Bảo vệ máy chủ an toàn với phần mềm tự do
Một trong những điểm yếu nhất của static packet filter là để
cung cấp một dịch vụ, bồ buộc phải mở một port, có nghĩa là bất
kì lúc nào sẽ có một *hole* trong hệ thống, và dữ liệu đi qua
*hole* này sẽ không bị kiểm soát gì hết.
14 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2641 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bảo vệ máy chủ an toàn với phần mềm tự do, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bảo vệ máy chủ an toàn
với phần mềm tự do
0.0 Giới thiệu
Khi thiết kế một hệ thống phòng thủ, chúng ta phải thiết kế sao
cho hệ thống đó có cấu trúc tương tự như...củ hành tây. Kẻ tấn
công lột một lớp vỏ bên ngoài, sẽ còn rất nhiều lớp vỏ bên trong
bảo vệ cho phần lõi của củ hành, đây chính là khái niệm phòng
thủ có chiều sâu, một trong những khái niệm quan trọng nhất khi
thảo luận về bảo mật mạng máy tính. Phòng thủ có chiều sâu giúp
chúng ta bảo vệ hệ thống mạng của mình bất chấp một hoặc nhiều
*lớp* bảo vệ bên ngoài bị xâm hại. Một hệ thống phòng thủ chỉ an
toàn khi nào càng đi sâu vào bên trong, kẻ tấn công càng gặp phải
nhiều khó khăn, tốn nhiều công sức và dễ bị phát hiện hơn. Một
chi tiết cần phải lưu ý là không có bất kì lớp bảo vệ nào đủ sức
chống lại mọi loại tấn công, sức mạnh của hệ thống phòng thủ là
sự kết hợp sức mạnh của từng lớp bảo vệ, mỗi lớp thực thi nhiệm
vụ của riêng mình, nghĩa là ngăn cản và phòng ngừa một loại tấn
công cụ thể nhất định.
Có ba yếu tố tạo thành một hệ thống phòng thủ có chiều sâu:
network perimeter, internal network, và nhân tố con người. Do
loạt bài này là *ăn theo* loạt bài "Kí sự các vụ DDoS vào HVA* -
1- vì vậy tôi chỉ trình bày về network perimeter, về hai yếu tố còn
lại, nếu có cơ hội thì tôi sẽ trình bày nó ở phần mở rộng của loạt
bài này.
0.1 Network perimeter
Perimeter, dịch ra tiếng Việt có nghĩa là "vành đai", tuy nhiên từ
perimeter dùng ở đây có nghĩa khác khái niệm "vành đai" một tí,
bởi perimeter của một network có những thiết bị nằm ở *vòng
ngoài* và cũng có những thiết bị nằm ở *vòng trong* của network
đó. Các thiết bị này bao gồm:
- Static packet filter
- Stateful firewall
- Proxy firewall
- IDS
- VPN device
Trong trường hợp này, chúng ta cũng không tìm hiểu hết các thiết
bị này, mà chỉ gói gọn trong 3 thiết bị là static packet filter,
stateful firewall và IDS.
Static packet filter, thường là các router, là thiết bị đầu tiên trong
bộ perimeter mà tất cả các luồng traffic đi vào hệ thống của chúng
ta phải đi qua và cũng là thiết bị sau cùng trong bộ perimeter mà
tất cả các traffic xuất phát từ hệ thống của chúng ta phải đi qua.
Các static packet filter chỉ có thể lọc các packet dựa vào các thông
tin cơ bản như địa chỉ IP, port number và protocol -2-. Chúng có
thể là router (Cisco router với standard access list từ 1-99) hoặc
firewall (IPchains). Do chỉ lọc các packet dựa vào các thông tin cơ
bạn nên static packet filter làm việc rất nhanh, nhanh hơn rất nhiều
so với các loại stateful firewall. Static packet filter đặc biệt hữu
dụng trong trường hợp bồ đang bị tấn công hoặc firewall của bồ
đang phải chịu tải quá nhiều. Ví dụ như bồ phát hiện ra có một kẻ
từ địa chỉ IP 100.100.100.100 đang cố gắng login vào máy chủ
của bồ ở cổng 22 (SSH), với IPchains, bồ có thể dễ dàng chặn
đứng đợt tấn công này với lệnh sau đây:
CODE
ipchains -A input -i eth0 -p tcp -s 100.100.100.100/32 -d
192.168.1.1/32 22 -l -j DENY
Do loạt bài viết này không tập trung vào ipchains nói riêng và
static packet filter nói chung do đó tôi sẽ không giải thích câu lệnh
trên có nghĩa là gì, bồ nào muốn tìm hiểu thì xin lên Internet tìm
tài liệu về ipchains -3-.
Ưu điểm về tốc độ của static packet filter không thể che dấu hết
những khuyết điểm rất nghiêm trọng trong hoạt động của nó. Một
lớp các vụ tấn công mà static packet filter hoàn toàn *bó tay* đó
là các loại tấn công mà trong đó kẻ tấn công cố tình thay đổi các
thông số và tùy chọn trong những packet gửi đến máy chủ của
chúng ta -4-. Ví dụ điển hình là kĩ thuật ACK Scan của Nmap.
Thông thường, các static packet filter đều được cấu hình để chặn
hết tất cả các ICMP Echo Request (tạo ra bởi công cụ ping) để
tránh bị tấn công DDoS hoặc bị thăm dò thông tin. Một câu lệnh
ipchains cụ thể để làm chuyện này như sau:
CODE
ipchains -A input -i eth0 -p icmp -s 0.0.0.0/0 -d 0.0.0.0/0 -l -j
DENY
Thật ra câu lệnh trên cũng không chính xác với yêu cầu, bồ có biết
không chính xác ở chỗ nào không?
Câu lệnh trên sẽ block hết tất cả các ICMP Echo Request tạo ra từ
công cụ ping, tuy nhiên nó hoàn toàn vô dụng với kĩ thuật ACK
Scan của Nmap. Tại sao? Với kĩ thuật ACK Scan, thay vì gửi một
ICMP packet bình thường đến hệ thống của chúng ta, Nmap sẽ tạo
ra một packet với flag ACK được active (được gọi là TCP ping
packet) rồi gửi đi đến port 80 của máy chủ chúng ta. Các static
packet filter thấy flag ACK được active sẽ nghĩ rằng đây là packet
trả lời cho một SYN packet gửi ra từ máy chủ trước đó, vì vậy sẽ
cho packet này đi qua -5-.
Với ví dụ trên, rõ ràng chúng ta cần một thiết bị khác (nằm ngoài
sau static packet filter) để có thể hứng và ngăn chặn được những
dạng tấn công như Nmap ACK scan, thiết bị đó chính là stateful
firewall. Stateful Firewall, như tên gọi, là loại firewall có thể nhận
dạng, theo dõi được *state* -6- của một connection bằng cách lưu
trữ tất cả các thông tin của connection đó, từ lúc khởi tạo cho đến
lúc kết thúc, vào trong một table, mà trong Netfilter/Iptables
người ta gọi là connection tracking table. Đối với
Netfilter/iptables, thông tin này có thể đọc được trong
/proc/net/ip_conntrack, ví dụ như:
CODE
[mrro@smsec ~]$ sudo tail -f /proc/net/ip_conntrack
udp 17 157 src=127.0.0.1 dst=127.0.0.1 sport=32881 dport=53
packets=6 bytes=384 src=127.0.0.1 dst=127.0.0.1 sport=53
dport=32881 packets=6 bytes=534 [ASSURED] use=1
tcp 6 98 TIME_WAIT src=192.168.1.2 dst=63.208.196.94
sport=33404 dport=80 packets=5 bytes=518 src=63.208.196.94
dst=192.168.1.2 sport=80 dport=33404 packets=4 bytes=459
[ASSURED] use=1
Nhìn vào hai entry này, ta có thể thấy được entry đầu tiên là một
UDP datagram, entry thứ hai là một TCP segment, do đó cần phải
lưu ý là Netfilter/iptables hoặc bất kì stateful firewall nào đều có
khả năng theo dõi các *stateless* protocol như UDP,
ICMP...Chúng ta sẽ đi sâu vào Netfilter/iptables cùng cơ chế cản
lọc dựa theo state của connection khi tìm hiểu về Netfilter/iptables
ở phần kế tiếp của bài viết này.
IDS, hệ thống phát hiện và báo động xâm nhập, tương tự như thiết
bị phát hiện và báo trộm trong một tòa nhà. Nhiệm vụ của IDS
trong một hệ thống phòng thủ là theo dõi tất cả hoạt động xảy ra
trên hệ thống thông qua các sensor (tương tự như máy camera),
phát hiện các dấu hiệu khả nghi và báo động cho những bên có
liên quan để có thể ứng xử kịp thời. Mặc dù IDS cũng có thể kết
hợp với firewall để làm thành một IPS, hệ thống phòng chống
xâm nhập, một cách tự động, tuy nhiên, tương tự như hệ thống
báo trộm, IDS muốn hoạt động hiệu quả thì đòi hỏi phải có người
điều khiển và xử lí các báo động của IDS. IDS có thể là phần
mềm, ví dụ như Snort, có thể là thiết bị phần cứng, ví dụ như
Cisco Secure IDS (dĩ nhiên có firmware điều khiển bên trong).
IDS có thể là Host IDS hoặc Network IDS -7-, và tí xíu nữa bồ
còn sẽ thấy một loại IDS khác nữa. Trong loạt bài viết này, chúng
ta sẽ tập trung vào Snort (www.snort.org), một Network IDS
nguồn mở, miễn phí.
Như vậy, một câu hỏi phát sinh là ModSecurity mà conmale sử
dụng được xếp vào loại thiết bị gì? Trích dẫn từ website
www.modsecurity.org cho biết:
QUOTE
ModSecurity is an open source intrusion detection and prevention
engine for web applications. Operating as an Apache Web server
module, the purpose of ModSecurity is to increase web
application security, protecting web applications from known and
unknown attacks.
Tạm dịch ra là:
QUOTE
ModSecurity là một bộ máy phát hiện và phòng chống xâm nhập
dành cho các ứng dụng web. Hoạt động như một module của máy
chủ web Apache, mục đích của ModSecurity là tăng cường bảo
mật cho các ứng dụng web, bảo vệ chúng khỏi các loại tấn công
đã biết và chưa biết.
Như vậy, có thể xem ModSecurity là một IDS dành riêng cho
web-application, Web IDS chăng? :D.
-1-: Xem
tại
-2-: Static packet filter thường được dùng để làm nhiệm vụ egress
và ingress filtering. Ingress filtering là thuật ngữ dùng để chỉ cách
thức lọc dữ liệu sao cho chỉ cho phép những dữ liệu hợp lệ từ
Internet được phép đi vào hệ thống nội mạng của chúng ta. Ví dụ
như những packet mà có source address là các dãy địa chỉ RFC
1918 (10.0.0.0-10.255.255.255, 172.16.0.0-
172.31.255.255,192.168.0.0-192.168.255.255,127.0.0.0) đi từ
ngoài Internet vào nội mạng của chúng ta thì chắc chắn là những
packet có vấn đề.
Egress filtering là thuật ngữ dùng để chỉ cách thức lọc dữ liệu sao
cho chỉ cho phép những dữ liệu hợp lệ đi từ nội mạng của chúng
ta ra ngoài Internet. Ví dụ những packet đi từ nội mạng của chúng
ta mà lại có source address không nằm trong các subnet qui định
thì chắc chắn là những packet có vấn đề. Egress filtering cho đúng
cũng là một cách sống...có văn hóa và trách nhiệm với cộng đồng
;).
-3-: Ipchains kể từ Linux 2.4 đã được thay thế bằng Iptables, toàn
bộ tài liệu về Iptables nằm tại www.netfilter.org.
-4-: Một trong những điểm yếu nhất của static packet filter là để
cung cấp một dịch vụ, bồ buộc phải mở một port, có nghĩa là bất
kì lúc nào sẽ có một *hole* trong hệ thống, và dữ liệu đi qua
*hole* này sẽ không bị kiểm soát gì hết.
-5-: Những gì diễn ra tiếp theo là TCP ping packet này sẽ đi đến
các host nằm trong nội mạng, host nào đang chạy thì sẽ reply lại
cho Nmap một cái RST packet, do đó Nmap sẽ biết được host nào
đang up, host nào đang down. Nếu đây là một stateful firewall thì
ACK Scan của Nmap sẽ không có tác dụng bởi vì stateful firewall
khi nhận được một ACK packet, nó sẽ nhìn vào connection
tracking table của nó để tìm một SYN packet cùng một cặp với
ACK packet mà nó vừa nhận, và do tìm không thấy nên nó sẽ
ngay lập tức drop cái packet. Lưu ý điều này, ta có thể sử dụng
ACK Scan của Nmap để xác định một firewall là stateful firewall
hay chỉ đơn giản là một static packet filter. Xem thêm manpage
của nmap.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_mat_33__8579.pdf