1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam hiện nay, Đảng và Nhà nước ta coi giáo dục (GD) là quốc sách hàng đầu, là khâu đột phá của giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để thực hiện tốt Nghị quyết 40/2000/QH X tạo ra sự chuyển biến quan trọng về chất lượng và hiệu quả GD, đáp ứng yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài trong giai đoạn hiện nay.
Đã từ lâu hoạt động dạy học nói chung, hoạt động dạy học môn lịch sử nói riêng đã bị phê phán, đó là hoạt động dạy học theo lối truyền thụ một chiều, áp đặt tạo cho người học cách học bị động, hạn chế việc phát triển các phẩm chất linh hoạt, độc lập sáng tạo của tư duy, khả năng ứng dụng những kiến thức và kỹ năng thu nhận được áp dụng vào thực tiễn. Dẫn đến kết quả thi tốt nghiệp THPT, điểm thi vào đại học môn lịch sử còn thấp.
Vì lẽ đó, đổi mới hoạt động dạy học môn lịch sử là điều hết sức cần thiết cùng với đổi mới mục tiêu, nội dung chương trình sách giáo khoa, đổi mới cách kiểm tra đánh giá.
Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn lịch sử tại Trường trung học phổ thông Mỹ Đức B – Hà Nội ”
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn lịch sử tại Trường THPT Mỹ Đức B – TP Hà Nội, nhằm nâng cao chất lượng dạy học đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục THPT hiện nay.
3. Khách thể nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý chỉ đạo dạy và học môn lịch sử tại Trường THPT Mỹ Đức B – TP Hà Nội
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp quản lý chỉ đạo hoạt động dạy học môn lịch sử của HT và cán bộ quản lý Trường THPT Mỹ Đức B – TP Hà Nội.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu có những biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn lịch sử thích hợp, đồng bộ phù hợp được xác định trong đề tài nghiên cứu này thì hiệu quả hoạt động dạy học sẽ được nâng cao, đối với môn lịch sử.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác quản lý của HT đối với hoạt động dạy học ở trường THPT.
5.2. Khảo sát thực trạng hoạt động dạy học và thực trạng quản lí hoạt động dạy học môn lịch sử ở Trường THPT Mỹ Đức B – TP Hà Nội .
5.3. Đề xuất các biện pháp quản lý chỉ đạo hoạt động dạy học môn lịch sử ở Trường THPT Mỹ Đức B – TP Hà Nội, theo hình thức và phương pháp mới.
5.4. Khảo sát tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp đã đề xuất.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu các biện pháp quản lý chỉ đạo hoạt động dạy học môn lịch sử của HT và cán bộ quản lý Trường THPT Mỹ Đức B – Hà Nội.
Giới hạn địa bàn khảo sát: Khảo sát tại Trường THPT Mỹ Đức B – Hà Nội.
7. Đóng góp của luận văn
7.1. Về lý luận
Hệ thống hoá các tri thức về quản lý hoạt động dạy học và xác định các biện pháp quản lý chỉ đạo hoạt động dạy học môn lịch sử.
7.2. Về thực tiễn
Góp phần nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động dạy học môn lịch sử, nhằm nâng cao chất lượng dạy và học đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục THPT hiện nay.
8. Phương pháp nghiên cứu
8.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
8.2. các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
8.2.1. Phương pháp quan sát sư phạm
8.2.2. Phương pháp điều tra viết
8.2.3. Phương pháp chuyên gia
8.3 Phương pháp thống kê
9. Cấu trúc của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của công tác quản lý dạy học ở các trường THPT.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý dạy học môn lịch sử tại Trường THPT Mỹ Đức B – Hà nội
Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn lịch sử tại trường Trung học phổ thông Mỹ Đức B – Hà Nội.
124 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3882 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn lịch sử tại trường trung học phổ thông Mỹ Đức B – Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thi tuyển.
Tổ chức thành lập đội tuyển học sinh giỏi và học sinh phụ đạo.
Họp thống nhất giữa nhà trường và cha mẹ học sinh, thông báo cho cha mẹ học sinh biết kết quả thực tế của con em mình để từ đó có sự thống nhất cao trong việc tạo điều kiện để các em học tập vươn lên.
Chuẩn bị các điều kiện về cơ sở vật chất phục vụ cho việc thực hiện kế hoạch: phòng học, bàn ghế, kinh phí...
Lựa chọn các giáo viên có trình độ vững vàng, có kinh nghiệm trong giảng dạy và giáo dục, có tinh thần trách nhiệm cao.
* Chỉ đạo
Tổ, nhóm chuyên môn xây dựng nội dung chương trình bồi dưỡng học sinh giỏi và phụ đạo học sinh yếu từng kỳ, đợt...
Tổ chức thành các lớp học, nhóm học với số lượng học sinh thích hợp. Lớp học sinh giỏi bộ môn không quá 20 học sinh, lớp phụ đạo học sinh yếu không quá 40 em.
Phối hợp chặt chẽ giữa GVCN lớp và GVBM, tổ chuyên môn phát động phong trào thi đua học tập trong các lớp học sinh.
Giáo viên báo cáo kết quả chất lượng học tập của học sinh qua các kỳ kiểm tra 45 phút, học kỳ, tổng hợp đánh giá nhận xét, rút kinh nghiệm và nêu phương hướng biện pháp cho kỳ sau.
Xây dựng quỹ khuyến học, khuyến tài, quỹ tình thương...
* Kiểm tra đánh giá
Dự giờ thăm lớp để thường xuyên nắm bắt được tình hình; phương pháp dạy của thầy, cách học tập của học sinh, rút kinh nghiệm, trao đổi chuyên đề trong tổ nhóm chuyên môn nhất là kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi.
Thường xuyên kiểm tra nắm bắt các điểm yếu ở các lớp để có kế hoạch chỉ đạo nội dung phụ đạo, bồi dưỡng các môn học, xắp sếp thời gian biểu cho đội tuyển, lớp phụ đạo các môn học hợp lý, đảm bảo thời gian cho học sinh tự học ở nhà.
Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh theo từng đợt, từng học kỳ dưới hình thức thi tuyển, sát hạch với đội tuyển học sinh giỏi, đảm bảo nghiêm túc, công khai, chính xác, phải xác định được rõ rằng học sinh có năng khiếu về môn học nào, môn nào dự thi có thể đạt giải.
3) Điều kiện thực hiện.
Đầu tư tài liệu, sách tham khảo, sách giáo khoa cho giáo viên và học sinh, bồi dưỡng đúng mức giáo viên làm nhiệm vụ. Giáo viên phải nhiệt tình, có năng lực chuyên môn để bồi dưỡng và phụ đạo học sinh có kết quả.
Phụ huynh tạo điều kiện về tài chính, thời gian, trang bị cho các em học sinh những dụng cụ học tập cần thiết để các em học tập được thuận lợi.
3.2.4.3. Tăng cường, bổ sung các hình thức học ngoài nhà trường đối với môn lịch sử, qua các cuộc thi tìm hiểu lịch sử, hoạt động ngoại khoá, thăm quan di tích lịch sử.
1) Mục tiêu.
Thông qua các hoạt động ngoài giờ và ngoài nhà trường như thi tìm hiểu lịch sử qua các cuộc thi học sinh tài năng do đoàn trường tổ chức, hoạt động ngoại khoá của môn lịch sử, tổ chức cho học sinh đi thăm quan các di tích lịch sử để học sinh bổ sung kiến thức lịch sử và yêu thích môn lịch sử để học sinh học lịch sử đạt kết quả cao.
2) Nội dung và biện pháp thực hiện.
* Lập kế hoạch
Trong kế hoạch đầu năm của tổ chuyên môn, Đoàn trường và nhà trường cần phải có nội dung “Tổ chức thi học sinh tài năng, lịch hoạt động ngoại khoá, lịch cho học sinh thăm quan di tích lịch sử”để giáo viên xây dựng kế hoạch thực hiện cho phù hợp.
Lên kế hoạch cụ thể về kinh phí, thời gian tiến hành từng công việc cụ thể.
Phân công cụ thể từng giáo viên phụ trách từng khối lớp để phối hợp cùng giáo viên chủ nhiệm lớp, Đoàn trường và nhà trường thực hiện theo đúng kế hoạch và đạt kết quả cao.
Yêu cầu giáo viên bộ môn lập kế hoạch chi tiết cho các hoạt động được phân công
* Tổ chức
Tiến hành thành lập ban chỉ đạo chung cho hoạt động ngoài giờ và ngoài nhà trường gồm: lãnh đạo nhà trường làm trưởng ban, bí thư đoàn trường, tổ trưởng chuyên môn, giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn.
Tổ chức thành lập các tiểu ban như ;
Thi học sinh tài năng do đoàn trường tổ chức hình thức, thời gian thi câu hỏi và đáp án thi, giải thưởng…
Hoạt động ngoại khoá do ban chuyên môn phụ trách về thời gian, nội dung, báo cáo viên, kinh phí…
Thăm quan di tích lịch sử giao cho giáo viên bộ môn phối hợp cùng giáo viên chủ nhiệm hội cha mẹ học sinh tổ chức và thực hiện.
Họp thống nhất giữa nhà trường và cha mẹ học sinh, về hoạt động ngoài nhà trường để phối hợp cùng thực hiện.
* Chỉ đạo
Ban chuyên môn, Đoàn trường, tổ, nhóm chuyên môn xây dựng nội dung chương trình cho cuộc thi học sinh tài năng toàn trường vào dịp kỷ niệm ngày thành lập đoàn 26/3.
Tổ chức hoạt động ngoại khoá cho môn học lịch sử vào dịp cuối học kỳ I, lồng vào chương trình kỷ niệm ngày thành lập quân đội nhân dân Việt Nam, mời cựu chiến binh nói chuyện lịch sử cho học sinh.
Phối hợp chặt chẽ giữa GVCN lớp và GVBM, hội cha mẹ học sinh tổ chức cho học sinh các lớp đi thăm các di tích lịch sử vào dịp cuối năm học.
Giáo viên báo cáo kết quả chất lượng học tập của học sinh qua hoạt động ngoài giờ và ngoài nhà trường để tổng hợp đánh giá nhận xét, rút kinh nghiệm và nêu phương hướng biện pháp cho năm sau.
* Kiểm tra đánh giá
Dự và trực tiếp duyệt nội dung, kịch bản, câu hỏi và đáp án cuộc thi bảo đảm chính xác, có tính giáo dục cao, nắm bắt được tình hình, nhận thức của học sinh qua câu trả lời, rút kinh nghiệm, trao đổi chuyên môn trong tổ nhóm chuyên môn nhất là kinh nghiệm biên soạn câu hỏi và đáp án cho cuộc thi.
Thường xuyên kiểm tra nắm bắt hoạt động ngoài giờ ở các lớp, để có kế hoạch chỉ đạo nội dung phù hợp, xắp sếp thời gian biểu cho hoạt động của các lớp không chồng chéo và tránh lặp lại, sinh nhàm chán trong hoạt động ngoại khoá.
Kiểm tra đánh giá kết quả thăm quan học tập của học sinh xem lớp nào làm chưa tốt để rút kinh nghiệm, lớp nào làm tốt để nhân điển hình.
3) Điều kiện thực hiện.
Đầu tư tài liệu, phương tiện, kinh phí cho Đoàn trường tổ chức cuộc thi học sinh tài năng qua đó lồng ghép kiến thức lịch sử.
Mời được giảng viên các trường Đại học và các nhân chứng lịch sử là các cựu chiến binh đến nói chuyện có chủ đề về lịch sử cho giáo viên và học sinh.
Giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm phải nhiệt tình với hoạt động ngoại khoá và đi thăm quan các di tích lịch sử.
Phụ huynh tạo điều kiện về tài chính, thời gian, cho các em học sinh để các em tham gia học tập ngoài giờ , đi thăm quan di tích lịch sử được thuận lợi.
3.2.4.4. Phối hợp với phụ huynh học sinh trong việc quản lý hoạt động học và tự học của học sinh.
1) Mục tiêu.
Phát huy tính tự giác học tập của HS ở trường cũng như ở nhà.
Hình thành, rèn luyện những phẩm chất đạo đức tốt đẹp trong HS, tạo cho các em có lối sống trong sáng, lành mạnh, an tâm học tập.
2) Nội dung và cách thực hiện.
* Lập kế hoạch
Hàng năm nhà trường tổ chức họp phụ huynh đầu năm, cuối học kỳ I, cuối năm, thông qua họp phụ huynh nhà trường thống nhất được mục đích giáo dục, qua đó thấy được tầm quan trọng của sự kết hợp giữa giáo dục gia đình và nhà trường, yêu cầu họ tạo điều kiện tự học cho con em mình,
Hàng tuần trong tiết sinh hoạt dưới cờ hình thành và bồi dưỡng kỹ năng tự học cho học sinh, nhân rộng các gương tự học điển hình,
* Tổ chức
Phối hợp với CMHS yêu cầu họ tạo điều kiện tự học cho con em mình ở nhà hoặc ưu tiên kinh phí học tập cho các em.
* Chỉ đạo
Yêu cầu GVCN triển khai nội dung trong lần họp phụ huynh đầu năm, thông qua đó chỉ cho phụ huynh học sinh nhận thức được trách nhiệm của họ trong việc phối hợp với nhà trường để giáo dục học sinh.
Chỉ đạo, quản lý chặt chẽ tự học ở nhà của các em, thường xuyên theo dõi, đôn đốc, quản lý học sinh thông qua sách vở ghi chép trên lớp, sổ liên lạc, gặp trực tiếp giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn để nắm bắt tình hình học tập của con em mình.
* Kiểm tra đánh giá
Yêu cầu chủ nhiệm lớp phối hợp cùng phụ huynh kiểm tra thường xuyên thái độ, cách thức, thời gian học tập của học sinh tự học tại nhà.
Có đánh giá và nhận xét thái độ, kết quả việc tự học trong từng tuần ở tiết sinh hoạt dưới cờ, khen thưởng, kỷ luật kịp thời.
3) Điều kiện thực hiện
Hiệu trưởng có kế hoạch họp phụ huynh trong năm học, đưa nội dung họp phụ huynh cụ thể cho giáo viên chủ nhiệm triển khai trong cuộc họp. Nêu rõ vai trò quan trọng của gia đình trong việc phối hợp với nhà trường giáo dục học sinh.
Trong họp hội đồng sư phạm đầu năm, Hiệu trưởng có kế hoạch cụ thể về vấn đề tự học của học sinh giao việc rõ ràng cho từng bộ phận, từng cá nhân.
3.2.5. Biện pháp 5: Chỉ đạo công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh theo hướng tích cực, khách quan chống bệnh thành tích
1) Mục tiêu.
Nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm học tập trong học sinh, có ý chí vươn lên để đạt được kết quả học tập cao hơn. Học sinh yếu kém không trông chờ, ỷ lại, nâng cao ý thức tự giác làm bài, ngăn chặn các biểu hiện thiếu trung thực trong thi cử.
Thực hiện việc kiểm tra, đánh giá nghiêm túc giúp Hiệu trưởng nắm vững hơn về kết quả học tập, ý thức học tập và rèn luyện của học sinh. Tìm được nguyên nhân tồn tại trong quá trình lĩnh hội tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo trong học tập của học sinh.
Kiểm tra đánh giá nghiêm túc kết quả học tập của học sinh giúp giáo viên nhận ra điểm mạnh, điểm yếu trong công tác giảng dạy của mình. Từ đó giáo viên có thể tự điều chỉnh hoạt động dạy, cải tiến phương pháp giảng dạy để nâng cao kết quả giảng dạy.
2) Nội dung và cách thực hiện.
* Lập kế hoạch
Hiệu trưởng xây dựng kế hoạch kiểm tra và thông báo cho toàn hội đồng và đến từng bộ môn để mọi người chủ động thực hiện và có kế hoạch giảng dạy ôn tập ngay từ đầu năm học.
Kiểm tra đánh giá hàng ngày qua các giờ lên lớp chính khoá.
Kiểm tra đánh giá chung kết quả học sinh toàn trường vào 3 lần kiểm tra: chất lượng đầu năm, cuối học kỳ I và cuối năm.
Tổ chức
- Tổ, nhóm chuyên môn thống nhất chương trình ôn tập, trọng tâm.
- Phân công giáo viên ra đề thi có đáp án kèm theo. Thống nhất chỉ đạo về cách ra đề, ra nhiều đề hình thành ngân hàng đề có mức độ tương đương. Đề thi phải phù hợp với trình độ học sinh, có mức độ yêu cầu thuộc bài, có câu hỏi vận dụng kỹ năng, kỹ xảo cho học sinh, có phần thi dành cho học sinh khá, giỏi.
Lập ban chuyên môn để chọn đề. Ban chuyên môn gồm có:
+ Phó Hiệu trưởng phụ trách chuyên môn.
+ Tổ trưởng
+ Nhóm trưởng bộ môn
+ Thư ký hội đồng
+ Cán bộ máy tính
Ban chuyên môn chịu trách nhiệm:
+ Lập danh sách thí sinh dự thi theo khối, theo bảng chữ cái A, B, C, theo thứ tự phòng thi.
+ Lựa chọn đề thi , chế bản và bảo quản đề thi để đảm bảo tính bí mật, khách quan.
+ Phân công coi thi hợp lý cho các buổi thi, ngày thi cho từng khối, từng môn.
+ Làm phách, giao bài chấm, tổng hợp lên điểm đánh giá chung.
- Tổ chức kiểm tra chung theo 3 đợt lớn của toàn trường: sắp xếp học sinh theo phòng thi, có số báo danh theo từng khối, mỗi phòng thi không quá 24 học sinh.
Bố trí coi thi: 2 giáo viên/ phòng thi theo đề chung.
Quán triệt tư tưởng cho các giáo viên coi thi, quá trình coi thi phải đuợc diễn ra nghiêm túc, đảm bảo tính công bằng, khách quan. Tránh hiện tượng gian lận trong quá trình làm bài thi của học sinh.
Các hình thức kiểm tra, đánh giá trong dạy học lịch sử
Về cơ bản, trong DHLS cũng như các bộ môn khác ở trường phổ thông có hai hình thức kiểm tra miệng và kiểm tra viết.
+ Kiểm tra miệng: giúp GV nhanh chóng hiểu được tình hình học tập, trình độ của HS, thúc đẩy các em học tập, biết suy nghĩ, rèn luyện khả năng diễn đạt bằng lời nói. Thông thường kiểm tra miệng được sử dụng để kiểm tra tài liệu đã học trước khi bắt đầu học bài mới và đôi khi dùng trong bài học trình bày tài liệu mới để xem HS theo dõi, nắm kiến thức như thế nào.
+ Kiểm tra viết: Có vai trò quan trọng trong dạy học nói chung, DHLS nói riêng. Nó giúp GV cùng một lúc nắm được trình độ của tất cả HS trong lớp, đặc biệt là những em kém, em giỏi. Đồng thời, kết quả kiểm tra viết thường phản ánh rất khách quan trình độ của HS về mọi mặt. Nhờ đó, GV không chỉ nắm được tình hình học tập chung của lớp, mà còn thấy được hiệu quả phương pháp sư phạm của mình để có sự điều chỉnh bổ sung thích hợp.
Kiểm tra viết thường được thực hiện sau khi học một phần , một chương hay một khoá lịch sử. Bài kiểm tra viết có thể giới hạn trong 10 - 15phút, kéo dài trong 1 tiết, đối với bài thi tốt nghiệp có thể 90 phút.
Các phương pháp kiểm tra, đánh giá trong DHLS.
+ Kiểm tra, đánh giá bằng câu hỏi tự luận.
Đây là phương pháp kiểm tra, đánh giá truyền thống được vận dụng từ lâu. Câu hỏi đặt ra yêu cầu HS trình bày trực tiếp ý kiến của mình, tạo cơ sở cho GV bình luận về các ý kiến đó. Câu hỏi tự luận có thể sử dụng cả trong hình thức hỏi miệng và kiểm tra viết.
+ Kiểm tra đánh giá bằng trắc nghiệm khách quan:
Nhiều công trình nghiên cứu về phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra, đánh giá kế quả học tập đã trình bày những quan điểm khác nhau. Tuy vậy, vẫn có một số vấn đề thống nhất với nhau, khi khẳng định rằng thực hiện việc trắc nghiệm được tiến hành qua một số loại câu hỏi, bài tập hoặc một phương tiện đo kĩ năng, kĩ xảo, tri thức - trí tuệ, năng lực của cá nhân hay một nhóm HS: "Trắc nghiệm trong giáo dục là một phương pháp để thăm dò một số điểm, năm lực trí tuệ của người học hoặc kiểm tra, đánh giá một số kiến thức - kĩ năng, kĩ xảo, thái độ của người học".
Trắc nghiệm được chia thành hai loại: trắc nghiệm tự luận, thực chất là câu hỏi - bài tập truyền thống và trắc nghiệm khách quan.
Trắc nghiệm khách quan là hệ thống câu hỏi, bài tập đòi hỏi các câu trả lời ngắn để đo kĩ năng, kĩ xảo, trí tuệ, năng lực của cá nhân hay một nhóm HS. Bài kiểm tra đánh giá trắc nghiệm được coi là khách quan vì hệ thống cho điểm là khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người chấm như trong việc đặt và đánh giá câu hỏi dưới dạng tự luận. Vì vậy, kết quả chấm sẽ được chính xác, công bằng đối với những bài kiểm tra của HS, không phụ thuộc vào người chấm. Thông thường, một bài trắc nghiệm khách quan có nhiều câu hỏi, bài tập hơn việc kiểm tra, đánh giá bằng hệ thống câu hỏi tự luận.
Có nhiều hình thức đặt câu hỏi, bài tập trắc nghiệm khách quan:
Các câu hỏi, bài tập yêu cầu xác định đúng sai. Loại này đòi hỏi HS phải xác định "đúng" hay "sai" trước các sự kiện niên đại, các định nghĩa, khái niệm.
Câu hỏi, bài tập đòi hỏi HS phải lựa chọn câu trả lời. Đó là việc đặt một câu hỏi, kèm theo nhiều câu trả lời, HS phải lựa chọn một hoặc những câu trả lời đúng.
Câu hỏi, bài tập đòi hỏi HS phải biết xác lập mối quan hệ giữa các yếu tố được nêu như giữa sự kiện lịch sử với nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử với niên đại và sự kiện lịch sử với niên đại và sự kiện lịch sử với không gian…
Câu hỏi bài tập yêu cầu HS điền vào chỗ trống.
Câu hỏi, bài tập phân loại.
Câu hỏi, bài tập đòi hỏi HS làm việc với đồ dùng trực quan.
+ Kiểm tra, đánh giá qua hoạt động thực hành.
Kiểm tra, đánh giá có vị trí, ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Muốn thực hiện tố hoạt động này phải bảo đảm nhiều yêu cầu, trong đó độ tin cậy, tính hiệu quả (giá trị) là quan trọng nhất.
* Chỉ đạo
Chỉ đạo ra đề thi phải đảm bảo tính chính xác, bí mật và vừa sức học sinh, đảm bảo đúng trọng tâm chương trình giảng dạy.
Chỉ đạo coi, chấm thi nghiêm túc theo quy trình của Bộ GD - ĐT, làm cho giáo viên làm quen với không khí thi tốt nghiệp. Vừa đảm bảo chính xác, khách quan, công bằng, vừa rèn luyện nghiệp vụ thi cho giáo viên.
Để hoạt động kiểm tra, đánh giá có hiệu quả, ban giám hiệu các trường phổ thông và GV bộ môn phải thực hiện nghiêm túc những quy chế chuyên môn về kiểm tra, đánh giá mà Bộ và Sở đã đưa ra. Cần tránh việc chạy theo thành tích làm cho kết quả kiểm tra đánh giá không bảo đảm độ tin cậy và tính giá trị.
Độ tin cậy của việc kiểm tra, đánh giá được thể hiện ở các mặt sau:
+ ít nhất trong hai lần kiểm tra khác nhau cùng một HS phải đạt số điểm xấp xỉ hoặc bằng nhau nếu bài kiểm tra có cùng một nội dung và mức độ khó tương đương nhau.
+ Nhiều GV chấm cùng một bài đều cho điểm như nhau hoặc gần như nhau.
+ Kết quả bài làm phản ánh đúng trình độ, năng lực người học.
Để việc kiểm tra đánh giá có độ tin cậy GV cần:
+ Giảm các yếu tố ngẫu nhiên, may rủi đến mức tối thiểu.
+ Diễn đạt đề bài rõ ràng để mọi HS có thể hiểu đúng.
+ Ra nhiều câu hỏi, bao quát đến mức tối đa các vấn đề cần kiểm tra, vừa có phần ghi nhớ (biết) vừa đòi hỏi phải hiểu, biết vận dụng vào tiếp thu kiến thức mới và cuộc sống.
+ Giảm tới mức thấp nhất sự gian lận trong thi cử.
+ Chuẩn bị tốt đáp án, thang điểm để cho nhiều người chấm, hoặc một người trong nhiều lần có thể cho kết quả tương đương.
Tính hiệu quả (giá trị) của kiểm tra, đánh giá thể hiện ở việc GV đánh giá chính xác được trình độ HS. Để việc kiểm tra có tính chính xác, khi ra đề, GV phải chú ý đến sự phù hợp của câu hỏi với việc xác định mức độ đạt được các mục tiêu trong học tập bộ môn, đề ra phải giúp GV đo được đúng trình độ HS.
GV lịch sử phải nắm vững lí luận về kiểm tra, đánh giá trong quá trình học tập của HS để lựa chọn hình thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá thích hợp, kích thích được hoạt động tập thể của HS.
Thứ hai, phải đảm bảo tính hoàn thiện trong nội dung kiểm tra, đánh giá.
Mục đích của nhà trường phổ thông là đào tạo những con người phát triển toàn diện, hài hoà, năng động, sáng tạo. Do đó, khi kiểm tra, đánh giá phải đảm bảo được tính toàn diện về kết quả bồi dưỡng kết quả nhận thức, giáo dục và phát triển HS.
Đối với mặt kiến thức, tính toàn diện là phải kiển tra, đánh gá cả việc biết, hiểu và vân dụng kiến thức của HS.
Kiểm tra HS biết lịch sử, tức là đòi hỏi HS phải ghi nhớ, tái hiện được các sự kiện, hiện tượng, khái niệm thuật ngữ, quy luật, bài học lịch sử cơ bản đã học. Khi GV đưa ra câu hỏi, HS phải nhớ lại và tái hiện được những sự kiện, hiện tượng…đã nghiên cứu. Ví dụ, khi giáo viên đưa ra câu hỏi, HS phải nhớ lại và tái hiện được những sự kiện hiện tượng … đã đưa ra nghiên cứu, ví dự khi GV yêu cầu HS trình bày tiến trình của sự kiện cơ bản trong các giai đoạn của cách mạng. Như vậy, biết là mức độ thấp nhất trong lĩnh vực kiến thức của HS. Nó chỉ đòi hỏi sự vận dụng trí nhớ.
Từ nhớ, biết sự kiện, việc kiểm tra, đánh giá phải giúp HS đạt được mức độ nhận thức cao hơn, đó là hiểu.
Hiểu bao gồm cả biết, đòi hỏi HS phải biết được ý nghĩa bản chất của trí thức lịch sử, thấy được mối liên hệ bên ngoài, bên trong giữa các sự kiện, hiện tượng có khả năng phân tích, so sánh, tổng hợp, đánh giá, phán đoán, suy luận để rút ra kết luận. Như vậy, hiểu đòi hỏi HS nắm kiến thức ở mức độ cao hơn nhận biết được trí nhớ đưa lại, có quá trình suy luận phức tạp trước các nguyên lý, mối quan hệ, quy luật… HS có thể chứng tỏ sự hiểu biết của mình bằng khả năng giải thích mối liên hệ giữa các yếu tố thời gian, không gian, những mối liên hệ nhân quả của các sự kiện lịch sử…
Từ biết, hiểu các sự kiện lịch sử, hoạt động kiểm tra, đánh giá còn cần xem xét việc vân dụng tri thức lịch sử vào thực tiễn, rút bài học quá khứ của HS. Ví như, HS biết vận dụng kiến thức vào giải quyết các bài tập lịch sử để củng cố trí thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo và các phương pháp tư duy độc lập, sáng tạo.
Cùng với việc xem xét mặt kiến thức, nội dung kiểm tra, đánh giá đòi hỏi phải bao gồm cả kết quả giáo dục tư tưởng, tình cảm hành vi đạo đức của HS trên lớp và ngoài lớp xuất phát từ ưu thế của bộ môn lịch sử không chỉ có tác dụng to lớn trong việc phát triển trí tuệ HS, mà còn giáo dục tư tưởng tình cảm cho các em. Hơn nữa, mục đích DHLS là" dạy chữ để dạy người". Vì vậy, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập cần thiết phải có nội dung giáo dục.
Việc kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục HS trong học tập lịch sử cần căn cứ vào các khía cạnh:
+ Sự quan tâm, chú ý đến các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử đã học.
+ Hứng thú với các sự kiện, hiện tượng, hành vi và các công việc được giao.
+ Xúc cảm đối với sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử (đồng tình, phản đối, khinh ghét, tôn trọng, khâm phục…)
+ Trở thành tính cách, bản sắc riêng theo một hệ giá trị nào đó, định hình một bộ phận của nhân cách…
Bên cạnh xem xét mặt kiến thức, giáo dục, nội dung kiểm tra, đánh giá phải nhằm phát triển kĩ năng thực hành cho HS. "Hành" trong học tập lịch sử bao gồm thực hành bộ môn và cao hơn là "hành" trong cuộc sống. Kiểm tra, đánh giá kĩ năng thực hành bộ môn lịch sử thể hiện ở việc yêu cầu HS làm các loại đồ dùng trực quan: vẽ bản đồ, lập niên biểu, bảng thống kê. Kiểm tra, đánh giá kĩ năng thực hành cao hơn là yêu cầu HS hoàn thành những việc công ích xã hội (tham gia sưu tầm, biên soạn lịch sử địa phương, xây dựng nhà truyền thống, thông tin tuyên truyền lịch sử…).
Thứ ba, phải đổi mới hình thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá trong quá trình học tập lịch sử của HS. Vấn đề này bao gồm những nội dung sau:
- Kết hợp chặt chẽ hoạt động kiểm tra, đánh giá của GV với phát triển hoạt động tự kiểm tra, đánh giá của HS.
Các nhà giáo dục và giáo dục lịch sử đã khảng định rằng, dạy học ở trường phổ thông nói chung, DHLS nói riêng là một quá trình thống nhất giữa hoạt động dạy của thầy và học của trò. Trung tâm điều khiển là GV, đối tượng điều khiển là HS, giữa trung tâm và đối tượng luôn có mối liên hệ hai chiều xuôi, ngược. Trong quá trình học tập, HS thu được hai tín hiệu ngược trong là nhờ kết quả tự kiểm tra, đánh giá và kiểm tra, đánh giá do GV tiến hành. Do vậy, HS cần tận dụng việc kiểm tra, đánh giá của thầy, đồng thời tiến hành có hệ thống việc tự kiểm tra, đánh giá của bản thân để củng cố và hiểu sâu sắc kiến thức, như:
+ Tái hiện những kiến thức lịch sử đã học và tập trình bày cho bản thân hay người khác nghe theo công việc: tự lập hoặc tự nhớ lại dàn ý bài đã học; hình dung nhớ lại những sự kiện, hiện tượng, khái niệm… theo dàn bài đã cấu tạo; tự trình bày hoặc trao đổi với bạn.
+ Tự trả lời những câu hỏi trong SGK. Hình thức tự kiểm tra, đánh giá yêu cầu HS phải: xác định được yêu cầu câu hỏi: xác định nội dung cau trả lời có trong SGK và tài liệu tham khảo; dự kiến câu trả lời dưới dạng dàn ý; tái hiện những kiến thức liên quan để trả lời.
+ Hoàn thành các bài tập do GV nêu ra. Đây là hoạt động tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của các em một cách tốt nhât. Muốn vậy, HS cần: xác định được yêu cầu của bài tập: nghiên cứu lại SGK hoặc tài liệu tham khảo (nếu cần) theo sự hướng dẫn của GV; làm bài tập (nếu là câu hỏi tự luận cần lập đề cương)
+ Tăng cường ra các bài tập về nhà có chất lượng.
Xây dựng và sử dụng các dạng bài tập lịch sử trong dạy học có vai trò rất quan trọng đối với quá trình hình thành, củng cố tri thức lịch sử cho HS. Nó là một trong những biện pháp phát triển các năng lực nhận thức độc lập, trong đó đặc biệt là tư duy độc lập, sáng tạo của các em. Đồng thời, sử dụng các dạng bài tập còn là một hình thức quan trọng để kiểm tra, đánh giá và tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS. Bởi vì, khi hoàn thành các bài tập HS sẽ tự nhận thấy những thiếu sót của mình, GV biết được kết quả nắm kiến thức của HS. Trong DHLS có thể sử dụng các loại bài tập về nhà như:
+ Bài tập dưới dạng một câu hỏi tổng hợp.
+ Bài tập nhằm rèn kỹ năng thực hành, hệ thống, khái quát hoá kiến thức và vận dụng kiến thức.
+ Bài tập trách nghiệm khách quan.
Việc đưa ra các bài tập về nhà có chất lượng yêu cầu HS phải hoàn thành sẽ giúp các em tự kiểm tra, đánh giá được trình độ của mình, đồng thời GV cũng nắm được trình độ hiểu biết kiến thức, những kỹ năng giải quyết bài tập, thực hành của các em. Song, để có những bài tập chất lượng đòi hỏi GV phải đầu tư suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo.
- Kết hợp phương pháp kiểm tra, đánh giá truyền thống (câu hỏi tự luận) với phương pháp kiểm tra, đánh giá bằng câu hỏi trắc nghiệm khách quan.
Kiểm tra, đánh giá bằng câu hỏi tự luận (trắc nghiệm tự luận) có ưu thế là "đo" được trình độ HS về lập luận, tức mà mức độ hiểu kiến thức, rèn cho các em khả năng trình bày, rất phù hợp với các bộ môn xã hội…
Sử dụng phương pháp kiểm tra, đánh giá này, câu hỏi có tầm quan trọng đặc biệt. Do đó, khi đưa ra câu hỏi, GV cần chú ý:
+ Các câu hỏi phải phù hợp với nội dung cơ bản của việc học tập, đạt yêu cầu, mục đích của việc kiểm tra.
+ Câu hỏi phù hợp với trình độ, phát huy được tình tích cực, độc lập trong nhận thức đặc biệt là tư duy của HS.
+ Khi nêu câu hỏi phải dự kiến câu trả lời của HS, từ đó định ra tiêu chuẩn đánh giá bằng các thang điểm thật chi tiết chính xác.
+ Cần tìm cách thay đổi các dạng câu hỏi kiểm tra để gây hứng thú học tập cho HS, như: câu hỏi thông thường, có thể trả lời tự do; câu hỏi đặt ra để lý giải một vấn đề đã được xác định; câu hỏi kèm theo sử dụng đồ dùng trực quan; câu hỏi đòi hỏi HS sử dụng, bình luận các sử liệu…
Song, phương pháp kiểm tra đánh giá bằng các câu hỏi tự luận có một số hạn chế: số vấn đề đề cập đến không nhiều cho nên khó đánh giá kết quả của người học đối với toàn bộ chương trình; việc chấm điểm mất nhiều thời gian và mang tính chủ quan (phụ thuộc vào người chấm…), nên nhiều khi kết quả bài kiểm tra đánh giá thiếu chính xác. Do đó, khi kiểm tra đánh giá bằng câu hỏi tự luận, GV cần nghiêm túc trong quá trình tiến hành và lập thang điểm thật chi tiết, chính xác (khi kiểm tra viết).
Kiểm tra, đánh giá bằng câu hỏi, bài tập trắc nghiệm khách quan có ưu thế là chấm nhanh, bảo đảm tính khách quan khảo sát được khá toàn diện nội dung học tập, gây hứng thú và tính tích cực của HS…Nhưng đối với bộ môn lịch sử nói riêng, các môn khoa học xã hội nói chung, phương pháp kiểm tra, đánh giá này lại có các hạn chế: không "đo" được độ sâu kiến thức của HS; chỉ "đo" được kết quả mà không "đo" được quá trình dẫn đến kết quả; không đánh giá được chuẩn xác các lĩnh vực cảm xúc, khả năng sáng tạo của HS;
Như vậy, kiểm tra, đánh giá theo các câu hỏi tự luận và trắc nghiệm khách quan đều có những ưu điểm và hạn chế.
Để phát huy những ưu điểm, khắc phục các nhược điểm của hai phương pháp kiểm tra đánh giá trên, chúng ta cần kết hợp một cách linh hoạt, sáng tạo chúng với nhau trong quá trình tiến hành các hình thức kiểm tra, như miệng, viết 15 phút, 1 tiết, học kỳ…
Đối với kiểm tra miệng, khi muốn kiểm tra việc chuẩn bị bài của HS ở nhà, hoặc kiểm tra hoạt động nhận thức của các em trong nghiên cứu kiến thức mới, HV cần kết hợp hai phương pháp để đưa ra các câu hỏi kiểm tra.
* Kiểm tra, đánh giá
Hiệu trưởng phải tiến hành kiểm tra các khâu từ ra đề, chọn đề, bảo quản đề thi, chế bản sao in đề thi đến việc tổ chức coi thi, chấm thi, lên điểm... Có nhận xét đánh giá đúng về việc thực hiện kế hoạch làm thi của trường.
Hiệu trưởng kiểm tra từng khâu của quá trình coi thi, từ cách đánh số báo danh, gọi học sinh vào phòng thi, phát đề, coi, chấm, sau khi lên điểm xác định được phòng thi nào thực hiện coi thi nghiêm túc và không nghiêm túc.
Khi đánh giá tổng kết, Hiệu trưởng có thể nhận xét đánh giá một cách chính xác khi kết quả thi phản ánh đúng thực chất học tập, tinh thần trách nhiệm của giáo viên trong việc giảng dạy và thực hiện quy chế chuyên môn. Từ đó rút kinh nghiệm, lên phương án cho năm sau làm tốt hơn.
3) Điều kiện thực hiện
Hiệu trưởng cung cấp các tài liệu có liên quan đến đánh giá xếp loại học sinh cho giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn.
Triển khai các tiêu chuẩn đánh giá học sinh về hai mặt giáo dục cho toàn thể giáo viên trong nhà trường
3.2.6. Biện pháp 6 : Tăng cường đầu tư trang thiết bị, bảo quản và sử dụng hiệu quả cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, xây dựng phòng học bộ môn lịch sử
1) Mục tiêu.
Tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị dạy học góp phần nâng cao nhận thức thẩm mỹ, tạo môi trường sư phạm lành mạnh, hình thành và phát triển nhân cách học sinh.
Xây dựng cơ sở vật chất tốt, trường lớp khang trang sạch đẹp tạo tâm lý thoải mái tự tin cho giáo viên và học sinh, góp phần tích cực nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục trong nhà trường.
Thiết bị dạy học phù hợp với nội dung chương trình, được sử dụng có hiệu quả giúp học sinh chiếm lĩnh tri thức dễ dàng, nhanh chóng, hứng thú hơn. Đồng thời thúc đẩy quá trình nhận thức và phát triển khả năng tư duy sáng tạo của học sinh.
Có kế hoạch xây dựng phòng học bộ môn lịch sử, có đủ mô hình trực quan cùng với những trang thiết bị dạy học hiện đại.
2) Nội dung và cách thực hiện.
*Lập kế hoạch
Cuối năm học, sau khi kiểm tra CSVC-TBDH của nhà trường, trên cơ sở đó Hiệu trưởng xây dựng kế hoạch: xây dựng, sửa chữa CSVC, mua sắm, bổ sung các TBDH, thiết bị thí nghiệm, tài liệu tham khảo, sách giáo khoa phục vụ cho năm học mới theo yêu cầu của tổ bộ môn.
Xây dựng quy chế, bảo quản CSVC-TBDH.
* Tổ chức thực hiện
Tham mưu với Sở GD-ĐT để tăng cường nguồn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất của nhà trường và mua sắm trang thiết bị dạy học.
Huy động sự đóng góp của địa phương, các tổ chức xã hội, Hội cha mẹ học sinh vào việc xây dựng, tu bổ trường lớp, bàn ghế, sân chơi, bãi tập...
Sửa chữa cải tiến những dụng cụ cũ, bổ sung những dụng cụ mới vào bộ dụng cụ đã có làm cho chúng trở thành bộ dụng cụ hoàn chỉnh có thể sử dụng được. Ưu tiên cho việc mua sắm các thiết bị dạy học, đồ dùng thí nghiệm cần thiết hiện đại.
Tổ chức tốt phong trào tự làm đồ dùng dạy học trong điều kiện nguồn kinh phí nhà trường còn hạn hẹp, nhà nước không thể cung cấp thoả mãn toàn bộ trang thiết bị cho các trường học. Thực tế đã chỉ ra rằng, tự làm đồ dùng dạy học không chỉ mang ý nghĩa kinh tế đơn thuần mà nó thực sự có tác dụng phát triển năng lực trí tuệ, bồi dưỡng kích thích hứng thú nghề nghiệp của giáo viên và học sinh.
Tuyển chọn, phân công cán bộ và giáo viên có kiến thức chuyên môn, có ý thức trách nhiệm để quản lý các phòng thí nghiệm. Người quản lý các phòng thí nghiệm phải thường xuyên kiểm tra, chuẩn bị sẵn các dụng cụ thí nghiệm phục vụ cho các tiết dạy trên lớp của giáo viên.
Xây dựng phòng thư viện chuẩn (có phòng đọc cho giáo viên và học sinh), tăng cường các loại sách báo, tài liệu tham khảo làm phong phú thêm tủ sách nhà trường. Trưng cầu ý kiến các tổ chuyên môn, giáo viên về việc mua sắm, sách tham khảo, đồ dùng thiết bị cần thiết cho từng môn học, đồng thời lập danh mục tài liệu, đồ dùng dạy học trong phòng thí nghiệm và thư viện để giáo viên nghiên cứu lập kế hoạch giảng dạy.
Tích cực nghiên cứu ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học. Công nghệ thông tin đã và đang làm thay đổi một cách căn bản phương pháp dạy và học, giúp cho quá trình dạy và học trở nên tích cực hơn, học sinh có cơ hội tìm kiếm thông tin, tư liệu, giúp các em tự học, tự kiểm tra đánh giá kết quả, thực hiện nhiệm vụ học tập một cách tích cực, chủ động, sáng tạo.
* Chỉ đạo
Chỉ đạo việc sử dụng thiết bị dạy học hiện có một cách hiệu quả. Sử dụng đúng mục đích, đúng lúc, đúng cường độ.
Chỉ đạo giáo viên giáo dục ý thức giữ gìn và bảo vệ của công cho học sinh, luôn tạo cảnh quan môi truờng “Xanh- Sạch - Đẹp”.
*Kiểm tra, đánh giá
Có kế hoạch kiểm tra tài sản thường xuyên và định kỳ để kịp thời tu sửa và trang bị mới những dụng cụ cần thiết phục vụ cho dạy học.
3) Điều kiện thực hiện.
Sự quan tâm đầu tư của UBND thành phố, sở GD & ĐT, sở KH & Đầu Tư, sở tài chính...dầu tư kinh phí cho việc tăng cường CSVC-TBDH. Sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, của các tổ chức xã hội hỗ trợ nhà trường về các nguồn tài lực, vật lực, giúp tăng cường CSVC của nhà trường theo tinh thần xã hội hoá giáo dục.
3.3. Khảo sát tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp
1) Mục tiêu:
Kiểm định nhận thức về tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp đề xuất.
2) Nội dung và cách thực hiện:
Để tiến hành đánh giá sự cần thiết và tính khả thi của các biện pháp đề xuất trên, tác giả đã tiến hành khảo nghiệm bằng phương pháp phỏng vấn, điều tra thông qua phiếu trưng cầu ý kiến dành cho CBQL và GV của nhà trường (Thông qua câu hỏi 5 của phiếu trưng cầu ý kiến số 1và 2). Tổng số người được hỏi: 120. trong đó CBQL 4, GV 116.
Tác giả thu được kết quả như bảng phụ lục 3 và tổng kết như sau:
Bảng 3.1: Tổng hợp ý kiến đánh giá của cán bộ quản lý và giáo viên về tính cấp thiết và tính khả thi của các biện pháp quản lý hoạt động dạy học
TT
Tên các biện pháp
Tính cần thiết (%)
Tính khả thi (%)
Rất
cần
thiét
Cần
thiết
Không
cần
thiết
Rất khả
thi
Khả
thi
Không
khả
thi
1
Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức cho đội ngũ GV nói chung và bộ môn lịch sử
100
0,0
0,0
93,6
6,4
0,0
2
Xây dựng đội ngũ GV đủ về số lượng, chuẩn về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu
56,4
43,6
0,0
36,7
61,7
1,6
3
Chỉ đạo hoạt động đổi mới phương pháp dạy học trong tổ nhóm bộ môn lịch sử nhằm tích cực hoá quá trình nhận thức, quá trình tư duy của HS
51,6
47,4
1,0
37,8
61,1
1,1
4
Chú trọng công tác quản lý hoạt động học của học sinh, rèn luyện cho HS năng lực tự học, tư duy độc lập, sáng tạo trong học tập môn lịch sử
48,6
51,4
0,0
47,2
52,8
0,0
5
Tăng cường tính khách quan trong kiểm tra đánh giá kết quả học tập của HS
45,6
51,9
2,5
35,3
54,9
9,8
6
Tăng cường trang bị, bảo quản và sử dụng hiệu quả CSVC, thiết bị dạy học
44,3
52,7
3,0
32,4
67,2
0,4
Về tính cần thiết: Biện pháp 1 (Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức cho đội ngũ GV), biện pháp 2 (Xây dựng đội ngũ GV đủ về số lượng, chuẩn về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu) và biện pháp 4 (Tăng cường tính khách quan trong kiểm tra đánh giá kết quả học tập của HS) có 100% số người được hỏi đánh giá là cần thiết và rất cần thiết. Đây là nhũng vấn đề cấp bách cần phải thực hiện ngay, phải được ưu tiên hàng đầu. Biện pháp 3 (Tăng cường công tác chỉ đạo hoạt động đổi mới phương pháp dạy học nhằm tích cực hoá quá trình nhận thức, quá trình tư duy của HS) và biện pháp 5 (Tăng cường quản lý hoạt động học của học sinh, rèn luyện cho HS năng lực tự học) cũng được đánh giá rất cao 99% và 97,5%. Đây là điều kiện quan trọng và là khâu then chốt để thực hiện nhiệm vụ GD và đào tạo trong các nhà trường hiện nay. Biện pháp 6 (Tăng cường trang bị, bảo quản và sử dụng hiệu quả CSVC, thiết bị dạy học) xếp ở thứ bậc thấp hơn nhưng cũng đạt giá trị rất cao 97% có nghĩa là được mọi người nhìn nhận là cũng rất cần nhưng có những việc khác cấp bách hơn.
Về tính khả thi: được đánh giá cao nhất là biện pháp 1 và biện pháp 4 (100%) và thấp nhất là biện pháp 3 (90,2%), biện pháp 6 là 99,6%, biện pháp 98,9% , biện pháp 2 là 98,4%
Tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp bằng biểu đồ như sau:
Biểu đồ 3.1: Sự tương quan giữa tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp
Qua biểu đồ trên cho tác giả nhìn nhận:
Biện pháp 1 và biện pháp 4 có sự tương ứng về chỉ số giữa hai cấp độ đó là tính cần thiết và tính khả thi của hai biện pháp này, mức độ tương quan này cũng chỉ ra rằng công tác tăng cường GD chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức cho GV, bồi dưỡng nâng cao nhận thức về tầm quan trọng và sự cần thiết của đổi mới phương pháp dạy học cùng với công tác tăng cường tính khách quan trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS là vấn đề nên làm ngay để đáp ứng được yêu cầu đổi mới GD trong giai đoạn hiện nay. Hiện nay toàn ngành GD đang thực hiện cuộc vận động “hai không” với 4 nội dung: không tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích, không vi phạm đạo đức nhà giáo, và không ngồi nhầm lớp điều này có thể giải thích được mối tương quan giữa hai cấp độ trong hai biện pháp này.
Biện pháp 2 được 100% đánh giá là cần thiết, nhưng tính khả thi chỉ đạt 98,4%, nguyên nhân là do tình trạng thiếu GV, đội ngũ không ổn định, nên việc phân công giảng dạy, bố trí công tác chưa hợp lý, chưa tạo được điều kiện để GV tự học hỏi nhằm phát huy năng lực chuyên môn .
Biện pháp 3 được đánh giá với tỉ lệ 99% cần thiết, trong điều kiện kinh phí ở các trường còn hạn hẹp như hiện nay việc tạo động lực để GV và HS tích cực đổi mới PPDH có thể không cần thiết (1%) và 1,1% không khả thi trong biện pháp này đó là do năng lực của CBQL và cũng do thiếu GV nên CBQL cũng tham gia vào việc giảng dạy khá nhiều nên việc chỉ đạo sát sao, cụ thể từng bước vững chắc có hiệu quả các giờ dạy trên lớp của GV theo hướng đổi mới khó thực hiện được
Đặc biệt sự chênh lệch quá nhiều trong biện pháp 5 là do: vấn đề tự học không phải là điều mới, nhưng trước nay chưa được chú ý. Đa số GVchỉ dạy HS học, rất ít người dạy HS tự học. CBQL vẫn chỉ quản lý hoạt động dạy học chưa quản lý hoạt động dạy tự học, chỉ quản lý HS học có thầy hướng dẫn không chú ý đến việc tự học của HS, nên phương pháp dạy tự học chưa trở thành phương pháp dạy học chính trong các nhà trường. Hoạt động tự học chưa trở thành phong trào chung trong các nhà trường dù nó là điều kiện để học sinh phát huy được trí tuệ, phát triển được tư duy. Giúp học sinh nhận thức được mình, phát triển được sở trường, năng khiếu của bản thân.
Để thực hiện đổi mới GD, Hiệu trưởng nhà trường cần phải thực hiện đồng bộ các biện pháp , trong quá trình thực hiện đòi hỏi sự cố gắng nỗ lực rất lớn, sự đồng tâm, của tất cả các thành viên trong Hội đồng nhà trường, đặc biệt là vai trò “đầu tàu” của Hiệu trưởng.
3.4. Mối quan hệ giữa các biện pháp và điều kiện thực hiện biện pháp.
Trước yêu cầu đổi mới giáo dục THPT hiện nay, qua kết quả nghiên cứu và trong thực tiễn công tác quản lý của mình, tác giả thấy để thực hiện nhiệm vụ Hiệu trưởng cần thực hiện đồng bộ sáu biện pháp trên
Biện pháp 1: Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức cho đội ngũ GV và bộ môn lịch sử : biện pháp này cần thực hiện đầu tiên nó là nền tảng để thực hiện các biện pháp tiếp theo.
Biện pháp 2: Xây dựng đội ngũ GV đủ về số lượng, chuẩn về chất lượng, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ: biện pháp này có vai trò quan trọng vì GV là nhân tố cơ bản quyết định chất lượng GD và đào tạo trong mỗi nhà trường.
Biện pháp 3: Chỉ đạo hoạt động đổi mới phương pháp dạy học nhằm tăng cường hoạt động nhận thức độc lập, tư duy độc lập, sáng tạo của học sinh: thể hiện xu thế tất yếu của Giáo dục và Đào tạo trong giai đoạn hiện nay, tạo ra sự biến đổi về chất của HĐDH trong nhà trường, đáp ứng yêu cầu đổi mới. Biện pháp này đóng vai trò then chốt.
Biện pháp 4: Chú trọng công tác quản lý hoạt động học của học sinh, rèn luyện cho học sinh năng lực tự học, tư duy độc lập, sáng tạo trong học tập môn lịch sử: đây là vấn đề cơ bản vì tự học là một cuộc “hành trình nội tại” phát triển ở mỗi HS năng lực và thói quen tự “học suốt đời” , “để biết”, “để làm”, “để cùng sống với nhau” và “để làm người” lao động tự chủ, năng động sáng tạo của thế kỷ 21.
Biện pháp 5: Chỉ đạo công tác kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh theo hướng tích cực, khách quan chống bệnh thành tích trong giáo dục: Là một biện pháp không thể thiếu trong HĐDH. Việc kiểm tra, đánh giá khách quan, công bằng, chính xác giúp cho GV phát huy được ưu điểm, khắc phục được những hạn chế, góp phần nâng cao được chất lượng dạy học.
Biện pháp 6: Tăng cường đầu tư trang bị, bảo quản và sử dụng hiệu quả CSVC, thiết bị dạy học, xây dựng phòng học bộ môn lịch sử: Quản lý tốt CSVC, trang thiết bị dạy học trong điều kiện tài chính còn nhiều khó khăn hiện nay sẽ giúp sử dụng hợp lý nguồn lực tài chính để trang bị các phương tiện dạy học thiết yếu, đáp ứng ngày càng tốt yêu cầu của việc đổi mới nội dung và PPDH, góp phần nâng cao chất lượng dạy học .
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Trong quản lý nhà trường, quản lý HĐDH là nhiệm vụ vô cùng quan trọng trong công tác quản lý của Hiệu trưởng và CBQL. Để nâng cao được chất lượng đào tạo, đáp ứng được yêu cầu của xã hội, đòi hỏi Hiệu trưởng và CBQL nhà trường phải xác định rõ vai trò, vị trí, chức năng nhiệm vụ của mình, hướng nhiệm vụ trọng tâm vào việc quản lý dạy và học.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài dựa trên cơ sở cụ thể hoá các nội dung trong định hướng chiến lược phát triển giáo dục đào tạo trong thời kỳ CNH –HĐH đất nước và mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố: quá trình quản lý nhà trường, biện pháp quản lý và cách thức sử dụng các biện pháp quản lý HĐDH của Hiệu trưởng, vai trò của Hiệu trưởng và CBQL, tính tất yếu trong việc nâng cao kết quả học tập toàn diện của HS THPT thông qua các biện pháp quản lý HĐDH môn lịch sử của Hiệu trưởng.
Kết quả nghiên cứu của đề tài này đóng góp một phần vào công tác ứng dụng các lý luận khoa học quản lý giáo dục vào quản lý hoạt động dạy học môn lịch sử trong trường phổ thông, giúp cho đội ngũ CBQL trong trường THPT mà trước hết là người Hiệu trưởng có thêm cơ sở lý luận về biện pháp quản lý HĐDH môn lịch sử để nâng cao kết quả học tập của HS trường THPT Mỹ Đức B - Hà Nội góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ Thủ đô và cả nước.
Trong những năm gần đây, sự nghiệp giáo dục và đào tạo nói chung và của Trường THPT Mỹ Đức B – Hà Nội nói riêng tuy đã được nâng lên, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp, thi đỗ đại học có tăng nhưng tỷ lệ tốt nghiệp loại khá, giỏi còn hạn chế, thi đỗ dại học điểm cao còn ít. Để đáp ứng được yêu cầu phát triển Giáo dục và Đào tạo của thủ đô, muốn nâng cao chất lượng dạy học ở Trường THPT Mỹ Đức B, thì phải nâng cao hiệu quả công tác quản lý của lãnh đạo nhà trường, đặc biệt là quản lý HĐDH nói chung và HĐDH môn lịch sử nói riêng.
Qua nghiên cứu thực trạng cho thấy, công tác quản lý của cán bộ quản lý nhà trường mặc dù có nhiều cố gắng trong việc duy trì các lĩnh vực hoạt động trong nhà trường, song việc cải tiến các biện pháp quản lý HĐDH cho phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường, đến từng bộ môn nhất là bộ môn lịch sử còn nhiều hạn chế, lúng túng trong khâu tổ chức, điều hành, chỉ đạo, dẫn tới kết quả học tập của HS chưa cao. học sinh chưa yêu thích học tập môn lịch sử, nhiều HS sau khi đã tốt nghiệp THPT không thi được vào học các truờng chuyên nghiệp, số HS vào đại học hàng năm chưa đạt tới 30%, số thi đỗ đại học khối C môn lịch sử điểm còn thấp.
Từ việc tìm hiểu thực trạng công tác quản lý hoạt động dạy học môn lịch sử của Hiệu trưởng Trường THPT Mỹ Đức B- Hà Nội, tác giả mạnh dạn đề ra một số biện pháp cơ bản sau:
Biện pháp 1: Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức cho đội ngũ GV và bộ môn lịch sử.
Biện pháp 2: Xây dựng đội ngũ GV đủ về số lượng, chuẩn về chất lượng, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ.
Biện pháp 3: Chỉ đạo hoạt động đổi mới phương pháp dạy học môn lịch sử, nhằm tăng cường hoạt động nhận thức độc lập, tư duy độc lập, sáng tạo của học sinh.
Biện pháp 4: Chú trọng công tác quản lý hoạt động học của học sinh, rèn luyện cho học sinh năng lực tự học, tư duy độc lập, sáng tạo trong học tập môn lịch sử.
Biện pháp 5: Chỉ đạo công tác kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh theo hướng tích cực, khách quan chống bệnh thành tích trong giáo dục.
Biện pháp 6: Tăng cường đầu tư trang bị, bảo quản và sử dụng hiệu quả CSVC, thiết bị dạy học, xây dựng phòng học bộ môn lịch sử.
Các biện pháp quản lý HĐDH môn lịch sử của Hiệu trưởng được nêu trên không phải là những biện pháp đơn lẻ, tách rời nhau mà chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau thành một hệ thống có tác động bổ sung cho nhau trong việc nâng cao chất lượng dạy học. Do đó vận dụng các biện pháp ấy như thế nào để đạt được hiệu quả cao lại phụ thuộc rất nhiều vào khả năng, bản lĩnh, sự nhạy bén của người Hiệu trưởng. Nếu Hiệu trưởng và CBQL nhà trường, biết lựa chọn và tăng cường biện pháp quản lý thích hợp với hoàn cảnh cụ thể nhằm phát huy nội lực và khơi dậy sự say mê nghề nghiệp trong đội ngũ GV, sự tận tình phục vụ của lực lượng cán bộ nhân viên, sự ham muốn học tập của HS và sự giúp đỡ của các tổ chức xã hội đối với nhà trường thì chắc chắn sẽ đạt hiệu quả cao, thực hiện tốt mục tiêu quản lý trường học và hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học theo kế hoạch đã đề ra.
Các biện pháp quản lý HĐDH môn lịch sử của Hiệu trưởng và CBQL Trường THPT Mỹ Đức B, mà đề tài đã đề xuất bước đầu đã được khảo nghiệm về tính cấp thiết và tính khả thi.
Với những kết quả đạt được, Luận văn đã hoàn thành các nhiệm vụ đặt ra.
2. Khuyến nghị
Qua việc thực hiện đề tài này và từ thực tiễn công tác quản lý HĐDH môn lịch sử ở một Trường THPT thuộc vùng sâu, vùng xa của Thủ đô Hà Nội, tác giả có một số khuyến nghị như sau:
2.1. Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo
Tăng cường nghiên cứu, phổ biến ứng dụng các vấn đề về khoa học giáo dục. Chỉ đạo mạnh mẽ phương pháp giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của người học.
Nghiên cứu, đảm bảo tính ổn định lâu dài của nội dung sách giáo khoa, tránh thay đổi nhiều gây khó khăn cho người dạy và người học.
2.2. Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội.
Tăng cường công tác chỉ đạo, xây dựng quy hoạch tổng thể về đội ngũ GV các cấp, đặc biệt là giáo viên THPT. Có phương án đào tạo, tổ chức thi tuyển thường xuyên để nhà trường không còn tình trạng thiếu GV.
Tổ chức cho CBQL các trường tham quan học hỏi kinh nghiệm các điển hình tiên tiến về GD, học tập những chuyên đề, cập nhật những kiến thức mới về quản lý trường học, trao đổi, rút kinh nghiệm trong công tác quản lý.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động giảng dạy đối với các trường học. Có cơ chế khuyến khích động viên, bồi dưỡng thoả đáng đối với GV giỏi, HS giỏi, xây dựng các điển hình trường tiên tiến.
Tăng cường tổ chức bồi dưỡng theo chuyên đề nhất là các chuyên đề về sử dụng hiệu quả TBDH và đổi mới PPDH.Có chính sách khuyến khích giáo viên học tập nâng cao trình độ lý luận và chuyên môn nghiệp vụ, nhất là học lên thạc sỹ , tiến sỹ.
Sớm quy hoạch, đầu tư cơ sở vật chất để Trường THPT Mỹ Đức B thành trường chuẩn cấp quốc gia.
2.3. Đối với Hiệu trưởng và cán bộ quản lý Trường THPT Mỹ Đức B – Hà Nội
Thường xuyên tham mưu, đề xuất với các cấp uỷ Đảng, chính quyền, Sở Giáo dục và Đào tạo, với hội CMHS trong việc xây dựng CSVC, đầu tư trang thiết bị dạy học theo phương thức Nhà nước và nhân dân cùng làm. Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, phối kết hợp chặt chẽ giữa gia đình - nhà trường - xã hội trong công tác GDHS.
Quản lý nhà trường một cách toàn diện, đặc biệt quan tâm đến quản lý công tác dạy và học. Vận dụng các biện pháp quản lý HĐDH linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với điều kiện hiện có của nhà trường.
Tạo điều kiện cho cán bộ, GV được tham gia học tập, tham gia các lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ.
Trách nhiệm của người CBQL là cần nắm vững đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, Luật giáo dục, các văn bản dưới luật chỉ đạo HĐDH nhằm nâng cao chất lượng dạy học, đặc biệt cần quan tâm chỉ đạo một cách tích cực việc đổi mới PPDH bằng cách khuyến khích, tạo điều kiện cho GV đi học cao học, xây dựng, củng cố và dần hoàn thiện CSVC, trang thiết bị hiện đại đáp ứng yêu cầu đổi mới PPDH, tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá HĐDH của GV, xây dựng các phòng học bộ môn nhất là môn lịch sử.
Thực hiện nghiêm túc, đồng bộ các chức năng quản lý, quy chế giáo dục đào tạo trong việc xây dựng kế hoạch năm học, coi trọng nguyên tắc tập trung dân chủ trong việc điều hành mọi hoạt động của nhà trường,… Tích cực ứng dụng các tri thức về khoa học quản lý, nhất là khoa học quản lý giáo dục và kiểm chứng lý luận trong thực tiễn quản lý của mình.
Là CBQL nếu biết chủ động, linh hoạt, cố gắng nỗ lực vận dụng các biện pháp quản lý vào hoàn cảnh thực tế của nhà trường, tất yếu sẽ nâng cao được chất lượng dạy học, đáp ứng sự mong mỏi của toàn xã hội, đáp ứng được yêu cầu đổi mới của sự nghiệp giáo dục và đào tạo trong công cuộc CNH- HĐH đất nước.
2.4. Đối với đội ngũ giáo viên của nhà trường và bộ môn lịch sử
Cần nâng cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm, nghiêm chỉnh thực hiện nội dung và chương trình bồi dưỡng theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tích cực tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ, phát huy tinh thần học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp để hoàn thành tốt nhiệm vụ dạy học, vận dụng có hiệu quả những kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ sư phạm vào công tác dạy học, góp phần nâng cao chất lượng dạy học nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung của nhà trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Báo cáo tổng kết năm học 2006-2007 (2007), năm học 2007-2008 (2008), năm học 2008-2009 (2009) Trường THPT Mỹ Đức B - Hà Nội
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Điều lệ Trường Trung Học Phổ Thông.
Đặng Quốc Bảo - Nguyễn Thị Mỹ Lộc. Bài giảng QLGD, quản lí nhà trường, dành cho lớp cao học QLGD.
Nguyễn Quốc Chí - Nguyễn Thị Mỹ Lộc. Đại Cương về quản lý - Đề cương về bài giảng cao học, Đại học quốc gia Hà Nội 1996.
Nguyễn Đức chính (2008), bài giảng về chất lượng trong giáo dục, lớp cao học quản lý giáo dục.
Nguyễn Bá Dương (1999), Tâm lý học quản lý dành cho người lãnh đạo, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đặng Xuân Hải (2008), tập bài giảng về quản lý nhà nước về giáo dục, dành cho lớp cao học.
Đặng Xuân Hải (2008), bài giảng về quản lý sự thay đổi trong giáo dục, dành cho lớp cao học QLGD.
Phạm Minh Hạc (1991), Góp phần đổi mới tư duy giáo dục, NXB Giáo dục, Hà Nội.
Nguyễn Sinh Huy, Nguyễn Văn Lê (1999), Giáo dục đại học, NXB Giáo dục
Trần Kiểm (2002), Khoa học quản lý nhà trường phổ thông, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
Trần Kiều (1997), Đổi mới phương pháp dạy học ở trường Trung học cơ sở, Viện khoa học giáo dục .
Nguyễn Văn Lê (1985), Khoa học quản lý nhà trường, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2003), Đại cương về quản lý giáo dục, NXB Giáo dục, Hà Nội.
Luật giáo dục (2005), NXB chính trị quốc gia , Hà Nội.
Phạm Thành Nghị (2000), Quản lý chất lượng giáo dục đại học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt (1990), Giáo dục học, Tập 1-2, NXB Giáo dục.
Niên giám thống kê 2008 của huyện Mỹ Đức, TP Hà Nội
Nguyễn Ngọc Quang (1989), Một số khái niệm về quản lý giáo dục, Tập bài giảng SĐH, Trường CBQL Giáo dục và đào tạo, Hà Nội.
Trần Hồng Quân (1996), Giáo dục - Đào tạo con đường quan trọng nhất để phát triển nguồn lực con người, Trường CBQLGD&ĐT, Hà Nội
Thông tư số 49/TT-GD ngày 29/11/1979 của Bộ giáo dục quy định chế độ công tác của Giáo viên trường Phổ thông.
Thông tư số 03-TT ngày 20 tháng 04 năm 1994 của Bộ GD-ĐT hướng dẫn thi hành nghị định 90/CP. Ngày 24/11/1993 của Chính phủ quy định cơ cấu khung của hệ thống GD-ĐT của Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đỗ Hoàng Toàn (1995), Lý thuyết quản lý, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
Nguyễn Cảnh Toàn (1997), Quá trình dạy – tự học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
Từ điển bách khoa Việt Nam (1995), tập 1, Trung tâm biên soạn từ điển, Hà Nội.
V.A Xukhomlinxki (1974), Một số kinh nghiệm lãnh đạo của Hiệu trưởng trường phổ thông (Hoàng Tân Sơn lược dịch), Cục đào tạo và bồi dưỡng. Bộ Giáo dục.
Văn kiện Hội nghị lần thứ II BCH Trương ương Đảng Cộng Sản Việt Nam khoá VIII (1997), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội .
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Noi dung LV.DOC