Báo cáo Thực tập tại bộ kế hoạch – đầu tư

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU1 PHẦN I. TÌM HIỂU CHUNG VỀ ĐƠN VỊ THỰC TẬP2 I. TÌM HIỂU CHUNG VỀ BỘ KẾ HOẠCH - ĐẦU TƯ . 2 1.Lịch sử hình thành và phát triển của Bộ Kế Hoạch – Đầu Tư2 2. Chức năng nhiệm vụ chung của Bộ. 3 3. Cơ cấu tổ chức của Bộ Kế Hoạch - Đầu Tư4 II. TÌM HIỂU CHUNG VỀ VỤ TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ5 1. Lịch sử hình thành và phát triển của Vụ Tài Chính - Tiền Tệ. 5 2. Chức năng nhiệm vụ của Vụ. 6 3. Cơ cấu tổ chức của Vụ Tài Chính - Tiền Tệ. 8 PHẦN II. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP9 I. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG THỰC TẾ CỦA VỤ9 II.ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CỦA VỤ TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ16 1. Về ưu điểm . 16 2. Về tồn tại và hạn chế.17 III. PHƯƠNG HƯỚNG CÔNG TÁC CỦA VỤ TRONG NĂM 2008. 17 PHẦN III. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY18 I. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC18 1. Tình hình tài chính, tiền tệ của Việt Nam giai đoạn 2001- 2005.19 2.Tình hình tài chính tiền tệ của Việt Nam năm 2006, 2007. 20 2.1. Về tài chính và cân đối NSNN20 2.2.Về chính sách tiền tệ, kiểm soát lạm phát và cán cân thanh toán quốc tế.21 II. NHỮNG TỒN TẠI, HẠN CHẾ22 PHẦN IV. ĐỀ XUẤT ĐỀ TÀI. 26 KẾT LUẬN27 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO30 Nếu có thắc mắc gì về bài viết bạn liên hệ tới số ***********

doc31 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2520 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Thực tập tại bộ kế hoạch – đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sách Nhà Nước do Bộ Tài Chính lập, kiểm tra dự án kế hoạch tín dụng do Ngân hàng Nhà Nước lập, đảm bảo cân đối kinh tế quốc dân; lập bảng cân đối thu chi tiền tệ của dân cư để xác định phương hướng phát hành tiền tệ, phương hướng cân đối giữa tiền và hàng; kiểm tra dự án kế hoạch tiền mặt của Ngân hàng Nhà nước; cùng với Uỷ ban Vật giá Nhà nước xác định phương hướng kế hoạch giá cả. Đến năm 1988, chủ nhiệm uỷ ban đã có quyết định sát nhập Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân và Vụ Tài Chính – Giá thành – Giá cả và một bộ phận của vụ đầu tư xây dựng, Vụ vật tư thành Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, do đòi hỏi khách quan của công tác hoạch định chính sách tài chính tiền tệ, ngày 11/11/1989, Chủ nhiệm uỷ ban đã có quyết định thành lập Vụ Tài Chính với chức năng chủ yếu gồm nghiên cứu phương hướng phát triển nền tài chính quốc gia; xây dựng các bảng cân đối kế hoạch tổng hợp về lĩnh vực giá trị của nền kinh tế; xây dựng và tổng hợp kế hoạch thu chi ngân sách Nhà Nước, kế hoạch tín dụng tổng hợp, kế hoạch thu chi tiền mặt và chỉ số giá; giúp uỷ ban trình Hội đồng Bộ trưởng phê chuẩn các chỉ tiêu thu chi của NSNN, tín dụng, tiền mặt và chỉ số giá; kết hợp với Uỷ ban vật giá ban hành bảng giá hiện hành kế hoạch; kiểm tra việc thực hiện các chỉ tiêu về tài chính, tín dụng, giá cả do Hội đồng Bộ trưởng giao và chính sách đã ban hành. Tháng 4/ 1995, Chủ nhiệm Uỷ ban đã có quyết định số 86 UB/TCCB đổi tên Vụ thành Vụ Tài Chính - Tiền Tệ. Từ cuối những năm 90, số lượng cán bộ ổn định vào khoảng 20 cán bộ cho đến nay. Chức năng nhiệm vụ của Vụ Trong thời kỳ trước năm 1986, nhiệm vụ của Vụ Tài Chính - Tiền Tệ được giao rất nặng nề và to lớn. Hàng năm, Vụ phải tham mưa cho Bộ ( UNKHNN) xây dựng được bảng cân đối tổng hợp và thu chi tiền tệ dân cư. Đây là một trong số các cân đối lớn hàng năm Bộ phải báo cáo Bộ Chính Trị, Ban Bí Thư và Thủ Tướng xem xét quyết định. Ngoài cân đối trên, Bộ còn giao cho Vụ nhiệm vụ xây dựng chỉ tiêu giá thành giá cả và phí lưu thông hợp lý giao cho các Bộ, ngành căn cứ trên chế độ lập kế hoạch, hạch toán và thống kê giá thành. Đến giai đoạn đổi mới, từ sau năm 1986, xuất phát từ chủ trương đường lối đổi mới theo định hướng chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhiệm vụ của Vụ Tài Chính - Tiền Tệ cũng được thay đổi cho phù hợp với thực tế. Các nhiệm vụ mang tính cụ thể, vi mô trước đây đã được thay thế dần bằng việc hoạch định các chính sách và cân đối mang tính vĩ mô. Tháng 4/1996, Bộ trưởng Bộ Kế Hoạch - Đầu Tư đã có quyết định số 97 BKH/TCCB, căn cứ Nghị định số 75/CP, quy định về chức năng nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Vụ Tài Chính - Tiền Tệ với những nội dung chính gồm: Xác định phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch của lĩnh vực tài chính, tiền tệ, giá cả. Xây dựng các bảng cân đối tổng hợp về tài chính - tiền tệ trong thời kỳ kế hoạch: cân đối tài chính, cân đối ngân sách Nhà nước, cân đối tổng thể tiền tệ, cân đối tín dụng, cân đối tiền mặt, cân đối thanh toán quốc tế, cân đối ngoại tệ, cân đối tiền hàng và các giải pháp thực hiện các cân đối trên; xác định chỉ số lạm phát dự kiến trong kỳ kế hoạch. Tham gia với Bộ Tài Chính phân bổ kế hoạch thu chi ngân sách trong kỳ kế hoạch cho các Bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ và các địa phương. Phối hợp với các Vụ trong Bộ, với Bộ Tài Chính và các Bộ, Ngành xác định kinh phí cho các dự án, chương trình quốc gia( thuộc khoản chi thường xuyên của ngân sách) và phân bổ kinh phí của các chương trình, dự án cho các ngành địa phương, các đơn vị sử dụng. Nghiên cứu đề xuất các chủ trương biện pháp và cơ chế chính sách lớn trên lĩnh vực tài chính, tiền tệ, giá cả. Kiểm tra, theo dõi và lập báo cáo quý, 6 tháng, 9 tháng và hàng năm việc thực hiện kế hoạch tài chính tiền tệ, giá cả. Phối hợp với Bộ Tài Chính giải quyết các nhu cầu đột xuất, phát sinh ngoài kế hoạch thu, chi NSNN. Làm đầu mối tổng hợp kế hoạch của một số cơ quan. Ngày 19/8/2003, Bộ trưởng đã có quyết định số 608/QĐ-BKHĐT về chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Vụ Tài Chính - Tiền Tệ với các nhiệm vụ chủ yếu sau: Xác định phương hướng nhiệm vụ kế hoạch của lĩnh vực tài chính, tiền tệ và giá cả từng thời kỳ kế hoạch Chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan xây dựng các cân đối tổng hợp về tài chính, tiền tệ trong thời kỳ kế hoạch. Làm đầu mối phối hợp với Bộ Tài Chính phân bổ kế hoạch thu chi ngân sách, đề xuất nguồn bổ sung nhu cầu phát sinh đột xuất ngoài kế hoạch. Phối hợp phân bổ cơ cấu ngân sách Trung ương trong lĩnh vực đầu tư phát triển. Phối hợp phân bổ vốn bổ sung dự trữ Nhà nước. Tổng hợp vốn hỗ trợ, vốn tín dụng Nhà nước, vốn góp cổ phần liên doanh. Tổng hợp các chỉ tiêu giá trị nền kinh tế về tài chính, tiền tệ, tín dụng và giá cả. Tổng hợp phương án phân bổ vốn của chương trình mục tiêu quốc gia, phối hợp với các đơn vị phân bổ từng chương trình cụ thể. Phối hợp tổng hợp kinh phí điều tra cơ bản. Phối hợp lập kế hoạch giải ngân, vay, trả nợ vốn ODA. Nghiên cứu đề xuất các chủ trương, biện pháp, cơ chế chính sách về tài chính, tiền tệ và giá cả. Chủ trương soạn thảo cơ chế chính sách cụ thể khi được giao. Tham gia xây dựng và thẩm định các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế chính sách trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ và giá cả để các bộ, ngành trình ban hành theo thẩm quyền. Theo dõi, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch tài chính, tiền tệ, giá cả, báo cáo tình hình: tháng, quý và hàng năm, đề xuất các giải pháp xử lý những vướng mắc trong quá trình thực hiện kế hoạch. Làm đầu mối tổng hợp kế hoạch của: Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước và toàn ngành ngân hàng (trừ Ngân hàng Chính sách xã hội), Quỹ hỗ trợ phát triển, các Quỹ tài chính, Kiểm toán Nhà nước, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước Thực hiện các nhiệm vụ khác do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư giao. Nhiệm vụ của Vụ Tài Chính - Tiền Tệ ngày càng được mở rộng và đổi mơi về nội dung, phù hợp với xu hướng đổi mới của nền kinh tế trong đó có nhiều chức năng do Vụ chủ trì thực hiện. Vụ Tài Chính - Tiền Tệ ngày càng có những đóng góp quan trọng vào điều hành chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng. 3.Cơ cấu tổ chức của Vụ Tài Chính - Tiền Tệ Vụ Trưởng Vụ Phó Vụ Phó Vụ Phó Nhóm tiền tệ Nhóm tài chính Vụ Tài Chính - Tiền Tệ được tổ chức thành 2 bộ phận là: nhóm tài chính và nhóm tiền tệ. Nhóm tài chính có chức năng thực hiện tất cả các nhiệm vụ được giao có liên quan tới lĩnh vực tài chính như: tham gia xây dựng kế hoạch thu chi ngân sách, phối hợp phân bổ thu chi ngân sách, tổng hợp vốn đầu tư phát triển, phân bổ vốn cho chương trình mục tiêu quốc gia, lập kế hoạch giải ngân, vay, trả nợ ODA….Nhóm tiền tệ có chức năng thực hiện các nhiệm vụ được giao có liên quan tới lĩnh vực tiền tệ như: tham gia xây dựng kế hoạch cung ứng tiền tệ, xây dựng các chính sách tiền tệ, kiểm soát, điều chỉnh lượng cung tiền trong lưu thông, theo dõi đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch tiền tệ, ….Vụ làm việc theo chế độ chuyên viên. Biên chế của Vụ do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư quyết định riêng. PHẦN II. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG THỰC TẾ CỦA VỤ Với một đội ngũ cán bộ không nhiều nhưng công việc phải triển khai thực hiện trong suốt những năm qua của Vụ Tài Chính - Tiền Tệ là khá lớn. Với chức năng là tham mưu cho Lãnh đạo Bộ về cơ chế, chính sách tài chính tiền tệ và kết hợp với các Bộ xây dựng các cân đối lớn như giá, lương, tiền, cân đối tiền tệ, cân đối ngân sách, cân đối ngoại tệ, cán cân thanh toán quốc tế...trong thời gian qua Vụ Tài Chính - Tiền Tệ đã tham gia vào các hoạt động sau: Thứ nhất, trong công tác xây dựng kế hoạch và cân đối NSNN Một trong những nhiệm vụ thường xuyên của Vụ Tài Chính - Tiền Tệ là công tác xây dựng kế hoạch và cân đối NSNN. Vụ Tài Chính - Tiền Tệ đóng vai trò khởi đầu trong quy trình xây dựng cân đối NSNN thông qua việc đưa ra các định hướng và các cân đối vĩ mô để trên cơ sở đó tính toán các chỉ tiêu NSNN. Vụ đã chủ động tính toán khả năng thực hiện thu, chi NSNN, trong đó ước thực hiện thu NSNN từ các nguồn thu nội địa, thu từ dầu thô một cách tích cực để có căn cứ thảo luận với Bộ Tài Chính. Trong lĩnh vực này, Vụ Tài Chính - Tiền Tệ luôn thể hiện năng lực nghiên cứu độc lập với các quan điểm khách quan, kiên quyết và đảm bảo được các nguyên tắc tài chính, góp phần giữ vững vai trò, vị thế của Bộ Kế Hoạch - Đầu Tư trong quá trình hoạch định các chính sách kinh tế. Sự phối hợp giữa Vụ Tài Chính - Tiền Tệ , Bộ Kế Hoạch - Đầu Tư với Vụ NSNN và các Vụ, Tổng cục của Bộ Tài Chính ngày càng hiệu quả và đạt được những bước tiến đáng kể, thể hiện sự đồng thuận cao trong công tác Tài chính và Ngân sách. Hai bên đã nhất trí tính toán cân đối NSNN về các nguồn thu doanh nghiệp ngoài nhà nước, thu từ khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Vụ Tài Chính - Tiền Tệ đã đưa ra những cải tiến và đề xuất phương pháp tiếp cận mới trong việc xác định khung NSNN trên cơ sở đó các kiến nghị của Bộ Kế Hoạch - Đầu Tư thời gian qua vừa có tính tích cực vừa hiện thực và vững chắc được Chính phủ chấp nhận. Trước kia, khi cân đối NSNN, phương pháp của Bộ Tài Chính là chỉ dựa trên số liệu lịch sử của các năm thực hiên từ đó xác định tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu và tính ra dự kiến các chỉ tiêu cho năm kế hoạch. Vụ Tài Chính - Tiền Tệ đã đưa ra phương pháp tiếp cận tính toán các chỉ tiêu kế hoạch NSNN mà cơ bản là các khoản thu, chi và thâm hụt NSNN dựa trên giá trị tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Cách tiếp cận vĩ mô để tính tổng thu NSNN của Vụ Tài Chính - Tiền Tệ đã đưa ra mức thu sát với thực tế hơn, điều đó chứng tỏ phương pháp đề ra là đúng đắn. Thông qua việc sử dụng tiếp cận mới này, Vụ Tài Chính - Tiền Tệ trong quá trình xây dựng kế hoạch ngân sách hàng năm đã chứng minh khả năng thu hiện thực thường cao hơn nhiều so với cách tính toán của Bộ Tài Chính và do đó đã được lãnh đạo Bộ và Chính Phủ chấp nhận. Thu NSNN từ chổ không đủ chi thường xuyên đến có tích luỹ và đáp ứng lượng vốn lớn cho đầu tư phát triển trong đó có chi xây dựng cơ bản. Mức thu NSNN những năm qua đã tăng dần qua các năm. Bội chi NSNN cũng đã được tính toán căn cứ trên GDP. Vụ Tài Chính - Tiền Tệ cũng đã đưa ra một số nguyên tắc khác và quán triệt trong quá trình tính toán NSNN, trong đó có nguyên tắc đẩy mạnh thu nội địa, tạo ra sự vững chắc trong thu ngân sách bằng cách tránh thất thu và nuôi dưỡng nguồn thu. Về chi NSNN, Vụ Tài Chính - Tiền Tệ cũng đã đề xuất và kiên định nguyên tắc “lường thu mà chi”, có thu mới chi, không có thu thì cắt giảm chi. Đây là những nguyên tắc tưởng chừng như đơn giản nhưng lại vô cùng quan trọng, nó đảm bảo cho sự chi tiêu đúng mức, tiết kiệm và bảo đảm ổn định nền kinh tế, không để xảy ra tình trạng chi tiêu quá mức khả năng có thể của nền kinh tế. Vụ cũng đưa ra nguyên tắc tốc độ tăng chi đầu tư phát triển trong NSNN phải cao hơn tốc độ tăng chi thường xuyên, do vậy trong những năm qua chi đầu tư phát triển trên tổng chi NSNN trong những năm qua luôn đạt cao ở mức trên 28% tổng chi NSNN. Vụ Tài Chính - Tiền Tệ đã tích cực nghiên cứu triển khai cùng Bộ Tài Chính Kế hoạch chi tiêu trung hạn NSNN( MTEF), áp dụng thí điểm cho một số ngành với nội dung chủ yếu: phân bổ NSNN 3 năm; chi NSNN theo mô hình trên xuống, dưới lên; gắn đặc biệt với các đối tượng ưu tiên. Công tác xây dựng dự toán NSNN từng bước căn cứ vào mục tiêu, chương trình và kết quả đầu ra đã được xác lập và đẩy mạnh. Có thể nói, công tác xây dựng kế hoạch và cân đối ngân sách ngày càng được Vụ thực hiện với chất lượng cao hơn, nguồn thu - chi được tính toán, rà soát chặt chẽ hơn. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, Vụ đã đưa ra những đề xuất cải tiến hiệu quả, phù hợp. Tuy nhiên, quản lý thu chi ngân sách vẫn còn nhiều bất cập như tình trạng trốn lậu thuế, thất thoát, lãng phí…Trong thời gian tới Vụ cần chú trọng hơn công tác quản lý NSNN, triển khai áp dụng khung khổ chi tiêu NS trung hạn. Thứ hai, Trong công tác xây dựng, triển khai thực hiện và theo dõi, đánh giá thực hiện kế hoạch Tiền tệ. Hàng năm, Vụ Tài Chính - Tiền Tệ tổng kết công tác triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trong đó có kế hoạch về tiền tệ, tín dụng năm hiện tại và xây dựng kế hoạch năm tới trong khoảng từ tháng 6 đến tháng 10 trước khi Ngân hàng Nhà nước có báo cáo đánh giá tình hình tiền tệ, tín dụng và dự kiến năm sau. Vụ Tài Chính - Tiền Tệ đưa ra những đánh giá về tình hình tiền tệ, tín dụng trong năm và dự kiến kế hoạch về tiền tệ như: số lượng và tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán, số lượng và tốc độ tăng dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế, tiền cung ứng, tiền phát hành dự kiến và một số chỉ tiêu khác như mua ngoại tệ, tỷ giá và các chính sách lãi suất, các công cụ tiền tệ đã được ngành Kế Hoạch dự thảo. Trong khoảng thời gian từ năm 2000- 2005, kế hoạch tiền tệ đã được Vụ xây dựng khá khả thi, góp phần ổn định tình hình tiền tệ, giá cả, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trong khoảng 2 năm gần đây, việc dự báo những biến động của tình hình giá cả thế giới và trong nước chưa lường trước được những biến động lớn. Công tác điều hành tiền tệ chưa hợp lý. Do đó, kế hoạch tiền tệ đề ra không thực hiện được. Tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán vượt mức kế hoạch, giá cả tăng cao. Thứ ba, Tham gia xây dựng các văn bản pháp luật, các chính sách tài chính, tiền tệ và đổi mới hệ thống ngân hàng Vụ Tài Chính - Tiền Tệ đã cùng với Ngân hàng Nhà nước phối hợp trong hoạch định và đề xuất chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng. Các chính sách về tỷ giá, quản lý ngoại hối, chính sách lãi suất, sử dụng các công cụ tiền tệ đã được Vụ nghiên cứu và đề xuất trong các giai đoạn phát triển kinh tế như: Các chính sách nhằm Hạn chế tác động của khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở các nước Đông Nam Á vào nước ta. Những năm 1997 – 1998, các nước Đông Nam Á lâm vào cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trầm trọng, đe doạ sự phát triển và ổn định kinh tế nước ta. Trước tình hình đó, Vụ Tài Chính - Tiền Tệ đã được giao nhiệm vụ cố vấn cho Bộ Kế Hoạch - Đầu Tư đưa ra các giải pháp hạn chế tác động của cuộc khủng hoảng khu vực vào nước ta. Các chính sách điều chỉnh tỷ giá theo biên độ, hạn chế nhập khẩu để giảm nhu cầu về ngoại tệ, bắt buộc các đơn vị kinh tế có thu ngoại tệ phải bán cho Ngân hàng, hạn chế đưa ngoại tệ ra nước ngoài. Vay và trả nợ nước ngoài được đẩy mạnh kiểm tra, giám sát…Các biện pháp chính sách trên đã hạn chế tối đa tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng khu vực, đảm bảo cho tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam tiếp tục được duy trì ở mức cao thời gian 10 năm qua. Xây dựng chính sách kích cầu nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bước sang năm 1998 – 2000, nền kinh tế có dấu hiệu thiểu phát do chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực. Do đó, Vụ Tài Chính - Tiền Tệ đã cùng tham gia xây dựng giải pháp kích cầu nhằm hạn chế thiểu phát để đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển cao. Trong các giải pháp đó có giải pháp bơm thêm vốn vào đầu tư nhằm kích cầu sản xuất. Các chính sách kích cầu tiêu dùng đã được ban hành. Việc mua trả góp, mua trả chậm hàng tiêu dùng hay vay vốn để xây dựng nhà cửa hoặc mua hàng đã được triển khai rộng. Tham gia xây dựng hệ thống giải pháp và chính sách chống lạm phát Vụ Tài Chính - Tiền Tệ đã đưa ra các biện pháp kiểm soát chi tiêu NSNN, tiết kiệm chi trong chi thường xuyên và nâng cao hiệu quả trong chi đầu tư bằng việc cắt giảm hoặc đình hoản các công trình đầu tư kéo dài kém hiệu quả. Khống chế tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán, tốc độ huy động vốn, hạn mức tín dụng và điều chỉnh linh hoạt và ổn định tương đối tỷ giá hối đoái, chính sách lãi suất dương, các công cụ tiền tệ. Trước xu thế mở cửa hội nhập và phát triển kinh tế thị trường mạnh mẽ, Vụ Tài Chính - Tiền Tệ đã đề xuất áp dụng tỷ giá linh hoạt theo thị trường có điều tiết phù hợp của Nhà nước và ổn đinh từng bước. Chính sách tiền tệ đã được vận dụng linh hoạt, thận trọng với kế hoạch tăng trưởng phương tiện thanh toán ở mức 20 – 24% năm, nguồn vốn huy động tăng ở mức 22 – 25 % và dư nợ tín dụng tăng ở mức 20 – 23%( năm 2005) đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng cao và vững chắc. Trong cân đối kế hoạch Vụ cũng tính toán tới lượng tiền cung ứng, phát hành thêm ở mức không gây tăng đột biến về tiền tệ ra thị trường. Vụ Tài Chính - Tiền Tệ thường xuyên theo dõi tình hình biến động giá cả và có những kiến nghị về chính sách và điều hành tiền tệ qua các báo cáo tháng tường trình Chính phủ. Vụ Tài Chính - Tiền Tệ cũng đã tập trung nghiên cứu khá cụ thể về chính sách thuế, tài chính doanh nghiệp. Vụ đã có nhiều kiến nghị về mức thuế, quản lý tài chính doanh nghiệp, về việc bỏ tỷ lệ kết hối ngoại tệ. Vụ đã tham gia đóng góp vào nhiều văn bản pháp quy liên quan đến lĩnh vực ngân hàng, tiền tệ, tín dụng. Tham gia xây dựng các Luật Ngân Sách, Các Luật thuế, Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng, Luật Đất đai, … và hệ thống các văn bản nghị định, thông tư hướng dẫn. Phối hợp cùng các vụ, cục của Bộ Tài Chính như: Vụ ngân sách nhà nước, vụ hành chính sự nghiệp, vụ tài chính đối ngoại, tổng cục thuế, kho bạc nhà nước, uỷ ban chứng khoán nhà nước….cùng xây dựng cơ chế chính sách liên quan tới tài chính, tiền tệ. Vụ Tài Chính - Tiền Tệ đã đóng góp phần quan trọng trong công cuộc đổi mới hệ thống ngân hàng, cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại đặc biệt cơ cấu tài chính của các ngân hàng thương mại nhà nước. Việc xử lý hàng ngàn tỷ đồng nợ tồn đọng và lành mạnh hoá tài chính cho các ngân hàng thương mại nhà nước đều có sự tham gia và quyết định của Vụ Tài Chính - Tiền Tệ. . Thứ tư, Tham gia xây dựng chiến lược vay và trả nợ nước ngoài đến năm 2010 Vào năm 1996, khi vấn đề vay và trả nợ nước ngoài được đặt ra, vấn đề làm thế nào để quản lý tốt công tác vay và trả nợ nước ngoài và làm thế nào để Việt Nam không gặp phải những sai lầm như một số nước khác đi vay vốn nước ngoài và để lại gánh nặng nợ nước ngoài cho thế hệ hậu thế được đặt ra bức thiết. Trước tình hình đó, Vụ Tài Chính - Tiền Tệ, Bộ Kế Hoạch - Đầu Tư cùng Bộ Tài Chính và Ngân hàng Nhà nước đã cùng tham gia xây dựng chiến lược vay và trả nợ nước ngoài đến năm 2030. Việc tính toán vay và trả nợ nước ngoài đã được tính toán cho từng năm, tổng dư nợ nước ngoài, nợ của Chính phủ, nợ của doanh nghiệp, nghĩa vụ nợ phải trả ( gốc và lãi), hạn mức vay nợ, giới hạn an toàn và các giải pháp vay và trả nợ có hiệu quả. Tuy nhiên, công tác tính toán nợ đến năm 2030 là cực kỳ khó khăn không chỉ vì các số liệu mà còn vì chiến lược phát triển kinh tế xã hội nước ta đến 2010 còn đang trong quá trình dự thảo, chiến lược tài chính, chiến lược huy động vốn chưa có. Hơn nữa, với thời hạn hơn 30 năm thì tình hình trong nước và thế giới có nhiều biến động chưa lường hết được. Do vậy, chiến lược vay và trả nợ nước ngoài được xây dựng đến năm 2010, và tầm nhìn đến năm 2030. Chiến lược vay và trả nợ nước ngoài đã được Chính phủ và Bộ chính trị thông qua năm 2004 và trở thành một văn kiện quan trọng để định hướng công tác vay và trả nợ nước ngoài của Nhà nước, Chính phủ, các Bộ, ngành và các địa phương trong thời gian tới, nó là căn cứ và biện pháp bảo đảm vay và trả nợ nước ngoài có hiệu quả, tránh được gánh nặng nợ trong tương lai. Thứ năm, Vụ đã tiến hành phân bổ vốn cho Chương trình Mục tiêu Quốc gia( CTMTQG), tham gia công tác tín dụng xoá đói giảm nghèo. Vụ đã tiến hành triển khai phân bổ nguồn vốn, khảo sát đánh giá tình hình thực hiện, đề xuất các giải pháp quản lý Chương trình mục tiêu Quốc gia gồm: CTMTQG về Văn hoá, CTMTQG nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, CTMTQG giảm nghèo, CTMTQG việc làm, CTMTQG phòng chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm và HIV/AIDS, CTMTQG vệ sinh an toàn thực phẩm, CTMTQG phòng chống ma tuý, CTMTQG sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, CTMTQG dân số và kế hoạch hoá gia đình,CTMTQG giáo dục và đào tạo, Chương trình 135. Từ năm 2004, Vụ Tài Chính - Tiền Tệ đã tập trung nghiên cứu đề xuất các giải pháp tháo gỡ cho Ngân hàng Chính sách xã hội như tăng vốn điều lệ, cơ chế tài chính cho Ngân hàng chính sách. Thứ sáu, Tiến hành tổng hợp, phân bổ các nguồn vốn tín dụng. Năm 2007, Vụ đã tổng hợp tình hình thực hiện các dự án nhóm A, tín dụng ưu đãi đầu tư, tín dụng chính sách và đề xuất cơ chế chính sách tháo gỡ khó khăn trình Thủ tướng Chính phủ. Công tác giám sát, kiểm tra đầu tư nguồn vốn tín dụng ưu đãi đầu tư đã được triển khai và thực hiện một cách chủ động, tháo gỡ nhiều vướng mắc cho nhiều dự án đầu tư. Trình thủ tướng Chính phủ kiến nghị tháo gỡ vướng mắc cho các dự án vay vốn tín dụng ưu đãi, vướng mắc về cơ chế chính sách, vốn điều lệ, vốn cấp bù chênh lệch lãi suất cho Ngân hành Phát triển Việt Nam và Ngân hành Chính sách Xã hội. Thứ bảy, Góp phần lớn vào sự ra đời của hệ thống dịch vụ tiết kiệm bưu điện Vào năm 1995, các chuyên gia của Bộ Kế Hoạch - Đầu Tư sau một lần khảo sát Nhật Bản và thăm công ty tiết kiệm Bưu điện Nhật Bản đã nhận thấy đây là một mô hình tốt có thể huy động được vốn nhàn rỗi với các khoản nhỏ lẽ trong dân ở mọi miền đất nước để đầu tư cho phát triển vì mạng lưới bưu cục( bưu điện) ở khắp nơi từ thành thị đến nông thôn, từ vùng đồng bằng đến vùng núi cao, vùng sâu vùng xa. Từ đó, Vụ Tài Chính - Tiền Tệ đã chủ trì tiến hành các cuộc hội thảo, đề án nghiên cứu và kết quả là năm 1999 công ty Dịch vụ Tiết kiệm ra đời. Từ khi ra đời đến nay công ty Dịch vụ Tiết kiêm bưu điện đã huy động được một lượng vốn khá lớn đóng góp cho đầu tư phát triển. Ngoài ra, Vụ Tài Chính - Tiền Tệ còn triển khai nhiều đề tài khoa học về ngân sách, tài chính, tiền tệ, tín dụng để hỗ trợ cho công tác hoạch định chính sách trong lĩnh vực tài chính, tài khoá, tiền tệ, ngân hàng như: nâng cao hiệu quả chi NSNN; đổi mới phương thức cân đối NSNN; khảo sát nghiên cứu tình hình tài chính doanh nghiệp; dự báo tiền tệ trong nền kinh tế thị trường; cung, cầu vốn trong công tác kế hoạch hoá; lạm phát và tăng trưởng kinh tế trong nền kinh tế thị trường; giải pháp về vay, trả nợ nước ngoài; chính sách tỷ giá và quản lý ngoại hối; nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng cho phát triển nông nghiệp nông thôn.. Đến cuối năm 2007, Vụ đã trình Thủ tướng Chính phủ các báo cáo và đề án: Báo cáo kết quả thẩm định đề án “ giải pháp huy động vốn và xã hội hoá nguồn lực cho đầu tư phát triển” ; Báo cáo về các giải pháp chủ yếu kiểm soát lạm phát năm 2007 ; Báo cáo đánh giá về kết quả thực hiện các giải pháp kiềm chế lạm phát và các giải pháp cho các tháng cuối năm 2007; Một số giải pháp kiềm chế lạm pháp; Tình hình giá cả thị trường năm 2007 và các giải pháp; Báo cáo đánh giá 4 năm triển khai thực hiện Luật NSNN; Báo cáo đánh giá vốn đầu tư phát triển, cải thiện môi trường kinh doanh và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế năm 2007 và các giải pháp cho năm 2008; Báo cáo về danh mục các dự án vay vốn ngoại tệ và cơ chế chính sách. Các báo cáo và đề án trình Lãnh đạo Bộ: Báo cáo đánh giá tình hình tài chính, tiền tệ 2007, dự kiến kế hoạch 2008; Báo cáo tình hình tài chính tiền tệ hàng tháng, hàng quý; Báo cáo tình hình tiền tệ, tín dụng, tín dụng ưu đãi và tín dụng chính sách; Báo cáo về xây dựng đề cương chiến lược phát triển Tài chính - Tiền tệ; Báo cáo về cơ chế chính sách quản lý thị trường Chứng khoán; Báo cáo về phát triển dịch vụ tài chính, ngân hàng năm 2007 và định hướng 2008. Các công việc tham mưu cơ chế chính sách: tham gia cùng NHNN soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan tới tiền tệ, tín dụng; Tham gia xây dựng dự án luật thuế; Tham gia dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hải quan; Tham gia soạn thảo Luật Bảo hiểm tiền gửi… Hiện nay, để chuẩn bị xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2010 – 2020, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2010 – 2015, Vụ Tài Chính - Tiền Tệ cũng đã và đang hoạch định chính sách tài chính, tài khoá, tiền tệ, tín dụng và các cân đối NSNN, cân đối tiền tệ, cán cân thanh toán cho giai đoạn sắp tới. II. ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CỦA VỤ TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Qua các công tác mà Vụ Tài Chính - Tiền Tệ đã triển khai thực hiện ta có thể tóm tắt một số ưu điểm và tồn tại của Vụ trong thời gian qua. 1. Về ưu điểm Vụ Tài Chính - Tiền Tệ luôn chấp hành nghiêm chỉnh và thực hiện tốt các chức năng của Bộ giao cho. Chất lượng và kết quả công tác ngày càng được nâng cao. Vụ Tài Chính - Tiền Tệ đã chủ trì đưa ra và thực hiện các giải pháp, chính sách về tài chính tiền tệ để ổn định và phát triển kinh tế và thực tiễn đem lại nhiều kết quả thiết thực, nhiều thành công trong thời gian qua. Nhiều nhiệm vụ đột xuất đã được Vụ giải quyết nhanh, kịp thời, hiệu quả và chất lượng, công tác của Vụ không ngừng được nâng cao. Có thể khẳng định trong mỗi sự phát triển và thành công của lĩnh vực tài chính, tiền tệ đều có sự đóng góp quan trọng của Vụ Tài Chính - Tiền Tệ. Tập thể cán bộ của Vụ Tài Chính - Tiền Tệ với trình độ cao, tinh thần trách nhiệm cao đã thực hiện tốt những nhiệm vụ được giao, cố gắng vượt khó khăn hoàn thành nhiệm vụ đề ra mặc dù công tác tài chính tiền tệ ngày một phức tạp và khó khăn với sự hội nhập ngày càng sâu rộng của nền kinh tế. Sự phân công và kế hoạch công tác luôn được đề ra từ đầu năm đối với cả Vụ và từng cán bộ. Vụ đã bám sát chủ trương chính sách và chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Chính phủ và cấp trên, sự chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ, chủ động nghiên cứu đề xuất được nhiều cơ chế chính sách với chất lượng ngày càng cao. Lãnh đạo Vụ cùng cán bộ Vụ đã nỗ lực, tích cực chủ động phối hợp với các Vụ trong Bộ, các Bộ, ngành, địa phương trên tinh thần hợp tác, đoàn kết và xây dựng, do đó đã khắc phục được những tồn tại trong quan hệ phối hợp công tác với các đơn vị. Vụ đã mở rộng và phối hợp với một số tổ chức quốc tế trong việc xin hỗ trợ kinh phí công tác chuyên môn như: WB, Ausaid, Quỹ tín thác đa biên,… Nhiều cán bộ trong Vụ đã tích cực tham gia nghiên cứu khoa học, học tập để nâng cao kiến thức chuyên môn và đồng thời sử dụng kết quả nghiên cứu vào phục vụ cho công tác xây dựng và hoạch định chính sách tài chính - tiền tệ. 2. Về tồn tại và hạn chế. Lực lượng cán bộ của Vụ còn quá mỏng so với lượng công việc ngày một nhiều và khó. Hiện nay, tổng cán bộ của Vụ là 19 người, có nhiều cán bộ đang đi công tác và học tập ở nước ngoài. Do đó, dù đã nỗ lực thực hiện nhưng kết quả đạt được cũng còn có mặt chưa đáp ứng được hết đòi hỏi hiện nay của Bộ, của nền kinh tế. Trong tập thể vẫn còn một vài cán bộ chưa chấp hành đúng nội quy giờ giấc của Vụ, công việc hoàn thành chưa đúng tiến độ. Một số lĩnh vực thuộc chức năng, nhiệm vụ được giao nhưng còn chưa thực hiện tốt Chế độ thông tin, báo cáo phục vụ cho công tác tổng hợp của Vụ còn nhiều hạn chế, tính cập nhật và chính xác của thông tin chưa thật cao gây khó khăn cho việc tính toán tổng hợp và dự báo để đưa ra các định hướng, các chỉ tiêu kế hoạch và các giải pháp thúc đẩy thực hiện hay tháo gỡ các vướng mắc, khó khăn gặp phải. Công tác phối hợp với các cơ quan khác có liên quan trong một số lĩnh vực còn bị động, chưa thật sự hiệu quả và còn có phần chồng chéo về chức năng. Chức năng, nhiệm vụ của Vụ Tài Chính – Tiền Tệ thuộc Bộ Kế Hoạch Đầu Tư với các Vụ thuộc Bộ Tài Chính còn chưa phân định rõ ràng, có phần trùng lặp, chồng chéo trong việc tính toán các chỉ tiêu thu, chi NSNN, phân bổ cơ cấu ngân sách Trung ương, tổng hợp vốn hỗ trợ, vốn tín dụng Nhà Nước…..Do đó, sự phối hợp chưa mang lại hiệu quả cao, chưa đạt được sự thống nhất về tài chính, tiền tệ. III. PHƯƠNG HƯỚNG CÔNG TÁC CỦA VỤ TRONG NĂM 2008 Trong năm 2008, thực hiện các chức năng, nhiệm vụ đã được được lãnh đạo Bộ giao, trên cơ sở chương trình hành động của Chính phủ để thực hiện kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2006 – 2010 và kế hoạch năm 2008 của Bộ Kế Hoạch - Đầu Tư, thực hiện các Nghị quyết của Đảng, của Quốc Hội, Vụ Tài Chính - Tiền Tệ xây dựng chương trình công tác năm 2008 bao gồm các nội dung chính sau: Ổn định tổ chức của Vụ Tiếp tục nghiên cứu các cơ chế, chính sách để thực hiện kế hoạch tài chính, tiền tệ năm 2008; chuẩn bị các báo cáo hàng tháng, quý, năm. Đánh giá tình hình thực hiện tiền tệ tín dụng 2008 và xây dựng kế hoạch tiền tệ tín dụng 2009 Báo cáo về chính sách tiền tệ, tín dụng trong tình hình hội nhập kinh tế quốc tế Tham gia với Bộ Tài chính về cân đối NSNN và cơ chế điều hành chính sách tài chính theo chức năng nhiệm vụ mới. Triển khai đánh giá, giám sát về tín dụng ưu đãi đầu tư và tín dụng chính sách. Phối hợp với các ngành kiểm soát tình hình biến động giá cả trong năm và đề xuất các giải pháp để bình ổn giá và khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh Tiến hành tổ chức một số cuộc công tác địa phương và làm việc với các bộ ngành để kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện NSNN, phân bổ và sử dụng vốn đối với các CTMTQG, kiểm tra việc giải ngân các dự án nhóm A và huy động sử dụng vốn tín dụng ưu đãi nhà nước và tín dụng chính sách xã hội Tiếp tục tham gia xây dựng các luật, nghị định, thông tư và các cơ chế tài chính Nghiên cứu về phát triển thị trường vốn và thị trường tài chính ở Việt Nam Tiếp tục bổ sung và triển khai chương trình hành động về vay và trả nợ nước ngoài Xây dựng Nghị định về xã hội hoá đầu tư trong 4 lĩnh vực: văn hoá, thể thao, y tế, giáo dục. Tiếp tục nghiên cứu và đề xuất cơ chế, chính sách về quản lý tài chính các CTMTQG giai đoạn 2006 – 2010 Triển khai nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế và các công việc khác do lãnh đạo Bộ giao PHẦN III. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY I. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC Trong những năm qua, kinh tế vĩ mô của nước ta tương đối ổn định, các cân đối chủ yếu đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Tình hình tài chính tiền tệ có nhiều cải thiện, tiềm lực tài chính quốc gia và ngân sách nhà nước ngày càng được tăng cường. Chính sách tiền tệ được điều hành linh hoạt theo cơ chế thị trường, ổn định được giá trị đồng tiền, giữ được cán cân thanh toán liên tục thặng dư. 1. Tình hình tài chính, tiền tệ của Việt Nam giai đoạn 2001- 2005. Tài chính quốc gia tiếp tục được củng cố và cải thiện, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và khai thác tốt hơn các nguồn tài lực. Tổng thu cân đối ngân sách nhà nước 5 năm tăng 19.1% / năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng giá cộng lại. Tính chung cho 5 năm, tổng thu cân đối NSNN đạt xấp xỉ 778 nghìn tỷ đồng, tăng 158 nghìn tỷ đồng so với mục tiêu kế hoạch ( vượt 25.1%). Tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước bình quân đạt 24.4% GDP, vượt mục tiêu đề ra là 20 – 21%. Cơ cấu thu ngân sách bước đầu chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các nguồn thu ổn định từ nền sản xuất trong nước, giảm tỷ trọng các nguồn thu từ yếu tố bên ngoài. Tỷ trọng thu nội địa( không kể dầu thô) đã được nâng lên từ 50.9% năm 2000 lên 53.1% năm 200. Tỷ trọng thu từ xuất nhập khẩu từ 20.9% năm 2000 giảm xuống còn 17.5% năm 2005. Nhờ tăng thu, các khoản chi ngân sách đều có những cải thiện đáng kể như: chi đầu tư phát triển, chi cải cách tiền lương, chi sự nghiệp kinh tế và phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, xoá đói giảm nghèo và các khoản chi đột xuất, khắc phục thiên tai…Tổng chi NSNN 5 năm tăng 19.4%/ năm. Tính chung 5 năm, tổng chi ngân sách nhà nước đạt xấp xỉ 980 nghìn tỷ đồng, tăng trên 230 nghìn tỷ đồng so với mục tiêu kế hoạch đề ra. Cơ cấu chi ngân sách nhà nước có bước chuyển biến tích cực. Tính chung 5 năm, chi đầu tư phát triển chiếm 28% tổng chi NSNN và tương đương 8.6% GDP. Chi cho giáo dục và đào tạo tăng từ 15% năm 2000 lên 18% năm 2005 tổng chi NSNN, đạt 5.6% GDP, cao hơn mức bình quân Châu Á( 3.8% GDP). Chi sự nghiệp y tế, văn hoá, xã hội năm 2005 gấp 2.2- 2.5 lần so với năm 2000. Bội chi ngân sách được duy trì ổn định, trung bình hàng năm 4.85% GDP. Dư nợ Chính phủ, dư nợ nước ngoài dưới 35% GDP, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia hiện nay và thời gian trung hạn tới. Trong 5 năm qua, nhiều cơ chế chính sách liên quan tới lĩnh vực tài chính ngân sách tiếp tục được hoàn thiện. Hệ thống chính sách động viên tài chính được đổi mới góp phần giải phóng và khơi thông mọi nguồn lực của đất nước để phát triển kinh tế, xã hội. Các sắc thuế quan trọng như thế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp đã được điều chỉnh bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tế và thông lệ quốc tế. Các sắc thuế đều được điều chỉnh theo hướng đơn giản hoá thủ tục nộp thuế, tăng cường khả năng kiểm tra, kiểm soát nhằm chống thất thu và gian lận, giảm bớt các mức thuế suất, tăng tính tự giác của người nộp thuế. Cơ cấu phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính đã có nhiều chuyển biến tích cực, đảm bảo nguồn lực tài chính để thực hiện các mục tiêu định hướng phát triển kinh tế xã hội quan trọng và thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả. Định mức chi hành chính sự nghiệp đã được điều chỉnh bước đầu đáp ứng yêu cầu cơ bản về chi hành chính và chi sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hoá…Bên cạnh đó việc thay đổi định mức chi, khoán biên chế và khoán chi hành chính và chế độ tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu đã tạo ra những thay đổi cả về tư duy hoạt động quản lý chi tiêu ngân sách. Thủ tục chi ngân sách nhà nước qua hệ thống kho bạc từng bước được sửa đổi theo hướng đơn giản hoá, cắt giảm các khâu và thủ tục không cần thiết. Chính sách tiền tệ được điều hành linh hoạt, vừa kiểm soát được lạm phát vừa hỗ trợ tích cực cho quá trình tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán nhìn chung phù hợp với mức biến động của giá cả và tăng trưởng kinh tế, bình quân hàng năm tăng 22.5%. Nguồn vốn huy động tăng bình quân hàng năm 24% tương đương với kế hoạch đề ra là 20-25%. Dư nợ cho vay toàn nền kinh tế bình quân tăng 27.6%, cao hơn kế hoạch đề ra 22%. Tín dụng bằng ngoại tệ tăng nhanh nhất với tốc độ tăng bình quân năm 33.7%. Đến cuối năm 2005, nợ xấu chiếm khoảng 4% tổng dư nợ tín dụng, giảm mạnh so với những năm đầu của kế hoạch 5 năm. Lãi suất tiếp tục được tự do hoá, tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng chủ động điều chỉnh lãi suất huy động và cho vay phù hợp. Việc giảm tỷ lệ kết hối ngoại tệ xuống 0% được coi là một bước đi tích cực trong tiến trình tự do hoá thị trường tài chính tiền tệ, đảm bảo cho việc thực hiện các cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập. Hệ thống giá cả cơ bản được duy trì ổn định, quan hệ cung cầu phù hợp, lạm phát nằm trong tầm kiểm soát, chỉ số giá bình quân 5 năm 5.1%. 2.Tình hình tài chính tiền tệ của Việt Nam năm 2006, 2007 2.1. Về tài chính và cân đối NSNN Tình hình tài chính và thực hiện NSNN nhìn chung thuận lợi. Thu NSNN vượt dự toán, năm 2006 đạt 258.6 nghìn tỷ đồng, tăng 8.7% so với dự toán, bằng 26% GDP, là mức cao nhất so với các năm trước. Năm 2007 đạt 287.9 nghìn tỷ đồng, bằng 25.2% GDP, tăng 11.5% so với năm 2006, trong đó thu nội địa đạt 159.5 nghìn tỷ đồng, thu từ dầu thô đạt 68.5 nghìn tỷ đồng, thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 56.5 nghìn tỷ đồng. Cơ cấu thu có tiến bộ hơn những năm trước, năm 2006 so với 2007, thu nội địa từ 52.1% tăng lên 55.4%, thu từ dầu thô giảm từ 30.3% xuống 23.8%. Tổng chi NSNN năm 2006 đạt 315.6 nghìn tỷ đồng, tăng 7.2% so với dự toán, trong đó chi đầu tư phát triển đạt 89.1 nghìn tỷ đồng, tăng 14.2% so với dự toán, chiếm tỷ trọng 28.2% tổng chi NSNN và bằng 8.5% GDP. Năm 2007, tổng chi NSNN đạt 268.34 nghìn tỷ đồng, tăng 14.6% so với 2006, trong đó chi đầu tư phát triển trên 101.5 nghìn tỷ đồng, tăng 17.5% so với thực hiện năm 2006. Bội chi ngân sách năm 2006 đạt 48.5 nghìn tỷ đồng, bằng 4.98% GDP, năm 2007 bội chi ngân sách đạt 56.5 nghìn tỷ đồng, bằng 4.94% GDP. 2.2.Về chính sách tiền tệ, kiểm soát lạm phát và cán cân thanh toán quốc tế. Năm 2006, tổng phương tiện thanh toán tăng 25% so với năm 2005, nguồn vốn huy động của toàn ngành ngân hành năm 2006 tăng 25%( kế hoạch tăng 20 – 25%), dư nợ cho vay toàn nền kinh tế năm 2006 tăng 21%, thấp hơn tốc độ tăng nguồn vốn huy động 4% tổng dư nợ. Dư nợ nước ngoài của quốc gia đến năm 2006 bằng 31.7% GDP, nằm trong giới hạn an toàn cho phép. Các khoản trả nợ đều được thanh toán đúng hạn. Tuy nhiên, nếu tính theo các tiêu chí thông lệ của thế giới thì tỷ lệ nợi xấu còn cao. Chỉ số giá tiêu dùng cả năm 2006 tăng 7.2 – 7.5%, thấp hơn mức tăng giá của năm 2005. Năm 2007, với áp lực tăng trưởng tín dụng cho phát triển kinh tế và sức ép từ luồng vốn nước ngoài, tốc độ tăng trưởng tiền tệ cả năm 2007 ở mức cao, lên tới 35.1% so với tháng 12/2006. Nguồn vốn huy động tăng 35.1% so với tháng 12/2006 và lên mức 1.009 nghìn tỷ. Dư nợ năm 2007 đạt 886.643 nghìn tỷ đồng, tăng 27.8% so với cuối năm 2006. Tốc độ tăng trưởng tiền tệ và tín dụng năm 2007 ở mức cao so với trung bình thời kỳ 2001 – 2006 sẽ có tác động tiêu cực đến mặt bằng giá cả và kiểm soát lạm phát không những trong năm nay và có thể kéo dài sang các năm tiếp theo. Năm 2007 tốc độ tăng giá tiêu dùng cao hơn nhiều so với các năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng tăng 7.32%, trong đó giá tăng chủ yếu tập trung vào 2 nhóm hàng là ăn uống tăng 10.57% và vật liệu xây dựng tăng 9.66%. Về cán cân thanh toán quốc tế: cán cân thương mại năm 2006 thâm hụt 4 tỷ USD, bằng 10.4% kinh ngạch xuất khẩu, thấp hơn nhiều so với các năm trước. Năm 2007, thâm hụt cán cân thương mại là 9 tỷ USD cao hơn nhiều so với những năm trước, nguyên nhân là do tăng nhập khẩu máy móc thiết bị, vật tư, nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất. Về khả năng trả nợ của Việt Nam hiện nay được đánh giá là khả quan. Tỷ lệ nợ nước ngoài/GDP là <35%. Nguồn dự trữ ngoại hối của nước ta hiện nay so với nợ là ở mức tương đối an toàn và liên tục được cải thiện qua các năm. II. NHỮNG TỒN TẠI, HẠN CHẾ Chỉ số giá tiêu dùng tăng cao trong năm nay đã ảnh hưởng xấu tới sản xuất và đời sống của nhân dân. Lạm phát tăng cao do các nguyên nhân sau: Luồng ngoại tệ đưa vào nước ta tăng nhanh trong khi khả năng can thiệp của Ngân hàng Nhà nước trong điều hành chính sách tiền tệ hạn chế vì mục tiêu tiếp tục duy trì sự ổn định tỷ giá nhằm thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu. Tốc độ tăng trưởng tín dụng rất cao là để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế và ổn định lãi suất. Hoạt động của thị trường liên ngân hàng chưa thật sự hiệu quả, chưa tạo được kênh điều tiết vốn giữa các ngân hàng thừa vốn với các ngân hàng thiếu vốn Do giá những đầu vào quan trọng tăng cao như giá xăng dầu, sắt thép, xi măng… Điều hành tiền tệ chưa hợp lý làm tăng nhu cầu có khả năng thanh toán trên thị trường và những tồn tại trong công tác quản lý bình ổn thị trường và giá cả. Tăng trưởng tiền tệ ở mức cao trong khi đó các kênh đầu tư khác gặp nhiều khó khăn, năng lực sản xuất kinh doanh chưa được mở rộng tương ứng đã dẫn tới mất cân đối cung cầu hàng - tiền, đẩy mặt bằng giá cả tăng cao. Vậy yếu tố tiền tệ đóng một vai trò không nhỏ giải thích cho sự tăng giá cao trong thời gian qua. Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện nhiều biện pháp rút bớt lượng tiền trong lưu thông, kiềm chế gia tăng tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng. Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện rút bớt một lượng tương đối lớn vốn khả dụng dư thừa của các tổ chức tín dụng thông qua nghiệp vụ thị trường mở, hạn chế cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá. Điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, giữ ổn định mức lãi suất chính thức do Ngân hàng Nhà nước công bố. Thực hiện bình ổn giá xăng dầu sau khi thực hiện cơ chế thị trường đối với mặt hàng xăng, …Mặc dù đã theo dõi diễn biến thị trường liên tục và đề ra các giải pháp kiềm chế tăng giá, chống lạm phát song những giải pháp này còn tỏ ra chưa thật sự có hiệu quả do chưa thực sự đi đúng vào nguyên nhân tăng giá do tổng phương tiện tăng quá nhanh, chỉ số giá tiêu dùng vẫn tiếp tục tăng cao trong những tháng gần đây. Tình hình thu chi và phân bổ NSNN còn nhiều bất cập. Trong quản lý thu chi ngân sách nhà nước, tình trạng trốn lậu thuế vẫn chưa được khắc phục, các thủ tục hành chính trong việc kê khai, nộp thuế còn nhiều bất hợp lý, tình trạng lãng phí, thất thoát trong chi tiêu ngân sách chưa được khắc phục. Nguồn thu NSNN chưa thật ổn định. Đến 2005, 45.8% tổng thu NSNN vẫn còn phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài, trong đó thu từ dầu thô chiếm 28.3%, thu từ thuế xuất nhập khẩu 17.5%. Cơ cấu chi tiêu ngân sách, chi thường xuyên vẫn còn chiếm tỷ lệ lớn, chi cho sự nghiệp y tế, giáo dục… còn ít. Chi tiêu ngân sách còn nhiều lãng phí, thất thoát, vẫn đang chủ yếu phân bổ dựa vào đầu vào. Công tác dự baớ và xây dựng dự toán hàng năm chưa sát thực tế, thực hiện thu, chi ngân sách hàng năm đều vượt quá cao so với dự toán ban đầu, gây bị động trong các cân đối lớn. Tiêu chí phân bổ NSNN chưa rõ ràng, hiệu quả sử dụng vốn ngân sách chưa cao. Khung khổ chi ngân sách trung hạn chỉ mới dừng ở nghiên cứu và thí điểm, chưa được áp dụng rộng rãi nên nguồn lực ngân sách vẫn chưa gắn kết với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Quá trình phân cấp ngân sách mặc dầu đã có nhiều cải tiến kể từ khi thực hiện luật NSNN mới, song vẫn còn nhiều tồn tại, vướng mắc. Việc phân cấp chưa được thực hiện một cách cương quyết, triệt để. Việc quyết định các mức hỗ trợ cho ngân sách địa phương và ngân sách trung ương chưa có các tiêu chí xác định một cách rõ ràng, minh bạch. Quá trình phân cấp chưa đi đôi với việc nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ tại địa phương. Việc xây dựng định mức chi ngân sách vẫn chủ yếu dựa trên các yếu tố đầu vào mà chưa tính đến các hiệu quả đầu ra của các khoản chi tiêu. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới trình trạng chi tiêu ngân sách lãng phí, hiệu quả thấp. Việc tính toán tỷ lệ điều tiết ngân sách cũng như mức hỗ trợ từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương vẫn chưa có căn cứ tiêu chí xác định rõ ràng. Tính toán vẫn chủ yếu dựa trên cơ sở nhu cầu đề xuất của địa phương, khả năng cân đối của ngân sách trung ương và tình hình ngân sách của các năm trước. Do vậy vẫn xảy ra tình trạng các tỉnh nghèo nhận được hỗ trợ với tỷ lệ thấp hơn các tỉnh giàu, các tỉnh đông dân được hỗ trợ có tỷ lệ thấp hơn các tỉnh ít dân. Hệ thống ngân hàng và tài chính còn nhiều rủi ro, chưa phát triển tương xứng và chưa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế về mặt giá trị. Dịch vụ ngân hàng chưa phát triển đa dạng nên nguồn thu chủ yếu của các ngân hàng thương mại vẫn trông chờ vào việc cho vay, đặc biệt đối với ngân hàng thương mại nhà nước. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của các ngân hàng quốc doanh mới đạt 4.4 – 6.2% còn khoảng cách khá xa so với yêu cầu tối thiểu 8%. Chất lượng tín dụng chưa cao, tỷ lệ nợ xấu tuy đã giảm nhưng còn khá cao nếu tính theo chuẩn quốc tế. Tài chính doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp lớn chưa thật sự lành mạnh, tình trạng thua lỗ, nợ nần còn phổ biến, chậm được giải quyết. Thị trường tài chính chỉ mới bắt đầu hình thành và phát triển. Các sản phẩm trên thị trường chưa nhiều, số lượng công ty niêm yết có khả năng tài chính tốt còn khiêm tốn, chưa thu hút được sự tham gia tích cực của các công ty cổ phần. Việc huy động các nguồn lực tài chính đáp ứng vốn cho đầu tư phát triển còn hạn chế, nhiều tiềm năng vốn trong nước và nước ngoài chưa được khai thác tốt. Tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư so với tổng sản phẩm trong nước tuy đã có bước cải thiện đáng kể nhưng vẫn còn thấp so với khả năng, còn có thể huy động nhiều hơn để đáp ứng yêu cầu phát triển. Nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư còn chưa được huy động hết. Trong những năm qua, thị trường tài chính thế giới có nhiều biến động lớn, tuy chưa ảnh hưởng lớn tới thị trường chứng khoán Việt Nam nhưng cũng tạo ảnh hưởng tâm lý nhất định đến các nhà đầu tư. Do vậy thị trường tài chính đặc biệt là thị trường chứng khoán của Việt Nam có phần bị chững lại. Sự chu chuyển vốn giữa các thị trường tiền tệ, chứng khoán và bảo hiểm ngày càng trở nên phức tạp, khó kiểm soát. Do tính chất liên thông giữa các thị trường nên một cơ quan khó có thể nắm bắt được đầy đủ thông tin về sự chu chuyển luồng vốn ra vào giữa các thị trường cũng như quy mô của các luồng vốn gián tiếp vào các thị trường tài chính. Do vậy yêu cầu phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan để có thể quản lý tốt thị trường tài chính và thúc đẩy thị trường này phát triển. Giải ngân vốn ODA, vốn tín dụng phát triển còn diễn ra chậm chạp, đặc biệt là trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, trong ngành GTVT. Giải ngân hỗ lãi suất sau dầu tư đạt rất thấp, chỉ bằng 8% kế hoạch năm 2007. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới tiến độ giải ngân chậm trong đó có nhiều nguyên nhân đã tồn tại và kéo dài cho tới nay vẫn chưa có hướng giải quyết triệt để như: - Chậm trể trong việc lập và phê duyệt thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán, xây dựng đơn giá thi công hoặc hoàn tất hồ sơ thanh toán mặc dù đã có khối lượng thi công công trình. - Ách tắc trong giải phóng mặt bằng, thực hiện tái định cư của hầu hết các dự án nhóm A - Năng lực yếu kém của tư vấn, nhà thầu - Vốn tham gia của chủ đầu tư ở mức thấp - Thời gian nghiệm thu, hoàn tất hồ sơ thanh toán kéo dài - Công tác phối hợp giữa các ngành, các cấp ở một số nơi còn chưa chặt chẽ, chưa kịp thời trong giải ngân cũng như giám sát việc thực hiện dự án. Các chương trình mục tiêu quốc gia vẫn còn nhiều hạn chế. Cơ chế cho các địa phương tự phân bổ và cấp phát kinh phí cho các dự án thuộc các chương trình mục tiêu dẫn đến tình trạng việc phân bổ kinh phí cho các dự án còn phân tán, dàn trải, hiệu quả thấp. Việc thực hiện CTMTQG thiếu sự gắn kết giữa trung ương với địa phương. Cơ chế tài chính của CTMTQG chưa khuyến khích việc đa dạng hoá các nguồn đầu tư và đảm bảo nguồn tài chính liên tục. Hệ thống các chính sách và các quy định về thuế cho đến nay vẫn chưa hoàn chỉnh, chưa bao quát hết các nguồn thu, có quá nhiều mức thuế suất. Nguồn thu từ thuế hiện nay vẫn chủ yếu là từ thuế gián thu, thu từ thuế trực thu còn rất ít nên thuế vẫn chưa thực sự phát huy được tác dụng điều tiết của mình. Chính sách miễn giảm thuế áp dụng trên diện quá rộng gây khó khăn cho việc triển khai thực hiện, dể nảy sinh tiêu cực, tác động làm sai lệch cơ cấu kinh tế và môi trường bình đẳng trong đầu tư kinh doanh. Mặc dầu thuế suất một số mặt hàng được thay đổi linh hoạt nhằm tăng thu, song điều này cũng đặt ra vấn đề về tính dễ tiên liệu của chính sách thuế. Trong một chừng mực nhất định những thay đổi đột ngột trong chính sách thuế có ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như độ tin cậy của chính sách nói chung. Việc điều hành các chính sách tiền tệ còn nhiều hạn chế. Các công cụ như tỷ giá, lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở chưa phát huy hiệu quả cao. Công tác quản lý giá cả còn nhiều yếu kém, việc phân tích dự báo tình hình còn kém nhanh nhạy, do đó còn bị động trong việc ứng phó với những biến động về giá cả trong nước và trên thế giới. Tiềm ẩn rủi ro từ luồng vốn nước ngoài vào Việt Nam. Việc thu hút các luồng vốn từ nước ngoài đã bù đắp nhu cầu thiếu vốn cho Việt Nam hiện nay và trở thành một kênh chuyển giao công nghệ quan trọng. Tuy nhiên chúng ta lại phải đối mặt với một nguy cơ tiềm ẩn về việc các luồng vốn này có thể chuyển ra ngoài đột ngột khi thị trường có biến động. Điều này sẽ khiến cho nền kinh tế lâm vào khó khăn. Cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997 là một bài học. Mặc dù trong ngắn hạn Việt Nam chưa phải đối mặt với những rủi ro về việc chuyển vốn ra đột ngột, tuy nhiên, luồng vốn vào của Việt Nam để tài trợ cho thâm hụt cán cân vãng lai trong những năm qua đã bắt đầu phụ thuộc vào những biến động về tỷ giá, lãi suất đặc biệt luồng vốn ngắn hạn đầu tư vào thị trường chứng khoán đã tăng lên ở mức cao. Do vậy, nếu không có những biện pháp quản lý luồng vốn nước ngoài một cách hợp lý, cán cân thanh toán sẽ bất ổn định khi thị trường tài chính thế giới và mội trường kinh tế trong nước thay đổi. PHẦN IV. ĐỀ XUẤT ĐỀ TÀI 1. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế chính sách về quản lý tài chính các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2006 – 2010. 2. Tác động của việc gia nhập WTO tới thu – chi ngân sách của Việt Nam. 3. Một số vấn đề đổi mới thuế thu nhập cá nhân của Việt Nam giai đoạn hiện nay. 4. Thuế với hội nhập kinh tế quốc tế - thực trạng và giải pháp. KẾT LUẬN Qua quá trình tìm hiểu chung về Vụ Tài Chính- Tiền Tệ, có thể thấy hiện nay chịu trách nhiệm chính về điều hành tiền tệ, tín dụng là NHNN Việt Nam, nhưng với chức năng là cơ quan tham mưu, cơ quan quản lý, cơ quan kế hoạch, Vụ Tài Chính - Tiền Tệ đã chủ động xây dựng nhiều chính sách, giải pháp tiền tệ, tài chính, tín dụng. Vụ đã không những hoàn thành tốt những công việc được giao mà còn giải quyết tốt những nhiệm vụ đột xuất, ngoài kế hoạch. Tuy nhiên, do tính chất ngày càng phức tạp của hoạt động tài chính tiền tệ, đặc biệt khi Việt Nam hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Do đó, việc điều hành, quản lý lĩnh vực này ngày càng phức tạp, cần sự phối hợp của nhiều cơ quan, ban ngành. Bên cạnh nhiều đóng góp của Vụ còn có một số kết quả chưa đáp ứng được đòi hỏi của Bộ, của nền kinh tế. Do đó, Vụ đang có những nổ lực, phương hướng hoạt động cho thời gian tơi nhằm thực hiện tốt hơn nữa những nhiệm vụ được giao. Có thể khẳng định trong mỗi sự phát triển của lĩnh vực tài chính, tiền tệ đều có sự đóng góp quan trọng của Vụ Tài Chính - Tiền Tệ. CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP Vụ Tài Chính - Tiền Tệ thuộc Bộ Kế Hoạch - Đầu tư xác nhận sinh viên : Trịnh Thái Thường, lớp KH46B, trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân, trong thời gian thực tập 5 tuần tổng hợp tại Vụ đã chấp hành nghiêm chỉnh nội quy, quy định của Vụ và của Bộ, có tinh thần, ý thức thực tập tốt, tích cực nghiên cứu, tìm hiểu về Vụ. Mọi thông tin, số liệu được cung cấp trong bản báo cáo là hoàn toàn chính xác. Hà Nội, ngày ....tháng......năm 2008 Xác nhận của người hướng dẫn Xác nhận của đơn vị thực tập CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP Hà Nội, ngày......tháng.....năm 2008 Xác nhận của người hướng dẫn Xác nhận của đơn vị thực tập DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Báo cáo tình hình thực hiện công tác năm 2007 và dự kiến nhiệm vụ năm 2008 – Vụ Tài Chính - Tiền Tệ. Báo cáo ước thực hiện kế hoạch tài chính tiền tệ năm 2007 và dự kiến kế hoạch 2008 Bài viết “ kỷ yếu Vụ Tài Chính - Tiền Tệ” – Lê Quốc Lý - Vụ trưởng Vụ Tài Chính - Tiền Tệ. Tạp chí Kinh tế và Dự báo – Bộ Kế Hoạch - Đầu Tư. Báo cáo đánh giá 4 năm triển khai thực hiện luật ngân sách nhà nước. Trang web Bộ Kế Hoạch - Đầu Tư: mpi.gov.vn MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBáo cáo thực tập tại Bộ Kế Hoạch – Đầu Tư.DOC
Luận văn liên quan