Tóm lại, với tính chất là ý chí và nguyện vọng của
nhân dân, LHS của Nhà nước ta có vai trò xã hội rất
lớn lao. Để thực hiện tốt vai trò của mình, LHS phải
được xây dựng và áp dụng theo định hướng là phát
huy hơn nữa các chức năng xã hội vốn có của nó.
LHS phải vừa làm tốt chức năng bảo vệ các quan hệ
xã hội và các lợi ích tiến bộ, vừa đấu tranh phòng và
chống tội phạm một cách hữu hiệu, vừa góp phần
giáo dục nâng cao ý thức pháp luật cho mọi người
dân.
14 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2662 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bàn về chức năng của luật hình sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bàn Về Chức Năng Của LUẬT HÌNH SỰ
LÔ VĂN LÝ
ThS.GV Khoa Luật hình sự - ĐH luật TP.HCM
1. Chức năng của Luật Hình sự (LHS) là một trong
những vấn đề lý luận cơ bản của khoa học LHS.
Nhận thức đầy đủ, thống nhất về chức năng của LHS
có ý nghĩa rất lớn không những về mặt khoa học, mà
cả với hoạt động thực tiễn của các nhà lập pháp,
những người làm công tác bảo vệ pháp luật. Vì vậy,
nghiên cứu làm sáng tỏ về chức năng của LHS là một
việc làm cần thiết.
2. Như chúng ta đã biết, thuật ngữ “chức năng” của
pháp luật nói chung thường được hiểu là “những
phương diện hoạt động chủ yếu, là những hình thức
tác động đặc thù của pháp luật bằng con đường Nhà
nước lên các quan hệ xã hội…”(1 ).
Theo tinh thần này, thì chức năng của LHS có thể
được hiểu là những phương diện hoạt động chủ yếu,
những hình thức tác động đặc thù của LHS lên các
quan hệ xã hội. Với tính cách là những phương diện
hoạt động chủ yếu, những hình thức tác động đặc thù
của LHS lên các quan hệ xã hội, chức năng của LHS
thể hiện bản chất và giá trị xã hội của nó. Ngược lại,
bản chất của Nhà nước, của chế độ quyết định bản
chất của LHS nói chung, số lượng, tính chất cũng
như mối liên hệ giữa các chức năng của LHS nói
riêng.
Xét về bản chất, chế độ ta là chế độ XHCN, Nhà
nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Do đó, LHS của Nhà nước ta là sự thể hiện
ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Vì vậy, việc nhìn
nhận chức năng của LHS cũng phải xuất phát từ quan
điểm, ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân.
Là một bộ phận trong hệ thống pháp luật của Nhà
nước, với tính cách là “một trong những công cụ sắc
bén, hữu hiệu để đấu tranh phòng và chống tội phạm,
góp phần đắc lực vào việc bảo vệ các quan hệ xã hội
và lợi ích quan trọng… Bộ Luật hình sự (BLHS) thể
hiện tinh thần chủ động phòng ngừa và kiên quyết
đấu tranh chống tội phạm và thông qua hình phạt để
răn đe, giáo dục, cảm hóa, cải tạo người phạm tội trở
thành người lương thiện; qua đó, bồi dưỡng cho mọi
công dân tinh thần, ý thức làm chủ xã hội, ý thức tuân
thủ pháp luật, chủ động tham gia phòng ngừa và
chống tội phạm”(2 ).
Như vậy, ngay trong Lời nói đầu của BLHS, nhà làm
luật đã xác định rõ các chức năng cơ bản sau đây của
LHS:
a) Các chức năng phòng và chống tội phạm;
b) Chức năng bảo vệ;
c) Chức năng giáo dục;
Xuất phát từ bản chất nhân dân của LHS, để nó có
thể thực hiện tốt vai trò xã hội của mình, ngoài các
chức năng cơ bản trên, LHS còn có những chức năng
sau:
d) Chức năng điều chỉnh;
đ) Chức năng nhận thức;
e) Chức năng thông tin;
Nội dung của các chức năng nêu trên có thể được
hiểu như sau:
a) Chức năng phòng và chống tội phạm
Chức năng phòng và chống tội phạm của LHS thể
hiện ở chỗ, bằng những chế tài đối với các hành vi
xâm hại đến các quan hệ xã hội và lợi ích được bảo
vệ, LHS có tác dụng ngăn ngừa không để các hành vi
xâm hại đến các lợi ích này xảy ra. Mặt khác, khi một
tội phạm đã được thực hiện trên thực tế, LHS sẽ đóng
vai trò là công cụ pháp lý cần thiết để các cơ quan
tiến hành tố tụng tiến hành điều tra, truy tố, xét xử và
buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự.
Lẽ dĩ nhiên, việc áp dụng với người phạm tội các
biện pháp tư pháp hoặc hình phạt còn nhằm ngăn
ngừa họ phạm tội mới, đồng thời còn nhằm răn đe
người khác.
Khác với BLHS – 1985, BLHS – 1999 đã đề cao tinh
thần chủ động phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh
chống tội phạm theo phương châm “xét xử đúng là
tốt nhưng nếu không phải xét xử thì càng tốt hơn”(3
). Do đó, nhìn vào các quy định của Bộ luật về các tội
phạm, chúng ta dễ nhận thấy rằng đối với những loại
tội phạm ít nguy hiểm, thì cấu thành tội phạm thường
được xây dựng theo mô hình là “đã bị xử phạt hành
chính, xử lý kỷ luật về hành vi này hoặc đã bị kết án
nhưng chưa được xóa án mà còn vi phạm…”. Về các
biện pháp xử lý hình sự, thì BLHS cũng chú ý nhiều
hơn việc áp dụng các biện pháp tư pháp nhằm thay
thế cho hình phạt cũng như việc áp dụng các hình
phạt nhẹ hơn hình phạt tù. Mặt khác, đối với những
loại tội phạm gây nguy hại lớn, rất lớn hoặc đặc biệt
lớn cho xã hội, thì kiên quyết xử lý với các chế tài
nghiêm khắc hơn nhiều so với trong BLHS – 1985.
Với tinh thần “phòng bệnh hơn chữa bệnh”, hiện nay,
hoạt động của các cơ quan chức năng phải được tổ
chức lại theo hướng chủ động áp dụng các biện pháp
phòng ngừa tội phạm, tránh tình trạng thụ động chờ
tội phạm xảy ra hoặc thậm chí có xu hướng để hoạt
động tội phạm dấn sâu vào con đường tội lỗi, gây
thiệt hại lớn cho xã hội rồi mới “phá án” như trước
đây.
b) Chức năng bảo vệ
LHS bảo vệ các quan hệ xã hội và lợi ích chủ yếu
bằng cách quy định hình phạt đối với các hành vi
xâm phạm đến các quan hệ xã hội và lợi ích này.
Trong 14 nhóm quan hệ và lợi ích (khách thể loại)
được LHS bảo vệ, thì các quyền tự quyết của dân tộc
được đặt lên hàng đầu. Bên cạnh đó, LHS còn bảo vệ
các lợi ích khác của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân, tổ chức, góp phần duy trì trật tự
an toàn xã hội, trật tự quản lý kinh tế, bảo đảm cho
mọi người được sống trong một môi trường xã hội và
sinh thái an toàn, lành mạnh, mang tính nhân văn cao.
Đồng thời, LHS còn góp phần tích cực loại bỏ những
yếu tố gây cản trở cho tiến trình đổi mới và sự nghiệp
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và
văn minh.
c) Chức năng giáo dục
Bằng việc quy định trách nhiệm hình sự đối với các
tội phạm cũng như thông qua các hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử và buộc người phạm tội phải chấp
hành các biện pháp cưỡng chế hình sự, LHS không
những nhằm răn đe, giáo dục, cảm hóa và cải tạo
người phạm tội trở thành người lương thiện (giáo dục
riêng), mà còn tác động lên ý thức của mọi thành viên
của xã hội (giáo dục chung) để bồi dưỡng cho mọi
công dân tinh thần, ý thức làm chủ xã hội, ý thức tuân
thủ pháp luật cũng như tinh thần chủ động tham gia
phòng và chống tội phạm. Kết quả của cả hai hướng
giáo dục này phụ thuộc vào nhau. Người phạm tội sẽ
chỉ thực sự thấm thía, hối cải và yên tâm cải tạo nếu
chung quanh anh ta đều là những công dân gương
mẫu. Ngược lại, ý thức làm chủ xã hội, tuân thủ pháp
luật, chủ động tham gia phòng ngừa và chống tội
phạm của người dân sẽ chỉ được nâng cao, nếu họ
thấy rằng người phạm tội đã được răn đe, giáo dục,
cảm hóa và cải tạo tốt.
d) Chức năng điều chỉnh
Xuất phát từ cách hiểu hẹp về cơ chế điều chỉnh của
pháp luật, từ trước đến nay đối tượng điều chỉnh của
LHS thường được hiểu ở phạm vi hạn chế là “những
quan hệ phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội”.
Tuy nhiên, nếu hiểu chức năng của LHS là những
hình thức tác động, những phương diện hoạt động
của nó, thì có thể thấy rằng LHS còn có tác động lên
các quan hệ xã hội thông qua sự tự điều chỉnh của các
thành viên của xã hội. Lẽ dĩ nhiên, các thành viên của
xã hội chỉ có thể tự điều chỉnh được xử sự của mình
theo những mô hình không trái với các quy định của
LHS, nếu họ chịu sự tác động của LHS và có một
mức độ ý thức pháp luật nhất định. Do đó, có thể
khẳng định rằng, ngoài quan hệ giữa Nhà nước và
người phạm tội ra, LHS còn có chức năng điều chỉnh
xử sự thường ngày của mọi thành viên trong xã hội.
Xuất phát từ cách hiểu hẹp về đối tượng điều chỉnh
của LHS như trên, thì phương pháp điều chỉnh của
LHS cũng thường được hiểu ở mức độ hạn hẹp chỉ là
“quyền uy”. Tuy nhiên, về phương diện lý luận và cả
trong thực tế, thì thấy rằng ngoài phương pháp quyền
uy ra, khi tham gia điều chỉnh các đối tượng điều
chỉnh của nó, LHS còn sử dụng cả một số phương
pháp khác như “cho phép” công dân thực hiện các
hành vi có ích (như phòng vệ chính đáng hoặc bắt
người phạm tội chẳng hạn), hoặc như phương pháp
“tùy nghi” cho phép các cơ quan và người tiến hành
tố tụng lựa chọn các hành vi tố tụng hoặc biện pháp
xử lý thích hợp.
Hiểu và nhận thức đúng về đối tượng và phương
pháp điều chỉnh của LHS trên bình diện rộng như
trên sẽ thấy rõ được bản chất nhân dân và giá trị xã
hội của nó, đồng thời tránh được xu hướng “cứng
hóa” các quan hệ PLHS và hạn chế được tệ quan liêu
hách dịch trong một bộ phận các cơ quan và người
tiến hành tố tụng.
đ) Chức năng nhận thức
Chức năng nhận thức của LHS thể hiện ở chỗ nó phải
là kết quả của quá trình nhận thức đúng về thực tại
khách quan, về tình hình tội phạm của nhà làm luật.
Chức năng này còn thể hiện ở chỗ LHS phải đóng vai
trò là một trong những phương tiện nhận thức của
những người làm công tác điều tra, truy tố, xét xử và
mọi người dân về thực tại xã hội.
Tất nhiên, chức năng nhận thức LHS chỉ có thể được
đảm bảo tốt, nếu nhà làm luật xuất phát từ ý chí và
nguyện vọng của nhân dân theo phương châm “pháp
luật là đạo đức của nhân dân – là đạo đức có tính chất
Nhà nước”(4 ) mà căn cứ, đánh giá và dự đoán những
thay đổi về kinh tế, chính trị, pháp luật, đạo đức, văn
hóa pháp lý, các điều ước và thông lệ quốc tế… lấy
các tư tưởng pháp chế, nhân đạo, dân chủ, công bằng,
bình đẳng, tư tưởng kết hợp truyền thống và hội nhập
làm kim chỉ nam để đánh giá và quy định đúng về tội
phạm cũng như xác định đúng các biện pháp xử lý
phù hợp trong BLHS. Có như vậy, LHS mới có thể
thực sự đi vào đời sống, không bị khuôn sáo hoặc
duy ý chí.
e) Chức năng thông tin
Chức năng thông tin của LHS thể hiện ở chỗ nó
thông báo cho mọi công dân giới hạn xử sự của họ.
Có những thực tế đau lòng là nhiều người phạm tội vì
thiếu hiểu biết về LHS, không biết được mô hình xử
sự của mình bị luật hình sự cấm. Phải nhìn nhận một
cách công bằng rằng, về phương diện này Nhà nước
cũng phải gánh một phần trách nhiệm. Để khắc phục
tình trạng này, việc tiếp tục tuyên truyền, phổ biến
một cách sâu, rộng và thường xuyên BLHS, việc dân
chủ hóa và công khai hóa các hoạt động tố tụng theo
phương châm “cán bộ tư pháp không chỉ giới hạn
hoạt động của mình trong khung Tòa án”(5 ) là việc
làm thiết thực có ý nghĩa to lớn.
3. Tóm lại, với tính chất là ý chí và nguyện vọng của
nhân dân, LHS của Nhà nước ta có vai trò xã hội rất
lớn lao. Để thực hiện tốt vai trò của mình, LHS phải
được xây dựng và áp dụng theo định hướng là phát
huy hơn nữa các chức năng xã hội vốn có của nó.
LHS phải vừa làm tốt chức năng bảo vệ các quan hệ
xã hội và các lợi ích tiến bộ, vừa đấu tranh phòng và
chống tội phạm một cách hữu hiệu, vừa góp phần
giáo dục nâng cao ý thức pháp luật cho mọi người
dân. Bên cạnh đó, cùng với việc điều chỉnh quan hệ
pháp luật hình sự khi có tội phạm thực hiện, LHS còn
phải có tác động lên các hành vi xử sự thường ngày
của mọi thành viên của xã hội, thông tin chính xác
cho họ biết về giới hạn xử sự của mình và vừa là
phương tiện đáng tin cậy của mọi người dân trong
hoạt động nhận thức thực tại xã hội và pháp luật của
họ.
(1) Xem: Đào Trí Úc, Nhà nước và pháp luật của
chúng ta trong sự nghiệp đổi mới, KHXH, H., 1997,
trang 312.
(2) Lời nói đầu của BLHS – 1999.
(3) (5) Hồ Chí Minh và pháp chế, Hội Luật gia Việt
Nam, Thành phố Hồ Chí Minh, 1985, trang 87 – 90.
(4) John Backer, bài phát biểu trên đài CNN, tháng
5/1989.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37_6052.pdf