Biến đổi khí hậu và du lịch sinh thái biển vũng tàu

Thực vật và động vật rất nhạy cảm với thời tiết. Khi thời tiết biến đổi, các loài không thể sống sót được ở một số vùng và sẽ di cư đến các vùng mới . Nếu không có vị trí nào thích hợp, loài sẽ bị tuyệt chủng khi không thể thích nghi kịp. Khí hậu trong quá khứ đã có những thay đổi rất đột ngột. Những phản ứng của các quần xã sinh vật trước những biến đổi này đã được tìm hiểu qua việc phân tích các vòng tuổi cây, lõi băng, các trầm tích của phấn hoa, than chì, động vật không xương sống và các nguyên tố hoá học. Một số các biến đổi thời tiết bất ngờ, xảy ra trong một vài thập kỷ hoặc thế kỷ, một số trong đó có liên quan đến những thời kỳ có sự tuyệt chủng hàng loạt. Những sự chuyển dịch quan trọng về ranh giới giữa các rừng lãnh nguyên và rừng phương bắc, giữa vùng rừng và vùng đồng cỏ, giữa vùng Hồ Lớn - rừng St. Lawrence và vùng rừng phương bắc đã xảy ra từ thời kỳ băng hà trước đây . Những sự chuyển dịch này tương ứng với những biến đổi khí hậu và có thể được coi là sự biểu hiện của các trường hợp biến đổi khí hậu toàn cầu . Lửa là một sự xáo trộn có liên quan đến khí hậu, gây ra những biến đổi chính đối với các khu rừng ở phía bắc. Những trận cháy là công cụ để tạo nên hình dạng của thảm thực vật của vùng Quebec ở phía bắc, và những trận cháy này cũng có phần lớn nguyên nhân do khí hậu . Khí hậu hiện nay, cùng sự thất thường và khắc nghiệt của nó, hiển nhiên có những ảnh hưởng đối với các hệ sinh thái . Ví dụ, mùa hè năm 1988, được chứng minh là một trong những trận hạn hán tồi tệ nhất trong lịch sử, đặc biệt ở các thảo nguyên của Canada, và số lượng chim nước đã giảm rất nhiều trong suốt thời kỳ khô hạn của những năm 1980. Gần đây, sự phóng xạ của các tia tử ngoại tăng lên do những biến đổi của tầng ô zôn trong tầng bình lưu đã được phát hiện, và đã có những chứng cứ ban đầu về gây tổn hại đối với mùa màng nông nghiệp, đối với thực vật, động vật ở các vùng đất ngập nước, các ao nông và các môi trường biển gần bờ. Các nhà khoa học đã có những thống nhất chung về việc khí hậu toàn cầu sẽ ấm lên bởi sự tăng lên về nồng độ của các khí "nhà kính", như cacbon dioxit, metan, là kết quả các hoạt động của con người . Xu hướng ấm lên của khí hậu trong tương lai này làm gia tăng sự nghi ngờ về tính ổn định của nhiều quần xã sinh vật ở Canada và các hoạt động quản lý được tiến hành trong phạm vi tính biến thiên khí hậu hiện nay. Các nghiên cứu trước mắt về các ảnh hưởng có thể của sự biến đổi khí hậu đối với các hệ sinh thái Canada đã đưa đến 2 kết luận chính. Thứ nhất, tốc độ dự đoán của quá trình ấm lên toàn cầu là tương đối nhanh, có thể so sánh với thời kỳ địa chất trước đây, kết quả gây thiệt hại trong phạm vi lớn đối các quần xã thực vật sinh trưởng chậm, không thể thích nghi trong cùng một khoảng thời gian. Ví dụ, vùng rừng phương bắc có thể mất đi một triệu cây số vuông. Thứ hai, cùng với sự ấm lên toàn cầu sẽ đưa đến sự thay đổi, thường là tăng, về tần số xuất hiện của những xáo trộn do khí hậu khắc nghiệt chẳng hạn như cháy, côn trùng, bệnh tật, hạn hán và sương giá. Các trường hợp này được cho rằng quan trọng hơn những biến đổi nhiệt độ trung bình toàn cầu trong những ảnh hưởng kết hợp đối với đa dạng sinh học. Thay đổi khí hậu còn là phương tiện của sự phát tán các chất gây ô nhiễm. Sự ô nhiễm không khí một mình hoặc kết hợp với sự biến đổi khí hậu có khả năng gây ra những ảnh hưởng bất lợi cho đa dạng sinh học ở mọi cấp độ. Các ảnh hưởng này, không giống sự phá huỷ nơi cư trú, khó phát hiện, có mối tương quan với nhau và khó đánh giá. Axit lắng đọng là chất ô nhiễm không khí gây ra những biến đổi lớn nhất ở phạm vi rộng đối với đa dạng sinh học ở Canada . Những ảnh hưởng đối với đa dạng sinh học của những chất ô nhiễm không khí khác như ôzôn, nitrogen oxit, hợp chất hữu cơ dễ bay hơi, các hoá chất độc hại thường ít được biết đến.

doc34 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3662 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Biến đổi khí hậu và du lịch sinh thái biển vũng tàu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIỆN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG Tiểu luận:  Sinh viên: Nguyễn Thị Xuân Linh MSSV: 0770302 GVHD: GSTSKH Lê Huy Bá LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên, em xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến ban Giám hiệu trường đã tạo điều kiện, cơ sở vật chất hiện đại, thư viện trường đầy đủ tài liệu, phương tiện hữu ích nhất để chúng em có thể tìm thấy tài liệu dễ dàng. Thầy Lê Huy Bá cùng đồng hành với chúng em rất vất vả trong thời gian vừa qua và cũng chính là người đã cho chúng em cơ hội để làm bài tiểu luận này để hiểu rõ hơn về vấn đề ô nhiễm môi trường đang đe dọa nhân lọai chúng ta. Cụ thể là vấn đề biến đổi khí hậu và du lịch sinh thái biển Vũng Tàu. Cuốn tiểu luận này còn rất nhiều thiếu sót mong thầy chỉ sửa cho em. Em chân thành cảm ơn! LỜI MỞ ĐẦU. Hiểm họa biến đổi khí hậu toàn cầu đã được Liên hiệp quốc quan tâm, thể hiện ở việc đưa ra Nghị định thư Kyoto (1997) nhằm giảm khí thải gây ra hiệu ứng nhà kính, đẩy nhanh tốc độ nóng lên của khí hậu, mà nguyên thủ 165 nước, trong đó có Việt Nam, đã phê chuẩn. Hiện tượng lạnh đi và nóng lên của khí hậu Trái đất dẫn đến sự hình thành các thời kỳ băng hà và gian băng trong lịch sử Trái đất kỷ Đệ tứ, đã được các nhà khoa học trên thế giới và Việt Nam ghi nhận với nhiều bằng chứng cụ thể. Nếu con người không hạn chế các tác động xấu đến môi trường, không quan tâm nghiên cứu nhằm đề ra các biện pháp phòng tránh hữu hiệu cho dân tộc mình, thì hệ lụy có thể nói là khó lường. Trong mấy thập kỷ qua, nhân loại đã và đang trải qua các biến động bất thường của khí hậu toàn cầu. Trên bề mặt Trái đất, khí quyển và thủy quyển không ngừng nóng lên làm xáo động môi trường sinh thái, đã và đang gây ra nhiều hệ lụy với đời sống loài người. Các công trình nghiên cứu quy mô toàn cầu về hiện tượng này đã được các nhà khoa học ở những trung tâm nổi tiếng trên thế giới tiến hành từ đầu thập kỷ 90 thế kỷ XX. Hội nghị quốc tế do Liên hiệp quốc triệu tập tại Rio de Janeiro năm 1992 đã thông qua Hiệp định khung và Chương trình hành động quốc tế nhằm cứu vãn tình trạng “xấu đi” nhanh chóng của bầu khí quyển Trái đất, vốn được coi là nguyên nhân chủ yếu của sự gia tăng hiểm họa. Tổ chức nghiên cứu liên chính phủ về biến đổi khí hậu của Liên hiệp quốc (IPCC) đã được thành lập, thu hút sự tham gia của hàng ngàn nhà khoa học quốc tế. Tại Hội nghị Kyoto năm 1997, Nghị định thư Kyoto đã được thông qua và đầu tháng 2/2005 đã được nguyên thủ 165 quốc gia phê chuẩn. Nghị định thư này bắt đầu có hiệu lực từ 10/2/2005. Việt Nam đã phê chuẩn Nghị định thư Kyoto ngày 25/9/2005. Mới đây, hội nghị lần thứ 12 của 159 nước tham gia hiệp định khung về khí hậu, phiên họp thứ 2 của các bên tham gia Nghị định thư Kyoto đã được Liên hiệp quốc tổ chức tại Nairobi, thủ đô Kenya. Trong khung cảnh thế giới và Việt Nam, em thực hiện cuốn tiểu luận này nhằm hiểu rõ hơn về vấn đề biến đổi khí hậu và tác động của nó. Cuốn tiểu luận này không thể tránh khỏi thiếu xót mong thầy chỉ dẫn cho em. PHẦN MỞ ĐẦU. Thực vật và động vật rất nhạy cảm với thời tiết. Khi thời tiết biến đổi, các loài không thể sống sót được ở một số vùng và sẽ di cư đến các vùng mới . Nếu không có vị trí nào thích hợp, loài sẽ bị tuyệt chủng khi không thể thích nghi kịp. Khí hậu trong quá khứ đã có những thay đổi rất đột ngột. Những phản ứng của các quần xã sinh vật trước những biến đổi này đã được tìm hiểu qua việc phân tích các vòng tuổi cây, lõi băng, các trầm tích của phấn hoa, than chì, động vật không xương sống và các nguyên tố hoá học. Một số các biến đổi thời tiết bất ngờ, xảy ra trong một vài thập kỷ hoặc thế kỷ, một số trong đó có liên quan đến những thời kỳ có sự tuyệt chủng hàng loạt. Những sự chuyển dịch quan trọng về ranh giới giữa các rừng lãnh nguyên và rừng phương bắc, giữa vùng rừng và vùng đồng cỏ, giữa vùng Hồ Lớn - rừng St. Lawrence và vùng rừng phương bắc đã xảy ra từ thời kỳ băng hà trước đây . Những sự chuyển dịch này tương ứng với những biến đổi khí hậu và có thể được coi là sự biểu hiện của các trường hợp biến đổi khí hậu toàn cầu . Lửa là một sự xáo trộn có liên quan đến khí hậu, gây ra những biến đổi chính đối với các khu rừng ở phía bắc. Những trận cháy là công cụ để tạo nên hình dạng của thảm thực vật của vùng Quebec ở phía bắc, và những trận cháy này cũng có phần lớn nguyên nhân do khí hậu . Khí hậu hiện nay, cùng sự thất thường và khắc nghiệt của nó, hiển nhiên có những ảnh hưởng đối với các hệ sinh thái . Ví dụ, mùa hè năm 1988, được chứng minh là một trong những trận hạn hán tồi tệ nhất trong lịch sử, đặc biệt ở các thảo nguyên của Canada, và số lượng chim nước đã giảm rất nhiều trong suốt thời kỳ khô hạn của những năm 1980. Gần đây, sự phóng xạ của các tia tử ngoại tăng lên do những biến đổi của tầng ô zôn trong tầng bình lưu đã được phát hiện, và đã có những chứng cứ ban đầu về gây tổn hại đối với mùa màng nông nghiệp, đối với thực vật, động vật ở các vùng đất ngập nước, các ao nông và các môi trường biển gần bờ. Các nhà khoa học đã có những thống nhất chung về việc khí hậu toàn cầu sẽ ấm lên bởi sự tăng lên về nồng độ của các khí "nhà kính", như cacbon dioxit, metan, là kết quả các hoạt động của con người . Xu hướng ấm lên của khí hậu trong tương lai này làm gia tăng sự nghi ngờ về tính ổn định của nhiều quần xã sinh vật ở Canada và các hoạt động quản lý được tiến hành trong phạm vi tính biến thiên khí hậu hiện nay. Các nghiên cứu trước mắt về các ảnh hưởng có thể của sự biến đổi khí hậu đối với các hệ sinh thái Canada đã đưa đến 2 kết luận chính. Thứ nhất, tốc độ dự đoán của quá trình ấm lên toàn cầu là tương đối nhanh, có thể so sánh với thời kỳ địa chất trước đây, kết quả gây thiệt hại trong phạm vi lớn đối các quần xã thực vật sinh trưởng chậm, không thể thích nghi trong cùng một khoảng thời gian. Ví dụ, vùng rừng phương bắc có thể mất đi một triệu cây số vuông. Thứ hai, cùng với sự ấm lên toàn cầu sẽ đưa đến sự thay đổi, thường là tăng, về tần số xuất hiện của những xáo trộn do khí hậu khắc nghiệt chẳng hạn như cháy, côn trùng, bệnh tật, hạn hán và sương giá. Các trường hợp này được cho rằng quan trọng hơn những biến đổi nhiệt độ trung bình toàn cầu trong những ảnh hưởng kết hợp đối với đa dạng sinh học. Thay đổi khí hậu còn là phương tiện của sự phát tán các chất gây ô nhiễm. Sự ô nhiễm không khí một mình hoặc kết hợp với sự biến đổi khí hậu có khả năng gây ra những ảnh hưởng bất lợi cho đa dạng sinh học ở mọi cấp độ. Các ảnh hưởng này, không giống sự phá huỷ nơi cư trú, khó phát hiện, có mối tương quan với nhau và khó đánh giá. Axit lắng đọng là chất ô nhiễm không khí gây ra những biến đổi lớn nhất ở phạm vi rộng đối với đa dạng sinh học ở Canada . Những ảnh hưởng đối với đa dạng sinh học của những chất ô nhiễm không khí khác như ôzôn, nitrogen oxit, hợp chất hữu cơ dễ bay hơi, các hoá chất độc hại thường ít được biết đến. NỘI DUNG Tai họa khí hậu đang lăm le ở chân trời sẽ ảnh hưởng đến tòan bộ hành tinh của chúng ta. Thiệt hại về môi trường không còn giới hạn đến một vùng hay một địa phương đặc biệt nào mà sẽ đe dọa đến tất cả nhân loại. Mỗi nước riêng rẽ trên trái đất ít nhiều cũng dính dáng đến viêc phá hủy tài nguyên chung – điều kiện tiên quyết đối với cuộc sống của chúng ta. Cùng lúc đó, mỗi nước sẽ bị tai họa khí hậu đang đe dọa tác động. I. SƠ LƯỢC. 1. Những dấu hiệu đầu tiên của sự thay đổi khí hậu Những quan sát được thực hiện từ 30 – 50 năm qua cho thấy rõ rằng khí hậu tòan cầu đang bắt đầu thay đổi. Điều này được chứng minh bằng những quan sát sau đây: Nhiệt độ bề mặt đại dương vùng nhiệt đới tăng lên 0,50C. Có sự tăng lên về sự tích tụ hơi nước trên tầng đối lưu ở bầu khí quyển vùng nhiệt đới. Ở lớp giữa của tầng đối lưu, sức nóng giới hạn đang tăng lên. Gradien độ nhiệt giữa xích đạo và vùng cực tăng lên. Vận tốc gío trung bình tăng lên. Những vùng áp suất thấp hầu như đứng yên. Nhiệt độ trung bình của trái đất hiện nay cao hơn khỏang 0,70C so với năm 1960. Trong cùng thời gian đó, khối nước của các sông băng trong đất liền ở vùng Alps đã giảm xuống 50%. 2. Kiến thức và các bằng chứng tìm được về “hiệu ứng nhà kính” ngày càng tăng. Trong những năm qua, sự hiểu biết về hiệu ứng nhà kính tăng lên một cách đều đặn. Việc tập trung ngày càng tăng các loại gây hiệu ứng nhà kính trong thời gian dài chẳng hạn như: cacbon dioxid, metan, oxit nitric và clo florua cacbon vẫn tiếp diễn không giảm sút. Chất khí quan trọng nhất gây hiệu ứng nhà kính là cacbon dioxid có tỷ lệ pha trộn trong tầng đối lưu là 355 ppmv, cao hơn bất cứ thời gian nào trong suốt 160.000 năm qua. Cacbon dioxid đóng vai trò 50% hiệu ứng nhà kính, trong đó metan là 13%, ozon tầng đối lưu 7%, nitơ 5%, tất cả CFC 22%, hơi nước tầng bình lưu 3%. Trong vòng 100 – 200 năm sau, sự tăng lên về quá trình tập trung trong khí quyển các loại khí gây hiệu ứng nhà kính sẽ có tác động rất lớn đối với khí hậu hơn bất kì nhân tố nào khác kể cả núi lửa hay sự thay đổi bức xạ mặt trời, ngòai trừ vài vấn đề liên quan đến sự góp phần ảnh hưởng của các đám mây. Bây giờ người ta đã hiểu được các cơ chế phản hồi chủ yếu xảy ra bên trong hệ thống khí hậu, quá trình tập trung CO2 có khả năng sẽ tăng lên gấp đôi vào khỏang giữa đầu thế kỉ sau. Điều này sẽ đẩy mạnh hơn nữa sự tăng lên của nhiệt độ trung bình của trái đất ( tới mức 0,30C mỗi thập kỉ ) sẽ gây ra sự thay đổi sâu sắc trong việc phân bố, lương mưa theo không gian và thời gian, các trận mưa bất thường và lụt lớn sẽ xảy ra ở khắp nơi trên thế giới. II. HIỆN TƯỢNG VÀ BẢN CHẤT TĂNG NHIỆT ĐỘ BỀ MẶT TRÁI ĐẤT Các báo cáo của IPCC và nhiều trung tâm nghiên cứu có uy tín hàng đầu trên thế giới công bố trong thời gian gần đây cung cấp cho chúng ta nhiều thông tin và dự báo quan trọng. Theo đó, nhiệt độ trung bình trên bề mặt địa cầu ấm lên gần 1°C trong vòng 80 năm (từ 1920 đến 2005) và tăng rất nhanh trong khoảng 25 năm nay (từ 1980 đến 2005). Mới đây, ông Mark Lowcok, quan chức của Bộ Phát triển Quốc tế Anh đã đến thăm Việt Nam và có buổi thuyết trình về “Báo cáo Stern” do các nhà khoa học Anh xây dựng, được chính phủ Anh công bố về vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu. Báo cáo cho rằng nếu không thực hiện được chương trình hành động giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính theo Nghị định thư Kyoto, đến năm 2035 nhiệt độ bề mặt địa cầu sẽ tăng thêm 2°C. Về dài hạn, có hơn 50% khả năng nhiệt độ tăng thêm 5°C. Hiện tại, Trái đất đang từng ngày từng giờ nóng lên với tốc độ như vậy với chiều hướng có thể còn nhanh hơn nữa. Vậy, nguyên nhân nào đã gây ra hiện tượng vỏ Trái đất ấm lên ? Dưới đây tổng hợp những kiến giải chính rút ra từ các công trình nghiên cứu và kết quả thảo luận ở các hội nghị quốc tế. Loại ý kiến thứ nhất được đại đa số các nhà khoa học nhất trí, đó là việc tăng hàm lượng khí CO2 và các loại khí thải tạo hiệu ứng nhà kính do hoạt động con người gây ra trong bầu khí quyển Trái đất. Nguyên nhân này chiếm 90, thậm chí 99% mức gia tăng của nhiệt độ bề mặt Trái đất hiện đang được báo động. Rõ ràng mối liên quan giữa quá trình gia tăng hàm lượng CO2 và các khí thải gây hiệu ứng nhà kính do con người gây ra với sự gia tăng nhiệt độ bề mặt Trái đất đã được minh chứng qua các số liệu mấy thế kỷ và nhất là trong vài thập kỷ gần đây. Nhiệt độ bề mặt Trái đất có được là nhờ hấp thụ nhiệt từ Mặt trời và nhận dòng nhiệt của chính mình tỏa ra từ bên trong lòng đất. Sự có mặt của một hàm lượng khí CO2 cần thiết trong bầu khí quyển vốn là tấm áo giáp ngăn chặn bức xạ nhiệt (bức xạ hồng ngoại) từ Trái đất thoát vào vũ trụ mênh mông lạnh lẽo. Thiếu nó thì mặt đất sẽ không có được một nhiệt độ điều hòa cho sự sinh sôi phát triển sự sống. Các công trình nghiên cứu áp dụng công nghệ hiện đại cho chúng ta biết suốt thiên niên kỷ trước khi có cuộc cách mạng công nghiệp, hàm lượng khí CO2 trong khí quyển dao động ở mức 280 phần triệu (ppm). Tuy nhiên, tính từ đầu thế kỷ XIX đến nay hàm lượng đó đã tăng liên tục đến 360 ppm. Số liệu quan trắc trong 4 thập kỷ gần đây cho thấy, cứ mỗi thập kỷ hàm lượng CO2 trong khí quyển lại tăng 4%. Nói cách khác, hiệu ứng nhà kính do khí CO2 gây ra là quá mức cần thiết, gây tăng nhanh nhiệt độ bề mặt địa cầu kéo theo nhiều hệ lụy như đã nêu trên. Tôi cho rằng những cứ liệu và luận giải đã được nêu ra là đầy sức thuyết phục. Điều đáng tiếc là cho đến nay, Hoa Kỳ là nước xả khí thải gây hiệu ứng nhà kính nhiều nhất vào khí quyển (trên 30% tổng khí thải công nghiệp) vẫn chưa phê chuẩn Nghị định thư Kyoto. Loại ý kiến thứ hai tuy thừa nhận vấn đề gia tăng nhiệt độ do hiệu ứng nhà kính, song cho rằng cần nhấn mạnh hơn đến chu kỳ nóng lên của Trái đất do hoạt động nội tại. Hiện tượng nhiệt độ bề mặt Trái đất nóng lên và lạnh đi vốn là hiện tượng tự nhiên xảy ra có tính chu kỳ trong lịch sử hình thành và phát triển của Trái đất. Không phải chỉ bây giờ, lịch sử Trái đất hàng triệu triệu năm đã trải qua nhiều lần nóng lên rồi lại lạnh đi kéo theo những biến động to lớn trong đời sống sinh vật trên Trái đất, làm thay đổi cả diện mạo địa hình lục địa và đại dương. Tính từ 1,6 triệu năm đến nay đã có 5-6 chu kỳ biến động lớn. Đó là các thời kỳ băng hà kéo theo mực nước biển hạ thấp (biển lùi) và các thời kỳ gian băng (băng tan) kéo theo mực nước biển dâng cao (biển tiến). Vào các thời kỳ băng hà, nhiệt độ bề mặt Trái đất khô lạnh. Vào thời kỳ gian băng nhiệt độ bề mặt Trái đất đan xen giữa nóng ẩm và khô hạn. Vào các thời kỳ đó, biên độ dao động của nước biển (dâng, hạ) lên đến hàng chục, hàng trăm mét. Mỗi chu kỳ kéo dài hàng vạn, chục vạn năm. Mỗi chu kỳ như vậy còn được chia ra các chu kỳ ngắn hơn với thời gian kéo dài nhiều trăm năm đến nghìn năm với biên độ dao động mực nước biển 2-3 m hoặc hơn. Khí thải CO2 làm tăng hiệu ứng nhà kính là hiện tượng do con người gây ra trong mấy trăm năm gần đây. Vì vậy, có lẽ cả hai nguyên nhân trên đều có cơ sở thực tế và chúng cùng tác động gây ra tình trạng Trái đất nóng lên một cách bất thường như hiện nay. Do đó, cần phải nhìn nhận hiện tượng nóng lên của Trái đất hiện nay bằng quan điểm biện chứng: chu kỳ nóng ấm của Trái đất mang tính nội sinh và ngoại sinh tự nhiên được đẩy nhanh và trở nên nghiêm trọng hơn do những tác động của khí thải công nghiệp và hiệu ứng nhà kính. III. HIỆN TƯỢNG VÀ BẢN CHẤT DÂNG CAO MỰC NƯỚC ĐẠI DƯƠNG Hệ quả đồng hành với việc bề mặt Trái đất nóng lên luôn luôn là sự tan những khối băng vĩnh cửu ở hai đầu địa cực và trên đỉnh những dãy núi cao. Nhưng có lẽ chưa bao giờ tốc độ tan băng lại diễn ra với tốc độ nhanh và quy mô lớn như ngày nay. Thử điểm một vài tin chính: ở Nam Cực, tháng 3/2002, các nhà khoa học tận mắt chứng kiến khối băng 500 tỷ tấn tan rã thành hàng nghìn mảnh; ở Bắc Cực, mùa hè 2002, lượng băng tan ở Greenland cao gấp đôi so với 1992, diện tích băng tan đã lên tới 655.000 m2. Hơn 110 sông băng và những cánh đồng băng vĩnh cửu ở bang Montana đã biến mất trong vòng 100 năm qua. Các sông băng sẽ hầu như biến mất khỏi dãy Alpes vào năm 2050 (nếu độ tan chảy duy trì như hiện nay). Mùa hè 2002, các nhà khoa học ghi nhận một khối băng 3,5 triệu tấn tách ra, gây ra lũ băng từ dãy núi Mali trên đỉnh Kavkaz thuộc Nga. Trong vòng 13 năm gần đây, số băng tan ở châu Âu tăng gấp đôi so với lượng băng tan của 30 năm trước (1961-1990). Băng tan và nhiệt độ tăng làm nở thể tích trung bình của nước được coi như hai nguyên nhân chính dẫn đến mực nước đại dương cao dần lên, làm tràn ngập các đồng bằng thấp ven biển. Các số liệu quan trắc mực nước biển thế giới cho thấy mức tăng trung bình trong vòng 50-100 năm qua là 1,8 mm/năm. Nhưng chỉ trong 12 năm gần đây, các số liệu đo đạc của vệ tinh NASA cho thấy xu thế biển dâng đang gia tăng rất nhanh, với tốc độ trung bình là 3 mm/năm. Báo cáo của IPCC, do hàng chục nhà khoa học soạn thảo và hơn 2000 nhà khoa học từ 130 quốc gia tham gia đóng góp ý kiến, đưa ra dự báo: đến cuối thế kỷ XXI, nhiệt độ bề mặt Trái đất sẽ tăng thêm từ 1,4 đến 4°C, mực nước biển sẽ dâng thêm khoảng 28-43 cm. Nhiều nhà khoa học còn đưa ra những dự báo mực nước biển đang dâng nhanh hơn nhiều, nhất là do hiện tượng tan băng đang xảy ra với tốc độ đáng kinh ngạc trong thời gian gần đây. Nhà địa lý học Richard Alley ở Đại học Pennsylvania, Hoa Kỳ nói: Chỉ cần 15% lớp băng ở Greenland bị tan cũng tạo ra một khối nước mới trong các đại dương đủ để làm ngập tiểu bang Florida của Hoa Kỳ và nhiều vùng duyên hải khác trên thế giới. Nếu mực nước biển dâng lên khỏang 50cm, nó sẽ tạo nên một mối đe dọa cho hàng triệu người và sẽ có những tác động đáng kể về mặt sinh thái và kinh tế xã hội chẳng hạn như: Sự ngập lụt của các đồng bằng thấp và các vùng đất ẩm gần bờ biển. Xói mòn bờ biển. Sự gia tăng triều bão Sự mặn hóa các cửa sông, đồng bằng và nguồn nước dưới đất với nhiều tác động tiêu cực khác đối với chất lượng nước. Những biến động của sự tăng thủy triều Những biến động của sự trầm tích Sự suy yếu các lớp nước rễ tiếp cận dưới đất. Bên cạnh sự ngập lụt thường xuyên, mực nước biển dâng lên còn làm gia tăng tần số và mật độ của các vụ lũ lụt có quy mô lớn. Tuy vậy, những trận lụt như vậy, không chỉ có thể gây ra bởi mực nước biển quá cao mà còn bới sự hủy hoại những barie tự nhiên như đá ngầm san hô, các cồn cát ngầm ngoài khơi, các vũng nước mặn và bởi sự suy giảm hệ thống tiêu nước đất liền gây ra bởi các con sông và kênh đào. Điều này có nghĩa các con sông cũng sẽ xâm nhập phá vỡ bờ của chúng thường xuyên hơn, gây ra những trận lũ lụt lớn. Các tác động kinh tế xã hội chủ yếu bị gây ra bởi sự xâm nhập của nước mặn vào các cửa sông và các hệ thống thuộc hệ bờ biển. Các khu vực cửa sông, trong đó có rất nhiều vùng có mật độ dân cư dày đặc, sẽ bị tác động trong suốt thời kì khô hạn kéo dài. Một mối đe dọa khác đối với các nguồn nước trong lòng đất và trên bề mặt có nguyên nhân từ bãi chon lấp rác ở các khu vực bị ngập lụt trong tương lai và sự tích tụ các chất gây ô nhiễm trong các lớp trầm tích của các đồng bằng và cửa sông của những con sông bị ô nhiễm nặng. Các chất độc có thể sẽ bị huy động bởi những biến đổi về tình trạng đất bồi và sự xâm nhập của nước mặn. Một sự dâng cao của mực nước biển sẽ phá hủy nhiều hộ sinh thái khác nhau, trong đó co nhiều hệ thống chỉ có chất độc nhất. Điều này sẽ xảy đến với các vùng đất ẩm, vốn có những chức năng sau đây Nuôi dưỡng đất cho 1/3 lượng cá mà ta tiêu dung Cung cấp nơi cư trú thống nhất cho một lượng lớn các chủng loại thực vật và động vật Đóng vai trò một barie tự nhiên trong việc chống lụt. Sự đa dạng chủng loài của trái đất sẽ bị giảm sút do sự phá hoại đất ướt, đụn cát và sự trắng háo của các đá san hô ngầm. Những tác động của sự phát triển này hiện nay đã được qua tâm. Hơn nữa, còn tồn tại nguy cơ ngành ngư nghiệp sẽ bị tác động nặng nề. IV. NHỮNG HIỂM HỌA ĐÃ, ĐANG VÀ SẼ XẢY RA Ở VIỆT NAM Thời kỳ băng hà cuối cùng của địa cầu trong kỷ Đệ tứ (băng hà Wurm 2) lạnh nhất cách đây khoảng 18.000 năm. Thời đó, biển lùi xa về phía đông. Các tài liệu khoan thăm dò dầu khí đã ghi nhận dấu vết đường bờ biển thời đó nằm trên thềm lục địa ở độ sâu 100-120 m so với mực nước biển hiện tại. Thời đó, toàn bộ vùng Vịnh Bắc Bộ và thềm Sunda (nối liền Nam Bộ Việt Nam với Indonesia), vịnh Thái Lan còn là đất liền. Nhiệt độ trung bình hàng năm ở Việt Nam vào thời băng hà lạnh nhất đó dự đoán thấp hơn so với ngày nay khoảng 5-7°C. Băng bắt đầu tan và mực nước biển bắt đầu dâng lên từ khoảng 15.000 năm cách nay. Nhiệt độ Trái đất cũng như đường bờ biển đạt đến mức như bây giờ vào khoảng 10.000 năm cách nay. Tuy nhiên, Trái đất vẫn tiếp tục nóng lên và băng tiếp tục tan, biển vẫn tiến lấn sâu hơn vào so với đường bờ hiện tại. Nhiều bằng chứng thực vật ở Đông Nam Á cho thấy, nhiệt độ trung bình ấm hơn ngày nay chừng 2°C ở khoảng 8.000 năm cách nay, nhưng phải đến khoảng 6.000-5.000 năm cách nay, băng mới ngừng tan và nước biển mới dừng ở độ cao 4-6 m so với mực nước biển ngày nay (biển tiến Flanđri). Các nhà nghiên cứu khảo cổ Việt Nam đã phát hiện nhiều bằng chứng về con người trong lịch sử đã chịu ảnh hưởng của các đợt biển tiến do nhiệt độ Trái đất ấm lên đó. Do mực nước biển dâng cao hơn ngày nay 4-6 m, biển lấn sâu vào lục địa có chỗ tới hàng trăm km. Dấu tích đường bờ biển đương thời xuất lộ ngay ở sát rìa Hà Nội, đến tận sát chân các dãy núi đá vôi thuộc Hà Tây, Ninh Bình, Thanh Hóa và các tỉnh miền Trung. Biển phủ ngập hầu như toàn bộ đồng bằng Nam Bộ. Sau đó, biển đã rút, để lại một đồng bằng phù sa màu mỡ vào khoảng 3800-3500 năm cách nay, tạo điều kiện cho sự xuất hiện nở rộ những làng trồng lúa sớm trong lịch sử Việt Nam. Nhưng đến khoảng 3200 năm, các nhà khảo cổ phát hiện những chứng cứ cư dân đương thời rời chân núi lên cư trú trên các đỉnh núi cao trong các đồng bằng ven biển từ Nghệ An, Thanh Hóa, Ninh Bình ra đến Quảng Ninh. Thức ăn họ để lại trên các chỏm núi đá đó bao gồm nhiều loại nhuyễn thể biển. Điều đó phản ánh một đợt biển tiến có tính đột biến đã diễn ra. Những tài liệu nghiên cứu chi tiết về địa chất học và khảo cổ học còn cho biết, từ đó đến nay, xu hướng chung là biển lùi, song vẫn có một số chu kỳ tiến, lùi với biên độ dao động mực nước biển trên dưới 2-3 m vào khoảng trước 3000 năm, sát trước và sau công nguyên và khoảng 1000 – 2000 năm sau công nguyên đến nay. Những điều trình bày sơ lược trên đây cho thấy, nếu chu kỳ biển tiến, lùi với biên độ thời gian khoảng 800-1000 năm thì hiện tại chúng ta đang ở đoạn cuối của chu kỳ biển tiến hiện đại, không loại trừ tốc độ sẽ nhanh hơn nhiều hoặc có đột biến. Như vậy, mực nước biển dâng đang xảy ra nằm trong chu trình chung của biến động, cộng thêm tác động nhanh do hiệu ứng nhà kính gây ra, làm cho chúng ta phải nhìn nhận vấn đề một cách cảnh giác hơn, chứ không phải ngược lại. Dù nguyên nhân nào thì việc nhận thức được để có kế hoạch ứng phó, vì sự tồn tại và phát triển bền vững cho mỗi quốc gia dân tộc cũng như toàn nhân loại là điều con người có thể và cần phải làm. Trong tình hình biển tiến hiện nay, bà Susmita Dagupta, chuyên gia kinh tế, đồng tác giả của báo cáo “Ảnh hưởng khi mực nước biển tăng lên ở các nước phát triển: Phân tích so sánh” do Ngân hàng Thế giới công bố hồi đầu năm nay cho biết: mực nước biển chỉ cần dâng thêm 1 m thì sẽ gây nên hiểm họa lớn đối với các nước có vùng dân cư và đời sống kinh tế tập trung ở các vùng đồng bằng thấp dọc ven biển. Việt Nam là một trong những nước sẽ bị tác động lớn; khi đó sẽ có đến 10,8% dân số Việt Nam bị tác động nặng nề, do có 2 đồng bằng thấp chủ yếu là đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Về phía Việt Nam, chúng ta thấy gì và nghĩ gì về những hiểm họa này trước thực tế và thực tiễn Việt Nam ? Tôi cho rằng những biến động thời tiết bất thường gây thiệt hại lớn cho đời sống dân cư và đất nước mà chúng ta gọi là thiên tai cần được nghiên cứu, xem xét theo chiều hướng có sự báo động toàn cầu về gia tăng nhiệt độ bề mặt Trái đất và mực nước biển ngày càng dâng cao: nhiệt độ khí quyển và thủy quyển tăng lên kéo theo những biến động khác thường (hiện tượng El Nino) làm cho chế độ thời tiết gió mùa bị xáo động bất thường; bão có xu hướng gia tăng về cường độ, bất thường về thời gian và hướng dịch chuyển; thời tiết mùa đông nói chung ấm lên, mùa hè nóng thêm; xuất hiện bão lũ và khô hạn bất thường. Hiện tượng ngập úng vùng đồng bằng châu thổ mở rộng vào mùa mưa lũ, các dòng sông tăng cường xâm thực ngang gây sạt lở lớn các vùng dân cư tập trung ở 2 bờ trên nhiều khu vực từ Bắc chí Nam. Hiện tượng này cũng đồng thời tạo cồn, bãi bồi, lấp dòng chảy các sông, nhánh sông ở vùng hạ du; ở những sông đã xây dựng hệ thống đê kiên cố thì có hiện tượng bồi lấp ngay chính dòng sông cũng như tuyến khống chế giữa hai bờ đê, tạo nên thế địa hình ngược; những dòng sông nổi cao hơn cả đồng bằng hai bên sông. Vào mùa khô, hiện tượng phổ biến là nước triều tác động ngày càng sâu về phía trung du, hiện tượng nhiễm mặn ngày càng tiến sâu vào lục địa. Ở vùng ven biển, đã thấy rõ hiện tượng vùng ngập triều cửa sông mở rộng hình phễu (hiện tượng estuary) trên những diện rộng, nhất là ở hạ du các hệ thống sông nghèo phù sa. Rõ nhất là vùng hạ du hệ thống sông Thái Bình - Bạch Đằng, ở vùng ven biển Hải Phòng, Quảng Ninh và hệ thống sông Đồng Nai, ở vùng ven biển Bà Rịa - Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Minh. Vào mùa khô, các nhánh sông và dòng sông ở các khu vực này đã không thể đóng vai trò tiêu thoát nước về phía biển, biến thành những dòng sông, kênh tù đọng với mức độ ô nhiễm nhân tạo gây nguy hại cho đời sống của những vùng dân cư đông đảo (thuộc diện này có thể kể đến cả vùng rộng lớn thuộc các lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy, Châu Giang ở phía tây nam Hà Nội và các tỉnh Hà Tây, Hà Nam, Nam Định và Ninh Bình) Hiện tượng sạt lở bờ biển trên nhiều đoạn kéo dài hàng chục, hàng trăm km với tốc độ phá hủy bờ sâu vào đất liền hàng chục, thậm chí hàng trăm mét, là hiện tượng xảy ra thường xuyên trong nhiều năm gần đây, liên quan đến sự tàn phá do gia tăng bão, sóng lớn và sự thay đổi của động lực biển ở đới bờ. Hiện tượng hình thành các cồn cát chắn và tái trầm tích bồi lấp luồng vào các cửa sông, gây trở ngại lớn cho hoạt động vận tải ra vào các cảng biển, khiến cho những công trình nạo vét rất tốn kém đều nhanh chóng bị vô hiệu hóa. TÁC ĐỘNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN THIÊN TAI KHU VỰC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH. 1. Biểu hiện biến đổi khí hậu và thiê tai thành phố HCM. Biến đổi khí hậu được biểu hiện qua nhiệt độ bề mặt trái đất tăng cao, mưa bão diễn biến bất thường theo không gian và thời gian, hạn hán xảy ra cực đoan, mực nước biển dâng cao, dẫn tới nhiều vùng bị ngập lụt, nước mặn xâm nhập tiến sâu vào nội đồng v.v... Hậu quả của tình trạng biến đổi khí hậu là những thảm họa khó lường mà loài người phải đối mặt. Theo kết quả nghiên cứu của Ủy ban Liên Quốc gia về biến đổi khí hậu (IPCC) [1], cùng với những quan trắc các chuỗi số liệu thực đo như nhiệt độ, mưa, triều và mực nước tại khu vực thành phố Hồ Chí Minh và các vùng phụ cận, có thể nhận thấy rằng tại khu vực TP.Hồ Chí Minh trong những năm qua đã có những biểu hiện rõ nét về biến đổi khí hậu và thiên tai bất thường. 1.1. Nhiệt độ tăng cao Các báo cáo của IPCC và nhiều trung tâm nghiên cứu có uy tín hàng đầu trên thế giới công bố, nhiệt độ trung bình trên bề mặt địa cầu ấm lên gần 1°C trong vòng 80 năm (từ 1920 đến 2005) và tăng rất nhanh trong khoảng 25 năm gần đây (từ 1980 đến 2005). Nhiệt độ trái đất tăng lên, không chỉ là nguyên nhân gây ra lũ lụt, hạn hán cục đoan, bão tố v.v… mà còn trực tiếp gây ra nhiều loại bệnh tật, bệnh dịch, làm giảm sức khỏe cộng đồng. 1.2. Mưa thay đổi bất thường Theo Tổ chức Liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) thì sự nóng lên của khí hậu trái đất làm cho mưa trở nên thất thường hơn. Những vùng mưa nhiều, lượng mưa trở nên nhiều hơn, cường độ mưa lớn hơn. Các vùng hạn trở nên hạn hơn. Tần suất và cường độ hiện tượng El Nino tăng đáng kể, gây lũ lụt và hạn hán ở các vùng nhiệt đới và á nhiệt đới. Xu thế biến đổi của lượng mưa không nhất quán giữa các khu vực và các thời kỳ. Tổng lượng mưa năm không tăng nhưng cường độ mưa, thời gian mưa từng cơn đang có xu hướng tăng lên rõ rệt [1]. 1.3. Nước biển dâng. Hệ quả tất yếu của tình trạng bề mặt Trái đất nóng lên là băng tan hai đầu địa cực và trên đỉnh những dãy núi cao, thể tích nước biển giản nở do nhiệt là mực nước biển dâng cao, và như vậy nhiều hòn đảo, nhiều vùng đồng bằng có cao trình thấp ven biển bị chìm ngập. Các số liệu quan trắc mực nước biển ở nhiều nơi trên thế giới cho thấy trong vòng 50-100 năm qua mực nước biển mỗi năm tăng thêm 1,8 mm. Nhưng trong vòng 12 năm gần đây, các số liệu đo đạc của vệ tinh NASA cho thấy xu thế biển dâng đang gia tăng rất nhanh, với tốc độ trung bình khoảng 3 mm/năm. Theo báo cáo của IPCC, đến cuối thế kỷ XXI, nhiệt độ bề mặt Trái đất sẽ tăng thêm từ 1,4 đến 4°C, mực nước biển sẽ dâng thêm khoảng 28-43 cm. Cũng theo tổ chức này, mực nước biển dâng trong tương lai còn phụ thuộc vào cách ứng xử của con người đối với thiên nhiên đối với mức độ xả thải khí nhà kính [1]. Ở nước ta theo tài liệu thực đo mực nước biển tại Vũng Tàu từ năm 1980 tới nay cho thấy, mực nước biển lớn nhất năm đang có xu hướng tăng cao trong những năm gần đây. Tương quan mực nước đỉnh triều thể hiện ở hình 8 chỉ rõ, mực nước biển tại Vũng Tàu tăng từ 0,2-0,6 cm mỗi năm. Mực nước triều tăng cao là nhân tố chính làm gia tăng mực nước trong khu vực thành phố Hồ Chí Minh. Mực nước tại Phú An đang có sự gia tăng đột biến trong những năm gần đây. Theo tài liệu thực đo cho thấy mực nước đỉnh triều tại Phú An tăng lên khoảng 0,3-0,8 cm một năm. Như vậy, mực nước này tăng nhanh hơn mực nước triều trạm Vũng Tàu, điều này còn có thể giải thích do tốc độ san lấp mặt bằng để xây dựng các đô thị mới làm giảm các khu trữ, vì thế thủy triều tiến nhanh hơn, đạt đỉnh xa hơn, thời gian duy trì mực nước triều cao lâu hơn. Tình trạng nước biển dâng ở khu vực thành phố Hồ Chí Minh trong những năm qua đã gây nên những khó khăn lớn cho sinh hoạt, kìm hãm tốc độ phát triển kinh tế xã hội. Nhiều vùng trong thành phố bị ngập vào những ngày triều cường. Hàng trăm cống thoát nước thành phố nằm sâu dưới mực nước triều, làm giảm năng lực tiêu thoát nước. Vào thời điểm triều lớn gặp mưa kéo dài thành phố gần như bị tê liệt, nhiều đường phố bị ngập lâu, ngập sâu, lan truyền ô nhiễm rất đáng báo động.  Hình 11: Triều cường gây ngập đường thành phố Mực nước biển dâng không chỉ gây ngập thành phố nhiều hơn, nặng hơn mà còn làm cho lưu lượng trên các sông kênh tăng lên, vận tốc dòng chảy thay đổi gây xói lở, bồi lắng khó kiểm soát. Hình 15 thể hiện hình ảnh sạt lở bờ song Sài Gòn khu vực thành phố Hồ Chí Minh và biểu đồ vận tốc dòng chảy tại Phú An, ứng với các kịch bản hiện trạng, khi nước biển dâng thêm 0,5 m và 1,0 m. Khi mực nước biển dâng cao, danh giới mặn trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh cũng có sự thay đổi, gây khó khăn cho sản xuất và đời sống. Kết quả tính toán xâm nhập mặn mùa khô năm 2005 (mặn ảnh hưởng lớn nhất tới thành phố Hồ Chí Minh), với kịch bản hiện trạng, độ mặn tại Phú An đạt 8 g/l, kịch bản nước biển dâng thêm 50 cm, độ mặn tương ứng đạt 9 g/l và khi mực nước biển tăng cao 100 cm, độ mặn là 10,3 g/l. Ranh giới mặn 4 g/l (giới hạn trên của lúa chịu mặn) cũng tiến sâu hơn. Khi mực nước triều tăng lên 50 cm ranh giới mặn 4g/l trên sông Sài Gòn tiến sâu hơn 3,5 km và trên sông Đồng Nai vào sâu hơn 2,0 km. Khi mực nước triều tăng lên 100 cm ranh giới mặn 4 g/l trên sông Sài Gòn tiến sâu hơn 8,0 km và trên sông Đồng Nai vào sâu hơn 4,8 km. Ranh giới mặn 0,25 g/l (tiêu chuẩn cấp nước cho sinh hoạt) cũng tiến sâu hơn. Khi mực nước triều tăng lên 50 cm ranh giới mặn 0,25g/l trên sông Sài Gòn tiến sâu hơn 1,5 km và trên sông Đồng Nai vào sâu hơn 0,8 km. Khi mực nước triều tăng lên 100 cm ranh giới mặn 0,25 g/l trên sông Sài Gòn tiến sâu hơn 3,5 km và trên sông Đồng Nai vào sâu hơn 1,8 km.  Hình 16: Ranh giới mặn hiện trạng năm 2005  Hình17: Ranh giới mặn năm 2005 khi mực nước triều dâng cao 50 cm  Hình 18: Ranh giới mặn năm 2005 khi mực nước triều dâng cao 100 cm Biến đổi khí hậu dẫn tới nước biển dâng sẽ là nguyên nhân làm thay đổi hệ sinh thái rừng ngập mặn Cần Giờ. Đây là vấn đề rất cần được các nhà khoa học và các cấp lãnh đạo quan tâm. 1.4. Gió Bão. Biến đổi khí hậu toàn cầu, dẫn tới trái đất nóng dần lên, nhiệt độ bề mặt Đại Dương tăng lên và phân bố theo quy luật trước đây và như vậy gió bão sẽ xảy khó lường. Biểu hiện bất thường của gió bão trong những năm qua là đã xảy ra những trận bão lớn tràn vào vùng đất Nam Bộ. Đây chính là nguy cơ dẫn tới những thiệt hai lớn đối với thành phố Hồ Chí Minh, nơi ngường dân chưa có kinh nghiệm tránh bão, nơi có nhiều nhà ổ chuột, nhiều nhà mỏng manh, không có khả năng đứng vững trước nhưng cơn bão nhỏ. 2. Giải pháp để thích ứng với biến đổi khí hậu. Để giảm thiểu thiệt hại do những tác động bất lợi do biến đổi khi hậu gây ra cho thành phố Hồ Chí Minh, thì chúng ta cần tiến hành một số giải pháp chính sau: - Giáo dục cộng đồng giảm thiểu phát thải khí nhà kính; - Đổi mới, hiện đại hóa trạng thiết bị đảm bảo tiêu chuẩn xả khí thải; - Rà soát lại tiêu chuẩn, tần suất thiết kế các công trình, đảm bảo làm việc an toàn trước tình trạng biến đổi khí hậu; - Xây dựng quy trình vận hành liên hồ chứa các nhà máy thủy điện và công trình thủy lợi phía thượng nguồn; - Nhanh chóng thực hiện dự án chống ngập cho thành phố Hồ Chí Minh, do Bộ Nông nghiệp & PTNT đề xuất; - Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đối với đa dạng sinh học đặc biệt là hệ sinh thái rừng ngập mặn, ngập nước khu dự trữ sinh quyển của Thế giới Cần Giờ, trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp bảo tồn và thích ứng. - Cần chuẩn bị nguồn nhân tài vật lực để có đủ khả năng bị đối phó và thích ứng với biển đổi khí hậu trong khu vực. - Thực hiện phong trào phủ xanh đất trống để giảm khí thải. V. DU LỊCH LIÊN QUAN ĐẾN TÌNH TRẠNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU. Tình trạng nóng lên trên toàn cầu đang có nguy cơ ảnh hưởng nặng nề đến hoạt động du lịch, và một số địa chỉ du lịch hấp dẫn rất có khả năng sẽ bị ngập dưới nước biển do hiện tượng băng tan khiến nước biển dâng lên. Tuy nhiên, theo Giám đốc Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) Achim Steiner, ngành công nghiệp du lịch vừa là đối tượng bị ảnh hưởng bởi tình trạng biến đổi khí hậu, vừa là tác nhân góp phần làm tăng lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Theo báo cáo của Tổ chức Du lịch Thế giới, việc vận chuyển và một số hoạt động khác liên quan đến du lịch hiện chiếm từ 4 đến 6% lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính toàn cầu. Nếu không có biện pháp ngăn chặn, tác động của du lịch đối với tình trạng biến đổi khí hậu sẽ tăng gấp đôi trong vòng 30 năm tới, và các vùng bờ biển, các khu du lịch trên vùng núi cũng như các khu bảo tồn thiên nhiên sẽ bị ảnh hưởng nặng nề. Du lịch sinh thái đã và đang là sự lựa chọn, là niềm đam mê của nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Vì vậy, phát triển du lịch sinh thái là tất yếu. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề cần quan tâm về loại hình du lịch này. Cái nắng hanh hao, gió vàng, cát trắng... từ bao đời vốn là “đặc sản” của thiên nhiên miền Trung. Nằm ở phần địa đầu dải đất ấy, Thanh Hóa một mặt phải sống chung cùng sự “đỏng đảnh” của thời tiết, mặt khác vùng đất này lại được thiên nhiên ưu ái hơn khi dành tặng một loạt “công trình” mà chỉ có bàn tay sắp đặt của tạo hóa mới trở nên sống động, hài hòa đến vậy. Đó là Sầm Sơn, Hải Hòa, Hải Tiến... vùng ven biển; là Bến En, Cẩm Lương, Pù Luông, Pù Hu, Cửa Đạt, Lam Kinh... vùng trung du miền núi. Dựa trên sự sắp đặt ấy, loại hình du lịch sinh thái cũng tập trung phát triển ở hai địa bàn: Trung du miền núi và vùng biển. Du lịch sinh thái biển  gắn liền với các loại hình dịch vụ, du lịch biển như lưu trú, nghỉ ngơi, tắm biển, bơi lặn, chèo thuyền, lướt ván, tìm hiểu văn hóa, ẩm thực, hệ động thực vật biển... So với các vùng biển khác trong tỉnh, Sầm Sơn  cơ bản đáp ứng nhu cầu của loại hình du lịch này. Sầm Sơn ví như chim đại bàng mà ức của nó là dãy Trường Lệ hướng ra biển Đông, cánh phía bắc bắt đầu từ đền Cô Tiên trở về Quảng Cư, còn cánh phía nam là một dải biển thuộc Quảng Xương. Mùa du lịch, trong khi phía bắc đang thả sức sải cánh bay, thì phía nam vẫn “ngủ quên” im lìm trong tiếng phi lao và sóng biển. Bởi đôi cánh vẫn chưa thật khỏe, chưa thật đều nên đại bàng vẫn chưa thể cất mình bay cao, bay xa như nó muốn, như chúng ta vẫn chờ đợi. Đó là chưa kể bản thân cánh phía bắc của nó cũng còn không ít khiếm khuyết, ví như  những vấn đề về xúc tiến đầu tư, quy hoạch đô thị, quy hoạch bãi tắm, vệ sinh môi trường, cải tạo nước biển... Nối liền với Sầm Sơn là vùng biển Hải Tiến (Hoằng Hóa). Biển Hải Tiến đa phần còn nằm ở trạng thái khá nguyên sơ, núi chắn nước, nước ôm chân núi, bờ biển chạy dài qua một loạt các xã ven biển. Nếu Khu du lịch Hải Tiến đi đúng quy hoạch và tiến độ thì đây sẽ là nơi san sẻ cho Sầm Sơn nhiều gánh nặng, đồng thời trở thành một trong những trọng điểm du lịch  của tỉnh và cả nước. Nằm ở phía nam Thanh Hóa, biển Hải Hòa (Tĩnh Gia) có lợi thế hơn nhiều vùng biển khác bởi trong thời gian tới nó sẽ là đầu mối đón Khu đô thị mới Nghi Sơn. Biển Hải Hòa đúng như tên gọi của nó: vẻ đẹp hài hòa của hệ sinh thái chưa chịu nhiều tác động từ bàn tay con người. Khác với du lịch sinh thái biển thiên về vui chơi, nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái rừng hồ (Bến En, Cửa Đạt), sinh thái văn hóa (suối cá Cẩm Lương, quần thể di tích Lam Kinh) hay văn hóa sinh thái cộng đồng (đang bước đầu triển khai tại Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, Pù Hu) có phần thiên về khám phá, tìm hiểu. Hãy bắt đầu cuộc hành trình từ Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Luông (nằm trên địa bàn 2 huyện Quan Hóa, Bá Thước). Sự phong phú, đa dạng của thảm thực vật và hệ động vật với hàng nghìn loài, trong đó có nhiều loài quý hiếm, đặc hữu ít thấy trong các khu bảo tồn khác là thế mạnh lớn nhất tạo nên sức hút những du khách ưa tìm hiểu, gần gũi với thiên nhiên. Giữa khí hậu trong lành, mát mẻ hòa trong cái hoang sơ, kỳ vĩ của cảnh vật, hãy tưởng tượng buổi sớm mở cửa ra ta có thể đón tất cả khí trời vào lồng ngực hay thả mình trôi trong đêm hội rượu cần để men say lẫn vào câu khặp, điệu xòe của cô gái Thái... Xuôi về Cẩm Lương (Cẩm Thủy) vào Suối Cá thần - thắng tích có một không hai trong nước hay ngược sang Bến En (Như Thanh) tham quan quần thể hơn 20 đảo “trôi nổi” giữa hơn 4.000 ha mặt nước  và các hang động còn dấu tích của những năm tháng chiến tranh ác liệt... Với hệ thống các danh thắng, hang động, thác nước tương đối lớn chưa được khai thác như một điểm du lịch sinh thái do điều kiện giao thông, hạ tầng du lịch còn nhiều bất cập, có thể nói tiềm năng của loại hình du lịch sinh thái ở Thanh Hóa là rất lớn. Nhưng có lẽ tạm gác lại những điểm thắng tích còn ở dạng “tiềm tàng” này, vấn đề cần quan  tâm là hiệu quả khai thác cần phải song hành với tiềm năng từ các điểm du lịch đã có trong “Sổ tay” của du khách vừa điểm qua. Mỗi năm Thanh Hóa đón hàng triệu khách du lịch nhưng đa số tập trung ở Sầm Sơn vào mùa hè. Bản thân đô thị du lịch này cũng chỉ thỏa mãn được một phần nhu cầu nghỉ ngơi, vui chơi của du khách. Nhiều dự án xây dựng hạ tầng du lịch đang “tạm gác” không thời hạn do vô số lý do mà Khu du lịch Hải Tiến là một ví dụ. Các điểm du lịch sinh thái rõ ràng có rất nhiều lợi thế về tính độc đáo, đẹp, đa dạng, có sức hút đối với du khách nhưng khách tham quan tìm đến khá khiêm tốn... Đó là thực trạng ngành du lịch đang phải đối mặt. Lý giải cho thực trạng ấy có hàng chục lý do lớn nhỏ. Đó là kiến thức và năng lực quản lý du lịch của các ban quản lý cấp huyện, xã và đội ngũ cán bộ chuyên trách còn hết sức hạn chế. Điều này tất yếu dẫn đến nhiều hiện tượng hay cách làm khiến du khách chưa thật hài lòng mỗi mùa du lịch. Chẳng hạn việc đặt quá nhiều trạm thu phí ở suối cá Cẩm Lương chưa hẳn là cách làm phù hợp. Thay vì để một đơn vị vừa quản lý bảo dưỡng, vừa khai thác cầu treo để thuận cho việc giám sát và điều tiết lượng vé bán ra cho phù hợp thì việc giao cho một đơn vị quản lý, một đơn vị khai thác như hiện nay đã dẫn đến tình trạng ùn tắc hàng giờ trên cầu, gây không ít khó chịu cho du khách. Việc lồng ghép các chính sách phát triển toàn diện có sự phối hợp giữa các ngành du lịch, quốc phòng, nông - lâm nghiệp thực hiện chưa tốt dễ dẫn đến chồng chéo, lãng phí trong quản lý, khai thác tại các điểm du lịch. Ngành du lịch hiện vẫn thiếu một doanh nghiệp đủ lực làm đầu tầu trong lĩnh vực kinh doanh du lịch, tạo tiền đề cho du lịch phát triển theo hướng xã hội hóa, bởi vẫn chưa có chính sách ưu đãi nhằm khuyến khích đầu tư cho du lịch... Với mục đích tạo “cú hích” thu hút khách du lịch đến Thanh Hóa, Chủ tịch UBND tỉnh đã ra Quyết định 311/QĐ-UBND ngày 4-2-2009 về việc “Phê duyệt danh mục các chương trình xúc tiến du lịch năm 2009” gồm 9 nội dung: Tổ chức sự kiện, hội chợ, quảng bá, thay mới các panô, xuất bản ấn phẩm về du lịch Thanh Hóa, nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, khảo sát thị trường, tổ chức “Trung tâm thông tin du lịch tại Sầm Sơn” và nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp, đào tạo nguồn nhân lực. Với việc thực hiện quyết định trên, du khách và người quan tâm có thể hi vọng nhìn thấy một diện mạo mới của du lịch tỉnh nhà. VI. TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐỐI VỚI BÀ RỊA- VŨNG TÀU 1.Giới thiệu chung Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề của BĐKH. Biến đổi khí hậu (BĐKH) là sự biến động trạng thái trung bình của khí quyển toàn cầu hay khu vực theo thời gian từ vài thập kỷ đến hàng triệu năm (IPCC,2007 [6]).. Những biến đổi này được gây ra do quá trình động lực của trái đất, bức xạ mặt trời, và gần đây có thêm hoạt động của con người. BĐKH trong thời gian thế kỷ 20 đến nay được gây ra chủ yếu do con người, do vậy thuật ngữ BĐKH (hoặc còn được gọi là sự ấm lên toàn cầu-global warming) được coi là đồng nghĩa với BĐKH hiện đai.  Những nghiên cứu gần đây cho thấy việc phát xả khí nhà kính (chủ yếu là CO2 và Metan CH4) là nguyên nhân hàng đầu của BĐKH, đặc biệt kể từ 1950 khi thế giới đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa và tiêu dùng, liên quan với điều đó là sự tăng cường sử dụng nhiên liệu hóa thạch như than đá, dầu mỏ, sản xuất xi măng, phá rừng và gia tăng chăn nuôi đại gia súc (phát xả nhiều phân gia súc tạo ra nguồn tăng Metan), khai hoang các vùng đất ngập nước chứa than bùn.. Bà Rịa- Vũng Tàu cũng không tránh khỏi sự đe dọa của BĐKH. Để có thể xây dựng Định hướng chiến lược phát triển bền vững BR-VT đến 2020, những dự báo tác động của BĐKH là việc làm bức xúc. Mặc dù vậy, những dự báo dưới đây chưa thể có độ chính xác cao mà chỉ mang tính nhận diện vấn đề. Để dự báo tốt cần triển khai đề tài nghiên cứu đánh giá thích hợp. 2. BĐKH ở Việt Nam – cơ sở của dự báo đối với BR-VT Một số phác thảo kịch bản BĐKH ở Việt Nam đã được công bố tại Hội thảo BĐKH toàn cầu và giải pháp ứng phó của Việt Nam tại Hà Nôi tháng 2/2008, được trình bày tóm tắt dưới đây. Bảng 1.Thông báo Quốc gia về Biến đổi khí hậu ở Việt Nam (so với năm 1990) Năm  Nhiệt độ tăng thêm(0C)  Mực nước biển tăng thêm (cm)   2010  0,3-0,5  9   2050  1,1-1,8  33   2100  1,5-2,5  45   Nguồn: Nguyễn Khắc Hiếu, 2008 [1]. Chú ý rằng số liệu trên chưa tính đến tính ì của khí hậu và đặc điểm sụt hạ địa chất địa phương Bảng 2.Kịch bản BĐKH các vùng của Việt Nam (nhiệt độ tăng thêm 0C so với năm 1990) Năm  Tây Bắc  Đông Bắc  Đồng bằng BB  Bắc Trung Bộ  Nam Trung Bộ  Tây nguyên  Nam Bộ   2050  1,41  1,66  1,44  1,68  1,13  1,01  1,21   2100  3,49  4,38  3,71  3,88  2,77  2,39  2,80   Nguồn:Nguyễn Khắc Hiếu, 2008 [1]. Bảng 3. Kịch bản nước biển dâng ở Việt Nam so với năm 1990 Kịch bản / năm  2050  2100   A1F1  13,7  39,7   A2  12,5  33,1   A1B  13,3  31,5   B2  12,8  28,8   A1T  12,7  27,9   B1  13,4  26,9   Nguồn: Nguyễn Khắc Hiếu, 2008 [1] chú ý số liệu chưa tính đến biên độ sụt hạ địa chất địa phương Tính trung bình của cả 6 kịch bản thì đến cuối thế kỷ 21 nhiệt đô có khả năng tăng thêm 2,80C, mực nước biển dâng cao thêm 37cm chưa tính đến sự tan băng mà chỉ tính đến sự dãn nở nước đại dương.IPCC cũng dự báo rằng cuối thế kỷ 21 mực nước biển có thể tăng thêm tối đa 81 cm [6]. Tuy nhiên các nhà khoa học Anh cho rằng con số đó chưa phản ánh đúng, nước biển cuối thế kỷ 21 có thể tăng thêm đến 163 cm- tức là gấp đôi số liệu dự báo của IPCC. Xu thế chung của BĐKH ở Việt Nam: Nhiệt độ ở các vùng phía Bắc tăng nhanh hơn các vùng phía Nam Nhiệt độ ở các vùng ven biển tăng chậm hơn các vùng sâu hơn trong lục địa Đến cuối thế kỷ 21 nhiệt độ có thể tăng thêm từ 4,0 đến 4,50C theo kịch bản cao nhất và 2,0 đến 2,20C theo kịch bản thấp nhất Biên độ dâng cao mực nước biển ở nước ta là khá lớn theo tất cả các kịch bản, măc dù vậy vẫn chỉ là tương đương hoặc thấp hơn chút ít so với dự báo của IPCC năm 2007  - BĐKH kéo theo hiện tượng El Nino, làm giảm đến 20-25% lượng mưa ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên, gây ra hạn hán không chỉ phổ biến và kéo dài mà thậm chí còn gây khô hạn thời đoạn ngay trong thời gian El Nino. Tác động này ở Nam Trung Bộ lớn hơn Bắc Trung Bộ, Bắc Tây Nguyên lớn hơn Nam Tây Nguyên[5]. Những nhận định trên đây là cơ sở để nhận diện một số tác động của BĐKH đối với Bà Rịa - Vũng tàu 3. Phác thảo tác động của BĐKH đối với tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu Chuyển sang trạng thái bán khô hạn và các hệ lụy Tăng nhiệt độ đến 2,80C, khô hạn hóa là những cảnh báo có nhiều tin cậy đối với tỉnh nhà. Điều này cũng đã được Nguyễn Đình Hòe và Đặng Đình Long phân tích gần đây [4].Trên cơ sở phân tích chuỗi số liệu mưa và bốc hơi hơn 30 năm qua, cũng như sự xuất hiện cảnh quan bán khô hạn ở một số vùng trong tỉnh, các tác giả này chứng minh BR-VT đã chớm chuyển sang trạng thái bán khô hạn. BR-VT là tỉnh thuộc loại cực kỳ thiếu nước. Nếu tính theo chuẩn cấp nước cho các nhu cầu sinh hoạt và sản xuât 2500 m3/người/năm là bền vững thì khả năng cung cấp của nguồn tài nguyên nước BR-VT hiện nay chỉ đạt 35,7%. Xu thế bán khô hạn sẽ tiếp tục gia tăng do BĐKH. Khô hạn và sự thiếu hụt nguồn nước sẽ làm năng suất nông nghiệp giảm sút. Nhiều loại dịch bệnh cây trồng của vùng khí hậu nóng Tây Nam Bộ sẽ có khả năng xâm lấn vào tỉnh (rầy trắng, vàng lùn-lùn xoắn lá…); các giống cây trồng ưa nước sẽ không cho năng suất và bị các loài ưa khô hạn thay thế, dẫn đến khủng hoảng các hệ sinh thái nông nghiệp bản địa. Xu thế này tất yếu dẫn đến việc nông dân lạm dụng phân bón hóa học và hóa chất bảo vệ thực vật, làm cho đất bị suy thoái và chất lượng nông sản không cao. Bọ dừa Brontispa sp.vốn ưa mùa khô ở các tỉnh Nam Bộ có nhiều cơ hội tấn công và làm mất năng suất dừa của BR-VT. Thiếu hụt nguồn nước cho sản xuất và sinh hoạt dẫn đến việc khai thác quá mức và không thể kiểm soát môi trường của việc khai thác nước ngầm. Hiện tượng nhiễm mặn và ô nhiễm nước ngầm gia tăng. Mỏ nước ngầm Bà Rịa- nguồn cung cấp nước chủ yếu hiện nay của tỉnh vốn nằm ngay sát biên mặn (1mg/lit), có nhiều khả năng bị nhiễm mặn và tiến tới mất khả năng cấp nước.Thiếu nước sinh hoạt dẫn đến nhiều loại bệnh mới có khả năng phát triển như tiêu chảy, thương hàn, bệnh ngoài da do phải sử dụng nước không đảm bảo chất lượng. Tuy nhiên các bệnh liên quan đến muỗi như sốt rét, sốt xuất huyết là những dịch bệnh chủ yếu hiện nay có thể giảm bớt. . Những thách thức ở vùng bờ Dâng cao mực nước biển với biên độ như được trình bày ở bảng 2&3 là một thảm hoạ đối với vùng bờ BR-VT. Phần đất liền vùng bờ có tổng diện tích 720,04 km2, chiếm 36,46% diện tích toàn tỉnh (1975,14 km2); Dân số của vùng bờ chiếm khoảng 55% dân số toàn tỉnh; Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 13,66‰; Tổng giá trị kinh tế vùng bờ năm 2003 chiếm khoảng 64% giá trị kinh tế toàn tỉnh không kể dầu khí.[8]. Sự tẩy trắng san hô xuất hiện rải rác có thể do ô nhiễm môi trường hoặc khai thác sinh vật rạn quá mức, tuy nhiên sự ấm lên của khí hậu đi kèm các hiện tượng Enso làm nước biển tăng nhiệt độ nhanh, kèm theo là sự suy thoái tầng Ozon làm gia tăng bức xạ cực tím xuống mặt đất và axit hoá nước biển do nồng độ cao của khí CO2 - loại khí chủ yếu gây ra hiệu ứng nhà kính là nguyên nhân chính của việc xuất hiện hiện tượng tẩy trắng san hô trên quy mô rộng. Nhiều nhà khoa học cảnh báo nếu con người không hành động gấp để kiểm soát biến đổi khí hậu thì đến khoảng 2050 san hô sẽ bị huỷ diệt trên quy mô toàn cầu [7]. Điều đó thực sự là một thảm hoạ, vì nếu không còn san hô thì nguồn lợi thủy sản – thế mạnh của tỉnh nhà và đồng thời là nguồn sống của hàng vạn dân BR-VT sẽ bị khủng hoảng nghiêm trọng. Xói lở bờ biển và nguy cơ ngập chìm vùng đất thấp ven bờ là một đe dọa nguy hiểm. Theo kịch bản dâng cao mực nước biển Việt Nam (bảng 1), đến 2050 nước biển sẽ dâng cao thêm 33 cm, theo quy luật động lực sóng, chiều rộng bãi biển cát bị xói lở sẽ là 330 m- 3300 m, có nghĩa là một phần lớn dải đất thấp ven bờ phía Đông của tỉnh- nơi tập trung cơ sở hạ tầng du lịch và nghề nuôi trồng và chế biến thủy sản, nơi cư trú của hàng vạn hộ gia đình sẽ bị sóng phá hủy[2]. Tình trạng còn có thể nguy hiểm hơn nếu mực nước biển dâng cao thêm 1,0m theo dự báo của các nhà khoa học Anh. Vùng đất thấp dọc sông Thị Vải, nơi tập trung các khu công nghiệp của tỉnh thậm chí còn bị đe dọa trầm trọng hơn vì định vị trên vùng sụt hạ địa chất. Những thành công trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo của tỉnh nhà có thể bị BĐKH làm sút giảm, thậm chí có thể xóa sạch. Hơn thế nữa, việc di dân tái định cư cho hàng vạn hộ gia đình là thách thức lớn không chỉ về quỹ đất lúc đó đã trở nên hạn hẹp, kinh phí lớn mà còn làm xáo trộn sinh kế của khoảng 50% dân số cả tỉnh đang cư trú ở vùng bờ, không ít trong số đó lại tái nghèo.  Ảnh vệ tinh chup nghiêng tỉnh BR-VT cho thấy thành phố Vũng Tàu và vùng công nghiệp dọc sông Thị Vải sẽ có nguy cơ chìm ngập dưới tác động của mực nước biển dâng cao. (Nguồn Google Earth, 2008) Biến đổi khí hậu không chỉ là thách thức mà còn là cơ hội Đó là theo đuổi một lộ trình tăng trưởng kinh tế cacbon thấp nhờ chuyển giao công nghệ, sử dụng các cơ chế tài chính sáng tạo như CDM (cơ chế phát triển sạch), bán quyền phát thải khí nhà kính cho các nước công nghiệp phát triển, tìm kiếm tài trợ quốc tế cho các chương trình bảo vệ và phát triển rừng…BĐKH còn là cơ hội cho kinh tế biển phát triển nếu có quy hoạch đúng đắn (vận tải biển, dịch vụ hàng hải, du lịch biển…) 4. Định hướng chung trong ứng phó với BĐKH ở Bà Rịa- Vũng Tàu Phần lớn các địa phương ở nước ta, nhất là các tỉnh ven biển trong đó có BR-VTchưa nhận diện đầy đủ mối đe doạ của biến đổi khí hậu. Biến đổi khí hậu chưa thực sự được tính toán và lồng ghép vào các quy hoạch phát triển của tỉnh cũng như của các ngành, các địa phương có khả năng chịu ảnh hưởng nặng nề. Các quy hoạch ngành và địa phương vẫn tiếp tục đổ tiền của ra vùng đất thấp ven bờ, các khu đô thị mới, khu công nghiệp vẫn tiếp tục được đổ đất lấn biển mà không có quy hoạch thích hợp. Những ngành nhạy cảm và có nguy cơ chịu thiệt hại nặng nề do biến đổi khí hậu như nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản mặn - lợ, du lịch biển, công nghiệp, đô thị vùng bờ chưa tính kỹ tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu. Những tác động tiêu cực cấp 2 như nghèo đói gia tăng, tị nạn môi trường trên diện rộng, xung đột tranh chấp tài nguyên và đất sống, xung đột sinh thái cũng chưa

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBiến đổi khí hậu và du lịch sinh thái biển vũng tàu.doc
Luận văn liên quan