đặc biệt như vậy chỉ được mở khi con nợ nước ngoài có chi nhánh ở trong nước (Điều 166 khoản 2 Luật tư pháp quốc tế, Điều 50 Luật phá sản). 22 So sánh chẳng hạn Điều 102 khoản 3 Luật áp dụng Luật vỡ nợ của Cộng hòa Liên bang Đức. 23 Như ghi chú trên. 24 So sánh các Điều 28 trở đi Nghị định của Hội đồng Liên minh Châu Âu về thủ tục vỡ nợ. 25 So sánh Điều 2 Dự thảo 2 Luật phá sản. 26 So sánh Điều 99 Dự thảo 2 Luật phá sản. Điều này lặp lại hoàn toàn Điều 51 Luật phá sản doanh nghiệp.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfBàn về các vấn đề của pháp luật vỡ nợ quốc tế.pdf
Luận văn liên quan