Từ những nghiên cứu trên, chúng tôi đã rút ra kết luận sau:
Các yếu tố địa lý bậc họ của thực vật Bến En chủ yếu tập trung vào các yếu tố thuộc nhiệt đới như liên nhiệt đới, nhiệt đới, cận nhiệt đới,.chiếm tỉ lệ 61.6% trong khi đó các yếu tố ôn đới chỉ chiếm 10.14% tổng số họ.
Về các yếu tố địa lí của chi, thực vật Bến En thuộc vào các yếu tố nhiệt đới với một tỉ lệ áp đảo (71.67%) so với ôn đới (5.44%), còn lại là các yếu tố toàn cầu và chưa xác định.
10 Phổ các yếu tố địa lí của loài: thuộc về nhiệt đới là 70.48% (528), ôn đới chiếm tỉ lệ 5.74% (43). Đặc hữu Đông Dương có 45 loài (Chiếm 6,01%); Đặc hữu Việt Nam có 65 loài (Chiếm 9,35%), gồm cả các loài gần đặc hữu Việt Nam có 17 loài chiếm 2,27%, đặc biệt Bến En có 6 loài (0,8%) gồm các loài như Adina thanhhoaensis Trần thuộc họ Rubiaceae.
Về mối quan hệ giữa hệ thực vật Bến En với hệ thực vật Himalaya, Ấn Độ, Nam Trung Quốc và Malesia, chúng tôi thấy rằng, các loài trong hệ thực vật Bến En có mối quan hệ với Ấn Độ, Himalaya và Trung Quốc là chặt nhất với 7,08% ít quan hệ với Himalaya với 4,41%.
30 trang |
Chia sẻ: tienthan23 | Lượt xem: 4026 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo về đa dạng sinh học ở Vườn Quốc gia Bến En, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thực sự được quản lý bảo vệ khi Vườn Quốc gia Bến En chính thức thành lập và luận chứng kinh tế kỹ thuật được phề duyệt theo Quyết định số 33/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ngày 27/01/1992 với diện tích 16,634ha và vùng đệm gần 30.000ha. Trước năm 1992, Bến En trực thuộc hai Lâm trường Sông Chanh và Như Xuân (Ban Quản lý Vườn Quốc gia Bến En, 2003).
Hiện nay, diện tích của hai xã Bình Lương và Xuân Thái (1295ha) nằm trong Vườn Quốc gia Bến En đã được chuyển thành vùng đệm chuyển giao cho UBND Tỉnh Thanh Hoá quản lý theo công văn số 99/CP-NN của Thủ tướng Chính phủ ngày 22/01/2002. Sau khi chuyển giao, diện tích Vườn Quốc gia Bến En còn lại 15.339ha, diện tích vùng đệm tăng lên 31.054ha (Ban Quản lý Vườn Quốc gia Bến En, 2003).
Năm 1995 đã có đề xuất mở rộng phạm vi Vườn Quốc gia tới khu vực giáp gianh với Tỉnh Nghệ An, khi đó Diện tích của Vườn Quốc gia sẽ tăng lên 38.153ha (Anon, 1995). Bản đề xuất đã được UBND Tỉnh Thanh Hoá trình Bộ Lâm nghiệp cũ phê duyệt ngày 19/06/1995 (Ha Dinh Duc et al. 2000). Ngoài ra còn có một số đề xuất đã được đề cập trong "Kế hoạch hành động Đa dạng sinh học Việt Nam" mở rộng Vườn Quốc gia Bến En lên 50.000ha (Chính phủ, 1994). Hiện tại chưa có bất kỳ đề xuất nào nêu trên được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt.
Bến En có trong danh lục các khu rừng đặc dụng Việt Nam đến năm 2010 được xây dựng bởi Cục kiểm lâm - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Cục Kiểm lâm, 2003) với diện tích 16.634ha (Cục Kiểm lâm, 2003), danh lục này hiện vẫn chưa được Chính phủ phê duyệt. Diện tích của Vườn Quốc gia trong danh lục này không phản ánh sự thay đổi ranh giới trong thời gian gần đây.
3. Địa hình và thuỷ văn
Vườn Quốc gia Bến En nằm trên địa bàn hai huyện Như Thanh và Như Xuân, Tỉnh Thanh Hoá. Vườn Quốc Gia Bến En thuộc vùng đồi thấp xung quanh hồ nước nhân tạo. Độ cao dao động từ 20 đến 497m, hầu hết địa hình dưới 200m. Hồ ở độ cao 50m so với mặt nước biển, có diện tích 2.281ha. Địa chất khu vực đặc trưng bởi đá trầm tích, đặc biết là đá than bùn. Có một diện tích nhỏ núi đá vôi, vùng có diện tích lớn núi đá vôi thuộc vùng đệm phía Đông Bắc ranh giới vườn. Trong vùng lõi của vườn có hệ thuỷ lớn là Sông Mực, trong phương án mở rộng vườn sẽ có thêm hệ thuỷ Sông Chàng (Tordoff et al. 2000).
4. Đa dạng sinh học
Vườn Quốc gia Bến En có mức độ đa dạng sinh học vào loại trung bình. Vườn quốc gia hiện đang bảo vệ một phần hệ sinh thái vùng rừng thường xanh núi thấp ở Bắc Trung Bộ. Tuy nhiên hệ sinh thái rừng này đã bị tác động mạnh trước đây do khai thác, nên rừng hiện tại là rừng thứ sinh, cây gỗ đường kính nhỏ và phần lớn là tre nứa. Tuy nhiên từ khi ngừng khai thác, chất lượng rừng đã đang được phục hồi (Tordoff et al. 2000).
Mặc dù các hệ sinh thái rừng đã và đang bị tác động mạnh nhưng khu hệ động thực vật Vườn Quốc gia Bến En vẫn khá đa dạng và phong phú. Tại Bến En ghi nhận số lượng đáng kể các loài thực vật đang bị đe dọa trên toàn cầu, đáng chú ý nhất trong số này là loài Lim xanh Erythrophleum fordii, đây là loài đã từng là đối tượng khai thác chính của các lâm trường trước năm 1992, hiện nay Lim xanh vẫn đang đối tượng khai thác với qui mô nhỏ bởi các lâm trường cũng như đang bị các đối tượng lâm tặc khai thác trộm.
Bên cạnh đó, một số loài động vật có giá trị bảo tồn ở mức độ toàn cầu cũng đã được ghi nhận tại Vườn Quốc gia như Vượn má trắng Hylobates leucogenys, Lửng chóc Chrotogale owstoni, Báo lửa Catopuma temminckii (Tordoff et al. 2000). Tuy nhiên, số lượng cá thể của hầu hết các quần thể thú lớn tại Bến En là rất thấp, đây là hậu quả của tình trạng săn bắn quá mức, một số loài đã bị khai thác cạn kiệt (Tordoff et al. 2000).
Trước đây, Voi Châu Á Elephas maximus được ghi nhận thường xuyên tại Vườn Quốc gia, gần đây mặc dù đã có một số báo cáo đề cập đến loài này tại khu vực (Tordoff et al. 1997, Ha Dinh Duc ed. 2000) nhưng thực tế vẫn chưa có bất kỳ ghi nhận chính thức về sự hiện diện của loài này trong Vườn Quốc gia từ năm 1993 (Tordoff et al. 1997). Năm 2000, A. W. Tordoff đã có kết luận loài này có thể không còn tồn tại trong khu vực vùng lõi của Vườn Quốc gia và chỉ có khả năng còn một quần thể rất nhỏ phân bố giới hạn trong khu vực vùng đệm ở phía tây của vùng lõi.
5. Các vấn đề bảo tồn
Khai thác gỗ ở khu vực vườn kéo dài cho đến năm 1992, không có nơi nào rừng chưa bị tác động. Hơn 3.600 người hiện đang sinh sống bên trong Vườn Quốc gia và gần 30.000 người sống tại vùng đệm (Ban Quản lý Vườn Quốc gia Bến En, 2003) tiếp tục là mối đe dọa ảnh hưởng tới môi trường tự nhiên Vườn Quốc gia. Sự khai thác trái phép tài nguyên rừng của người dân ở đây và ở những nơi khác tới Vườn đang làm chậm quá trình tái sinh phục hồi rừng. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tình trạng khai thác gỗ trái phép cũng như các tác động khác của con người vào Vườn Quốc gia đã giảm đáng kể (Ban Quản lý Vườn Quốc gia Bến En, 2003).
Sự tồn tại lâu dài của các loài thú lớn và trung bình ở vườn đang bị đe dọa do diện tích vùng lõi có thể quá nhỏ đối với quần thể của các loài này. Bởi vậy việc đề xuất mở rộng vườn tới ranh giới Tỉnh Nghệ An được chấp nhận là hết sức quan trọng. Rất tiếc là dân cư đã di chuyển tới vùng đề xuất mở rộng, phá rừng làm nương rẫy và trồng mía. Nếu hiện tượng phá rừng không được kiểm soát ngay, sẽ dẫn đến sự cô lập giữa rừng ở vùng lõi với các vùng xung quanh và giảm tầm quan trọng về bảo tồn của vườn quốc gia (Tordoff et al. 2000).
Ban Quản lý vườn dự định di chuyển 4.000 người ra ngoài vùng lõi của vườn. Cho đến nay kế hoạch này vẫn không thực hiện được do không có kinh phí và người dân không ủng hộ. Vì họ hiểu rằng kế hoạch di chuyển tới vùng đệm được thực hiện, trong tương lai sự khai thác sử dụng tài nguyên rừng của họ sẽ bị hạn chế và ít có cơ may quay trở lại (Tordoff et al. 2000). Tordoff et al (2000) kiến nghị rằng cần phải có nghiên cứu kỹ trước khi đi đến quyết định di chuyển các cộng đồng trong vùng lõi của vườn. Nếu có thể phải tổ chức di chuyển càng sớm càng tốt. Nếu để họ ở lại phải khuyến khích họ tham gia vào chương trình lâm nghiệp xã hội và các kế hoạch khác nhằm nâng cao thu nhập và giảm sự phụ thuộc vào tài nguyên rừng.
6. Các giá trị khác
Vườn Quốc gia đang bảo vệ rừng đầu nguồn Sông Mực, hồ Sông Mực là nguồn cung cấp nước tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp của toàn bộ các xã vùng hạ lưu. Sau khi xây dựng đập và hình thành hồ, đơn vị thuỷ sản hình thành để quản lý hồ và thuỷ sản. Trong các năm từ 1983 đến 1987, sản lượng cá đánh bắt tăng lên từ 14 đến 30 tấn nhưng năm 1989 giảm xuống còn 7 tấn. Năm 1993, đơn vị thuỷ sản ngừng hoạt động. Người dân địa phương tiếp tục đánh cá ở trên hồ và các hệ thuỷ liên quan đến hồ, mặc dù các hoạt động này đã vi phạm tới các quy chế quản lý của Vườn Quốc gia (Tordoff et al. 2000). Trong những năm gần đây, với việc tăng cường thể chế trong công tác quản lý, bảo vệ của Vườn Quốc gia, sản lượng cá trong hồ đã tăng đáng kể (Ban Quản lý Vườn Quốc gia Bến En, 2003).
Hầu hết các hộ gia đình trong vùng lõi và vùng đệm của vườn đã khai thác các sản phẩm của rừng ở các mức độ khác nhau. Nhiều sản phẩm của rừng, như tre nứa, song mây ở khu vực khá phong phú điều đó thể hiện rừng tự nhiên đã bị thay thế. Tuy nhiên, sự khai thác quá mức một số tài nguyên trong những năm trước đây, như gỗ, các loài thú lớn đó là nguyên nhân chính làm chúng trở nên hiếm trong khu vực (Tordoff et al. 2000).
Vườn Quốc Gia Bến En có tiềm năng du lịch cao, dịch vụ này đã đang hấp dẫn nhiều du khách trong nước. Vườn có phong cảnh đẹp, đường đi lại thuận tiện. Vườn có nhà khách và khách du lịch có thể du ngoạn bằng thuyền trên hồ. Dịch vụ du lịch có tiềm năng mang lại diện mạo mới cho vườn và thu nhập cho công tác quản lý (Tordoff et al. 2000).
II. HIỆN TRẠNG ĐA DẠNG SINH HỌC TẠI VƯỜN QUỐC GIA BẾN EN
1. Đa dạng hệ sinh thái
Vườn Quốc gia Bến En thuộc hệ sinh thái rừng núi đất nhiệt đới ẩm. Đây là trung tâm phân bổ của giống Lim xanh, đặc hữu nổi tiếng ở Việt Nam, có cây tuổi thọ đến vài trăm năm với đường kính gần 3m. Ngoài ra còn có các loài cây gỗ quý hiếm như chò chỉ, vù hương, sến mật, vàng tâm, lim, xẹt, lát hoa, trai lý... và những nhóm cây thân mềm như song, mây, giang, tre, họ cây có dầu như trẩu, sến, màng tang... Đặc biệt phong phú là có trên 300 loài cây dược liệu.
Rừng Bến En là nơi ẩn náu rất thuận lợi cho nhiều nhóm côn trùng, các loài chim, các loài gặm nhấm, móng guốc và các loài thú ăn thịt phát triển, sinh sôi. Qua nhiều đợt khảo sát, điều tra cho thấy Vườn Quốc gia Bến En có 50 bộ, 177 họ, 216 giống và hơn 1.000 loài động vật, trong đó có 91 loài thú, 201 loài chim, 54 loài bò sát, 31 loài ếch nhái, 68 loài cá, 499 loài côn trùng. Có nhiều loài động vật quý hiếm nằm trong sách đỏ như voi, bò tót, gấu ngựa, báo lửa, khỉ mặt đỏ, vượn bạc má, rùa vàng...
Vườn Quốc gia Bến En có hồ sông Mực rộng 4.000ha, sâu hàng chục mét, là thủy vực của bốn con suối lớn trong vùng. Hồ sông Mực còn chia ra làm hai hồ, hồ Thượng rộng hơn 3.000ha và hồ Hạ rộng chừng 800ha. Trên mặt hồ có 24 hòn đảo lớn, nhỏ tạo nên một bức tranh sơn thủy hữu tình, lại có thêm nhiều hang động kỳ ảo chẳng khác nào chốn bồng lai tiên cảnh.
Bên cạnh đó, vườn còn xây dựng hệ thống cây xanh tại khu hành chính với hàng trăm loài khác nhau, góp phần tôn tạo cảnh quan và môi trường trong sạch. Vườn Quốc gia Bến En có hệ thống vùng đệm nằm trên địa bàn 11 xã thuộc hai huyện Như Xuân và Như Thanh với số dân 16.000 người bao gồm 4 dân tộc Mường, Kinh, Thái, Thổ. Đây là nguồn nhân lực quan trọng tại chỗ góp phần vào công tác bảo vệ, xây dựng và phát triển vốn rừng, thực hiện biện pháp nông - lâm kết hợp, bảo đảm đời sống ổn định của người dân và sự phát triển của rừng ở vùng trung tâm.
2. Đa dạng loài động thực vật
2.1. Đa dạng loài thực vật
Thực vật rừng quốc gia Bến En thuộc hệ sinh thái rừng nhiệt đới, nguồn gen chính mà vườn đang chú ý bảo tồn là các loại cây thuộc kiểu rừng thường xanh chiếm ưu thế như: Lim xanh, săng le, lát hoa, táu mật, gội nếp, trai lý, bản xevới 1.357 loài, 902 chi, 196 họ của 6 ngành thực vật bậc cao, trong đó có 34 loài thực vật quý hiếm, đặc biệt là cây Lim xanh (Ery thsophloeum fordii) thuộc loài cây chiếm ưu thế.
Với hệ sinh thái đặc biệt, Vườn Quốc gia Bến En là nơi có số lượng thực vật
sống quần cư thuộc diện phong phú bậc nhất Việt Nam. Ở đây có các loài cây gỗ quý hiếm như chò chỉ, vù hương, sến mật, vàng tâm, lim, lát hoa, trai lý; những nhóm cây thân mềm như song, mây, giang, tre; họ cây có dầu như trẩu, sến, màng tang... Phong phú là có trên 300 loài cây dược liệu. Các loại cây làm thuốc điển hình là Mã tiền, Sa nhân, Sến, Trẩu, Màng lay, Hương bài, Thu hải đường, Lim xanh, Vù hương...
Theo Trung tâm dữ liệu thực vật Việt Nam, bước đầu nghiên cứu đã ghi nhận cấu trúc tổ thành hệ thực vật Bến En khá đa dạng bao gồm 749 loài thuộc 138 họ và 459 chi của 5 ngành Thông Đất, Khuyết lá Thông, Dương xỉ, Ngành Hạt Trần và ngành Hạt kín.
Bước đầu nghiên cứu cấu trúc tố thành loài trong hệ thực vật Vườn Quốc gia Bến En, các nhà khoa học đã thu thập và hiệu chỉnh bản danh lục mới theo cách sắp xếp của Brummitt (1992):
- Cấu trúc tổ thành hệ thực vật Bến En khá đa dạng bao gồm 749 loài thuộc 138 họ và 459 chi của 5 ngành Thông Đất, Khuyết lá Thông, Dương xỉ, Ngành Hạt Trần và ngành Hạt kín.
- Sự phân bố giữa các taxon không đều nhau Ngành Hạt Kín chiếm ưu thế với 679 loài chiếm 90,7% tổng số loài toàn hệ, Tiếp đến là Dương xỉ với 54 loài chiếm 7, 28% các ngành còn lại chiếm tỉ lệ rất thấp. Riêng ngành Hạt Kín thì lớp Hai lá mầm chiếm ưu thế với 575 loài chiếm 84,68% tổng số loài của cả ngành.
- Các chỉ số trong hệ thực vật Vườn Quốc gia Bến En gồm: chỉ số họ là 5,43, chỉ số chi là 1,63 và trung bình mỗi họ có 3,33 chi thấp hơn so với Bạch Mã, Pù Mát, Cúc Phương và Sa Pa.
- Trong 138 họ thực vật của hệ có 10 họ đa dạng nhất chiếm 212 loài (28.84%) và 125 chi (27.23%). Ví dụ: Euphorbiaceae, Fabaceae, Rubiaceae,... đặc biệt một số họ trong 10 họ đa dạng nhất Việt Nam lại không có trong hệ.
- Các chi đa dạng nhất của hệ phải kể đến: Mallotus, Desmosdium, Castanopsis, Ficus, Ardisia, Hydeotis... chiếm 67 loài (8.95%%) tổng số loài của khu hệ.
- Vườn Quốc gia Bến En có 12 loài cần được bảo vệ thuộc sách đỏ Việt Nam, chiếm tỉ lệ 1.60%.
Đặc biệt, Vườn Quốc gia Bến En là trung tâm phân bố của giống Lim xanh, đặc hữu nổi tiếng ở Việt Nam, có cây tuổi thọ đến vài trăm năm với đường kính gần 3m. Là 1 trong nhóm gỗ "tứ thiết", Lim xanh có tên khoa học là Erythrophloeum fordii oliv thuộc họ Vang. Với chất lượng gỗ tốt nhất, Thanh Hóa được gọi là "quê hương" của Lim xanh, khu vực phân bố tự nhiên tập trung ở các xã Yên Cát, Xuân Khang, Cát Vân của huyện Như Xuân... Ngoài ra, Lim xanh còn phân bố ở các huyện Cẩm Thủy, Ngọc Lặc, Bá Thước, Thạch Thành và một số địa phương khác. Lim xanh được dùng phổ biến trong xây dựng nhà cửa, cầu cống, đóng đồ gia dụng, khả năng chịu lực lớn, độ bền cao, được nhiều người ưa chuộng. Lim xanh Thanh Hóa từng được Chính phủ lựa chọn để xẻ tà - vẹt khôi phục lại tuyến đường sắt Bắc -Nam những năm đầu thập kỷ 60 của thế kỷ trước. Lim xanh Như Xuân cũng chính là loại gỗ được chọn để xây dựng Bảo tàng Hồ Chí Minh cũng như có mặt trong nhiều công trình xây dựng quan trọng khác của cả nước và trong Tỉnh.
2.2. Đa dạng loài động vật
Hệ động vật ở Vườn Quốc gia Bến En cũng rất đa dạng. Đây là nơi ẩn náu rất thuận lợi cho nhiều nhóm côn trùng, các loài chim, các loài gặm nhấm, móng guốc và các loài thú ăn thịt phát triển, sinh sôi.
Theo số liệu điều tra năm 1998 cho thấy, Vườn Quốc gia Bến En có 375 loài động vật thuộc 112 họ, 36 bộ, 5 lớp. Thú có 66 loài, 25 họ, 9 bộ (29 loài có trong Sách đỏ Việt Nam), trong đó có nhiều loài thú quý hiếm như voi (5 - 7 con), bò tót, hổ (3 - 5 con), vượn đen má trắng.
- Chim có 195 loài, 53 họ, 18 bộ (9 loài có trong Sách đỏ Việt Nam).
- Bò sát có 39 loài, 14 họ, 2 bộ (15 loài có trong Sách đỏ Việt Nam).
- Lưỡng cư có 29 loài, 6 họ, Ì bộ (4 loài có trong Sách đỏ Việt Nam).
- Cá có 49 loài, 14 họ, 6 bộ (4 loài có trong Sách đỏ Việt Nam).
Kết quả nhiều đợt khảo sát, điều tra cho thấy, động vật Vườn Quốc gia Bến En có 50 bộ, 177 họ, 216 giống và hơn 1.000 loài động vật, trong đó có 91 loài thú, 201 loài chim, 54 loài bò sát, 31 loài ếch nhái, 68 loài cá, 499 loài côn trùng. Có nhiều loài động vật quý hiếm nằm trong sách đỏ như voi, bò tót, gấu ngựa, báo lửa, khỉ mặt đỏ, vượn bạc má, rùa vàng...
3. Đa dạng gen
Vườn Quốc gia Bến En được đánh giá có sự đa dạng gen thực vật điển hình. Nguồn gen chính mà vườn đang chú ý bảo tồn là nguồn gen các loại cây thuộc kiểu rừng thường xanh chiếm ưu thế như: Lim xanh, Săng lẻ, Lát hoa, Táu mật, Gội nếp, Trai lý, Bản xe... với 1.357 loài, 902 chi, 196 họ của 6 ngành thực vật bậc cao, trong đó có 34 loài thực vật quý hiếm, đặc biệt là cây Lim xanh (Ery thsophloeum fordii) thuộc loài cây chiếm ưu thế.
Vài năm gần đây, với những đề tài nghiên cứu khoa học như: "Bảo tồn nguồn gen một số loài cây quý hiếm ở Vườn quốc gia Bến En", "Nghiên cứu quá trình phục hồi rừng sau nương rẫy ở Vườn quốc gia Bến En"... Vườn đã thu hút hàng trăm nhà nghiên cứu, nhà khoa học về động vật, thực vật trong nước và quốc tế đến tham quan, nghiên cứu.
III. ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC TẠI VƯỜN QUỐC GIA BẾN EN
1. Thực trạng về công tác bảo tồn đa dạng sinh học
Với diện tích 15.334 ha rừng và đất lâm nghiệp, trải dài trên địa bàn hai huyện Như Xuân và Như Thanh. Nhờ đẩy mạnh công tác nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nên Vườn Quốc gia Bến En đã xây dựng và phát triển thành công hệ sinh thái đa dạng của rừng nhiệt đới, phục vụ yêu cầu bảo tồn nguồn tài nguyên quý của thiên nhiên và phát triển du lịch sinh thái.
Năm 2005, vườn đã khoanh nuôi, phục hồi được 2.006ha rừng tự nhiên; khoanh nuôi kết hợp tác động kỹ thuật cao 96ha, chăm sóc rừng trồng phục hồi sinh thái 60 ha, xây dựng và chăm sóc vườn thực vật 29ha, điều tra, phân loại thực vật 30ha với 984 loài cây, điều tra, khảo sát làm lại luận cứ khoa học xây dựng khu sinh quyển thế giới của tỉnh Thanh Hóa. Ngoài ra, cán bộ kỹ thuật của vườn còn theo dõi các thông số kỹ thuật về diễn biến của các loài cây bản địa quý hiếm, thực nghiệm xử lý giống, gieo ươm, gây trồng một số loài cây mới để bảo tồn quỹ gien thực vật. Xây dựng quy trình kỹ thuật ứng dụng gây trồng rộng rãi các loài cây quý như: đinh hương, giổi, Lim xanh, vang nhuộm, rau sắng, vù hương, trai lý...
Vườn Quốc gia Bến En hiện là nơi lưu giữ diện tích và số lượng Lim xanh lớn nhất cả tỉnh, với diện tích khoảng 1.000ha. Nơi có mật độ Lim xanh dày nhất tại Vườn Quốc gia Bến En là khu vực Điện Ngọc. Lim xanh ở Vườn Quốc gia Bến En có độ tuổi từ 25 đến 30 năm, đường kính dao động từ 20 đến 25cm và hoàn toàn là lim tái sinh.
Trên lý thuyết, với độ tuổi còn "non" như vậy, chất lượng gỗ Lim xanh không cao. Tuy nhiên, vì lợi nhuận và nhu cầu "miếng cơm manh áo", rừng Lim xanh ở Vườn Quốc gia Bến En vẫn bị các đối tượng xâm hại. Đối tượng khai thác chủ yếu là ở các xã Bình Lương, Xuân Thái. Điển hình là năm 2008 các đối tượng đã lợi dụng sơ hở của cán bộ quản lý, khai thác trộm 78 cây lim tại rừng lim khu vực Điện Ngọc. Cách thức khai thác trộm phổ biến là sử dụng loại cưa xăng. Với công cụ này, các đối tượng chỉ cần khoảng 1 tiếng đồng hồ để hạ 1 cây lim. Không chỉ thế, nhiều đối tượng còn sử dụng biện pháp cưa mớm, sau đó chờ những ngày mưa, bão, gió quật đổ cây rồi lợi dụng sơ hở của lực lượng tuần tra, bảo vệ để cắt khúc, đưa đi.
Vườn Quốc gia Bến En đã triển khai nhiều biện pháp để quản lý, bảo vệ như khoanh vùng, giao trách nhiệm cho cán bộ trực tiếp quản lý đến từng tiểu khu. Thậm chí thành lập các chốt gác ngay giữa rừng, cắt cử cán bộ thay phiên nhau trực. Tuy nhiên, cuộc chiến giữ rừng, giữ Lim xanh vẫn giằng co, dai dẳng. Đối tượng khai thác trộm chủ yếu là dân bản địa, thông thuộc đường rừng như lòng bàn tay. Cán bộ kiểm lâm có phát hiện được đối tượng khai thác trộm, thì cũng khó đuổi bắt được. Rừng bị xâm hại, cán bộ làm nhiệm vụ thì phải chịu kỷ luật. Sử dụng biện pháp cứng rắn là bắn đối tượng thì cán bộ phải bồi thường. Vì vậy, lực lượng kiểm lâm đã dùng đến biện pháp làm bẫy dây để vây bắt đối tượng. Tuy nhiên, hầu hết các đối tượng là các con nghiện, khi áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính thì nhà lại quá nghèo, không biết lấy gì để nộp phạt.
Càng khó khăn hơn nữa, khi tại vùng lõi của Vườn Quốc gia Bến En có tới 318 hộ dân với gần 2.000 nhân khẩu sinh sống. Đời sống của bộ phận dân cư này hết sức khó khăn, thường chui nhủi khai thác gỗ trộm để bán lấy tiền sinh sống. Cán bộ Vườn Quốc gia và các cơ quan chức năng tổ chức tuyên truyền, vận động ý thức quản lý, bảo vệ rừng thì bà con... lý luận: Sống giữa rừng, không khai thác gỗ, săn thú thì chúng tôi lấy gì mà ăn.
Bên cạnh công tác bảo vệ, Vườn Quốc gia Bến En đã triển khai biện pháp bảo tồn. Công tác bảo tồn Lim xanh hiện nay ở Vườn Quốc gia Bến En chủ yếu là bảo tồn chuyển vị, phải du nhập giống và trồng mới. Nhưng do thời gian kiến thiết của Lim xanh lâu, phải từ 100 năm trở lên, do đó trên diện tích đất 2 ven Vườn Quốc gia Bến En, nhân dân chủ yếu trồng các loài cây lâm nghiệp ngắn ngày, phổ biến nhất là keo. Trong 2 năm gần đây, thông qua Dự án 661, Vườn Quốc gia Bến En đã trồng mới 80 ha lim với mật độ 500 cây/ha từ nguồn giống lim bản địa. Hiện nay toàn bộ diện tích lim này đang sinh trưởng và phát triển tốt. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là những giải pháp tạm thời.
2. Những thuận lợi và khó khăn trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học
2.1. Những thuận lợi
Được sự quan tâm của các cấp chính quyền, các tổ chức trong nước và Quốc tế, Vườn Quốc gia Bến En đã thu hút được nhiều dự án đầu tư nhằm tăng cường chất lượng của công tác bảo tồn đa dạng sinh học ở khu vực này:
- Từ tháng 7 đến tháng 9 năm 1997 và từ tháng 10 đến tháng 12 năm 1998, Tổ chức khám phá môi trường Việt Nam và Viện Sinh thái và Tài Nguyên Sinh vật (IEBR) đã điều tra Đa dạng sinh học ở Vườn Quốc gia Bến En (Tordoff et al. 1997, 2000).
- Từ năm 1998 đến năm 2000, Hội bảo tồn sinh thái Nhật Bản và Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội đã tiến hành thực hiện dự án bảo tồn động vật hoang dã ở vườn Quốc gia Bến En, dự án đã đánh giá các giá trị Đa dạng sinh học và xây dựng chiến lượng bảo tồn cho Vườn Quốc gia (Hà Đình Đức, 2000).
- Năm 1999, Chương trình điều tra Hổ Đông Dương cũng đã được tiến hành bởi các nhà khoa học Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật và Cục Kiểm lâm tại Vườn Quốc gia Bến En (Trần Quốc Bảo, 1999).
- Hiện nay, dự án "bảo vệ đa dạng sinh học của hệ sinh thái núi đất đai thấp khu vực Bắc Trung bộ ở Vườn Quốc gia Bến En" đến tháng 3/2011. Đây là dự án do Quỹ Bảo tồn Việt Nam hỗ trợ với tổng kinh phí gần 1 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn đối ứng của địa phương là 113,9 triệu đồng.
Thực hiện dự án này nhằm nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ Ban Quản lý Vườn Quốc gia Bến En và cán bộ địa phương, đồng thời thúc đẩy các mối quan hệ giữa Ban Quản lý và các cộng đồng địa phương thông qua việc quy hoạch sử dụng tài nguyên một cách bền vững tại 1 thôn trong khu bảo vệ nghiêm ngặt và 2 thôn trong khu phục hồi sinh thái Vườn Quốc gia. Hoạt động chính của dự án là xây dựng năng lực quản lý và xây dựng cơ chế chia sẻ lợi ích, trong đó tập trung xây dựng năng lực quản lý cho Ban Quản lý, cán bộ địa phương và cộng đồng để nâng cao năng lực quản lý bảo vệ rừng.
2.2. Những khó khăn
Trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học tại Vườn Quốc gia Bến En hiện tại còn một số khó khăn còn tồn tại như sau:
- Vườn Quốc gia Bến En hiện nay có sự không ổn định ranh giới, tách nhập nhiều lần đã gây nhiều khó khăn cho công tác hoạch định.
- Vấn đề nan giải số một của vườn hiện nay là bài toán về lãnh thổ. Vườn tiếp giáp với hai huyện Như Thanh và Như Xuân gồm 13 xã với 240 lối đi lớn nhỏ vào rừng. Số dân vùng lõi, vùng đệm thuộc đất vườn quản lý có 278 hộ với 1.296 nhân khẩu. Phần đông số hộ này còn nghèo và hầu hết là người dân tộc thiểu số, nhiều hộ đang được Nhà nước hỗ trợ tiền làm nhà, nhu cầu xây dựng cần nhiều gỗ nên rừng tiếp tục bị sức ép: "Làm sao đây để rừng an toàn ban ngày và "yên ngủ" ban đêm?".
Sự phức tạp của quản lý khu vực này thể hiện là: Năm 2009, vườn đã lập biên bản xử lý 50 vụ vi phạm quản lý, bảo vệ rừng, trong đó 21 vụ có chủ, 29 vụ vô chủ. Số lâm sản bị tịch thu gồm 34.352m3 gỗ tròn, 2,125m3 gỗ xẻ cùng nhiều tang vật như xe máy, súng săn... Trong con số trên, có năm vụ lâm tặc chống trả người thi hành công vụ, hai vụ đặc biệt nghiêm trọng. Một vụ đối tượng đập phá tài sản Nhà nước, một vụ đánh cán bộ kiểm lâm trọng thương tại xã Xuân Phúc (huyện Như Thanh). Ngoài ra, tình trạng săn bắt động vật hoang dã, khai thác lâm sản ngoài gỗ như: hoàng đằng, lá khôi tím, dây quạnh, thạch xương bồ, thiên niên kiện... đang gây sự suy giảm đa dạng sinh học cho vườn.
- Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất, nhượng quyền sở hữu đất rừng còn nhiều khiếm khuyết. Tại huyện Như Thanh diện tích đất lâm nghiệp đã chuyển sang trồng dứa, cà phê nay dự án, doanh nghiệp đổ bể, vùng nguyên liệu dứa đầu tư bằng vốn vay ngân hàng phá đi đã khó, trồng lại rừng không phải dễ vì nợ cũ còn đó, tổ chức tín dụng giữ chặt "giấy chứng nhận quyền sử dụng đất" để làm tin. Nhân dân nhiều địa phương trong tỉnh còn sử dụng đất lâm nghiệp để trồng mía nguyên liệu, trồng sắn cung ứng cho các nhà máy, cơ sở chế biến, gieo trồng các loài cây nông nghiệp trên đất dốc. Việc làm đó khiến cho một diện tích lớn đất rừng bị mất đi, kèm theo đó là diện tích rừng bị thu hẹp.
- Chính sách hưởng lợi theo Quyết định 178/QĐ-TTg còn thấp, chưa tạo động lực phát triển vốn rừng và đủ sức hấp dẫn hộ nhận đất, nhận rừng yên tâm gắn bó với nghề rừng. Hằng năm, hộ tham gia quản lý bảo vệ rừng chỉ được hưởng 2% tổng sản lượng lâm sản theo chu kỳ khai thác. Sau khi trừ chi phí thiết kế, tổ chức khai thác, thuế tài nguyên và các chi phí khác, hộ tham gia bảo vệ, phát triển vốn rừng thực nhận 30.000 đồng/1m3 gỗ khai thác tận thu tận dụng. Điều đó khiến cho người dân không chú tâm vào việc bảo vệ rừng mà khai thác rừng để thu lợi nhiều hơn.
- Tình trạng chặt phá rừng, "rút ruột" gỗ quý còn diễn ra, đặc biệt các đối tượng chặt phá rừng hoạt động có tính toán, có tổ chức và khá liều lĩnh.
Mặc dù có hẳn một Ban Quản lý với 75 nhân viên, gồm 5 phòng ban chức năng để bảo vệ, quản lý phát triển rừng và hệ sinh thái nhưng những năm gần đây, đặc biệt là cuối năm 2007 đến nay, hệ sinh thái của Vườn bị xâm phạm nghiêm trọng, hàng trăm cây lim xanh và nhiều loại gỗ quý khác bị chặt phá, làm thiệt hại nghiêm trọng tài sản quốc gia, gây bức xúc trong dư luận nhân dân.
3. Những kiến nghị và đề xuất
- Phải sớm ổn định quy hoạch về lãnh thổ của Vườn Quốc gia, tạo điều kiện cho công tác hoạch định công tác bảo tồn đa dạng sinh học ở Vườn Quốc gia được tổ chức tốt.
- Nghiêm trị các hành vi chặt phá rừng làm ảnh hưởng đến đa dạng sinh học của Vườn, truyền truyền công tác bảo vệ rừng, bảo vệ Vườn cho mọi người dân sinh sống quanh khu vực Vườn Quốc gia...
- Kiểm tra, rà soát công tác chuyển đổi mục đích sử dụng đất, nhượng quyền sở hữu đất rừng nhằm bảo vệ tốt nguồn đất rừng cũng như phục vụ cho công tác bảo vệ rừng, bảo vệ sự đa dạng sinh học của Vườn.
- Nâng cao chính sách hưởng lợi theo Quyết định 178/QĐ-TTg, tạo động lực phát triển vốn rừng và hấp dẫn các hộ dân nhận đất, nhận rừng yên tâm gắn bó với nghề rừng, người dân chú tâm vào việc bảo vệ rừng nhiều hơn.
- Ban Quản lý Vườn Quốc gia cần phải phối hợp chặt chẽ với lực lượng kiểm lâm, các cơ quan chức năng tập trung ngăn chặn tình trạng chặt phá rừng, "rút ruột" gỗ quý còn đang diễn ra. UBND Tỉnh Thanh Hóa cũng cần có các biện pháp mạnh dựa trên chế tàu pháp luật để trừng phạt, răn đe đối với các hành vi gây ảnh hưởng đến sự đa dạng sinh học của Vườn Quốc gia.
IV. KẾT LUẬN
Vườn Quốc gia Bến En có mức độ đa dạng sinh học vào loại trung bình. Vườn quốc gia hiện đang bảo vệ một phần hệ sinh thái vùng rừng thường xanh núi thấp ở Bắc Trung Bộ.
Hệ sinh thái rừng này đã bị tác động mạnh trước đây do khai thác, nên rừng hiện tại là rừng thứ sinh, cây gỗ đường kính nhỏ và phần lớn là tre nứa. Tuy nhiên từ khi ngừng khai thác, chất lượng rừng đã đang được phục hồi.
Khu hệ động thực vật Vườn Quốc gia Bến En vẫn khá đa dạng và phong phú. Tại Bến En ghi nhận số lượng đáng kể các loài thực vật đang bị đe dọa trên toàn cầu, đáng chú ý nhất trong số này là loài Lim xanh Erythrophleum fordii.
Một số loài động vật có giá trị bảo tồn ở mức độ toàn cầu đã được ghi nhận tại Vườn Quốc gia như Vượn má trắng Hylobates leucogenys, Lửng chóc Chrotogale owstoni, Báo lửa Catopuma temminckii (Tordoff et al. 2000). Tuy nhiên, số lượng cá thể của hầu hết các quần thể thú lớn tại Bến En là rất thấp, đây là hậu quả của tình trạng săn bắn quá mức, một số loài đã bị khai thác cạn kiệt.
Sự khai thác trái phép tài nguyên rừng của người dân ở đây và ở những nơi khác tới Vườn đang làm chậm quá trình tái sinh phục hồi rừng. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tình trạng khai thác gỗ trái phép cũng như các tác động khác của con người vào Vườn Quốc gia đã giảm đáng kể.
Vấn đề nan giải số một của vườn hiện nay là bài toán về lãnh thổ, vấn đề không ổn định về ranh giới. Ngoài ra, hiện tại Vườn Quốc gia Bến En còn phải đối mặt với tình trạng chặt phá rừng, nạn "rút ruột" gỗ quý. Do vậy cần thiết và cấp bách phải có các giải pháp cụ thể để bảo vệ đa dạng sinh học của Vườn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giới thiệu Vườn Quốc gia Bến En.
Ban Quản lý Vườn Quốc gia Bến En - Thanh Hóa.
2. Thông tin đa dạng hệ thực vật Vườn Quốc gia Bến En, tỉnh Thanh Hóa.
Trung tâm dữ liệu thực vật Việt Nam.
3. "For the sustainable management of protected areas in Vietnam, case study of Ben En National Park at Thanh Hoa province". Hanoi: Hanoi Science University and Ecosystem Conservation Society of Japan. In Vietnamese.
Ha Dinh Duc ed. (2000).
4. Vườn Quốc gia Bến En đang bị tàn phá.
Báo Tổ quốc điện tử.
5. Lim xanh Bến En và vấn đề bảo vệ, bảo tồn.
Báo Thanh Hóa điện tử.
6. Đánh giá tính đa dạng hệ thực vật bậc cao có mạch trên núi đá vôi Vườn Quốc gia Bến En - Thanh Hóa.
Đỗ Ngọc Đài, Lê Thị Hương, Phạm Hồng Ban. Đại học Vinh.
7. Đa dạng yếu tố địa lý hệ thực vật Vườn Quốc gia Bến En
Nguyễn Anh Tài, Phan Trọng Đức. Trung tâm cơ sở dữ liệu thực vật Việt Nam.
DANH MỤC ẢNH
Hoàng hôn trên hồ Bến En
Vườn Quốc gia Bến En tạo điều kiện thuận lợi cho các loài chim về cư trù theo mùa
Vườn Quốc gia Bến En có một hệ động vật phát triển phong phú và đa dạng
Tham quan du lịch bằng thuyền trên hồ Bến En
Đánh bắt tôm trên lòng hồ bằng hình thức đánh bắt cổ truyền vừa bảo vệ môi trường vừa đảm bảo sự phát triển cho các loài thủy sản trong lòng hồ
Cuộc sống sinh hoạt thường nhật của cư dân sống ven hồ rất hòa đồng và gần gũi với thiên nhiên
Vườn Quốc gia Bến En là trung tâm phân bố của giống lim xanh đặc hữu nổi tiếng ở Việt Nam
Du khách trong và ngoài nước rất thích thú khi tham quan Vườn Quốc gia Bến En
PHỤ LỤC
Phụ lục I. Đánh giá tính đa dạng hệ thực vật bậc cao có mạch trên núi đá vôi Vườn Quốc gia Bến En - Thanh Hóa
Qua điều tra ban đầu thực vật trên núi đá vôi Vườn Quốc gia Bến En - Thanh Hóa đã xác định được 412 loài, 267 chi và 110 họ. Trong đó ngành Mộc lan là đa dạng nhất chiếm tới 94,18% tổng số loài của khu vực nghiên cứu, với 13 loài có nguy cơ bị tuyệt chủng được ghi trong sách đỏ Việt Nam chiếm 3,16%. Hệ thực vật trên núi đá vôi có nhiều loài cây có giá trị kinh tế cao và cho nhiều công dụng, cây làm thuốc có số loài cao nhất với 157 loài chiếm 49,69%; cây cho lương thực, thực phẩm với 54 loài chiếm 17,09%. Thấp nhất là cây cho công dụng khác với 16 loài chiếm 5,06%. Trong các yếu tố địa lý thì yếu tố nhiệt đới chiếm tỷ lệ cao nhất với 55,59%, yếu tố đặc hữu đứng thứ 2 chiếm 31,56%, thấp nhất là yếu tố cây trồng chiếm 1,96%. Qua quá trình nghiên cứu chúng tôi đã lập phổ dạng sống của hệ thực vật nghiên cứu.
Đặt vấn đề
Núi đá vôi là hệ sinh thái rất đặc biệt của nước ta, nó chứa đựng một nguồn tài nguyên sinh học vô cùng quý giá. Nằm trong hệ thống rừng đặc dụng của Việt nam, Vườn Quốc gia Bến En là một đơn vị địa lý có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ đa dạng sinh học và bảo vệ môi trường sinh thái. Tuy nhiên trên thực tế nguồn tài nguyên rừng ở đây đang bị tác động mạnh bởi người dân quanh vùng. Chính vì vậy, công tác bảo tồn tính đa dạng sinh học, bảo vệ nguồn gen quý cũng như các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác là hết sức cần thiết. Bài báo này góp phần đánh giá tính đa dạng thực vật trên núi đá vôi Bến En, làm cơ sở cho công tác bảo tồn và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên sinh vật.
Nguyên liệu và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Bao gồm toàn bộ hệ thực vật bậc cao có mạch trên núi đá vôi Vườn Quốc gia Bến En - Thanh Hóa
Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu đa dạng về thành phần loài, giá trị sử dụng cũng như nguồn gen quý hiếm, yếu tố địa lý và phổ dạng sống của hệ thực vật trên núi đá vôi VQG Bến En - Thanh Hóa.
Phương pháp nghiên cứu
Thu mẫu và xử lí mẫu
Tiến hành thu mẫu theo phương pháp của Nguyễn Nghĩa Thìn [7].
Công việc này được tiến hành từ tháng 5 năm 2006 đến tháng 7 năm 2007.
Định loại
Sử dụng phương pháp hình thái so sánh và dựa vào các khoá định loại, các bản mô tả trong các tài liệu: Cẩm nang tra cứu và nhận biết các họ thực vật hạt kín ở Việt Nam [1], Cây cỏ Việt nam của Phạm Hoàng Hộ [5], Từ điển cây thuốc của Võ Văn Chi [2].
Chỉnh lý tên khoa học dựa vào tài liệu
Danh lục các loài thực vật Việt Nam [4].
Sắp xếp các họ, chi, loài theo Brummitt [12].
Đánh giá tính đa dạng về yếu tố địa lý theo Nguyễn Nghĩa Thìn [9].
Đánh giá tính đa dạng về yếu tố địa lý theo Raukiaer 1934 [13].
Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Đa dạng về các taxon thực vật
Qua điều tra chưa đầy đủ về thành phần loài thực vật trên núi đá vôi VQG Bến En - Thanh Hoá. Chúng tôi đã xác định được 412 loài, 267 chi và 110 họ của 4 ngành thực vật bậc cao được thể hiện qua bảng 1.
Bảng 1. Sự phân bố các taxon các ngành của hệ thực vật nghiên cứu
Ngành
Họ
Chi
Loài
Số họ
Tỷ lệ (%)
Số chi
Tỷ lệ (%)
Số loài
Tỷ lệ (%)
Lycopodiophyta
1
0,91
1
0,37
2
0,49
Polypodiophyta
8
7,27
10
3,75
18
4,37
Pinophyta
2
1,82
2
0,74
2
0,96
Magnoliophyta
99
90,00
254
95,14
390
94,18
Tổng
110
100
267
100
412
100
Qua bảng 1 chúng ta thấy phần lớn các taxon tập trung trong ngành Magnoliophyta với 99 họ chiếm 90,00%, 254 chi chiếm 95,14%, 390 loài chiếm 94,18% so với tổng số họ, chi, loài của hệ thực vật, tiếp đến là ngành Polypodiophyta 8 họ chiếm 7,27%, 10 chi chiếm 3,75% và 18 loài chiếm 4,37%. Các ngành còn lại (Lycopodiophyta, Pinophyta) chiếm tỉ lệ không đáng kể, tổng số họ, chi và loài của các ngành này tương ứng là 2,73%: 1,11%:1,45% tổng số họ, chi và loài của toàn hệ thực vật Bến En.
Khi so sánh các dẫn liệu về số lượng loài trong các ngành của hệ thực vật trên núi đá vôi Bến En với các dẫn liệu về số lượng loài trong các ngành của hệ thực vật Na Hang, Cúc Phương được thể hiện qua bảng 2.
Bảng 2. Số loài và tỉ lệ % loài của Bến En với Na Hang, Cúc Phương
Các ngành
Bến En
Na Hang
Cúc Phương
Số loài
Tỷ lệ (%)
Số loài
Tỷ lệ (%)
Số loài
Tỷ lệ (%)
Psilophyta
0
0,00
0
0,00
1
0,06
Lycopodiophyta
2
0,49
5
0,43
9
0,50
Euquisetophyta
0
0,00
0
0,00
1
0,06
Polypodiophyta
18
4,37
63
5,42
127
7,50
Pinophyta
2
0,96
11
0,95
3
0,18
Magnoliophyta
390
94,18
1083
93,20
1676
92,24
Tổng
412
100
1162
100
1818
100
Bảng 2 cho thấy điểm nổi bật vẫn là sự phân bố không đều của các loài trong ngành, sự thống trị của các ngành Mộc lan và Dương xỉ, các ngành còn lại chiếm tỉ lệ tương đối thấp hay không có. Sở dĩ có sự khác nhau đó là do mỗi vùng mỗi hệ thực vật đều chịu ảnh hưởng của các điều kiện tự nhiên xã hội, sinh thái khác nhau...
Khi tiến hành xem xét số loài trên một đơn vị diện tích và so sánh với Na Hang, Cúc phương chúng tôi thu được kết quả ở bảng 3.
Bảng 3. So sánh số loài trên đơn vị diện tích giữa Bến En, Na Hang, Cúc Phương
Hệ thực vật
Diện tích Km2
Số loài
Số loài/Km2
Bến En
4
412
103,00
Na Hang
217
1162
5,35
Cúc Phương
222
1817
8,18
Bảng 3 cho thấy tỉ lệ số loài trên 1km2 ở Bến En là khá cao (103,00%) cao hơn nhiều lần so với Cúc Phương (8,18%) và Na Hang (5,35%). Điều này một lần nữa khẳng định số loài không tỉ lệ thuận với diện tích của nó.
Sự phân bố không đều nhau của các taxon không chỉ được thể hiện giữa các ngành mà còn được thể hiện giữa các taxon trong cùng một ngành kết quả ở bảng 4.
Bảng 4. Sự phân bố các taxon lớp trong ngành Mộc lan của Bến En
Tên lớp
Họ
Chi
Loài
Số họ
Tỷ lệ (%)
Số chi
Tỷ lệ (%)
Số loài
Tỷ lệ (%)
Magnoliopsida
82
82,83
224
88,19
345
88,46
Lilliopsida
17
17,17
30
11,81
45
11,54
Tổng
99
100
254
100
390
100
Như vậy chỉ tính riêng trong ngành Mộc lan thì lớp Mộc lan (Magnoliopsida) có số lượng các taxon chiếm ưu thế chiếm trên 80% tổng số họ, chi, loài của ngành. Tỷ lệ giữa lớp Mộc lan với lớp Loa kèn là 7,67/1 nghĩa là cứ 7,67 loài của lớp Mộc lan mới có một loài của lớp Loa kèn.
Khi phân tích các chỉ số của các taxon trong khu hệ thực vật Bến En so sánh với các chỉ số này với các chỉ số ở một số khu hệ thực vật khác chúng tôi thu được kết quả ở bảng 5.
Bảng 5. Các chỉ số họ, chi của Bến En với các chỉ số của Na Hang, Cúc Phương
Chỉ số
Bến En
Na Hang
Cúc Phương
Chỉ số họ
3,75
7,31
9,66
Chỉ số chi
1,54
1,89
2,17
Số chi/họ
2,43
3,86
4,46
Như vậy, Bến En có tổng các chỉ số thấp hơn so với Na Hang và Cúc Phương. Điều này hoàn toàn đúng với thực tế vì các khu hệ thực vật khác được nghiên cứu từ lâu và khá kĩ càng còn ở Bến En thì mới được nghiên cứu và hệ thực vật ở đây nằm ở đai thấp, hầu hết là sườn dốc và bị tác động mạnh bởi yếu tố con người.
Chúng tôi thống kê ở khu vực nghiên cứu có 10 họ giàu loài nhất (từ 10 loài trở lên) chiếm 9,10% số họ, 34,23% tổng số chi nhưng chiếm tới 36,65% tổng số loài của khu hệ thực vật. Các họ đa dạng nhất là: Euphorbiaceae 34 loài, Annonaceae 22 loài, Moraceae 15 loài, Rubiaceae 14 loài, Meliaceae 13 loài, Verbenaceae 12 loài, Sterculiaceae 11 loài, Lauraceae, Oleaceae, Rutaceae 10 loài.
Có 10 chi giàu loài nhất của vùng (5 loài trở lên) là: Ficus 8 loài, Jasminum 7 loài, Diospyros, Aglaia, Streblus 6 loài, Callicarpa, Ophiopogon, Polyalthia, Uvaria, Elaeocarpus 5 loài. Tổng 10 chi giàu loài nhất là 58 loài chiếm 14,08%.
Đánh giá đa dạng về giá trị sử dụng và nguồn gen quý hiếm
Đa dạng về giá trị sử dụng
Giá trị sử dụng dựa theo các tài liệu: Từ điển cây thuốc [2], 1900 loài cây có ích [7], Danh lục các loài thực vật Việt Nam [4], Cây cỏ có ích ở Việt Nam [3]. Công dụng của các loài thực vật trong khu hệ nghiên cứu được trình bày ở bảng 6.
Bảng 6. Công dụng một số loài thực vật trên núi đá vôi Bến En
TT
Công dụng
Số loài
Tỷ lệ %
1
Cây làm thuốc
164
39,80
2
Cây cho gỗ
48
11,65
3
Cây làm cảnh
24
5,83
4
Cây làm lương thực, thực phẩm
56
13,59
6
Cây lấy tinh dầu
19
4,61
7
Cây có công dụng khác
16
3,88
Tổng số loài cây sử dụng
214
51,70
Bảng trên cho chúng ta thấy công dụng của các loài thực vật, trong đó cây làm thuốc có số loài cao nhất với 164 loài chiếm 39,80% tiếp đến là cây làm lương thực, thực phẩm với 56 loài chiếm 13,59%. Thấp nhất là nhóm cây có công dụng khác với 16 loài chiếm 3,88%.
Đa dạng về nguồn gen quý hiếm
Nhóm cây có nguy cơ bị tiêu diệt theo Sách đỏ Việt Nam (phần thực vật 1996) [10]. Chúng tôi đã thống kê được ở Bến En có 13 loài chiếm 3,16% tổng số thực vật bậc cao có mạch diện cần bảo vệ và có chính sách ưu tiên. Các loài là: Asarum balansa (E), Azima sarmentosa, Ophiopogon tonkinensis, Stemonea cochinchinensis, Cycas balansae, Sauropus macranthus, Michelia foveolata (R), Hemiscolopia trimera, Pavieasia annamensis, Xantonneopsis robinsonii, (T), Melientha suavis, Parashorea chinensis (K) Cibotium barometz (V).
Đa dạng về yếu tố địa lý và phổ dạng sống
Đa dạng về yếu tố địa lý
Trong 412 loài thì 358 loài đã được xác định, còn 54 loài chưa đủ thông tin nên chúng tôi chưa đưa vào yếu tố nào. Ưu thế thuộc về yếu tố nhiệt đới chiếm 55,59%, yếu tố đặc hữu đứng thứ 2 chiếm 31,56%, tiếp đến là yếu tố ôn đới chiếm 3,35% và cuối cùng là yếu tố cây trồng chiếm 1,96%. Xét trong mối quan hệ với các hệ thực vật láng giềng, chúng tôi nhận thấy rằng khu hệ thực vật Bến En có quan hệ với yếu tố Đông Dương-Malezi là gần nhất với 20,39%, tiếp theo là Đông Dương-Ấn Độ với 9,50%, với đông Dương-Nam Trung Quốc là 5,03%, Hymalaya là xa nhất với 3,35%.
Đa dạng về dạng sống
Áp dụng có biến đổi hệ thống phân loại dạng sống của Raunkiaer (1934) [13], chúng tôi thu được kết quả ở bảng 7.
Bảng 7. Số lượng và tỉ lệ % các nhóm dạng sống ở Bến En
Dạng sống
Ph
Ch
Hm
Cr
Th
CXĐ
Tổng
Số loài
295
24
5
27
7
54
412
%
71,60
5,83
1,21
6,55
1,70
13,11
100
Như vậy, trong tổng số 358 loài đã được xác định, nhóm chồi trên (Ph) là nhóm chiếm ưu thế cao với tỉ lệ 71,60%, tiếp đến là nhóm cây chồi ẩn (Cr) 6,55%, nhóm cây chồi sát đất (Ch) 5,83%, thấp nhất là nhóm cây chồi nửa ẩn (Hm) và cây thân thảo (Th) chiếm các tỷ lệ tương ứng là 1,21% và 1,70%.
Từ kết quả thu được chúng tôi lập phổ dạng sống của khu hệ nghiên cứu như sau:
SB = 71,60 Ph + 5,03 Ch + 1,21 Hm + 6,55 Cr + 1,70 Th
Trong các nhóm cây chồi trên chúng tôi nhận thấy rằng các nhóm nhỏ trong đó lại rất không đều nhau được thể hiện ở bảng 8.
Bảng 8. Tỉ lệ % các dạng sống trong các nhóm cây chồi trên ở Bến En
Dạng sống
Mg
Me
Mi
Na
Ep
Suc
Lp
Hp
Tổng
Số loài
17
56
79
44
15
2
72
10
295
Tỷ lệ %
5,76
18,98
26,78
14,92
5,08
0,68
24,41
3,39
100
Trong đó chiếm tỉ lệ cao nhất là nhóm cây chồi nhỏ (Mi) với 26,78%, trong khi đó nhóm cây chồi trên lớn (Mg chiều cao trên 25m) và vừa (Me, chiều cao từ 8-25m) chiếm tỉ lệ tương đối thấp. Điều này hoàn toàn phù hợp vì rừng ở Bến En được xếp vào trung bình và nghèo, hơn nữa nơi đây bị tàn phá khai thác không hợp lý từ những năm trước. Đây cũng là vấn đề mà các ngành, cơ quan cần chú ý và quan tâm hơn nữa.
Kết luận
Qua điều tra ban đầu thực vật trên núi đá vôi Bến En-Thanh Hóa đã xác định được 412 loài, 267 chi và 110 họ.Trong đó ngành Mộc lan là đa dạng nhất chiếm tới 94,18% tổng số loài, tiếp đến là ngành Polypodiophyta chiếm 4,37% số loài, các ngành còn lại (Lycopodiophyta, Pinophyta) chiếm tỉ lệ không đáng kể chiếm 1,50% tổng số loài.
Các họ đa dạng nhất là: Euphorbiaceae, Annonaceae, Moraceae, Rubiaceae, Meliaceae, Verbenaceae, Sterculiaceae, Lauraceae, Oleaceae, Rutaceae.
Các chi đa dạng là: Ficus, Jasminum, Diospyros, Aglaia, Streblus, Callicarpa, Ophiopogon, Polyalthia, Uvaria, Elaeocarpus.
Hệ thực vật trên núi đá vôi Bến En - Thanh Hóa gồm có 13 loài có nguy cơ bị tuyệt chủng được ghi trong sách đỏ Việt nam chiếm 3,16%.
Hệ thực vật trên núi đá vôi ở đây có nhiều loài cây có giá trị kinh tế cao và cho nhiều công dụng, cây làm thuốc có số loài cao nhất với 157 loài chiếm 49,69%; cây cho lương thực, thực phẩm với 54 loài chiếm 17,09%. Thấp nhất là cây cho công dụng khác với 16 loài chiếm 5,06%.
Trong các yếu tố địa lý thì yếu tố nhiệt đới chiếm tỷ lệ cao nhất với 55,59%, yếu tố đặc hữu đứng thứ 2 chiếm 31,56%, thấp nhất là yếu tố cây trồng chiếm 1,96%.
Qua quá trình nghiên cứu chúng tôi đã lập phổ dạng sống của hệ thực vật như sau:
SB = 71,60 Ph + 5,03 Ch + 1,21 Hm + 6,55 Cr + 1,70 Th
Đỗ Ngọc Đài, Lê Thị Hương, Phạm Hồng Ban. Đại học Vinh.
Phụ lục 2. Đa dạng yếu tố địa lý hệ thực vật Vườn Quốc gia Bến En
Các taxon cấu trúc nên hệ thực vật có các yếu tố địa lý khác nhau, đó chính là sự phân bố địa lý. Các đơn vị taxon này có thể giống hoặc khác nhau về mặt yếu tố địa lý thực vật ở các mức độ khác nhau.
Đa dạng yếu tố địa lý bậc họ
Căn cứ vào danh lục chúng tôi tiến hành phân tích yếu tố địa lý ở taxon họ trong hệ thực vật Bến En. Trong quá trình phân tích chúng tôi chia hệ thống họ theo Brummitt (1992) từ đó chúng tôi đã sắp xếp các họ theo các nhóm yếu tố được chỉ ra dưới đây:
Tập trung chủ yếu trong hệ thực vật Bến En là các họ có khu phân bố thuộc về các yếu tố nhiệt đới như: nhiệt đới, cận nhiệt đới, liên nhiệt đới,... chiếm một tỉ lệ khá cao: 61,6%. Trong khi đó yếu tố ôn đới chỉ chiếm 10,14% cùng với yếu tố toàn thế giới 13,77% lập thành hệ thực vật mang đậm tính chất nhiệt đới Bến En. Cũng phải thấy rằng trong số các yếu tố thuộc về nhiệt đới thì các yếu tố thuộc về nhiệt đới Á Mỹ hay nhiệt đới Á Phi chỉ chiếm một tỉ lệ khiêm tốn (3,62 và 0,73%), đặc biệt hệt thực vật ở đây có tỉ lệ rất thấp về yếu tố nhiệt đới châu Á (0,73%) điều đó chứng tỏ rằng hệ thực vật ở đây mang tính chất nhiệt đới điển hình hơn là đặc trưng cho nhiệt đới châu Á.
Đa dạng yếu tố địa lý bậc chi
Trong phân tích yếu tố địa lý của các chi trong hệ thực vật Bến En, chúng tôi dựa theo cách phân chia của Nguyễn Nghĩa Thìn, 1999 về “Các kiểu khu phân bố địa lý thực vật của các chi thực vật có hoa ở Việt Nam”. Theo cách phân chia này, chúng tôi chia thống kê số lượng các chi và sắp xếp vào đúng yếu tố địa lý của chi
Kết quả cho thấy, trong 459 chi thực vật bậc cao đã được phân tích thì 329 chi thuộc các yếu tố nhiệt đới chiếm 71,68% tổng số chi của cả hệ, nó thể hiện tính ưu thế và đặc trưng của hệ thực vật Bến En. Qua phân tích chúng tôi thấy trong hệ thực vật Bến En không có chi đặc hữu và cận đặc hữu của Việt Nam, không có chi nào thuộc yếu tố Địa Trung Hải - Âu Á, đặc biệt yếu tố lục địa Đông Nam Á chỉ có một chi Antheroporum thuộc họ Fabaceae.
Kết quả phân tích yếu tố địa lý các chi của hệ thực vật Bến En:
+ Yếu tố toàn cầu (1) có 34 chi chiếm tỷ lệ 7,41%
+ Yếu tố liên nhiệt đới (2) có 105 chi chiếm tỷ lệ 22,86%
+ Yếu tố nhiệt đới châu Á, châu Úc, châu Mĩ (2 - 1) có 5 chi chiếm 1,09%.
+ Yếu tố nhiệt đới châu Á, châu Phi, châu Mĩ (2 - 2) có 2 chi chiếm 0,44%.
+ Yếu tố Á - Mỹ (3) có 34 chi chiếm tỷ lệ 34%.
+ Yếu tố cổ nhiệt đới (4) có 47 chi chiếm tỷ lệ 10,2%.
+ Yếu tố Á - Úc nhiệt đới (5) có 40 chi chiếm tỷ lệ 8,71%.
+ Yếu tố Á - Phi nhiệt đới (6) có 23 chi chiếm tỷ lệ 5,01%.
+ Yếu tố Nhiệt đới châu Á (7) có 53 chi chiếm tỷ lệ 11,55%.
+ Yếu tố Đông Nam Á [Đông Dương - Malêzi] (7 - 1) có chi chiếm tỷ lệ 3,27%.
+ Yếu tố Nhiệt đới lục địa châu Á [Đông Dương - Ấn Độ] (7 - 2) có 2 chi chiếm tỷ lệ 0,44%.
+ Yếu tố Lục địa Đông Nam Á [Đông Dương Himalaya] (7 - 3) có 1 chi chiếm tỷ lệ 0,21%
+ Yếu tố Đông Dương - Nam Trung Quốc (7 - 4) có 2 chi chiếm tỷ lệ 0,44%.
+ Yếu tố ôn đới (8) có 14 chi chiếm tỷ lệ 3,05%.
+ Yếu tố Đông Á - Nam Mỹ (9) có 8 chi chiếm tỷ lệ 1,74%
+ Yếu tố ôn đới cổ thế giới (10) có 3 chiếm tỷ lệ 0.65%.
+ Yếu tố ôn đới địa Trung Hải (11) không có chi nào.
+ Yếu tố Đông Á (12) có 4 chi chiếm tỷ lệ 0,87%.
Yếu tố đặc hữu, gần đặc hữu Việt Nam không có chi nào và 66 chi chưa xác định được yếu tố địa lý.
So sánh sự phân bố địa lý của các chi trong hệ thực vật Bến En với hệ thực vật Việt Nam (theo kết quả thống kê của Nguyễn Nghĩa Thìn, 1999), chúng tôi thấy hệ thực vật Bến En tuy có khác về tỉ lệ phần trăm của các yếu tố nhưng tổng quan toàn hệ tỉ lệ phần trăm giữa các yếu tố vẫn là đặc trưng của hệ thực vật Việt Nam (Các yếu tố nhiệt đới vẫn chiếm ưu thế với tỉ lệ cao tỉ lệ cao). Tuy nhiên, trong hệ thực vật Bến En các yếu tố liên nhiệt đới, nhiệt đới châu Á - châu Mĩ, cổ nhiệt đới và nhiệt đới châu Á - châu Úc lại có tỉ lệ % số chi cao hơn so với hệ thực vật Việt Nam. Sự khác nhau này có thể do vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của Bến En mang đến.
Đa dạng yếu tố địa lý bậc loài
Từ những thông tin thu thập và phân tích về sự phân bố của các loài trong hệ thực vật Bến En. Chúng tôi thu được kết quả: Trong hệ thực vật Bến En được cấu thành gồm 749 loài thực vật bậc cao có mạch thì ưu thế là các loài thuộc yếu tố nhiệt đới với 513 loài chiếm 68,5% tổng số loài của cả hệ. Trong đó yếu tố nhiệt đới châu Á chiếm 194 loài chiếm 25,9%. Yếu tố lục địa Đông Nam Á 53 loài (chiếm 7,08% ), yếu tố Đông Dương - Nam Trung Quốc có 53 loài (Chiếm 7,08%), Yếu tố lục địa châu Á có 53 loài (Chiếm 7,08%) và yếu tố Đông Nam Á có 33 loài (Chiếm 4,41%). Các yếu tố còn lại chiếm tỉ lệ thấp như Ôn đới Bắc có 3 loài (chiếm 0,4%), yếu tố Đông Á có 38 loài (Chiếm 5,07%), yếu tố toàn cầu có 11 loài (Chiếm 1,47%). Các yếu tố như Đông Nam Á, Ôn đới cổ thế giới, Ôn dới Địa Trung Hải - ÂU Á không có loài nào. Đặc hữu Đông Dương có 45 loài (Chiếm 6,01%); Đặc hữu Việt Nam có 65 loài (Chiếm 9,35%), gồm cả các loài gần đặc hữu Việt Nam có 17 loài chiếm 2,27%, đặc biệt Bến En có 6 loài (0,8%) gồm các loài như Adina thanhhoaensis Trần thuộc họ Rubiaceae.
Từ những thông tin thu được qua phân tích yếu tố địa lý của loài, chúng tôi đánh giá mối quan hệ giữa hệ thực vật Bến En với một số yếu tố Himalaya, Ấn Độ, Nam Trung Quốc và Malesia. Chúng tôi thấy rằng, các loài trong hệ thực vật Bến En có mối quan hệ với Ấn Độ, Himalaya, và Nam Trung Quốc là chặt nhất với 7,08%, ít quan hệ với là malêzi (4,41%).
Kết luận
Từ những nghiên cứu trên, chúng tôi đã rút ra kết luận sau:
Các yếu tố địa lý bậc họ của thực vật Bến En chủ yếu tập trung vào các yếu tố thuộc nhiệt đới như liên nhiệt đới, nhiệt đới, cận nhiệt đới,...chiếm tỉ lệ 61.6% trong khi đó các yếu tố ôn đới chỉ chiếm 10.14% tổng số họ.
Về các yếu tố địa lí của chi, thực vật Bến En thuộc vào các yếu tố nhiệt đới với một tỉ lệ áp đảo (71.67%) so với ôn đới (5.44%), còn lại là các yếu tố toàn cầu và chưa xác định.
10 Phổ các yếu tố địa lí của loài: thuộc về nhiệt đới là 70.48% (528), ôn đới chiếm tỉ lệ 5.74% (43). Đặc hữu Đông Dương có 45 loài (Chiếm 6,01%); Đặc hữu Việt Nam có 65 loài (Chiếm 9,35%), gồm cả các loài gần đặc hữu Việt Nam có 17 loài chiếm 2,27%, đặc biệt Bến En có 6 loài (0,8%) gồm các loài như Adina thanhhoaensis Trần thuộc họ Rubiaceae.
Về mối quan hệ giữa hệ thực vật Bến En với hệ thực vật Himalaya, Ấn Độ, Nam Trung Quốc và Malesia, chúng tôi thấy rằng, các loài trong hệ thực vật Bến En có mối quan hệ với Ấn Độ, Himalaya và Trung Quốc là chặt nhất với 7,08% ít quan hệ với Himalaya với 4,41%.
Nguyễn Anh Tài, Phan Trọng Đức. Trung tâm cơ sở dữ liệu thực vật Việt Nam.
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 4
I. GIỚI THIỆU VỀ VƯỜN QUỐC GIA BẾN EN 5
1. Giới thiệu chung 5
2. Lịch sử hình thành 5
3. Địa hình thủy văn 6
4. Đa dạng sinh học 6
5. Các vấn đề bảo tồn 7
6. Các giá trị khác 7
II. HIỆN TRẠNG ĐA DẠNG SINH HỌC TẠI VƯỜN QUỐC GIA BẾN EN 9
1. Đa dạng hệ sinh thái 9
2. Đa dạng loài động thực vật 9
3. Đa dạng gen 11
III. ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC TẠI VƯỜN QUỐC GIA BẾN EN 12
1. Thực trạng về công tác bảo tồn đa dạng sinh học 12
2. Những thuận lợi và khó khăn trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học 12
3. Những kiến nghị và đề xuất 15
IV. KẾT LUẬN 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO 17
DANH MỤC ẢNH 18
PHỤ LỤC 24
MỤC LỤC 33
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- da_dang_sinh_hoc_vuon_quoc_gia_ben_en_thanh_hoa_112903194216_626.doc