Theo điều 1 Luật bảo vệ môi trường được Quốc hội nước cộng hòa xã hội Việt nam khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 thì “môi trường” bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật. Nhưng môi trường hiện nay đang ở trong tình trạng báo động nghiêm trọng.
Nước là một nhân tố quan trọng cấu thành nên môi trường. Nước là một dạng tài nguyên, là thành phần thiết yếu của sự sống và môi trường, quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia cũng như của cả hành tinh. Nhưng trong những năm qua, sự tăng nhanh về dân số và khai thác quá mức tài nguyên nước, các tài nguyên đất và rừng đã làm suy kiệt nguồn nước, việc phát triển đô thị và công nghiệp nhưng không có biện pháp quản lý chặt chẽ và xử lý chất thải theo yêu cầu cũng đã làm ô nhiễm nguồn nước . Vì vậy, Việt Nam ta đã được quốc tế xếp vào loại các quốc gia có tài nguyên nước suy thoái. Sự ô nhiễm, suy thoái về nước và các sự cố về nước diễn ra ngày càng ở mức độ cao đang đặt con người trước sự trả thù ghê gớm của tự nhiên.
Bảo vệ tài nguyên nước nay đã trở thành một trong các chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Bằng những biện pháp và chính sách khác nhau, Nhà nước ta đã và đang can thiệp mạnh mẽ và các hoạt động cả cá nhân và tổ chức trong xã hội để bảo vệ tài nguyên nước, ngăn chặn gây ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước. Vai trò to lớn của nước đối với đời sống con người cũng như tính phức tạp của các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình khai thác, sử dụng, tác động tới nước, tất yếu dẫn tới phải bảo vệ tài nguyên nước bằng pháp luật với những quy định cụ thể về các nguồn nước và nghĩa vụ bảo vệ tài nguyên nước.
Việc bảo vệ tài nguyên nước, kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước bằng pháp luật là một biện pháp quan trọng và đem lại hiệu quả cao, tuy nhiên vẫn còn một số khó khăn trong việc triển khai và thực hiện. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài này với mong muốn tìm hiểu thêm về những văn bản pháp luật hiện hành quy định về việc kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước cũng như thực trạng áp dụng những văn bản này ở Viêt Nam ta, từ đó đưa ra một số giải pháp chung để cải thiện và nâng cao hơn nữa chất lượng cũng như hiệu quả thực tiễn của pháp luật trong việc kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước ở nước ta.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG CHÍNH 3
1. Tổng quan về tài nguyên nước 3
1.1. Khái niệm có liên quan 3
1.2. Sự đa dạng của tài nguyên nước 3
1.3. Thực trạng về sự ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước ở Việt Nam 4
1.4. Nguyên nhân của sự ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước ở Việt Nam 5
2. Đánh giá thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước ở Việt Nam 7
2.1. Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước 7
2.2. Đánh giá 11
2.2.1. Ưu điểm 11
2.2.1. Nhược điểm 12
3. Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về việc kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước tại Việt Nam 14
3.1. Về phía các cơ quan nhà nước 14
3.2. Về phía các tổ chức, cá nhân 17
4. Giải pháp chung để nâng cao hiệu quả thực tiễn của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước 20
KẾT LUẬN 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO 23
24 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4664 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bảo vệ tài nguyên nước, kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước bằng pháp luật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Theo điều 1 Luật bảo vệ môi trường được Quốc hội nước cộng hòa xã hội Việt nam khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 thì “môi trường” bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật. Nhưng môi trường hiện nay đang ở trong tình trạng báo động nghiêm trọng.
Nước là một nhân tố quan trọng cấu thành nên môi trường. Nước là một dạng tài nguyên, là thành phần thiết yếu của sự sống và môi trường, quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia cũng như của cả hành tinh. Nhưng trong những năm qua, sự tăng nhanh về dân số và khai thác quá mức tài nguyên nước, các tài nguyên đất và rừng đã làm suy kiệt nguồn nước, việc phát triển đô thị và công nghiệp nhưng không có biện pháp quản lý chặt chẽ và xử lý chất thải theo yêu cầu cũng đã làm ô nhiễm nguồn nước... Vì vậy, Việt Nam ta đã được quốc tế xếp vào loại các quốc gia có tài nguyên nước suy thoái. Sự ô nhiễm, suy thoái về nước và các sự cố về nước diễn ra ngày càng ở mức độ cao đang đặt con người trước sự trả thù ghê gớm của tự nhiên.
Bảo vệ tài nguyên nước nay đã trở thành một trong các chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Bằng những biện pháp và chính sách khác nhau, Nhà nước ta đã và đang can thiệp mạnh mẽ và các hoạt động cả cá nhân và tổ chức trong xã hội để bảo vệ tài nguyên nước, ngăn chặn gây ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước. Vai trò to lớn của nước đối với đời sống con người cũng như tính phức tạp của các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình khai thác, sử dụng, tác động tới nước, tất yếu dẫn tới phải bảo vệ tài nguyên nước bằng pháp luật với những quy định cụ thể về các nguồn nước và nghĩa vụ bảo vệ tài nguyên nước.
Việc bảo vệ tài nguyên nước, kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước bằng pháp luật là một biện pháp quan trọng và đem lại hiệu quả cao, tuy nhiên vẫn còn một số khó khăn trong việc triển khai và thực hiện. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài này với mong muốn tìm hiểu thêm về những văn bản pháp luật hiện hành quy định về việc kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước cũng như thực trạng áp dụng những văn bản này ở Viêt Nam ta, từ đó đưa ra một số giải pháp chung để cải thiện và nâng cao hơn nữa chất lượng cũng như hiệu quả thực tiễn của pháp luật trong việc kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước ở nước ta.
NỘI DUNG CHÍNH
1. Tổng quan về tài nguyên nước
1.1. Khái niệm có liên quan
Theo điều 3 Luật bảo vệ môi trường 2005, nguồn nước là khái niệm chỉ các dạng tích tụ nước tự nhiên hoặc nhân tạo có thể khai thác sử dụng được, bao gồm: sông, suối, kênh, rạch, biển, hồ, đầm, ao, các tầng nước dưới đất, mưa, băng, tuyết và các dạng tích tụ nước khác.
Mặt khác, ta cũng cần phải hiểu, ô nhiễm nguồn nước là sự thay đổi tính chất vật lý, tính chất hóa học, thành phần sinh học của nước vi phạm tiêu chuẩn cho phép.
Sự suy thoái, cạn kiệt nguồn nước là sự suy giảm về chất lượng và số lượng của nguồn nước.
Như vậy, có thể hiểu, bảo vệ tài nguyên nước chính là biện pháp phòng, chống suy thoái, cạn kiệt nguồn nước, đảm bảo an toàn nguồn nước và bảo vệ khả năng phát triển tài nguyên nước.
1.2. Sự đa dạng của tài nguyên nước
Tùy theo tính chất, đặc điểm của các nguồn nước cũng như yêu cầu quản lý, sử dụng chúng vào những mục đích khác nhau, pháp luật phân chia nguồn nước nói chung thành từng loại cụ thể, như:
- Nước mặt: là nước tồn tại trên bề mặt đất liền hoặc hải đảo.
- Nước dưới đất: là nước tồn tại trong các tầng chứa nước dưới mặt đất.
- Nước sinh hoạt:là nước dùng cho ăn uống, vệ sinh của con người
- Nguồn nước sinh hoạt: là nguồn nước có thể cung cấp nước sinh hoạt hoặc mới có thể xử lý thành nước sạch một cách kinh tế.
- Nguồn nước quốc tế: là nguồn nước từ lãnh thổ Việt Nam chảy sang lãnh thổ các nước khác, từ lãnh thổ các nước khác chạy sang lãnh thổ Việt Nam hoặc nằm trên biên giới giữa Việt Nam và nước láng giềng.
Như vậy ta có thể thấy, tài nguyên nước ở Việt Nam ta rất đa dạng và có vai trò vô cùng to lớn đối với đời sống con người. Tuy nhiên hoạt động của con người đã và đang tác động, gây ảnh hưởng rất xấu tới tài nguyên nước, những ô nhiễm này diễn ra hầu như ở mọi nơi, trên mọi loại tài nguyên nước.
1.3. Thực trạng về sự ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước ở Việt Nam
Tài nguyên nước trên thế giới theo tính toán hiện nay là 1,39 tỷ km3. Việt Nam là một trong những nước có nguồn tài nguyên nước phong phú, dồi dào nhưng hiện nay, tài nguyên nước ở nước ta đang trong tình trạng suy thoái cả về số lượng và chất lượng.
Về số lượng, Việt Nam hiện nay đang lâm vào tình trạng thiếu nước do tài nguyên nước của Việt Nam phân bố không đều theo thời gian trong năm và giữa các năm. Cùng với sự phân bố không đều giữa các vùng trong cả nước cũng là một phần nguyên nhân của tình trạng thiếu hụt nguồn nước.
Về chất lượng, tình trạng ô nhiễm nguồn nước mặt ngày càng tăng cả về mức độ và quy mô. Nguồn nước dưới đất ở nhiều đô thị, một số khu vực đồng bằng đã có biểu hiện ô nhiễm do các chất hưu cơ khó phân hủy và hàm lượng vi khuẩn cao. Các biểu hiện suy thoái, cạn kiệt nguồn nước dưới đất đang ngày càng trở nên rõ rệt và phổ biến ở nước ta. Đáng lưu ý, trong Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia 2005 có nêu, nước dưới đất bị ô nhiễm còn do việc chôn gia cầm bị dịch không đúng quy cách, điều này dẫn đến nguy cơ ô nhiễm nước dưới đất từ các hốc chôn lấp, tiêu hủy gia cầm đầy bệnh dịch là rất cao, đặc biệt là trong mùa mưa.
Ngoài ra, hiện trạng sự suy thoái môi trường còn được thể hiện ở con số thông kê chỉ có 4,26% lượng nước thải công nghiệp được xử lý đảm bảo tiêu chuẩn môi trường. Nước thải công nghiệp, nước thải sinh hoạt, nước rỉ từ các bãi chôn lấp rác thải ngấm xuống đất và xâm nhập gây ô nhiễm các tầng chứa nước dưới đất cũng là nguy cơ gây ô nhiễm kim loại nặng, nitơ và asen.. trong nước ngầm.
Nồng độ các chất ô nhiễm trong nước thải này là rất cao, tương đương với nước rác rò rỉ trong thời gian phân hủy sẽ kéo dài tới một vài năm, làm ô nhiễm nguồn nước mặt và nước ngầm nghiêm trọng vì đặc trưng của loại nước thải này có hàm lượng chất gây ô nhiễm cao và có độ màu lớn. Hiện tượng này đã xảy ra ở một số địa phương ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Theo các nhà chuyên môn phân tích, nguy cơ ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước ở nước ta đến từ mọi phía. Nước thải bệnh viện cũng là nguồn gây các bệnh truyền nhiễm cho cộng đồng. Hiện nay, cả nước có khoảng 1000 bệnh viện, mỗi ngày thải ra hàng trăm nghìn m3 nước thải chưa qua xử lý hoặc xử lý không đạt tiêu chuẩn môi trường.
Không chỉ có vậy, lượng hóa chất bảo vệ thực vật được sử dụng trong nông nghiệp mỗi năm cũng khoảng 0.5-3,5 kg/ha/vụ gây ra phú dưỡng (nồng độ N, P cao, yếm khí, nước màu xanh đen có mùi khai thối) hoặc nhiễm độc nước. Ngoài ra còn có khoảng gần 1500 làng nghề trên cả nước gây ô nhiễm trầm trọng cho nguồn nước tại nhiều điểm, đặc biệt là các làng nghề làm giấy, dệt nhuộm, giết mổ gia súc...
Các chuyên gia còn phân tích, trong khu vực nội thành của các thành phố lớn, hệ thống các hồ, ao, kênh, rạch và các sông nhỏ chính là nơi tiếp nhận và vận chuyển nước thải của các khu công nghiệp, dân cư, Hệ thống này hiện nay đang ô nhiễm nghiêm trọng vượt quá mức tiêu chuẩn 5-10 lần, các hồ trong nội thành phần lớn ở trạng thái phú dưỡng, nhiều hồ bị phú dưỡng hóa đột biến và tái nhiễm bẩn hữu cơ.
Trong nước dưới đất, nhiều nơi còn thấy dấu hiệu ô nhiễm phốt phát và asen. Tại Hà Nội, một số giếng có hàm lượng phốt phát và asen cao hơn mức cho phép là 71%.
Tất cả những ô nhiễm môi trường nước nêu trên đều tác động trực tiếp đến sức khỏe, là nguyên nhân gây ra các bệnh tiêu chảy, lỵ, trực trùng, tả, thương hàn, viên gan A, giun, sán... Các bệnh này gây ra rất nhiều bệnh nguy hiểm thậm chí còn nguy hiểm tới tính mạng. Vậy, nguyên nhân của tình trạng ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước như trên là gì, ta hay cùng tìm hiểu!
1.4. Nguyên nhân của sự ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước ở Việt Nam
Trước yêu cầu sử dụng nước còn tiếp tục gia tăng trong khi tài nguyên nước thì ngày càng bị suy thoái nên cần phân tích rõ các nguyên nhân suy thoái, đặc biệt là các nguyên nhân về quản lý để có được các giải pháp nhằm ngăn chặn và giảm thiểu sự suy thoái đang phát triển nghiêm trọng này. Có 5 nguyên nhân chính dẫn đến việc ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước ở Việt Nam:
- Do gia tăng nhanh về dân số. Sự gia tăng dân số sẽ kéo theo sự gia tăng về nhu cầu nước sạch trong ăn uống và lượng nước cần dùng cho sản xuất. Đồng thời, tác động của con người với môi trường tự nhiên nói chung và tài nguyên nước nói riêng cũng ngày càng mạnh mẽ, có thể dẫn đến những hậu quả rất nghiêm trọng.
- Do việc khai thác quá mức tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan đến nước như đất, rừng khiến tài nguyên nước bị suy kiệt.
Theo khuyến cáo của UNEP, WRI.. thì ngưỡng khai thác tài nguyên nước chỉ nên giới hạn trong phạm vi 30% của dòng chảy, nhưng ở Việt Nam có nhiều nơi như miền Trung, Đông Nam Bộ, Tây Nguyên... đã khai thác trên 50% lượng dòng chảy về mùa kiệt, đặc biệt ở Ninh Thuận, Bình Thuận đã khai thác tới 70-80% lượng dòng chảy về mùa kiệt.
Nhiều nơi do khai phá rừng và đất, đặc biệt là đất dốc, rừng đầu nguồn đã làm suy kiệt dòng chảy. Sự suy giảm lưu lượng về mùa kiệt tới 50% của một số đập như Liễn Sơn, Đồng Cam và nhiều nơi khác so với thiết kế ban đầu là do hậu quả của khai thác quá mức rừng và đất đã chứng minh rõ cho điều này.
- Do chưa kiểm soát được các nguồn thải và chưa quan tâm đầu tư thỏa đáng cho các hệ thống thu gom, xử lý các chất thải lỏng, thải rắn.
Những năm qua và những năm sắp tới, tốc độ đô thị hóa, công nghiệp hóa, làng nghề thủ công ngày càng mở rộng, lượng chất thải rắn, thải lỏng chưa kiểm soát được thải vào nguồn nước sẽ gây ô nhiễm, suy thoái nhanh các nguồn nước mặt, nước dưới đất, làm gia tăng tình trạng thiếu nước và ô nhiễm nước nhất là về mùa khô.
Việc gia tăng sử dụng phân hóa học, thuốc trừ sâu, giệt cỏ trong thâm canh lúa và các vườn cây cùng việc nuôi trồng thủy sản, giết mổ gia súc, chế biến các sản phẩm nông nghiệp cũng làm ô nhiễm các nguồn nước mặt, nước dưới đất.
- Do tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu, khí hậu toàn cầu đang nóng lên đã và sẽ gây tác động nhiều đến tài nguyên nước, như: làm giảm tổng lượng dòng chảy, làm băng tan khiến cho nước biển dâng cao, mặn sẽ xâm nhập sâu hơn ở những vùng đồng bằng thấp khiến nguồn nước ngọt phân bổ trên các sông chảy ra biển sẽ bị đẩy lùi dần. Tất cả những điều này sẽ làm suy thoái thêm nguồn nước, khiến không còn đủ nguồn nước ngọt để phục vụ sản xuất đời sống.
- Do những nguyên nhân về quản lý: Trên thế giới khi đánh giá về nguyên nhân suy thoái tài nguyên nước đã nhận định là quản lý có vai trò chi phối và có tác động rất lớn.
Ở các nước phát triển, nhờ có quản lý tốt nên mặc dù tài nguyên nước của họ không dồi dào, thậm chí nghèo nàn nhưng lại không bị ô nhiễm nhiều, và những nơi bị suy thoái đã được khôi phục. Còn ở Việt Nam, tuy mới công nghiệp hóa và mở rộng các đô thị nhưng ô nhiễm nước và suy thoái nước đã phát triển rất nhanh, thậm chí đến mức báo động cũng là do chúng ta còn những tồn tại lớn trong quản lý về mặt tổ chức, về quy hoạch, chính sách...
2. Đánh giá thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước ở Việt Nam
2.1. Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước
Nhìn chung, Bộ tài nguyên và môi trường, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn và các Bộ, ngành liên quan đã xây dựng được nhiều văn bản pháp luật quy định về kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước.
Năm 1998, Quốc hội đã thông qua Luật tài nguyên nước để quản lý và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên nước và góp phần làm giảm thiểu thách thức do tài nguyên nước gây ra. Đây là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất trong các văn bản quy định về kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước. Trong văn bản này đã có một số quy định cụ thể về bảo vệ tài nguyên nước (chương II Luật tài nguyên nước 1998) và các quy định về quản lý Nhà nước về tài nguyên nước (chương VII Luật tài nguyên nước 1998).
Ngoài ra, còn có các quy định trong Luật bảo vệ môi trường (2005) Luật đất đai (1993) Luật khoáng sản (1996), Tiêu chuẩn Vệ sinh nước ăn uống(2002), Tiêu chuẩn nước sạch(2005). Bên cạnh đó, còn có một số tiêu chuẩn ngành quy định đối với một số chỉ tiêu chất lượng nước ăn uống bề mặt, nước thải …như tiêu chuẩn của Bộ Xây dựng , Bộ Khoa Học và Công nghệ.
Bộ Tài nguyên và môi trường cho biết từ đầu năm 2007 đến nay, Bộ đã thẩm định và cấp 23 giấy phép hoạt động tài nguyên nước; trong đó, thẩm định và cấp 18 đơn xin cấp phép và gia hạn giấy phép về nước dưới đất, 3 giầy phép khai thác nước mặt và 2 giấy phép xả nước thải vào nguồn nước.
Sau đây là một số những văn bản quan trọng quy định về kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước của Bộ và các cơ quan liên quan:
STT
Ký hiÖu
Tªn v¨n b¶n
Ngµy ký
1
106/2007/BTC-BTNMT
Söa ®æi bæ sung th«ng t liªn tÞch sè 125/2003/TTLT-BTC-BTNMT ban hành ngµy 18/12/2003. Híng dÉn thùc hiÖn nghÞ ®Þnh sè 67/2003/NĐ-CP ngµy 13062003 vÒ viÖc b¶o vÖ tµi nguyªn m«i trêng ®èi víi níc th¶i
06.09.2007
2
13/2007/Q§-BTNMT
Ban hµnh quy ®Þnh vÒ viÖc ®iÒu tra ®¸nh gi¸ tµi nguyªn níc díi dÊt
04.09.2007
3
14/2007/BTNMT
Ban hµnh quy ®Þnh vÒ viÑc xö lý, tr¸m lÊp giÕng kh«ng sö dông.
04.09.2007
4
88/2007/N§-CP
Tho¸t níc ®« thÞ
28.05.2007
5
04/2007/N§-CP
Quy ®Þnh vÒ viÖc söa ®æi bæ sung mét sè ®iÒu cña nghÞ ®Þnh sè 67/2003/N§-CP ngµy 13/06/2003 cña ChÝnh phñ vÒ phÝ b¶o vÖ m«i trêng ®èi víi níc th¶i
6
01/2007/TTLT/BTNMT-BTC-BKH§T
Híng dÉn qu¶n lý, sö dông kinh phÝ ng©n s¸ch Nhµ níc khi thùc hiÖn c¸c dù ¸n thuéc “§Ì ¸n tæng thÓ vÒ ®iÒu tra c¬ b¶n vµ qu¶n lý tµi nguyªn m«i trêng biÓn ®Õn n¨m 2010vµ tÇm nh×n ®Õn n¨m 2020
26.01.2007
7
137/2007/Q§-TTg
Phª duyÖt ®Ò ¸n tæ chøc th«ng tin phôc vô c«ng t¸ phßng, chèng thiªn tai trªn biÓn
21.08.2007
8
67/2003/N§-CP
PhÝ b¶o vÖ m«i trêng ®èi víi níc th¶i
13.06.2003
9
17/2006/Q§-BTNMT
Quy ®Þnh vÒ viÖc cÊp phÐp hµnh nghÒ khoan ®Êt díi níc
12.10.2006
10
05/2005/TT-BTNMT
Híng dÉn thi hµnh nghÞ ®Þnh sè 34/2005/N§-CP ngµy 17.03.2005 cña ChÝnh phñ quy ®Þnh vÒ xö ph¹t vi ph¹m hµnh chÝnh trong lÜnh vùc tµi nguyªn níc
22.07.2005
11
02/2005/TT-BTNMT
Híng dÉn thùc hiÖn nghÞ ®Þnh sè 149/2004/N§-CP ngµy 27.07.2004 cña ChÝnh phñ quy ®Þnh viÖc cÊp phÐp th¨m dß, khai th¸c, sö dông tµi nguyªn níc, x¶ níc th¶i vµo nguån níc
24.06.2005
12
02/2004/CT-BTNMT
VÒ viÖc t¨ng cêng c«ng t¸c qu¶n lý tµi nguyªn níc díi ®Êt
02.06.2004
13
57/2002/Q§-BKHCNMT
VÒ viÖc ban hµnh quy chÕ tæ chøc vµ ho¹t ®éng cña c¬ quan ®Çu mèi Quèc gia, Ban chØ ®¹o, c¬ quan ®iÒu phèi Quèc gia vµ c¬ quan thùc hiÖn hîp phÇn cña dù ¸n Quèc gia thuéc dù ¸n “Ng¨n chÆn xu híng suy tho¸i m«i trêng ë biÓn §«ng va VÞnh Th¸i Lan”
05.08.2002
14
17/2006/Q§-BTNMT
Quy ®Þnh vÒ viÖc cÊp phÐp hµnh nghª khoan níc díi ®¸t
12.10.2006
15
969/Q§-BTNMT
VÒ viÖc uû quyÒn cho côc trëng côc qu¶n lý tµi nguyªn níc cÊp phÐp th¨m dß, khai th¸c, sö dông tµi nguyªn níc vµ hµnh nghÒ khoan níc díi ®Êt
24.07.2006
16
05/2003/Q§-BTNMT
Quy ®iÞnh cÊp phÐp th¨m dß, khai th¸c hµnh nghÒ khoan níc díi ®Êt
04.09.2003
17
59/2006/Q§-BTC
VÒ viÖc quy ®Þnh møc thu, chÕ ®ä thu, nép, qu¶n lý vµ sö dôngphÝ thÈm ®Þnh, lÖ phÝ cÊp phÐp th¨m dß, khai th¸c, sö dông tµi nguyªn níc, x¶ níc th¶i vµo nguån níc vµ hµnh nghÒ khoan níc díi ®¸t
25.10.2006
18
81/2006/Q§-TTg
Phª duyÖt chiÕn lîc Quèc gia vÒ tµi nguyªn níc ®Õn n¨m 2010
14.04.2006
19
05/2006/TT-BTC
Híng dÉn thuÕ tµi nguyªn ®èi víi níc thiªn nhiªn dïng ®Ó s¶n xuÊt thuû ®iÖn
19.01.2006
20
8/1998/QH
LuËt tµi nguyªn níc
01.06.1998
21
427/1997/Q§-BCN
VÒ viÖc thµnh lËp ban quan lý dù ¸n níc ngÇm ®ång b»ng s«ng Cöu Long.
18.03.1997
Phối hợp với các cơ quan ở Trung ương, các cơ quan địa phương cũng đã ban hành ra các văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước về kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước, cụ thể như sau:
stt
tØnh (thµnh phè)
ky hiÖu
tªn v¨n b¶n
ngµy ký
1
Hµ Néi
27/2005/CT-UB
VÒ viÖc t¨ng cêng c«ng t¸c qu¶n lý ho¹t ®«ng, khai th¸c, sö dông nguån tµi nguyªn nícvµ x¶ níc th¶i vµo nguån níc trªn ®Þa bµn thµnh phè Hµ Néi
30.11.2005
2
Hµ TÜnh
Q§
Ban hµnh quy ®Þnh qu¶n lý tµi nguyªn nëctªn dÞa bµn tØnh
12.07.2007
3
Hå ChÝ Minh
Quy ®Þnh vÒ møc thu phÝ thÈm ®Þnh hå s¬ vµ lÖ phÝ cÊp giÊy phÐp th¨m dß, khai th¸c, sö dông níc vµ x¶ níc vµo nguån nícvµ hµnh nghÒ khoan níc díi ®Êt
4
Nam §Þnh
Quy ®Þnh møc thu phÝ th©m ®Þnh b¸o c¸o ®Ênh gi¸ t¸c ®éng m«i trêng vµ møc thu phÝ, lÖ phÝ vÒ c¸c ho¹t ®éng liªn quan ®Õn tµi nguyªn níc
5
Hå ChÝ Minh
77/2007/Q§-UBND
VÒ quy ®Þnh gi¸ ®¸nh thuÕ tµi nguyªn níc trªn dÞa bµn thµnh phè Hå ChÝ Minh
22.05.2007
6
Bµ RÞa Vòng Tµu
27/2007/Q§-UBND
Ban hµnh quy ®Þnh t¹m thêi vÒ qu¶n lý, b¶o vÖ tµi nguyªn níc trªn ®Þa bµn tØnh Bµ RÞa Vòng Tµu
20.04.2007
7
Qu¶ng TrÞ
10/2007/Q§-UBND
VÒ viÖc ban hµnh quy ®Þnh quan lý tµi nguyªn níc trªn ®Þa bµn tØnh Qu¶ng TrÞ
15.06.2007
2.2. Đánh giá
2.2.1. Ưu điểm
So với các nước phát triển khác, Việt Nam có những văn bản pháp luật quy định về bảo vệ tài nguyên nước ra đời khá muộn. Cụ thể như cộng hòa Pháp ban hành Luật tài nguyên nước vào năm 1964, đây là đạo luật đầu tiên của Pháp về tài nguyên nước. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam ta kế thừa được những ưu điểm trong hoạt động lập pháp từ các nước phát triển đi trước.
Hệ thống văn bản quy định về kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước ở Việt Nam khá đầy đủ và phong phú. Trong đó có rất nhiều văn bản đã được trình Chính phủ ban hành thành Nghị định, trong đó có 1 số Nghị định quan trọng như: Nghị định 149/2004/NĐ-CP về cấp phép thăm dò, khai khác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước, Nghị định 67/2003/NĐ-CP về phí nước thải, các Nghị định về thủy lợi phí 112 và 143...
Công tác quản lý tài nguyên nước trên cơ sở các quy định pháp luật tuy mới được triển khai, nhưng cũng đã được kết quả nhất định và đang từng bước đi vào nề nếp.
Một ưu điểm nữa là tài nguyên nước hiện nay được các Đảng và Nhà nước cùng các Bộ và cơ quan có liên quan quan tâm, chú ý hơn trước. Bộ và các cơ quan ngang bộ cùng với các địa phương đã chỉ đạo sát sao nhân dân ta trong việc phòng và chống ô nhiễm nguồn nước, chống suy thoái tài nguyên nước.
Nội dung chủ yếu của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm và suy thoái nguồn nước cũng đã được xây dựng một cách khá đầy đủ và cụ thể, thể hiện ở việc quy định về các nghĩa vụ của Nhà nước về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước, của các tổ chức cá nhân trong việc bảo vệ, phát triển tài nguyên nước. Đồng thời, pháp luật rõ về các biện pháp xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
2.2.1. Nhược điểm
Hiện nay tuy đã có rất nhiều văn bản pháp luật quy định về kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước nhưng luật pháp và các quy định liên quan tới nguồn tài nguyên nữa vẫn còn được soạn thảo một cách riêng rẽ. Về mặt tự nhiên, việc quản lý như thế sẽ bị tách rời nên không thể tránh khỏi sự chồng chéo về quyền hạn, thiếu sót trong theo dõi, sự cạnh tranh và trùng lặp giữa các cơ quan khác nhau.
Ngoài ra, một số Nghị định của ta đang đứng trước khó khăn, xin đơn cử:
- Nghị định phí nước thải: có thể chưa lường trước được hậu quả của tình hình ô nhiễm sẽ mở rộng nhanh và hậu quả ngày càng trầm trọng và sợ dân ta còn nghèo nên chưa mạnh dạn tiếp cận với quan điểm của thế giới về phí nước thải. Trước đây, Bộ xây dựng chỉ đưa vào giá nước mức phụ thu là 10% để phục vụ cho việc nạo vét của việc thoát nước. Khi xây dựng chính sách phí nước thải sinh hoạt, Bộ tài nguyên và môi trường cũng đưa vào một tỉ lệ rất thấp: Nghị định 67/2003/NĐ-CP về phí nước thải chỉ quy định thu phí nước thải với mức 10% của giá nước, trong khi thế giới thu bằng và lớn hơn cả giá nước, như Mỹ thu bằng 135% giá nước, Pháp thu bằng giá nước. Công hoà Pháp quản lý tài nguyên nước theo nguyên tắc người sử dụng nước và người gây ô nhiễm nguồn nước phải trả tiền. Nguyên tắc được đề ra là “mỗi giọt nước được cung cấp, mỗi giọt nước thải ra đều phải đóng tiền” để sử dụng vào việc cung cấp nước và xử lý ô nhiễm nguồn nước. Giá thành của một mét khối nước được tính chi tiết gồm:
+ Giá cơ bản để sản xuất một mét khối nước sạch, giá này do đơn vị sản xuất nước sạch quyết định trên cơ sở giá thành sản xuất;
+ Chi phí đầu tư cho việc thoát nước, xử lý nước thải sau khi sử dụng, giá này do đơn vị thoát nước quy định trên cơ sở chi phí đầu tư;
+ Thuế tài nguyên nước do Nhà nước (Bộ Tài chính) quy định;
+ Phí ô nhiễm nguồn nước do Uỷ ban từng lưu vực sông quyết định hàng năm căn cứ trên mức độ ô nhiễm tính trên cơ sở số lượng dân cư, mật độ khu công nghiêp, làng nghề…
Giá nước ở Cộng hoà Pháp được tính đầy đủ nguồn kinh phí để xử lý ô nhiễm, cung cấp nước sạch cho các nhu cầu sử dụng nước trên toàn lãnh thổ nước Pháp.
Nếu tình trạng thu phí nước thải thấp như thế này thì không thể tạo ra nguồn tài chính để xử lý nước thải sinh hoạt trong khi ngân sách nhà nước của ta lại không thể có đủ để đầu tư cho xây dựng và vận hành cách trạm xử lý nước thải (33 trạm). Điều này sẽ khiến nguồn nước ngày càng trở nên suy thoái. Tất cả các nước phát triển trên thế giới đều phải thực hiện nguyên tắc PPP (Polluter Pay Principle) để đưa phí ô nhiễm nước lên cao hơn mới có đủ nguồn kinh phí để xử lý nước thải.
- Nghị định về thủy lợi phí: Việc thực hiện ở Việt Nam đang đứng trước nguy cơ khó khăn lớn do chủ trương mở rộng miễn giảm và bỏ thủy lợi phí. Trong tình hình nông nghiệp Việt Nam hiện sử dụng trên 80% nhu cầu dùng nước của cả quốc gia và trước thực trạng nhiều công trình thủy nông đang bị xuống cấp và chưa hoàn chỉnh, chưa chuyển giao cho các tổ chức hợp tác xã trên diện rộng thì việc bỏ thủy lợi phí sẽ phải có những điều chỉnh về chính sách và tổ chức quản lý để sao sử dụng tiết kiệm nguồn nước tưới.
Bên canh đó, cần phải kể đến những nhược điểm là: cơ cấu tổ chức của bộ máy tài nguyên nước chưa được hoàn thiện, mạng lưới điều tra cơ bản về tài nguyên nước và môi trường chưa được hoàn chỉnh, chưa thiết lập được đầy đủ cơ sở dữ liệu, tài liệu cơ bản về tài nguyên nước, về sử dụng và ô nhiễm để phục vụ cho hoạt động lập pháp nhằm quản lý và bảo vệ nguồn tài nguyên này.
Hiện nay, chúng ta vẫn thực sự thiếu nhiều cán bộ để thực hiện nhiệm vụ quản lý và chống suy thoái tài nguyên nước. Và việc quản lý chưa được gắn bó cũng gây ra lãng phí cho ngân sách nhà nước.
Chính sách về tài nguyên nước chưa đầy đủ trong khi quản lý tài nguyên nước là nhiệm vụ rất quan trọng, đòi hỏi cần có sự phối kết hợp thực hiện hiệu quả giữa các ngành, các cấp và toàn thể xã hội.
3. Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về việc kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước tại Việt Nam
Mặc dù Luật Tài nguyên môi trường nước đã được Quốc hội thông qua hơn 4 năm nay và từ đó đến nay cũng đã có nhiều văn bản quy định về vấn đề này nhưng việc quản lý bảo vệ nguồn lợi quý giá này vẫn chưa có biểu hiện gì đáng kể. Trong khi đó tài nguyên nước đã và đang suy thoái dần, đồng thời tình trạng ô nhiễm nguồn nước đã trở thành mối đe doạ thường xuyên cho sản xuất và đời sống của nhân dân, đặc biệt là ở các thành phố lớn và các khu công nghiệp.
Qua 7 năm thực hiện Luật Tài nguyên nước, công tác quản lý tài nguyên nước đã dần đi vào cuộc sống, phục vụ thiết thực cho sự nghiệp phát triển KT-XH, đời sống dân sinh của đất nước. Tuy nhiên thực trạng quản lý tài nguyên nước ở các địa phương còn rất nhiều vấn đề bất cập; đặc biệt trong công tác quản lý Nhà nước về tài nguyên nước, bên cạnh đó là sự thiếu ý thưc của các cá nhân cũng như tổ chức có liên quan.
3.1. Về phía các cơ quan nhà nước
Theo thanh tra các sở KHCNMT cho biết, dù Luật Tài nguyên môi trường nước được Quốc hội thông qua đã hơn 4 năm nay, thế nhưng đến nay họ vẫn chưa nhận được bất cứ sự hỗ trợ nào từ phía các đơn vị của Bộ NNPTNT trong việc bảo vệ và xử lý các vi phạm về tài nguyên, môi trường nước. Trong buổi làm việc chiều 31.7 với phóng viên Báo Lao Động, ông Lê Văn Kiều - Chánh thanh tra Bộ KHCNMT cho biết, đây là một trong những lý do khiến số vụ việc vi phạm bảo vệ tài nguyên, môi trường nước bị phát hiện và xử lý còn rất hạn chế. Ông Kiều cho rằng, trong ngần ấy năm, cả ông và thanh tra các sở KHCNMT chưa bao giờ thấy thanh tra tài nguyên nước hay các đơn vị chịu trách nhiệm quản lý tài nguyên nước của Bộ NNPTNT tham gia phát hiện và trực tiếp xử lý các vi phạm. Thanh tra Bộ KHCNMT cũng chưa có bất kỳ cuộc tiếp xúc nào với các "đồng nghiệp" bên Bộ NNPTNT, nhằm phân chia trách nhiệm quản lý giữa hai bên. Thế nên thanh tra Bộ KHCNMT đành gánh hết phần việc, bao gồm cả "tài nguyên" lẫn "môi trường". Trong khi đó, cơ sở để thanh tra Bộ KHCNMT hoạt động lại là Luật Bảo vệ môi trường vốn rất rộng và không có các quy định cụ thể về bảo vệ tài nguyên nước.
Một số cơ quan quản lý ở các cấp, ngành vẫn chưa coi nước là một tài nguyên quan trọng; quan niệm “Nước là của trời cho, vô hạn” nên dùng vô tư, không cần xin phép, không cần tiết kiệm, không biết bảo vệ, phòng chống ô nhiễm, suy thoái, tàng kiệt nguồn nước. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về tài nguyên nước ở địa phương chưa được các cấp, các ngành quan tâm đúng mức, càng làm cho việc quản lý tài nguyên nước kém hiệu quả.
Một thực tế hiện nay, cán bộ tài nguyên các xã, phường, thị trấn, Phòng tài nguyên môi trường các huyện, thành, thị do ít người nhiều việc, phải trực tiếp giải quyết công việc bức xúc và nhạy cảm hàng ngày, trong lĩnh vực quản lý đất đai nên công tác quản lý về khoáng sản, tài nguyên nước, môi trường chưa được quan tâm đúng mức. Hầu hết các địa phương chưa thống kê đầy đủ các nguồn tài nguyên nước cả về số lượng và chất lượng; chưa quản lý chặt chẽ hoạt động của các tổ chức, cá nhân khai thác sử dụng nước cho các mục đích sản xuất nông, lâm, công nghiệp, nuôi trồng thủy sản, du lịch dịch vụ, sinh hoạt đời sống...
UBND các huyện, thành, thị, UBND các xã, phường, thị trấn trong công tác quản lý Nhà nước về tài nguyên nước ở địa phương theo qui định của pháp luật là phải bảo đảm việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước một cách hợp lý, hiệu quả, tiết kiệm; bảo vệ và phát triển bền vững tài nguyên nước, ngăn ngừa, giảm thiểu ô nhiễm và suy thoái, cạn kiệt nguồn nước, tầng chứa nước; phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra như hạn hán, lũ, lụt, sụt lún đất.
Các hành vi vi phạm và thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước đã được qui định chi tiết tại Nghị định số 34 của Chính phủ Qui định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và Thông tư số 05 của Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn thi hành Nghị định số 34 của Chính phủ. Mọi hành vi vi phạm các qui định sau: Thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước không có giấy phép (trừ trường hợp không phải xin phép); vi phạm nội dung qui định của giấp phép; cho mượn, cho thuê, chuyển nhượng, sửa chữa nội dung giấy phép; sử dụng giấy phép quá hạn; vi phạm qui định về hành nghề khoan nước dưới đất; gây hư hại phương tiện, công trình, thiết bị trong hệ thống lưới trạm điều tra cơ bản tài nguyên nước; vi phạm các qui định về thu nhập, quản lý, khai thác, sử dụng dữ liệu, thông tin về tài nguyên nước; cản trở hoạt động quản lý Nhà nước về tài nguyên nước; các vi phạm khác trong lĩnh vực tài nguyên nước như xả nước thải trái phép vào tầng chứa nước, thuộc diện phải đăng ký nhưng không đăng ký, ngâm tre nứa lá gỗ... khai thác cát sỏi làm ảnh hưởng dòng chảy và ô nhiễm nguồn nước, đều bị xử lý vi phạm hành chính bằng các hình thức phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền. Ngoài ra căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm còn có thể bị xử phạt bổ sung; buộc áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả; nếu không tự nguyện thực hiện các hình thức xử phạt thì bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế và phải chịu mọi chi phí cho việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Mức phạt tiền căn cứ theo hành vi vi phạm có thể phạt từ 50.000 đồng đến 100.000.000 đồng. Thẩm quyền xử phạt của chủ tịch UBND cấp xã đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính gồm: Phạt cảnh cáo; phạt tiền đến 500.000 đồng; tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính có giá trị đến 500.000 đồng; buộc tổ chức, cá nhân vi phạm khắc phục hậu quả theo qui định. Thẩm quyền xử phạt của Chủ tịch UBND cấp huyện đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính gồm: Phạt cảnh cáo; phạt tiền đến 20.000.000 đồng; tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính; tước quyền sử dụng giấy phép; buộc các tổ chức, cá nhân vi phạm khắc phục hậu quả theo qui định.
Sự phối hợp trong việc quản lý bảo vệ tài nguyên nước giữa các tỉnh trong lưu vực chưa được chặt chẽ, thống nhất. Trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi tỉnh vì lợi ích riêng của mình dẫn đến còn có những bất cập gây ảnh hưởng lẫn nhau như: các tỉnh nằm ở thượng và trung lưu như Phú Thọ, Thái Nguyên quá trình sử dụng nước cho công nghiệp đã thải các chất độc hại và nước thải thông qua xử lý làm ảnh hưởng tới chất lượng nước của các tỉnh nằm dưới hạ lưu. Các tỉnh miền núi đã không kiểm soát được việc triển khai rừng, khai thác khoáng sản bừa bãi đã gây ô nhiễm cạn kiệt nguồn nước và bồi lắng sông, hồ ở hạ lưu. Các tỉnh đồng bằng các sông, suối, kênh mương liên quan đến nhiều tỉnh cũng có sự quá tải khi tiếp nhận nguồn nước thải của các đô thị lớn và khu công nghiệp không qua xử lý gây ô nhiễm nguồn nước của các địa phương lân cận. Những vấn đề trên chưa được giải quyết triệt để vì chúng ta còn thiếu nhiều chế tài xử phạt hành chính, cấp phép sử dụng nước và xả nước thải để điều chỉnh có tính chất vĩ mô giải quyết mâu thuẫn trong việc quản lý nước theo ranh giới hành chính và ranh giới thuỷ văn của hệ thống nguồn nước.
Sự phối hợp giữa các ngành vẫn còn có xảy ra những bất cập: Ví dụ như ngành điện và nông nghiệp: ngành điện muốn có sản lượng điện cao thì ngoài việc tích nhiều nước và xả qua tuabin yêu cầu lớn và đều nhưng nông nghiệp lại cần điều tiết để bảo đảm đủ nước lúc kiệt nhất và giữ lại nước khi phải tiêu úng, chống lũ...Đối với ngành thuỷ sản việc xây dựng các hồ chứa, đập ngăn nước lớn đã làm giảm hẳn đôi khi mất đi những loài cá quý (cá Anh Vũ trên sông Lô) hoặc làm cản trở các giống cá vùng nước lợ chuyên đẻ trứng ở vùng nước ngọt vì vậy làm giảm nguồn cung cấp cá con cho sông ngòi. Còn nữa, việc xây dựng các hồ chứa để tích nước điều tiết nước phục vụ cho mục đích phát triển các ngành kinh tế quốc dân, nhưng với những hồ có cảnh quan đẹp phù hợp với du lịch thì du lịch đề nghị chuyển đổi mục đích sử dụng đã xảy ra cạnh tranh gay gắt giữa du lịch và ban quản lý công trình thuỷ lợi như hồ Đại Lải, hồ Đồng Mô – Nga Sơn. Giải quyết việc này đôi lúc phải đưa lên cấp Chính phủ.
3.2. Về phía các tổ chức, cá nhân
- Cụ thể như các tổ chức cá nhân hành nghề khoan thăm dò nước, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xả nước thải vào nguồn nước. Vì vậy tình trạng khoan khai thác nước tùy tiện, xả nước thải vào nguồn nước, môi trường bừa bãi đã gây nên hậu quả sụt lún đất, ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm tầng chứa nước ngầm ngày càng gia tăng.
Các tổ chức, cá nhân khai thác sử dụng nước, hành nghề khoan nước, xả nước thải vào nguồn nước trong quá trình hoạt động chưa thực hiện đầy đủ qui trình, qui phạm nhằm khai thác hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bảo vệ tài nguyên nước theo định hướng phát triển bền vững; chưa thực hiện việc xin cấp giấy phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước theo qui định của Luật Tài nguyên nước. Trên địa bàn toàn tỉnh có gần 80 công trình khai thác nước tập trung phục vụ sinh hoạt theo chương trình nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường nông thôn. 105 công trình trạm bơm điện và nhiều công trình thủy nông tưới tiêu phục vụ sản xuất nông, lâm nghiệp, hàng trăm nhà máy xí nghiệp sản xuất kinh doanh xả nước thải vào nguồn nước đều phải xin cấp giấy phép theo qui định nhưng hiện tại mới chỉ có 10 công trình có giấy phép thăm dò nước dưới đất, 4 công trình có giấy phép khai thác nước mặt, 4 công trình có giấy phép khai thác nước dưới đất, 2 công trình có giấy phép xả nước thải vào nguồn nước.
Vì vậy để tăng cường công tác quản lý tài nguyên nước trong thời gian tới không chỉ là nhiệm vụ của các cơ quan quản lý Nhà nước mà còn là trách nhiệm của toàn dân. Luật Tài nguyên nước nêu rõ: “Tài nguyên nước thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý”. Tài nguyên nước qui định trong Luật bao gồm các nguồn nước mặt, nước mưa, nước dưới đất (nước ngầm), nước biển thuộc lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ở Phú Thọ tài nguyên nước bao gồm nước mặt của các sông, suối, khe, lạch, đầm, hồ, ao, nước dưới đất (nước ngầm) theo địa giới hành chính tỉnh. Vì vậy để quản lý việc thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước một cách hợp lý, hiệu quả, tiết kiệm, xả nước thải đạt tiêu chuẩn cho phép vào nguồn nước chúng ta cần phổ biến, tuyên truyền, giáo dục cho nhân dân hiểu rõ mọi tổ chức, cá nhân đều có quyền và nghĩa vụ trong việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước phục vụ đời sống và sản xuất, bảo vệ và phát triển bền vững tài nguyên nước, phòng, chống, khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra theo qui định của pháp luật.
Đối với qui định về việc xin cấp phép thăm dò, khai thác sử dụng nước, Nghị định số 149 của Chính phủ và Thông tư số 02 - BTNMT đã qui định: Mọi tổ chức, cá nhân khai thác sử dụng nước, xả nước thải vào nguồn nước đều phải xin cấp phép do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Bộ TNMT, UBND tỉnh) cấp. Chỉ có các trường hợp sau đây không phải xin phép: Khai thác nước mặt phục vụ sản xuất nông nghiệp trong phạm vi gia đình không vượt quá 0,2m3/s; khai thác nước mặt để phát điện không làm chuyển đổi dòng chảy trong phạm vi gia đình có công suất lắp máy không vượt quá 50 KW; khai thác sử dụng nước mặt cho các mục đích khác trong phạm vi gia đình không vượt quá 100m3/ ngày đêm; khai thác nước dưới đất (nước ngầm) trong phạm vi gia đình không vượt quá 20m3/ ngày đêm; xả nước thải vào nguồn nước trong phạm vi gia đình không vượt quá 10m3/ ngày đêm. Tuy nhiên Luật cũng qui định trong một số trường hợp thuộc diện nêu trên tuy không phải xin phép nhưng phải đăng ký để quản lý tài nguyên nước chặt chẽ, chính xác; UBND tỉnh qui định giới hạn tối thiểu cần phải đăng ký.
Qua kết quả thanh, kiểm tra công tác BVMT tại các địa phương trong thời gian qua cho thấy, việc xây dựng các công trình xử lý và BVMT đòi hỏi kinh phí đầu tư lớn nên hầu hết các doanh nghiệp chưa muốn đầu tư xây dựng các công trình xử lý môi trường; không chỉ do một số doanh nghiệp hoạt động từ thời bao cấp với công nghệ lạc hậu, thiết bị cũ kỹ phát sinh nhiều chất thải gây ô nhiễm môi trường mà phần lớn các KCN hiện đại cũng không có hệ thống xử lý nước thải tập trung vì không đủ kinh phí để xử lý; cơ chế chính sách hỗ trợ của nhà nước còn khiêm tốn, chưa đáp ứng được yêu cầu BVMT. Bên cạnh đó, khung pháp lý cho việc thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra vẫn còn thiếu và chưa đủ mạnh để buộc các doanh nghiệp phải thực thi công tác BVMT
Như vậy, để tiếp tục nâng cao hiệu quả của công tác quản lý tài nguyên nước, Bộ đang xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác quản lý Nhà nước về nguồn tài nguyên này, trong đó có việc tổng kết, đánh giá 8 năm thực hiện Luật tài nguyên nước làm tiền đề cho việc sửa đổi, bổ sung luật tài nguyên nước.
Tới đây các bộ ngành chức năng đều có chương trình hoàn thiện đánh giá có liên quan đến quản lý ô nhiễm nguồn nước.
4. Giải pháp chung để nâng cao hiệu quả thực tiễn của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước
Các chuyên gia cho rằng, với những đặc điểm về tính không bền vững của tài nguyên nước ở nước ta, công tác quản lý nhà nước đối với nguồn tài nguyên quý báu này cần phải được tăng cường ở các cấp, các ngành ngay từ bây giờ.
Thời gian tới, cần phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý tài nguyên nước, trong đó tập trung vào việc sửa đổi Luật tài nguyên nước,...
Triển khai thực hiện chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020, tăng cường đầu tư thực hiện các dự án điều tra cơ bản, nắm chắc nguồn nước, kiểm kê tài nguyên nước quốc gia, xây dựng cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin về tài nguyên nước, thường xuyên thanh tra, kiểm tra việc khai thác, sử dụng nước, xả nước thải vào nguồn nước, xử lý triệt để các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực tài nguyên nước.
Các chuyên gia cũng nhấn mạnh phải thường xuyên quản lý chặt chẽ việc khoan thăm dò, khai thác sử dụng nước dưới đất; tuyên truyền sâu rộng pháp luật về tài nguyên nước và bảo vệ nguồn nước trong nhân dân; kiến nghị chính phủ sớm khắc phục sự chồng chéo về nhiệm vụ quản lý tài nguyên nước; xem xét và ban hành nghị định của chính phủ về quản lý tổng hợp tài nguyên nước và Bộ tài nguyên và môi trường đã trình.
Để tiếp cận một cách toàn diện và hỗ trợ cho phát triển bền vững cần phải cải tiến và phát triển hệ thống thể chế và pháp luật phù hợp yêu cầu làm hài hòa các quy định của pháp luật và có những tổ chức chính chịu trách nhiệm thực hiện và giám sát việc thực hiện những quy định đó một cách thống nhất theo chiều ngang lẫn chiều dọc từ trên xuống đến cơ sở.
Về thuế tài nguyên nước ở Việt Nam cũng cần đánh giá lại mức thu, tình hình thu để không bỏ sót đối với nhiều đối tượng có thể và cần thu.
Bên cạnh đó cần chú ý trong khai thác, sử dụng cũng như quản lý nguồn nước phải đạt được yêu cầu bền vững, có nghĩa là: tài nguyên nước cần phải được sử dụng một cách hợp lý, không vượt qua khả năng của nguồn nước, để nước có thể hồi phục hay tái tạo theo chu trình thủy văn vốn có của thủy văn. Điều đó đòi hỏi cần có những cơ quan dự báo, quy hoạch và sự điều hành thống nhất. Tài nguyên nước phải được sử dụng tiết kiệm và thực sự hiệu quả, phải được bảo vệ, kiểm soát cả về số lượng và chất lượng.
Trong việc quản lý sử dụng nước bằng pháp luật phải đảm bảo tính cộng động và công bằng, phải có sự tham gia bình đẳng của tất cả các thành phần có liên quan trong sử dụng nước và bảo vệ nguồn tài nguyên này. Điều đó đòi hỏi phải có một tổ chức khách quan về điều hành, phân phối, cấp phép trong việc sử dụng nước (nước ngầm, nước mặt trên sông suối, nước ở các hồ chứa...).
Ngoài các giải pháp nêu trên, chúng ta cũng cần phải tiến hành tuyên truyền, giáo dục pháp luật bằng các hình thức:
Trao đổi trực tiếp với các địa phương để phổ biến Luật Tài nguyên nước và xem xét tình hình thực hiện. Lấy ý kiến của các địa phương về các nội dung cần quy định trong các văn bản dưới luật.Xây dựng tổ chức thanh tra chuyên ngành để nâng cao vai trò của công tácthanh tra pháp chế, xử lý vi phạm trong việc thực thi pháp luật về tài nguyên nước.
Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền về pháp luật quy định đối với tài nguyên nước. Những biến động tự nhiên cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội ngày càng phát triển đang tạo ra những thay đổi lớn về tài nguyên nước về chất và lượng. Nhận thức được những thay đổi hiện tại cũng như dự đoán thay đổi trong tương lai là hết sức cần thiết để phối hợp giữa các ngành, các cấp trong sử dụng tổng hợp và bảo vệ tài nguyên nước một cách hợp lý và bền vững.
Trên đây là một số giải pháp chung mà chúng em đã tổng hợp và đưa ra nhằm góp phần nâng cao hiệu quả thực tiễn pháp luật về kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước.
KẾT LUẬN
Từ những năm 80 của thế kỷ XX, thế giới đã ghi nhận nước là tài nguyên thiên nhiên môi trường hàng đầu của nhân loại và là một trong những tài nguyên thiên nhiên cần phải quản lý trong một môi trường bền vững. Không chỉ coi nước là một tài nguyên có giá trị kinh tế như các tài nguyên khoáng sản khác, mà trong sử dụng cần phải coi nước là một hàng hóa, phải làm sao phát huy tối đa giá trị của tài nguyên nước.
Đánh giá được tầm quan trọng của tài nguyên nước, Việt Nam ta cũng đã có những sự quan tâm nhất định về bảo vệ và kiểm soát ô nhiễm, suy thoái tài nguyên nước thể hiện thông qua việc ban hành hệ thống các văn bản quy phạm cụ thể quy định về vấn đề này.
Ngoài ra, sự quan tâm này còn được thể hiện ở các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Bộ Tài nguyên môi trường Việt Nam cũng đã trao đổi thống nhất hợp tác trong lĩnh vực quản lý tài nguyên nước với Bộ sinh thái, phát triển và quy hoạch bền vững của cộng hòa Pháp. Đây là một trong những lĩnh vực ưu tiên trong chương trình hợp tác phát triển giữa Chính phủ Việt Nam và cộng hòa Pháp, nhằm góp phần củng cố mối quan hệ hợp tác về pháp lý, hoàn thiện về thể chế hành chính, tăng cường hiệu lực và hiệu quả trong quản lý tài nguyên nước ở Việt Nam.
Tuy nhiên, việc thực hiện bảo vệ tài nguyên nước ở nước ta còn nhiều khó khăn cần khắc phục, vì vậy nên Đảng và Nhà nước cần có sự quan tâm và chỉ đạo sát sao hơn nữa vấn đề này, động thời mỗi người dân cần tự nâng cao ý thức của mình về bảo vệ nguồn tài nguyên quý hiếm này.
Em lựa chọn đề tài này với mong muốn góp một phần hiểu biết nhỏ bé trong hoạt động bảo vệ và kiểm soát ô nhiễm, suy thoái nguồn nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Luật Môi trường - trường Đại học Luật Hà Nội
Luật bảo vệ môi trường 2005
Luật tài nguyên nước năm 1998
Nghị định số 80/2006/NĐ – CP ngày 09/8/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường
Các trang web của Chính phủ, Bộ Tài nguyên môi trường...
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bảo vệ tài nguyên nước, kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước bằng pháp luật.doc