Báo cáo Hoàn thiện công tác lập và phân tích tài chính tại Công ty CP Vũ Gia

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU1 KÝ HIỆU VIẾT TẮT3 DANH MỤC CÁC BẢNG4 CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN VŨ GIA5 1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần Vũ Gia. 5 1.1.1. Sự hình thành của công ty cổ phần Vũ Gia. 5 1.1.2. Một số chỉ tiêu minh hoạ cho quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần Vũ Gia. 6 1.2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của công ty cổ phần Vũ Gia. 7 1.2.1. Chức năng của công ty cổ phần Vũ Gia. 7 1.2.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của công ty cổ phần Vũ Gia. 7 1.3. Đặc điểm tổ chức, bộ máy quản lý của công ty cổ phần Vũ Gia. 9 1.3.1. Tổ chức bộ máy quản lý của công ty cổ phần Vũ Gia. 9 1.3.2. Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban tại công ty cổ phần Vũ Gia11 1.4. Đặc điểm tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần Vũ Gia12 1.4.1. Đặc điểm về sản phẩm của công ty cổ phần Vũ Gia. 12 1.4.2. Đặc điểm về thị trường kinh doanh của công ty cổ phần Vũ Gia. 14 1.5. Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán và tình hình vận dụng chế độ kế toán tại công ty cổ phần Vũ Gia. 16 1.5.1. Tổ chức bộ máy kế toán tại công ty cổ phần Vũ Gia. 16 1.5.2. Đặc điểm vận dụng chế độ kế toán tại công ty cổ phần Vũ Gia. 18 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG LẬP VÀ PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN VŨ GIA24 2.1. Quy chế quản lý tài chính tại công ty cổ phần Vũ Gia. 24 2.1.1. Quản lý và sử dụng tài sản tại công ty. 24 2.1.2. Quản lý doanh thu và chi phí kinh doanh. 28 2.1.3. Lợi nhuận và trích lập các quỹ. 29 2.2. Thực trạng lập Báo cáo tài chính tại công ty cổ phần Vũ Gia. 30 2.3.1. Quy trình chung để lập Báo cáo tài chính. 33 2.3.2. Bảng cân đối kế toán. 33 2.3.3. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. 34 2.3.4. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ. 35 2.3.5. Thuyết minh Báo cáo tài chính. 35 2.3. Thực trạng công tác phân tích Báo cáo tài chính tại công ty cổ phần Vũ Gia36 2.3.1. Thực trạng công tác phân tích Báo cáo tài chính tại công ty. 36 CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN CÔNG TÁC LẬP VÀ PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN VŨ GIA53 3.1. Đánh giá hiệu lực quản lý tài chính tại công ty cổ phần Vũ Gia. 53 3.2. Đánh giá thực trạng lập Báo cáo tài chính và phân tích Báo cáo tài chính54 3.2.1. Đánh giá về lập Báo cáo tài chính tại công ty. 54 3.2.2. Đánh giá về phân tích Báo cáo tài chính tại công ty. 57 3.3. Sự cần thiết phải hoàn thiện công tác lập Báo cáo tài chính và phân tích Báo cáo tài chính tại công ty. 61 3.4. Nội dung hoàn thiện công tác lập và phân tích Báo cáo tài chính tại công ty63 3.4.1. Hoàn thiện lập Báo cáo tài chính tại công ty. 63 3.4.2. Hoàn thiện phân tích Báo cáo tài chính tại công ty. 64 3.5. Điều kiện thực hiện. 66 KẾT LUẬN68 NẾU CÓ THẮC MẮC GÌ VỀ BÀI VIẾT BẠN LIÊN HỆ SỐ ***********

doc70 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3060 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Hoàn thiện công tác lập và phân tích tài chính tại Công ty CP Vũ Gia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng điều này cũng tạo thuận lợi hơn cho việc thanh toán tức thời của doanh nghiệp. Nếu các mặt khác của sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không thay đổi thì đây là một hiện tượng hết sức khả quan. Tỷ suất đầu tư của doanh nghiệp cuối năm là 91,85%, tăng 5,99% so với đầu năm. Nhìn vào số liệu đó có thể thấy doanh nghiệp đã có những đầu tư táo bạo vào tài sản cố định, thể hiện năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng mở rộng. Trong năm 2006, vốn bằng tiền của doanh nghiệp cuối năm so với đầu năm giảm, khoản phải thu cuối năm so với đầu năm tăng. Tuy nhiên, doanh nghiệp đã khắc phục những nhược điểm đó trong năm 2007. Khoản phải thu của doanh nghiệp cuối năm 2007 giảm đáng kể so với đầu năm 2007, điều đó chứng tỏ tình hình tài chính của doanh nghiệp có dấu hiệu trở nên lành mạnh hơn. * Phân tích sự biến động về quy mô và cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp + Phân tích sự biến động về quy mô và cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp trong năm 2006 Bảng 2.5. Cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp năm 2006 Chỉ tiêu Đầu năm Cuối năm So sánh Số tiền (đồng) Tỷ trọng (%) Số tiền (đồng) Tỷ trọng (%) Số tuyệt đối (đồng) Số tương đối (%) A.Nợ phải trả 7.134.938.431 63,67 7.229.254.202 63,92 94.315.771 1,32 I.Nợ ngắn hạn 2.107.103.090 29,53 2.388.159.270 33,03 281.056.180 13,34 1.Vay ngắn hạn 1.522.167.843 72,24 1.885.021.567 78,93 362.853.724 23,84 2.Phải trả người bán 89.960.000 4,27 90.450.237 3,79 490.237 0,54 3.Người mua ứng trước 120.243.247 5,71 64.967.984 2,72 -55.275.263 -45,97 4.Thuế & các khoản nộp NSNN 19.100.000 0,91 8.756.000 0,37 -10.344.000 -54,16 5.Phải trả CNV 35.632.000 1,69 42.563.478 1,78 6.931.478 19,45 6.Phải trả NH khác 320.000.000 15,18 296.400.004 12,41 -23.599.996 -7,37 II.Nợ dài hạn 5.027.835.341 70,47 4.841.094.932 66,97 -186.740.409 -3,71 B.Vốn chủ sở hữu 4.071.833.093 36,33 4.080.592.798 36,08 8.759.705 0,22 Tổng nguồn vốn 11.206.771.524 100 11.309.847.007 100 103.075.480 0,92 Nguồn vốn chủ sở hữu (nguồn vốn cơ bản nhất và thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số nguồn vốn của doanh nghiệp), cuối năm so với đầu năm tăng 8.759.705, với số tương đối tăng 0,22%. Nhằm đánh giá khả năng tự tài trợ về mặt tài chính cũng như mức độ tự chủ trong kinh doanh hay những khó khăn về mặt tài chính phải đương đầu, doanh nghiệp đã thực hiện tính toán và phân tích tỷ suất tự tài trợ. Tỷ suất tự tài trợ càng cao thể hiện khả năng độc lập cao về mặt tài chính hay mức độ tự tài trợ của doanh nghiệp càng nhiều. Theo tài liệu trên: 4.071.833.093 Tại thời điểm đầu năm, tỷ suất tự tài trợ = --------------------- *100 = 36,33% 11.206.771.524 4.080.592.798 Tại thời điểm cuối năm, tỷ suất tự tài trợ = --------------------- *100 = 36,08% 11.309.847.007 Thời điểm cuối năm so với đầu năm, tỷ suất tự tài trợ giảm 0,25%. Điều này chứng tỏ tuy vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp cuối kỳ so với đầu năm tăng nhưng khả năng độc lập về mặt tài chính hay mức độ tự tài trợ của doanh nghiệp giảm. Trong khi tỷ suất tự tài trợ giảm thì các khoản vay ngắn hạn, phải trả người bán và phải trả công nhân viên cuối kỳ so với đầu năm vẫn tăng. Khoản phải trả công nhân viên cuối năm so với đầu năm tăng 6.931.478 đồng với số tương đối tăng 19,45%. Điều đó chứng tỏ doanh nghiệp chưa thực hiện tốt nghĩa vụ với nhân viên. Tuy nhiên, doanh nghiệp vẫn làm nghĩa vụ với ngân sách nhà nước. Biểu hiện là khoản thuế và các khoản nộp ngân sách nhà nước cuối năm so với đầu năm giảm 10.344.000 đồng, với số tương đối giảm 54,16%. + Phân tích sự biến động về quy mô và cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp trong năm 2007 Bảng 2.6. Cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp năm 2007 Chỉ tiêu Đầu năm Cuối năm So sánh Số tiền (đồng) Tỷ trọng (%) Số tiền (đồng) Tỷ trọng (%) Số tuyệt đối (đồng) Số tương đối (%) A.Nợ phải trả 7.229.254.202 63,92 13.767.868.799 56,63 6.538.614.588 89,58 I.Nợ ngắn hạn 2.388.159.270 33,03 1.881.562.220 13,67 -506.597.050 -21,21 1.Vay ngắn hạn 1.885.021.567 78,93 385.400.659 20,48 -1.499.620.908 -79,55 2.Phải trả người bán 90.450.237 3,79 143.875.000 7,65 53.424.763 59,07 3.Người mua ứng trước 64.967.984 2,72 423.550.000 22,51 358.582.016 551,94 4.Thuế & các khoản nộp NSNN 8.756.000 0,37 9.102.083 0,48 346.083 3,95 5.Phải trả CNV 42.563.478 1,78 203.634.478 10,82 161.071.000 378,43 6.Phải trả NH khác 296.400.004 12,41 716.000.000 38,06 419.599.996 141,57 II.Nợ dài hạn 4.841.094.932 66,97 11.886.306.579 86,33 7.045.211.638 145,53 B.Vốn chủ sở hữu 4.080.592.798 36,08 10.544.684.639 43,37 6.464.091.832 158,41 Tổng nguồn vốn 11.309.847.007 100 24.312.553.438 100 13.002.706.431 114,97 Nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp cuối năm so với đầu năm tăng 6.464.091.832 đồng, với số tương đối tăng 158,41%. Nguồn vốn cơ bản nhất của doanh nghiệp tăng vọt chửng tỏ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đang phát triển theo chiều hướng tốt. Tỷ suất tự tài trợ của doanh nghiệp cuối năm so với đầu năm tăng 7,29%. Điều này thể hiện khả năng tự tài trợ của doanh nghiệp ngày càng cao, tình hình tài chính của doanh nghiệp có xu hướng phát triển tốt và ngày càng khả quan. Doanh nghiệp có đủ vốn để chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Tuy nhiên, tổng các khoản nợ phải trả của doanh nghiệp vẫn có xu hướng tăng. Khoản mục này cuối năm so với đầu năm tăng 6.538.614.588 đồng với số tương đối tăng 89,58%. Trong đó, nợ dài hạn cuối năm so với đầu năm tăng 7.045.211.638 đồng với số tương đối tăng 145,53%. Trong các khoản nợ ngắn hạn, ngoại trừ khoản mục vay ngắn hạn, các khoản mục còn lại đều tăng. Khoản phải trả công nhân viên tăng vọt, cuối năm so với đầu năm tăng 161.071.000 đồng với số tương đối tăng 378,43%. Nhìn chung, số liệu phân tích qua hai năm cho thấy tuy doanh nghiệp ngày càng có khả năng tự chủ về mặt tài chính nhưng doanh nghiệp chưa thực hiện tốt nghĩa vụ thanh toán, do vậy rất khó xây dựng thương hiệu sản phẩm tốt với nhà đầu tư cũng như người tiêu dùng. 2.3.1.3. Phân tích tình hình thanh toán và khả năng thanh toán của doanh nghiệp Trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luôn phát sinh các khoản thu, phải trả và các khoản phải thu, phải trả cần phải có một khoản thời gian nhất định mới thanh toán được. Thời gian thanh toán dài hay ngắn hoàn toàn phụ thuộc vào chế độ quy định của nhà nước về lãi nộp thuế, phương thức thanh toán đang được áp dụng hiện nay, mối quan hệ và sự thỏa thuận giữa các đơn vị với nhau. Vấn đề thanh toán trở nên đặc biệt quan trọng với những doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn với tỷ lệ cao so với mức kinh doanh. Ý thức được điều đó, doanh nghiệp đã thực hiện phân tích tình hình thanh toán nhằm tìm ra nguyên nhân của sự khê đọng các khoản công nợ, tiến tới làm chủ về mặt tài chính. Bên cạnh đó, khả năng thanh toán của doanh nghiệp cho biết năng lực tài chính trước mắt và lâu dài của doanh nhgiệp, là phần thu hút sự chú ý nhất của các đối tượng quan tâm, nhà quản lý, đặc biệt là các tổ chức tín dụng, ngân hàng, cơ quan thuế, khách hàng, nhà cung cấp lớn. Do vậy, phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp sẽ cho phép các nhà quản lý đánh giá được sức mạnh tài chính hiện tại, tương lai cũng như dự đoán được tiềm lực trong thanh toán và an ninh tài chính của doanh nghiệp. * Phân tích tình hình thanh toán và khả năng thanh toán của doanh nghiệp trong năm 2006 Bảng 2.7. Bảng phân tích tình hình thanh toán của doanh nghiệp năm 2006 Chỉ tiêu Đầu năm Cuối năm So sánh Số tiền (đồng) Tỷ trọng (%) Số tiền (đồng) Tỷ trọng (%) Số tuyệt đối (đồng) Số tương đối (%) Các khoản phải thu 52.671.112 100 112.409.059 100 59.737.947 113,42 1.Phải thu khách hàng 31.659.458 60,11 87.269.585 77,64 55.610.127 175,65 2.Trả trước cho người bán 15.481.267 29,39 21.468.174 19,1 5.986.907 38,67 3.Các khoản phải thu khác 5.530.387 10,5 3.671.300 3,26 -1.859.087 -33,62 Nợ ngắn hạn 2.107.103.090 100 2.388.159.270 100 281.056.180 13,34 1.Vay ngắn hạn 1.522.167.843 72,24 1.885.021.567 78,93 362.853.724 23,84 2.Phải trả người bán 89.960.000 4,27 90.450.237 3,79 490.237 0,54 3.Người mua ứng trước 120.243.247 5,71 64.967.984 2,72 -55.275.263 -45,97 4.Thuế & các khoản nộp NSNN 19.100.000 0,91 8.756.000 0,37 -10.344.000 -54,16 5.Phải trả CNV 35.632.000 1,69 42.563.478 1,78 6.931.478 19,45 6.Phải trả NH khác 320.000.000 15,18 296.400.004 12,41 -23.599.996 -7,37 Tổng số các khoản phải thu của doanh nghiệp cuối năm so với đầu năm tăng 59.737.947 đồng, với số tương đối tăng 113,42%. Như đã phân tích trong phần đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp, hiện tượng các khoản phải thu tăng vọt thể hiện yếu kém của doanh nghiệp trong việc thu hồi các khoản nợ. Trong các khoản phải thu của doanh nghiệp, khoản phải thu của khách hàng luôn chiếm tỷ trọng lớn. Đầu năm 2006, phải thu khách hàng chiếm 60,11% tổng các khoản phải thu, đến cuối năm, tỷ lệ này là 77,64%. Khoản phải thu của khách hàng cuối năm so với đầu năm tăng 55.610.127 đồng, với số tương đối tăng 175,65%. Để đi sâu hơn nữa trong việc phân tích tình hình thanh toán, doanh nghiệp đã thực hiện tính và phân tích tỷ lệ các khoản nợ phải thu so với các khoản nợ phải trả. Chỉ tiêu này phản ánh các khoản doanh nghiệp bị chiếm dụng so với các khoản đi chiếm dụng. Tỷ lệ các khoản nợ phải thu so với các khoản nợ phải trả đầu năm 2006 = 52.671.112 2.107.103.090 = 0,0249 Tỷ lệ các khoản nợ phải thu so với các khoản nợ phải trả cuối năm 2006 = 112.409.059 2.388.159.270 = 0,0471 Các hệ số trên tại thời điểm đầu năm và cuối năm đều nhỏ hơn 1 rất nhiều, hay nói cách khác, số vốn doanh nghiệp bị chiếm dụng nhỏ hơn số vốn doanh nghiệp đi chiếm dụng rất nhiều. Thực tế cho thấy, số đi chiếm dụng lớn hơn hay nhỏ hơn số bị chiếm dụng đều phản ánh một tình hình tài chính không lành mạnh. Để xem xét khả năng thanh toán các khoản công nợ, doanh nghiệp tiếp tục đi phân tích các hệ số thanh toán đã được trình bày trong Bản thuyết minh báo cáo tài chính. Trong 2 năm 2005 và 2006, hệ số khả năng thanh toán tổng quát đều lớn hơn 1 rất nhiều chứng tỏ doanh nghiệp có đủ khả năng trang trải các khoản nợ ngắn hạn và dài hạn. Tuy nhiên, hệ số này chỉ có ý nghĩa trong thời gian dài hạn. Các nhà đầu tư và các tổ chức tín dụng không mấy quan tâm đến chỉ tiêu này vì trên thực tế, tài sản cố định luôn chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng tài sản của doanh nghiệp nhưng tính thanh khoản của tài sản cố định lại rất thấp. Để xem xét khả năng thanh toán các khoản nợ trong vòng một năm hay một chu kỳ kinh doanh, chỉ tiêu hệ số khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn được quan tâm nhiều nhất. Chỉ tiêu này xấp xỉ bằng 1 trong năm 2005 chứng tỏ doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và tình hình tài chính là khả quan. Tuy nhiên, trong năm 2006, hệ số này là 0,669, sụt mạnh so với năm 2005. Sở dĩ như vậy là vì cuối năm 2006 so với đầu năm 2006, tổng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp giảm trong khi tổng nợ ngắn hạn của doanh nghiệp tăng. Doanh nghiệp không chú trọng nhiều đến việc phân tích hệ số khả năng thanh toán nhanh vì tính ổn định của khoản mục tiền và các khoản tương đương tiền trên Báo cáo tài chính là không cao. Hơn nữa, thực trạng tại doanh nghiệp cho thấy nghiệp vụ liên quan tới tiền mặt phát sinh hàng ngày. Việc phân tích chỉ tiêu này mang tính chủ quan và đòi hỏi kế toán viên có nhiều kinh nghiệm, có sự so sánh với các doanh nghiệp khác cùng ngành. Hiện nay ở Việt Nam, do hạn chế về thông tin mà thực hiện sự so sánh đó là không thể. Trong năm 2006, tuy doanh thu tăng không nhiều nhưng khoản phải thu khách hàng lại tăng vọt. Sở dĩ như vậy là vì doanh nghiệp áp dụng phương thức thanh toán chậm đối với những khách hàng là doanh nghiệp. Mục đích của công ty là thu hút khách hàng mới, tạo dựng niềm tin với khách hàng quen thuộc, mở rộng thị trường. Nhưng công ty đã không chú trọng nhiều đến chất lượng dịch vụ nên chiến lược kinh doanh đó không đạt hiệu quả như mong đợi. Chất lượng dịch vụ trong ngành vận tải taxi thể hiện ở thời gian phục vụ khách hàng, chất lượng xe và tác phong làm việc của nhân viên lái xe. Thực trạng tại công ty cho thấy, định kỳ doanh nghiệp không có kế hoạch sửa chữa tài sản cố định, và qua điều tra sơ bộ, rất nhiều khách hàng cá nhân và doanh nghiệp không hài lòng với chất lượng xe. Trong các khoản nợ ngắn hạn, khoản mục vay ngắn hạn và phải trả công nhân viên cuối năm so với đầu năm tăng. Để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, không một doanh nghiệp nào không vay vốn. Trong năm 2006, doanh nghiệp đã vay vốn (ngắn hạn và dài hạn) để đầu tư mua sắm tài sản cố định. Đây là một việc làm đáng khích lệ, dấu hiệu doanh nghiệp đã có những đầu tư theo chiều sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc phân tích hiệu quả sử dụng tài sản nói chung và tài sản cố định nói riêng của doanh nghiệp được trình bày trong phần tiếp theo của chuyên đề. Điều đáng lo ngại là khoản mục phải trả công nhân viên của doanh nghiệp cuối năm so với đầu năm tăng. Qua xem xét số liệu lao động trong hai năm 2005 và 2006, doanh nghiệp không thuê thêm nhân viên (kể cả lao động trực tiếp và gián tiếp). Doanh nghiệp cần chú trọng hơn nữa vấn đề thanh toán lương cho công nhân viên, không nên để tình trạng nợ đọng kéo dài vì lương vừa là nhân tố chi phí vừa là nhân tố thúc đẩy tinh thần người lao động. * Phân tích tình hình thanh toán và khả năng thanh toán của doanh nghiệp trong năm 2007 Bảng 2.8. Bảng phân tích tình hình thanh toán của doanh nghiệp năm 2007 Chỉ tiêu Đầu năm Cuối năm So sánh Số tiền (đồng) Tỷ trọng (%) Số tiền (đồng) Tỷ trọng (%) Số tuyệt đối (đồng) Số tương đối (%) Các khoản phải thu 112.409.059 100 43.629.058 100 -68.780.001 -61,19 1.Phải thu khách hàng 87.269.585 77,64 29.571.422 67,78 -57.698.163 -66,11 2.Trả trước cho người bán 21.468.174 19,1 13.269.478 30,41 -8.198.696 -38,19 3.Các khoản phải thu khác 3.671.300 3,26 788.158 1,81 -2.883.142 -78,53 Nợ ngắn hạn 2.388.159.270 100 1.881.562.220 100 -506.597.050 -21,21 1.Vay ngắn hạn 1.885.021.567 78,93 385.400.659 20,48 -1.499.620.908 -79,55 2.Phải trả người bán 90.450.237 3,79 143.875.000 7,65 53.424.763 59,07 3.Người mua ứng trước 64.967.984 2,72 423.550.000 22,51 358.582.016 551,94 4.Thuế & các khoản nộp NSNN 8.756.000 0,37 9.102.083 0,48 346.083 3,95 5.Phải trả CNV 42.563.478 1,78 203.634.478 10,82 161.071.000 378,43 6.Phải trả NH khác 296.400.004 12,41 716.000.000 38,06 419.599.996 141,57 Tổng số các khoản phải thu của doanh nghiệp cuối năm so với đầu năm giảm 68.780.001 đồng, với số tương đối tăng 61,19%. Như đã phân tích trong phần đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp, các khoản phải thu giảm thể hiện doanh nghiệp đã tích cực thu hồi các khoản nợ phải thu, giảm bớt hiện tượng ứ đọng vốn trong khâu thanh toán. Trong các khoản phải thu của doanh nghiệp, khoản phải thu của khách hàng vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Đầu năm 2007, phải thu khách hàng chiếm 77,64% tổng các khoản phải thu, đến cuối năm, tỷ lệ này là 67,78%. Khoản phải thu của khách hàng cuối năm so với đầu năm giảm 57.698.163 đồng, với số tương đối giảm 66,11%. Trong năm 2007, để phân tích sâu hơn nữa tình hình tài chính, doanh nghiệp vẫn thực hiện tính tỷ lệ các khoản nợ phải thu so với các khoản nợ phải trả. Tỷ lệ các khoản nợ phải thu so với các khoản nợ phải trả cuối năm 2007 = 43.629.058 1.881.562.220 = 0,0232 Tỷ lệ trên quá nhỏ vẫn cho thấy tình hình tài chính của doanh nghiệp không lành mạnh. Điều đáng phấn khởi là hệ số khả năng thanh toán của doanh nghiệp năm 2007 cao hơn năm 2006. Hệ số khả năng thanh toán tổng quát tăng 0,202; hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn tăng 0,384; hệ số khả năng thanh toán nhanh tăng 0,319. Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn lớn hơn một chứng tỏ doanh nghiệp hoàn toàn đủ khả năng đảm đương các khoản nợ ngắn hạn. Điều đó không những chứng tỏ tình hình tài chính của doanh nghiệp có dấu hiệu lành mạnh hơn mà còn tạo niềm tin cho ngân hàng, các tổ chức tín dụng và các nhà đầu tư. Sở dĩ như vậy là do những nhược điểm trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong năm 2006 đã dần được cải thiện. Doanh nghiệp khuyến khích khách hàng thanh toán ngay, tránh tình trạng bị chiếm dụng vốn kéo dài và giảm các khoản phải thu một cách đáng kể. Tuy nhiên, chính sách thanh toán đó không làm ảnh hưởng đến doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp vì doanh nghiệp đã có những đầu tư bứt phá vào tài sản cố định, chú ý nhiều hơn đến việc sửa chữa thường xuyên tài sản cố định dẫn đến chất lượng dịch vụ tăng. Bên cạnh đó, doanh nghiệp vẫn giảm được các khoản nợ ngắn hạn trong khi tài sản ngắn hạn tăng. Trong các khoản nợ ngắn hạn, vay ngắn hạn giảm đáng kể. Trong năm 2007, chi phí cho đầu tư mua sắm tài sản cố định được trang trải bằng nguồn vốn tự có. Điều đáng lo ngại ở đây là khoản phải trả công nhân viên của doanh nghiệp không những giảm mà còn tăng đột biến. Trước mắt, hiện tượng này được giải thích do doanh nghiệp đã thuê thêm lao động (chủ yếu là lao động trực tiếp), mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp chưa chú ý phân tích hiệu quả sử dụng chi phí lương. Đây là một mảng chi phí chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí của doanh nghiệp, cần được phân tích kỹ lưỡng để có thể tiết kiệm chi phí mà vẫn đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, dù doanh nghiệp có thuê thêm lao động thì vẫn không nên kéo dài tình trạng nợ đọng với công nhân viên. Đây có thể xem là tồn tại lớn nhất của doanh nghiệp trong năm 2007. 2.3.1.4. Phân tích hiệu quả kinh doanh Để đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp đã tính và phân tích các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời. Nguồn số liệu doanh nghiệp sử dụng để phân tích hiệu quả kinh doanh là các chỉ tiêu đã được tính trên Bản thuyết minh báo cáo tài chính qua các năm, bao gồm các chỉ tiêu sau: - Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu - Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản - Tỷ suất lợi nhuận trên nguồn vốn chủ sở hữu Giá trị cụ thể của các tỷ suất này đã được trình bày trên Bản thuyết minh báo cáo tài chính và đã được trình bày tại Bảng 2.2. Các chỉ tiêu phân tích Báo cáo tài chính của công ty cổ phần Vũ Gia. Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu phản ánh cứ một đồng doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản phản ánh cứ một đồng tài sản dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên nguồn vốn chủ sở hữu phản ánh cứ một đồng vốn chủ sở hữu dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Các chỉ tiêu trên càng cao chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp càng cao. Do mức độ cần thiết của các chỉ tiêu này không cao nên việc phân tích hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp không được thực hiện tỷ mỉ như phân tích tình hình tài chính. * Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu được tính cho cả hai chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế và lợi nhuận sau thuế. Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên doanh thu qua 3 năm lần lượt là 6,4%, 10,51% và 13,37%. Các con số trên có ý nghĩa là cứ 1đồng doanh thu tạo ra từ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp qua 3 năm thì có lần lượt 0,064; 0,1051 và 0,1337 đồng lợi nhuận trước thuế. Như vậy, tỷ suất lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp tăng dần qua 3 năm, năm 2006 tăng so với năm 2005 4,11%, năm 2007 tăng so với năm 2006 2,86%. Do tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên doanh thu tăng nên tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu cũng tăng. Doanh nghiệp mới chỉ dừng lại giải thích hiện tượng này là do tốc độ tăng trưởng của lợi nhuận qua các năm cao hơn tốc độ tăng trưởng của doanh thu. * Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản chỉ được tính cho chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế. Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên tổng tài sản qua 3 năm lần lượt là 4,5%; 7,77% và 6,75%. Các con số trên có ý nghĩa là cứ 1đồng tài sản dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp qua 3 năm thì có lần lượt 0,045; 0,0777 và 0,0675 đồng lợi nhuận trước thuế. Như vậy, tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên tổng tài sản của doanh nghiệp năm 2006 tăng so với năm 2005 3,27%, năm 2007 giảm so với năm 2006 1,02%. Doanh nghiệp chưa có lý giải gì cho hiện tượng này. * Tỷ suất lợi nhuận trên nguồn vốn chủ sở hữu Tỷ suất lợi nhuận trên nguồn vốn chủ sở hữu chỉ được tính cho chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế. Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên nguồn vốn chủ sở hữu qua 3 năm lần lượt là 12,38%; 21,54% và 15,56%. Các con số trên có ý nghĩa là cứ 1đồng vốn chủ sở hữu dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp qua 3 năm thì có lần lượt 0,1238; 0,2154 và 0,1556 đồng lợi nhuận trước thuế. Như vậy, tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn chủ hữu của doanh nghiệp năm 2006 tăng so với năm 2005 9,16%, năm 2007 giảm so với năm 2006 5,98%. Doanh nghiệp cũng chưa đi sâu phân tích để tìm ra nguyên nhân của hiện tượng này. Nhìn chung, việc phân tích hiệu qủa kinh doanh của doanh nghiệp vẫn còn quá sơ sài. Doanh nghiệp mới chỉ dừng lại ở tính toán số liệu, chưa tìm hiểu nguyên nhân và do đó chưa kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN CÔNG TÁC LẬP VÀ PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN VŨ GIA 3.1. Đánh giá hiệu lực quản lý tài chính tại công ty cổ phần Vũ Gia Công ty cổ phần Vũ Gia là một doanh nghiệp cổ phần, được thành lập trong thời kỳ thị trường kinh doanh dịch vụ taxi diễn ra nhiều cạnh tranh khốc liệt nên việc tuân thủ chế độ kế toán, chuẩn mực kế toán và các quy định khác của pháp luật hiện hành là một việc làm hết sức cần thiết để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đi vào nề nếp và đạt hiệu quả cao. Quy chế quản lý tài chính của công ty là một văn bản cụ thể hóa các chính sách tài chính do Bộ tài chính ban hành dựa vào điều kiện cụ thể của công ty. Công ty luôn ý thức được việc tuân thủ theo các quy chế quản lý tài chính đó sẽ mang lại hiệu quả kinh doanh cao cho công ty. Mọi khoản mục, nội dung trong quy chế đều đi vào thực tế một cách hiệu quả và thiết thực. + Đối với các khoản phải thu, việc các khoản phải thu không có khả năng thu hồi là chưa xảy ra trong thực tế nên doanh nghiệp không lập dự phòng các khoản phải thu. Tuy nhiên, trong quy chế quản lý tài chính vẫn quy định về công tác xử lý các khoản phải thu không có khả năng thu hồi, quy định này phù hợp với quy định của Bộ tài chính và cũng rất tốt với công ty. + Công ty chưa trích lập dự phòng giảm giá các khoản đầu tư tài chính dài hạn như theo quy định trong quy chế quản lý tài chính. Đây không hẳn là hạn chế của công ty vì các khoản đầu tư tài chính dài hạn thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng tài sản của công ty. + Các khoản doanh thu, thu nhập khác, chi phí sản xuất kinh doanh, chi phí khác cũng như việc phân phối lợi nhuận đã được chi tiết, cụ thể phù hợp với tình hình thực tế của công ty và được thực hiện nghiêm túc trong kỳ. Điều này được thể hiện rõ trong các báo cáo chi tiết, báo cáo tổng hợp của công ty. Trên đây là một số nhận xét về việc áp dụng quy chế quản ký tài chính vào thực tiễn. Ngoài một số điều trên, còn lại tất cả các nội dung khác của quy chế đều được thực hiện trong thực tế quản lý và hạch toán kế toán của công ty. 3.2. Đánh giá thực trạng lập Báo cáo tài chính và phân tích Báo cáo tài chính 3.2.1. Đánh giá về lập Báo cáo tài chính tại công ty Ưu điểm: Thông tin cung cấp qua hệ thống Báo cáo tài chính của công ty thật sự hữu ích không chỉ với các nhà lãnh đạo trong công ty mà còn với các đối tượng quan tâm bên ngoài như ngân hàng, các tổ chức tín dụng và các nhà đầu tư. + Lao động kế toán: việc phân công lao động đảm nhiệm các phần hành kế toán nói chung và lập Báo cáo tài chính nói riêng rất rõ ràng. Kế toán tổng hợp kiêm kế toán trưởng đảm nhiệm công tác lập Báo cáo tài chính định kỳ hàng năm. Số liệu được tổng hợp từ các phần hành kế toán riêng biệt. + Trình độ lao động kế toán: Trình độ kế toán viên tại công ty là cao và đồng đều, khả năng sảy ra sai sót trong kế toán được giảm thiểu. Điều này đặc biệt có ý nghĩa với chất lượng thông tin cung cấp trên Báo cáo tài chính. + Chính sách kế toán áp dụng: Các chính sách kế toán được áp dụng để lập Báo cáo tài chính là phù hợp với đặc điểm hoạt động kinh doanh tại công ty trên cơ sở những quy định của các cơ quan chức năng, được nêu rõ trong Bản thuyết minh báo cáo tài chính và thể hiện trong việc lập, trình bày Báo cáo tài chính. + Chế độ kế toán áp dụng: Công ty thực hiện tuân thủ nghiêm túc theo mọi quy định hiện hành của pháp luật về chế độ chứng từ, tài khoản, sổ kế toán và hệ thống Báo cáo tài chính. Hệ thống Báo cáo tài chính của công ty được lập theo Quyết định 15/2006/QĐ-BTC ngày 20 tháng 3 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ tài chính. Nhìn chung, hệ thống Báo cáo tài chính sử dụng tại công ty được lập theo mẫu chung, các chỉ tiêu chi tiết cho những khoản mục cần thiết trên Báo cáo tài chính được trình bày trên Bản thuyết minh báo cáo tài chính hoặc trong báo cáo nội bộ của công ty. Vì vậy, việc lập Báo cáo tài chính được thực hiện theo đúng mẫu thống nhất mà vẫn đảm bảo cung cấp thông tin kế toán cụ thể, chi tiết cho phân tích tài chính của công ty. + Công tác lập Báo cáo tài chính: Việc lập Báo cáo tài chính của công ty tuân thủ theo những nguyên tắc cơ bản của kế toán như: hoạt động liên tục, cơ sở dồn tích, nhất quán, trọng yếu và tập hợp, bù trừ, có thể so sánh, đáp ứng yêu cầu lập Báo cáo tài chính của công ty là trung thực và hợp lý. Tiến độ lập, gửi Báo cáo tài chính năm của công ty luôn đúng thời hạn theo quy định chung của Bộ tài chính. Điều này đáp ứng được nhu cầu cung cấp thông tin kịp thời, chính xác theo yêu cầu của các đối tượng quan tâm đến tình hình của công ty. + Quy trình lập Báo cáo tài chính: Chất lượng nguồn số liệu lập Báo cáo tài chính được đảm bảo: chứng từ kế toán đảm bảo tính hợp pháp, hợp lệ; công tác ghi sổ được phân công rõ ràng, có sự kiểm tra, đối chiếu giữa các kế toán viên. Công tác kế toán cuối kỳ (kiểm kê, thực hiện các bút toán cuối kỳ), công tác khóa sổ được thực hiện theo đúng quy định của Bộ tài chính và phù hợp với đặc điểm của công ty. Các chỉ tiêu trên Báo cáo tài chính được trình bày theo đúng mẫu quy định của Bộ tài chính theo từng thời kỳ. Trách nhiệm lập Báo cáo tài chính là của kế toán trưởng kiêm kế toán tổng hợp trong công ty. Các kế toán viên đảm nhiệm các phần hành có trách nhiệm đảm bảo tính chính xác của số liệu cung cấp cho kế toán tổng hợp thực hiện lập Báo cáo tài chính. + Phần mềm kế toán: phần mềm kế toán cùng với việc nối mạng nội bộ trong công ty đã giúp công tác lập, kiểm tra, đối chiếu số liệu trên Báo cáo tài chính của công ty diễn ra nhanh chóng, đảm bảo độ tin cậy hơn. Với phần mềm kế toán đang thử nghiệm, công tác kế toán tại công ty được thực hiện một cách nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm lao động kế toán cũng như giúp phần nào cho việc tổng hợp số liệu để việc lên các Báo cáo tài chính được nhanh chóng, dễ dàng hơn nhiều so với thực hiện kế toán thủ công. Hơn nữa, việc xây dựng mạng nội bộ trong công ty giúp cho việc kiểm tra, đối chiếu số liệu, việc cung cấp thông tin phản hồi cũng kịp thời hơn. Hạn chế: Bên cạnh những ưu điểm trên, công tác lập Báo cáo tài chính của công ty vẫn còn một số hạn chế. + Quy trình lập Báo cáo tài chính: tuy chính sách kế toán của công ty yêu cầu lập dự phòng với các khoản đầu tư tài chính dài hạn và các khoản nợ phải thu khó đòi nhưng thực tế cho thấy trên Bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp không hề xuất hiện các khoản mục dự phòng. Điều đó làm giảm tính chính xác của thông tin kế toán cung cấp, làm ảnh hưởng đến giá trị của các Báo cáo tài chính. Nguyên nhân là do công ty chưa thỏa mãn những điều kiện về trích lập dự phòng do cơ quan Thuế quy định. Việc lập Báo cáo tài chính của công ty mặc dù đã có những sửa đổi cho phù hợp với Quyết định số 15/QĐ/BTC ngày 20 tháng 03 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ tài chính nhưng vẫn còn có những bất cập. Khoản mục doanh thu hoạt động tài chính và chi phí tài chính của doanh nghiệp chưa được chi tiết trên thuyết minh Báo cáo tài chính. Trong phần hành kế toán tài sản cố định, khi doanh nghiệp thực hiện nhượng bán tài sản cố định, phần thu nhượng bán và chi nhượng bán không được hạch toán vào tài khoản 711 – Thu nhập khác và tài khoản 811 – Chi phí khác. Việc hạch toán như vậy không đúng với bản chất của thu nhập và chi phí. Trong phần hành kế toán chi phí, giá thành, doanh nghiệp không sử dụng tài khoản 641 – Chi phí bán hàng. Trên thực tế, tại doanh nghiệp đã phát sinh một số khoản chi phí như chi phí quảng cáo, chi phí hội nghị khách hàng. Những khoản mục chi phí này chiếm tỷ trọng nhỏ nên doanh nghiệp đã hạch toán vào tài khoản 642 – Chi phí quản lý doanh nghiệp. Việc hạch toán như vậy là không đúng với bản chất của chi phí. Mặc dù kế toán trưởng đã kiểm soát khắt khe nhưng vẫn không phát hiện ra những tồn tại trên, do vậy mục tiêu phân loại và trình bày Báo cáo tài chính bị ảnh hưởng. + Phần mềm kế toán: phần mềm kế toán công ty đang sử dụng vẫn chưa được hoàn thiện nên công tác lập Báo cáo tài chính của công ty chưa được tự động hóa hoàn toàn, vẫn còn cơ hội xảy ra sai sót. Hiện nay, do hạn chế về kinh phí nên việc áp dụng phần mềm kế toán mới vẫn chưa được ban lãnh đạo công ty phê duyệt. 3.2.2. Đánh giá về phân tích Báo cáo tài chính tại công ty Ưu điểm: Việc phân tích Báo cáo tài chính tại công ty được thực hiện khá nghiêm túc và có những ưu điểm sau + Lao động kế toán thực hiện phân tích: Công tác phân tích Báo cáo tài chính tại công ty do kế toán trưởng kiêm kế toán tổng hợp thực hiện. Kế toán trưởng tại công ty có trình độ chuyên môn cao và kinh nghiệm làm việc lâu năm. Công việc phân tích Báo cáo tài chính của công ty do một người đảm đương trách nhiệm từ khi thành lập công ty nên có điều kiện bao quát tình hình tài chính tại công ty. Ngoài ra, kế toán trưởng có thể báo cáo trực tiếp với giám đốc công ty nên đảm bảo được tính thời sự của thông tin phân tích. + Nội dung phân tích: các chỉ tiêu được phân tích đều theo quy định của Bộ tài chính, ngoài ra còn bổ sung thêm các chỉ tiêu cần thiết khác. Các chỉ tiêu trong Bản thuyết minh báo cáo tài chính được phân tích khá tỉ mỉ, thêm vào đó, các chỉ tiêu bổ sung cũng được phân tích chi tiết để thấy rõ nguyên nhân biến động của các chỉ tiêu. + Quy trình phân tích: Từng công việc trong quy trình phân tích được thực hiện khá đây đủ như: xác định mục tiêu phân tích Báo cáo tài chính, nội dung phân tích, phạm vi phân tích, thông tin cần thu nhập và thời gian tiến hành. Trong giai đoạn thực hiện phân tích, các công việc phân tích Báo cáo được thực hiện tuần tự từ sưu tầm tài liệu, xử lý số liệu; tính toán các chỉ tiêu phân tích; xác định nguyên nhân và tính toán cụ thể mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến các chỉ tiêu phân tích; tổng hợp kết quả và rút ra nhận xét, kết luận về tình hình tài chính của công ty. + Kết quả phân tích: sản phẩm của phân tích Báo cáo tài chính không chỉ là kết quả phân tích mà còn kèm theo các giải pháp nhằm khắc phục những nhược điểm trong kỳ kế toán phân tích và tiếp tục phát huy những điểm mạnh của doanh nghiệp nhằm nâng cao năng lực tài chính của công ty. Đây là một ưu điểm lớn cần phát huy. Hạn chế: tuy nhiên, trong quá trình thực hiện phân tích Báo cáo tài chính của công ty vẫn không tránh khỏi những hạn chế nhất định. + Lao động kế toán thực hiện phân tích: kế toán trưởng kiêm nhiệm luôn phân tích Báo cáo tài chính làm cho công việc của kế toán trưởng phải thực hiện sẽ rất nhiều, thêm vào đó những đánh giá sẽ mang tính chủ quan hơn. Đặc biệt, khi kết thúc năm tài chính, ngoài việc kiểm soát lập báo cáo, thực hiện công việc hàng ngày, kế toán trưởng còn thực hiện thêm công việc phân tích nên chất lượng công việc phân tích không tránh khỏi bị ảnh hưởng. Công việc này chỉ do một người kiêm nhiệm nên các phân tích và giải pháp vẫn còn mang tính chủ quan. Hiện nay, ban lãnh đạo công ty đang có kế hoạch bổ sung nhân lực cho bộ phận kế toán nhằm khắc phục nhược điểm trên. + Về tổ chức thực hiện phân tích: do hạn chế về lao động kế toán thực hiện phân tích nên việc tổ chức thực hiện phân tích có sự chồng chéo. Kế toán trưởng phải thực hiện cùng lúc quá nhiều công việc vào thời điểm cuối kỳ. + Về phạm vi phân tích: việc phân tích mới chỉ được giới hạn trong phạm vi nội bộ công ty, chưa có sự so sánh với các doanh nghiệp khác trong cùng ngành. Hiện nay, rất ít doanh nghiệp công khai số liệu kế toán trong năm tài chính nên việc thu thập số liệu và so sánh với các doanh nghiệp trong cùng ngành là hết sức khó khăn. Việc đánh giá tình hình tài chính của công ty trong mối tương quan với các doanh nghiệp cùng ngành là không có tính khả thi trong điều kiện thị trường hiện nay. + Về nguồn số liệu dùng trong phân tích: nguồn số liệu dùng trong phân tích của doanh nghiệp chưa thật sự đáng tin cậy vì Báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp chưa được kiểm toán bởi một tổ chức kiểm toán độc lập. + Về phương pháp sử dụng trong phân tích: hiện nay, công ty mới chỉ thực hiện phân tích Báo cáo tài chính thông qua các bảng biểu số liệu. Đối với các nhà phân tích chuyên nghiệp và những người trong cùng lĩnh vực tài chính, việc đọc hiểu hệ thống bảng biểu này là không mấy khó khăn. Tuy nhiên, để các đối tượng quan tâm có được cái nhìn trực quan, rõ ràng, mạch lạc về sự biến động của các chỉ tiêu phân tích thì doanh nghiệp nên sử dụng thêm phương pháp đồ thị. + Về quy trình phân tích: giai đoạn kết thúc phân tích, không có quá trình hoàn chỉnh hồ sơ chính thức về phân tích Báo cáo tài chính mà chỉ lập một bản báo cáo về kết luận sau khi phân tích Báo cáo tài chính kèm theo các bản báo cáo nội bộ để trình ban giám đốc. Quy trình phân tích được thực hiện khá đầy đủ, song khâu công việc cuối cùng thể hiện kết quả công việc lại không được thực hiện. Điều này gây khó khăn cho các đối tượng quan tâm ngoài phạm vi doanh nghiệp mà không thông thạo về đánh giá tài chính doanh nghiệp. Đây cũng là tình trạng chung của các doanh nghiệp hiện nay vì việc giải thích tình hình tài chính của doanh nghiệp bằng một văn bản cụ thể chưa được các cơ quan chức năng yêu cầu. + Về kết quả phân tích: Các biện pháp đề ra sau quá trình thực hiện phân tích chưa được giải trình bằng một văn bản cụ thể, do đó, các biện pháp đề ra đôi khi rất thiết thực và có tính khả thi nhưng chưa được chú ý áp dụng một cách triệt để. Nguyên nhân là do chưa có một yêu cầu nào về việc cung cấp bản giải trình kèm theo này từ phía ban quản lý công ty, công tác phân tích phần nào vẫn mang tính hình thức. Tuy nhiên, qua công tác phân tích tình hình tài chính cho thấy thực trạng kinh doanh cũng như năng lực tài chính của doanh nghiệp là khá tốt. Tổng tài sản tăng qua các năm, cơ cấu tài sản cho thấy những đầu tư mang tính chiều sâu của doanh nghiệp vào tài sản cố định. Tỷ suất lợi nhuận tương đối ổn định tuy tỷ suất này năm 2007 giảm so với năm 2006. Doanh nghiệp chưa chú ý thanh toán các khoản công nợ, tuy nhiên, do tài sản có thể dùng để thanh toán của doanh nghiệp lớn nên khả năng thanh toán của doanh nghiệp vẫn được đảm bảo. + Về nội dung phân tích: mặc dù công tác phân tích Báo cáo tài chính của công ty được thực hiện khá chi tiết và tỷ mỉ nhưng vẫn còn một số nội dung công ty chưa thực hiện phân tích. Công ty chưa thực hiện phân tích cấu trúc tài chính, phân tích từng Báo cáo tài chính, phân tích rủi ro tài chính. Trên thực tế, những nội dung đó mới chỉ được vạch ra trên lý thuyết, không có nhiều doanh nghiệp thực hiện phân tích. Đối với một công ty quy mô nhỏ như công ty cổ phần Vũ Gia thì phân tích tất cả các nội dung đó gây lãng phí nhân lực, không cần thiết và tính ứng dụng của kết quả phân tích không cao. Tồn tại trước mắt trong khâu phân tích Báo cáo tài chính của công ty là việc phân tích tình hình thanh toán của công ty chưa đầy đủ. Công ty chưa thực hiện phân tích các khoản nợ quan trọng, số vòng quay các khoản phải thu và thời gian các khoản phải thu. Công ty chưa ý thức được tầm quan trọng của phân tích các khoản nợ quan trọng. Hiện nay, nhà nước quy định trình tự ưu tiên trong quá trình thanh toán được sắp xếp theo thứ tự sau: thanh toán cho người lao động, nộp ngân sách nhà nước, thanh toán với người bán, thanh toán với người mua và trả nợ ngân hàng. Một doanh nghiệp có hệ số khả năng thanh toán cao mà các khoản nợ người lao động và nợ nhà nước chiếm tỷ trọng cao và có xu hướng tăng qua các năm thì vẫn chưa gây ấn tượng tốt với ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Doanh nghiệp nên tính toán và phân tích chỉ tiêu số vòng quay các khoản phải thu (phải trả) để biết được số dư các khoản phải thu (phải trả) của công ty có ở mức hợp lý không và hiệu quả của việc thu hồi nợ (tốc độ thanh toán các khoản phải trả) có cao không. Doanh nghiệp cũng nên tính toán thêm thời gian quay vòng các khoản phải thu (phải trả). Chỉ tiêu này càng ngắn chứng tỏ tốc độ thu hồi tiền và thanh toán của công ty càng nhanh. Doanh nghiệp chưa thực hiện phân tích mối quan hệ giữa các chỉ tiêu về tỷ suất sinh lời, do vậy, doanh nghiệp chưa nhận thấy lý do sự biến động của các chỉ tiêu này. Việc tính toán đầy đủ các hệ số về hiệu quả kinh doanh như lý thuyết cũng là không cần thiết. 3.3. Sự cần thiết phải hoàn thiện công tác lập Báo cáo tài chính và phân tích Báo cáo tài chính tại công ty Xuất phát từ nhu cầu khách quan hình thành và phát triển của hạch toán kế toán là cung cấp thông tin cho các đối tượng quan tâm, trong điều kiện kinh tế thị trường ngày càng phát triển hiện nay, thông tin kế toán ngày càng đa dạng và nhu cầu nắm bắt thông tin ngày càng cao. Là sản phẩm quan trọng nhất của hệ thống kế toán, hệ thống Báo cáo tài chính ngày càng khẳng định vai trò cung cấp thông tin hữu ích, toàn diện nhất của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Trong điều kiện thị trường cạnh tranh khốc liệt hiện nay, kết quả kinh doanh của công ty không chỉ là mối quan tâm của ban lãnh đạo trong nội bộ công ty mà còn là mối quan tâm của các đối tượng khác như cơ quan chủ quản, các nhà đầu tư, các tổ chức tín dụng, người lao động trong công ty…Các thông tin về kết quả kinh doanh là cơ sở quan trọng để đưa ra quyết định kinh doanh của các đối tượng liên quan: + Đối với các nhà đầu tư bên ngoài công ty, họ quan tâm đến các thông tin về khả năng sinh lời của công ty. Đồng thời, họ cũng muốn xem xét đến khả năng xảy ra rủi ro tiềm tàng liên quan đến khoản đầu tư tài chính của mình. Họ cần những thông tin kịp thời để quyết định thời điểm đầu tư, thời điểm rút vốn và quy mô đầu tư. + Cán bộ công nhân viên cũng quan tâm đến tình hình kinh doanh, thông tin kế toán của công ty vì tình hình tài chính ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình thanh toán lương với công nhân viên. + Ngân hàng và các tổ chức tín dụng quan tâm đến khả năng thanh toán cũng như tình hình lãi lỗ trong kinh doanh của công ty để ra quyết định cho vay được chính xác. Các nhà cung cấp cũng xem xét nhiều khả năng thanh toán của công ty để nhận định xem công ty có đủ khả năng thanh toán tiền hàng hay không. Như vậy, nhu cầu thông tin kế toán ngày càng đòi hỏi tính chính xác, kịp thời. Vì thế, việc hoàn thiện công tác lập Báo cáo tài chính là hết sức bức thiết, nhằm nâng cao chất lượng thông tin, đáp ứng yêu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế. Thực trạng công tác lập và phân tích Báo cáo tài chính của công ty còn những hạn chế nhất định. Để khắc phục những hạn chế đó và nâng cao chất lượng thông tin trên các Báo cáo tài chính, công ty phải không ngừng hoàn thiện lập và trình bày Báo cáo tài chính. Cơ sở để đưa ra biện pháp hoàn thiện hệ thống Báo cáo tài chính, nâng cao chất lượng lập Báo cáo tài chính tại công ty xuất phát từ yêu cầu của thông tin kế toán và nhiệm vụ của công tác kế toán. Hạch toán kế toán với nhiệm vụ thu thập, xử lý và cung cấp thông tin tài chính, kết quả kinh doanh để làm cơ sở cho việc ra quyết định quản lý. Muốn vậy, thông tin kế toán phải được cung cấp kịp thời, chính xác, khách quan. Thông tin trong Báo cáo tài chính là thông tin chung nhất về tình hình hoạt động kinh doanh của công ty, tất cả những người quan tâm có thể nắm bắt, hiểu được tình hình tài chính mà không cần phải tìm hiểu báo cáo chi tiết của công ty. Cùng một thông tin kế toán thì khía cạnh xem xét, đánh giá là khác nhau tùy thuộc vào nhu cầu sử dụng thông tin cũng như vai trò quản lý vĩ mô và lĩnh vực hoạt động. Ví dụ như, đối với vai trò xem xét, đánh giá nhu cầu đầu tư, tại phòng kinh doanh cần các thông tin mang tính thường xuyên, cụ thể chứ không phải các thông tin có tính khái quát cao. Trong khi để đề ra các kế hoạch kinh doanh trong tương lai, ban giám đốc cần các thông tin mang tính tổng hợp cao thể hiện tình hình hoạt động của công ty và thông tin đó có thể là thường xuyên hoặc định kỳ đều được. Điều này chỉ có thể được đáp ứng thông qua việc phân tích cụ thể thực trạng của công ty. Tóm lại, vì những lý do trên, việc hoàn thiện công tác lập và phân tích Báo cáo tài chính là thực sự cần thiết để đảm bảo tính chính xác của thông tin kế toán, mang lại tích cực với hiệu quả hoạt động kinh doanh. Đồng thời, việc khắc phục và hoàn thiện hơn nữa công tác này là một việc làm cần thiết nhằm cung cấp thông tin kế toán dễ hiểu, phù hợp, tin cậy, có thể so sánh vì không phải người đọc báo cáo nào cũng hiểu rõ về công tác kế toán. 3.4. Nội dung hoàn thiện công tác lập và phân tích Báo cáo tài chính tại công ty 3.4.1. Hoàn thiện lập Báo cáo tài chính tại công ty Căn cứ trên những ưu điểm và nhược điểm của công tác lập Báo cáo tài chính tại công ty cổ phần Vũ Gia, em xin đưa ra một số ý kiến sau: + Về lao động kế toán: công ty cần duy trì chất lượng đội ngũ nhân viên kế toán. Trình độ chuyên môn của nhân viên kế toán đều nhau và đạt yêu cầu, mỗi kế toán viên đều có khả năng hoàn thành tốt công việc của mình. Tuy nhiên, vào thời điểm cuối kỳ kế toán, quá nhiều công việc tập trung vào kế toán trưởng khiến chất lượng công việc bị hạn chế. Vì vậy, công ty nên tuyển dụng thêm lao động để giảm thiểu mật độ lao động cho kế toán trưởng và cũng là để nâng cao chất lượng công việc, độ chính xác của thông tin cung cấp trên Báo cáo tài chính. + Về chính sách kế toán áp dụng: công ty cần trích lập dự phòng với các khoản phải thu khó đòi và các khoản đầu tư tài chính dài hạn, đảm bảo nguyên tắc thận trọng trong kế toán, nâng cao tính chính xác của thông tin kế toán trên Báo cáo tài chính. Tuy nhiên, việc trích lập dự phòng là một công việc khó, đòi hỏi kế toán viên có trình độ chuyên môn cao và kinh nghiệm làm việc lâu năm. Đây là tồn tại của nhiều doanh nghiệp hiện nay, không riêng đối với công ty cổ phần Vũ Gia. Doanh nghiệp có thể thuê các công ty kiểm toán độc lập để nhận được ý kiến về tính trung thực và hợp lý của Báo cáo tài chính, đây cũng là một giải pháp tăng độ tin cậy của thông tin cung cấp trên Báo cáo tài chính mà cũng không quá tốn kém. + Về phần mềm kế toán: Hoàn thiện phần mềm kế toán đang sử dụng hoặc thử nghiệm phần mềm kế toán mới, hoàn thiện công tác lập Báo cáo tài chính trên máy. Làm được như vậy không những giảm thiểu khối lượng công việc mà còn tăng độ chính xác. Phương án thử nghiệm phần hành kế toán mới không những tốn kém mà còn có tính rủi ro cao, vì vậy, trong thời gian trước mắt, doanh nghiệp nên xem xét phương án hoàn thiện phần hành kế toán đang sử dụng. Công tác lập Báo cáo tài chính của công ty nói chung là hoàn thiện, đáp ứng đầy đủ yêu cầu về cung cấp thông tin kịp thời, chính xác. Một số hạn chế của công ty sẽ dần được khắc phục trong thời gian tới. 3.4.2. Hoàn thiện phân tích Báo cáo tài chính tại công ty Hiện nay, việc phân tích Báo cáo tài chính của công ty được thực hiện khá cẩn thận so với tình trạng chỉ tính toán các chỉ tiêu theo quy định của phần lớn các doanh nghiệp hiện nay. Bên cạnh những nhược điểm cần phát huy trong thời gian tới, doanh nghiệp cần khắc phục hạn chế trong khâu phân tích Báo cáo tài chính, cụ thể như sau: + Về lao động kế toán và tổ chức thực hiện phân tích: doanh nghiệp nên bổ sung nhân viên kế toán giúp kế toán trưởng phân tích tình hình tài chính vào thời điểm cuối kỳ. Doanh nghiệp không cần thiết phải lập riêng một bộ phận để thực hiện phân tích tình hình tài chính vì đây không phải là công việc tiến hành thường xuyên trong năm. Như vậy, sẽ tránh lãng phí công việc mà vẫn đáp ứng yêu cầu công việc, khắc phục đựoc hạn chế về tổ chức thực hiện phân tích. + Về nguồn số liệu phân tích: doanh nghiệp cần có biện pháp để đảm bảo tính tin cậy của nguồn số liệu phục vụ phân tích. Các Báo cáo tài chính cần được lập và trình bày theo quy định của chế độ và chuẩn mực kế toán hiện hành, được kiểm toán bởi một tổ chức kiểm toán độc lập. Bên cạnh đó, doanh nghiệp vẫn cần tiếp tục hoàn thiện, nâng cao chất lượng của hệ thống báo cáo nội bộ. + Về phương pháp sử dụng trong phân tích: nghiên cứu và đưa ra phương pháp đò thị để công tác phân tích Báo cáo tài chính được hoàn thiện hơn, kết quả phân tích dễ hiểu, có tính so sánh cao. + Về quy trình phân tích: thực hiện lập hồ sơ phân tích định kỳ hàng năm, báo cáo kèm theo bộ Báo cáo tài chính của công ty. + Về kết quả phân tích: các biện pháp đề ra sau phân tích Báo cáo tài chính cần được giải trình cụ thể trên một văn bản, có thể đính kèm hồ sơ phân tích hàng năm. + Về nội dung phân tích: sau thời gian ngắn ngủi thực tập tại công ty cổ phần Vũ Gia, em xin được đưa ra một vài ý kiến bổ sung cho công tác phân tích Báo cáo tài chính tại công ty. Phân tích tình hình thanh toán tại công ty: Số liệu về thanh toán các khoản nợ ngắn hạn qua 3 năm 2005, 2006, 2007 cho thấy tồn tại lớn nhất tại công ty là khoản mục phải trả công nhân viên tăng vọt trong năm 2007. Tuy nhiên, đây là khoản nợ quan trọng nhất theo quy định của nhà nước, việc dây dưa, nợ đọng với công nhân viên cho thấy doanh nghiệp chưa quan tâm đến việc thanh toán tiền lương đúng kỳ hạn cho người lao động. Doanh nghiệp cần khắc phục nhược điểm này để tạo tinh thần phấn khởi cho người lao động trong quá trình làm việc. Phân tích hiệu quả kinh doanh tại công ty: Công ty có thể sử dụng mô hình phân tích tài chính Dupont để làm rõ mối quan hệ giữa các chỉ tiêu về hiệu quả kinh doanh. Tỷ suất lợi nhuận trên Lợi nhuận Doanh thu = ------------------ * ------------------ tổng tài sản (ROA) Doanh thu Tổng tài sản Từ biểu thức trên, công ty xác định mối quan hệ giữa tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản với tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu cũng như hiệu quả sử dụng tài sản theo doanh thu. Hơn thế nữa, công ty xác định được 2 chỉ tiêu còn lại đã ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận như thế nào và sự thay đổi của tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu chủ yếu là do ảnh hưởng của nhân tố nào. Tỷ suất lợi nhuận trên Vốn chủ sở hữu Lợi nhuận = ------------------------ * ----------------------- tổng tài sản (ROA) Tổng tài sản Vốn chủ sở hữu Tương tự như trên, công ty sẽ xác định được sự thay đổi của nhân tố tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản chủ yếu do sự thay đổi của nhân tố tỷ suất tự tài trợ hay tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu. 3.5. Điều kiện thực hiện * Đối với ban lãnh đạo công ty: + Nhanh chóng hoàn thiện phần hành kế toán đang sử dụng bằng cách thuê ngoài hoặc đào tạo cán bộ xây dựng phần mềm kế toán trong nội bộ công ty. + Tạo điều kiện nâng cao chất lượng đội ngũ kế toán và đặc biệt là đội ngũ phân tích Báo cáo tài chính. + Ban lãnh đạo yêu cầu phòng tài chính kế toán cung cấp hồ sơ hoàn chỉnh về phân tích Báo cáo tài chính cùng những biện pháp đề ra. * Đối với những đối tượng quan tâm đế công ty: Các đối tượng quan tâm đến công ty như: nhà đầu tư, ngân hàng và các tổ chức tín dụng, chủ nợ hoặc công nhân viên. Những đối tượng này có trách nhiệm, quyền lợi liên quan đến doanh nghiệp nên họ có thái độ rất thận trọng khi đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp nhằm đưa ra những quyết định đúng đắn. * Đối với các cơ quan chức năng: + Bộ tài chính cần đảm bảo tính khoa học, logic của hệ thống văn bản kế toán đã và sẽ ban hành để dễ dàng phát hiện những mâu thuẫn trong nội dung của các văn bản mà có sự điều chỉnh phù hợp với thực tế công tác hạch toán kế toán tại các doanh nghiệp. + Bộ tài chính cần luôn cập nhật sự biến động của môi trường kinh doanh, những đòi hỏi của nền kinh tế ngày càng phát triển mà có ảnh hưởng đến chế độ kế toán, chế độ Báo cáo tài chính hiện hành để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp và kịp thời. + Khi ban hành các quyết định, Bộ tài chính cần đẩy nhanh việc ban hành các thông tư hướng dẫn kèm theo + Bộ tài chính có thể quy định chi tiết hơn về công tác phân tích Báo cáo tài chính đối với doanh nghiệp, để phân tích Báo cáo tài chính trong từng đơn vị được thực hiện thống nhất hơn, đầy đủ hơn. + Cơ quan thống kê cần công khai hóa số liệu trung bình ngành và những số liệu có thể công bố của các doanh nghiệp, để đảm bảo tính cạnh tranh lành mạnh của nền kinh tế thị trường và cũng cung cấp cơ sở để các doanh nghiệp thực hiện so sánh với tình hình bản thân doanh nghiệp mình. KẾT LUẬN Trong những năm gần đây, hệ thống những quy định liên quan đến Báo cáo tài chính của Việt Nam không ngừng được thay đổi, cho phù hợp với điều kiện mới và cho phù hợp với chuẩn mực kế toán quốc tế. Vai trò cung cấp thông tin trên Báo cáo tài chính không ngừng được nâng cao. Việc lập và trình bày Báo cáo tài chính phải tuân theo đúng chuẩn mực nhằm cung cấp thông tin trung thực và hợp lý cho các đối tượng quan tâm. Hơn thế nữa, thông qua các kết quả phân tích tình hình tài chính, có thể đưa ra các dự báo về kinh tế, các quyết định về tài chính trong ngắn hạn, trung hạn, dài hạn và từ đó có thể đưa ra các quyết định đầu tư đúng đắn. Công ty cổ phần Vũ Gia nhận thức rõ vai trò của lập và phân tích Báo cáo tài chính nên đã không ngừng cải thiện công tác này để đáp ứng nhu cầu về cung cấp thông tin kế toán hữu ích, kịp thời của các đối tượng quan tâm đến hoạt động kinh doanh của công ty. Vì thời gian thực tập có hạn nên việc tìm hiểu công tác lập và phân tích Báo cáo tài chính không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Luận văn này ngoài việc đánh giá ưu nhược điểm của công tác trên còn đưa ra một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHoàn thiện công tác lập và phân tích báo cáo tài chính tại Công ty CP Vũ Gia.DOC
Luận văn liên quan