LỜI MỞ ĐẦU
Công cuộc đổi mới đất nước đã tạo cho nền kinh tế nước ta có được sự phát triển năng động như hiện nay, thu hút được đông đảo nhân dân tham gia vào các hoạt động kinh tế vừa làm giàu cho mình vừa làm giàu cho đất nước. Từ đó, các loại hình công ty ở nước ta cũng xuất hiện rất nhiều khi nhà nước mở cửa thị trường. Ngoài các loại hình công ty nằm trong khối quốc doanh thì hiện nay các loại hình công ty mang tính chất tư nhân đang phát triển rầm rộ như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc hai thành viên trở lên .Trong đó, có một loại hình công ty khá phổ biến đó là công ty hợp danh. Công ty hợp danh là một trong những hình thức công ty ra đời sớm nhất trong lịch sử hình thành công ty, được thừa nhận là một chủ thể kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp Việt Nam 1999, đánh dấu lần đầu tiên loại hình công ty đối nhân chính thức được pháp luật Việt Nam ghi nhận và điều chỉnh, tạo nên một môi trường kinh doanh đa dạng các loại hình để các nhà kinh doanh lựa chọn, từ đó bắt kịp xu hướng chung của thế giới. Song thực tế hiện nay, cái tên “công ty hợp danh” còn khá là mới mẻ dù đã trải qua hơn mười năm từ khi pháp luật thừa nhận nó. Tuy luật Doanh nghiệp 2005 quy định khá chi tiết đã quy định khá chi tiết về loại hình công ty này, nhưng cũng không tránh khỏi những thiếu sót, bất cập và vô hình chung đã kìm hãm sự phát triển của loại hình công ty hợp danh. Chính vì lý do trên mà em quyết định chọn đề tài “Bình luận các quy định của luật doanh nghiệp 2005 về công ti hợp danh” để làm bài tập lớn học kì với mong muốn bổ sung và củng cố thêm kiến thức đã học.
Nội dung
I. Khái niệm và đặc điểm chung của công ty hợp danh
1.1 Khái niệm của công ty hợp danh
1.2 Đặc điểm của công ty hợp danh.
II. Các quy định về công ty hợp danh
2.1 Bản chất pháp lý của công ty hợp danh
2.2 Quy chế thành viên trong công ty hợp danh
2.3 Vốn góp trong công ty hợp danh
2.4 Cơ cấu và tổ chức quản lý trong công ty hợp danh
2.5 Giải thể và phá sản công ty hợp danh
C. KẾT LUẬN
Tóm lại công ty hợp danh là một mô hình công ty rất phù hợp với nền kinh tế nước ta hiện nay. Nó cho phép các công dân không cần nhiều vốn mà vẫn có thể mở các công ty kinh doanh dựa trên sự liên kết giữa các người thân quen nhau. Những quy đinh của Luật daonh nghiệp 2005 về công ty hợp danh khá hoàn chỉnh. Nó là cở sở pháp lý quan trọng để tiến hành các hoạt động của công ty hợp danh. Tuy nhiên Luật doanh nghiệp 2005 vẫn còn có những quy định chưa được hoàn chỉnh về công ty hợp danh. Chính vì vậy mà em mong muốn các nhà làm luật cần nghiên cứu kĩ hơn để đưa ra những quy chế hoàn hảo cho công ty hợp danh. Và, từ đó có thể thu hút được nhiều người hơn tham gia thành lập công ty với mô hình công ty hợp danh này để tăng trưởng thêm nền kinh tế quốc dân ở nước ta. Đặc biệt hơn là có thể sớm xây dựng thành công sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở nước ta như chủ trương của Đảng và nhà nước đã đề ra.
Kết luận
20 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3087 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bình luận các quy định của luật doanh nghiệp 2005 về công ti hợp danh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Công cuộc đổi mới đất nước đã tạo cho nền kinh tế nước ta có được sự phát triển năng động như hiện nay, thu hút được đông đảo nhân dân tham gia vào các hoạt động kinh tế vừa làm giàu cho mình vừa làm giàu cho đất nước. Từ đó, các loại hình công ty ở nước ta cũng xuất hiện rất nhiều khi nhà nước mở cửa thị trường. Ngoài các loại hình công ty nằm trong khối quốc doanh thì hiện nay các loại hình công ty mang tính chất tư nhân đang phát triển rầm rộ như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc hai thành viên trở lên….Trong đó, có một loại hình công ty khá phổ biến đó là công ty hợp danh. Công ty hợp danh là một trong những hình thức công ty ra đời sớm nhất trong lịch sử hình thành công ty, được thừa nhận là một chủ thể kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp Việt Nam 1999, đánh dấu lần đầu tiên loại hình công ty đối nhân chính thức được pháp luật Việt Nam ghi nhận và điều chỉnh, tạo nên một môi trường kinh doanh đa dạng các loại hình để các nhà kinh doanh lựa chọn, từ đó bắt kịp xu hướng chung của thế giới. Song thực tế hiện nay, cái tên “công ty hợp danh” còn khá là mới mẻ dù đã trải qua hơn mười năm từ khi pháp luật thừa nhận nó. Tuy luật Doanh nghiệp 2005 quy định khá chi tiết đã quy định khá chi tiết về loại hình công ty này, nhưng cũng không tránh khỏi những thiếu sót, bất cập và vô hình chung đã kìm hãm sự phát triển của loại hình công ty hợp danh. Chính vì lý do trên mà em quyết định chọn đề tài “Bình luận các quy định của luật doanh nghiệp 2005 về công ti hợp danh” để làm bài tập lớn học kì với mong muốn bổ sung và củng cố thêm kiến thức đã học.
NỘI DUNG
Khái niệm và đặc điểm chung của công ti hợp danh.
Khái niệm:
Công ty hợp danh là một loại hình công ty trong đó các thành viên chia sẻ lợi nhuận cũng như thua lỗ của công ty mà họ cùng nhau đầu tư vào. Tại hầu hết các nước, công ty hợp danh được tạo nên từ một hợp đồng hợp tác giữa các cá nhân, những người với tinh thần hợp tác, đồng ý thành lập nên doanh nghiệp, đóng góp cho nó bằng tài sản, hiểu biết, hoạt động và cùng chia sẻ lợi nhuận. Giữa các thành viên có thể có một hợp đồng hợp tác hoặc một bản tuyên bố hợp tác và trong một số hệ thống luật pháp, những thỏa thuận như vậy có thể được đăng ký và công bố rộng rãi cho công chúng. Ở nhiều nước, công ty hợp danh có thể được coi là có tư cách pháp nhân, trong khi một số nước khác lại có quan điểm trái ngược.
1.2. Đặc điểm:
Theo Điều 130 Luật doanh nghiệp Việt nam 2005 thì công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó: Phải có ít nhất 2 thành viên là chủ sỡ hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (gọi là thành viên hợp danh), ngoài các thành viên có thể có thành viên góp vốn; Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ công ty; Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty; Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; Trong quá trình hoạt động, công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
Như vậy, nếu căn cứ vào những đặc điểm trên thì công ty hợp danh theo Luật doanh nghiệp có thể được chia ra làm hai loại. Loại thứ nhất là loại chỉ gồm những thành viên hợp danh (hợp danh tuyệt đối). Loại thứ hai là công ty có cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn loại này các nước gọi là công ty hợp vốn đơn giản (hợp danh hữu hạn) và cũng là một loại hình của công ty đối nhân. Nhưng hai “loại” này lại được quy định chung vào với nhau, không tách bạch. Việc Luật Doanh nghiệp 2005 gộp chung hai hình thức công ty hợp danh dưới một tên gọi chung và một quy chế pháp lý chung đã dẫn đến nhiều bất cập, mà trước hết là quy định về số lượng thành viên tối thiểu trong công ty hợp danh khi nó là điều kiện buộc công ty phải giải thể. Một trong những trường hợp mà các doanh nghiệp bắt buộc phải giải thể theo quy định tại Điều 157 Luật Doanh nghiệp 2005 đó là “Công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định của Luật này trong thời hạn sáu tháng liên tục”. Đối với các loại hình doanh nghiệp khác thì cứ theo lượng thành viên tối thiểu mà luật Doanh nghiệp quy định, nếu không đủ trong sáu tháng liên tục thì giải thể, nhưng đối với công ty hợp danh là cả một vấn đề lớn. Đối với công ty hợp danh thông thường chỉ bao gồm một loại thành viên hợp danh thì rất đơn giản nhưng đối với công ty hợp danh hữu hạn, việc tồn tại của thành viên góp vốn có ý nghĩa quan trọng thay đổi bản chất công ty, luật chỉ quy định “ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn” mà không quy định trong công ty hợp danh hữu hạn thì phải có tối thiểu bao nhiêu thành viên góp vốn, nếu chỉ áp dụng điều kiện chung là không đủ hai thành viên hợp danh thì công ty giải thể, vậy khi không còn một thành viên góp vốn nào trong công ty hợp danh hữu hạn thì công ty không giải thể? Mà khi không còn thành viên góp vốn thì liệu rằng công ty đó có còn đúng bản chất là công ty hợp danh hữu hạn nữa hay không? Ta thấy quy định của pháp luật về vấn đề này còn cứng nhắc, khó áp dụng trong thực tiễn.
Pháp luật của đa số các nước trên thế giới đều phân tách riêng biệt hai loại công ty hợp danh với hai quy chế điều chỉnh riêng biệt, hoặc là chỉ chấp nhận một hình thức công ty hợp danh mang bản chất hợp danh tuyệt đối hoặc là thừa nhận sự tồn tại của hai loại công ty hợp danh và có những quy định riêng biệt tương ứng.
Thành lập công ty hợp danh:
Công ty hợp danh được thành lập và bắt đầu cuộc sống của nó với tư cách là một pháp nhân độc lập sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (K2 Điều 130 Luật DN 2005). Luật Việt Nam nhấn mạnh ý nghĩa của hành vi đăng ký kinh doanh. Trong khi đó, luật lệ nhiều nước lại xem hợp danh như khế ước, bởi vậy hợp danh có thể được thành lập thông qua thỏa thuận, đăng ký kinh doanh đôi khi chỉ có ý nghĩa công khai hóa. Lý do của vấn đề này có thể luận giải như sau: vì hợp danh trước hết là liên kết của hai hay nhiều người, luật pháp các nước thường đề cao thỏa thuận giữa các thành viên. Công ty hợp danh về nguyên tắc được thiết lập nếu các thành viên đã thỏa thuận cách thức hùn vốn, tạo tài sản chung, chia quyền điều hành và lỗ, lãi. Nói cách khác, khế ước giữa các bên đã xác lập nên hợp danh chứ không phải giấy chứng nhận của cơ quan đăng ký kinh doanh.
Mặc dù vậy, thỏa thuận thành lập công ty hợp danh cũng rất quan trọng theo pháp luật Việt Nam. Nội dung các thỏa thuận này được ghi nhận trong điều lệ công ty hợp danh và giấy đề nghị đăng ký kinh doanh (điều 17, 21, 22 Luật doanh nghiệp). Ngoài các quy định của luật doanh nghiệp, các quy định chung từ điều 388 đến điều 411 của BLDS 2005 vẫn có thể được dẫn chiếu để xem xét hiệu lực của thỏa thuận hợp danh, việc tuân thủ các nghĩa vụ đã cam kết của các thành viên cũng như trách nhiệm pháp lí nếu có vi phạm. Ngoài ra các thành viên hợp danh cần có chứng chỉ hành nghề (ví dụ thẻ luật sư, thẻ kiểm toán viên) đối với những dịch vụ cần có chứng chỉ và các điều kiện hành nghề khác theo quy định của pháp luật chuyên ngành (khoản 5 điều 17 LDN). Hồ sơ, thủ tục thành lập công ty hợp danh được quy định trong Luật doanh nghiệpvà Nghị định 43/2010 của Chính Phủ về đang ký kinh doanh.
Thành viên công ty hợp danh:
Như vậy, theo quan điểm của các nhà làm luật nước ta thì công ty hợp danh có thể là công ty chỉ có một loại thành viên, đó là thành viên hợp danh. Cũng có thể công ty hợp danh có hai loại thành viên là thành viên hợp danh chịu trách nhiệm liên đới và vô hạn, thành viên góp vốn chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn góp vào công ty. Điều này khác với quan niệm của các nhà làm luật ở nước ngoài. Như đã nói ở trên, công ty hợp danh là công ty đối nhân điển hình. Tất cả các thành viên đều chịu trách nhiệm trực tiếp, liên đới và vô hạn về các khoản nợ của công ty. Nếu các thành viên thỏa thuận khác, chẳng hạn có một thành viên chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn thì lập tức công ty sẽ không còn là công ty hợp danh nữa mà chuyển thành hình thức công ty khác. Việc các nhà làm luật ở nước ta quy định công ty hợp danh có hai loại thành viên dẫn tới một điều không hợp lý là: “khi công ty hợp danh có hai loại thành viên - một là thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới với nhau và một thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp của mình - ra đời và hoạt động thì khách hàng, những người có làm ăn quan hệ với công ty, sẽ phải tìm hiểu rõ thành viên nào chịu trách nhiệm hữu hạn và thành viên nào chịu trách nhiệm vô hạn để giao dịch và đòi nợ. Bởi vì, thành viên chịu trách nhiệm hữu hạn về khoản nợ của công ty trong phạm vi vốn góp vào công ty. Khách hàng không có quyền đòi thành viên chịu trách nhiệm hữu hạn trả toàn bộ số nợ cho mình, nếu số nợ đó lớn hơn phần vốn góp của thành viên này. Đây là điểm yếu của quy định pháp luật Việt Nam, với quy định như này thì vấn đề gặp rủi ro của khách hàng khi làm ăn với công ty sẽ cao hơn, hay nói cách khác là nhà làm luật đã đẩy rủi ro về phía khách hàng nhiều hơn.
Ta thấy luật quy định thành viên hợp danh chỉ có thể là cá nhân chứ không thể là pháp nhân vì trách nhiệm của thành viên hợp danh là trách nhiệm vô hạn, trách nhiệm này chỉ có cá nhân mới có thể đảm nhiệm được còn pháp nhân thì vấn đề này rất khó thực hiện. Đây là quy định rất đúng của luật. Còn với thành viên góp vốn thì luật quy định đó có thể là pháp nhân hoặc là cá nhân hoặc cả những người được quy định tại Điều 13 trừ cán bộ, công chức được quy định trong pháp lệnh cán bộ, công chức. Còn thành viên hợp danh thì phải tuân theo Điều 13 của luật doanh nghiệp 2003.
Chế độ chịu trách nhiệm:
Như đã nói ở trên thì công ty hợp danh có hai loại thành viên là thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới về các khoản nợ của công ty. Còn thành viên góp vốn chỉ phải chịu trách nhiệm theo phần vốn góp của thành viên đó vào công ty. Tuy nhiên, những quy định về thành viên góp vốn có sự mâu thuẫn với nhau, đó là mâu thuẫn giữa điểm c Khoản 1 Điều 130 với Khoản 3 Điều 131 và Khoản 2 Điều 140. Điểm c Khoản 1 Điều 130 quy định rằng thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Tuy nhiên, Khoản 3 Điều 131 thì quy định trường hợp thành viên góp vốn không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết thì số vốn chưa góp đủ được coi là khoản nợ của thành viên đó với công ty. Tại Khoản 2 Điều 140 quy định thành viên góp vốn chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp. Như vậy khi xảy ra tranh chấp thật khó xác định, việc xác định ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành trước. Song theo tôi nên quy định thành viên góp vốn chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào công ty.
Phát hành chứng khoán.
Theo quy định của luật doanh nghiệp tất cả các loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân đều được phát hành trái phiếu trừ công ty hợp danh. Nguyên nhân của sự khác nhau về quyền phát hành chứng khoán giữa công ty hợp danh và các loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoạt động theo luật doanh nghiệp xuất phát từ tính chất đóng và hạn chế tiếp nhận thành viên mới của công ty hợp danh. Thực tế lý do này chưa thỏa đáng. Cổ phiếu (phổ thông) đem lại quyền sở hữu và quyền quản trị công ty cho chủ sở hữu cổ phần là các cổ đông. Trái phiếu đem lại trái quyền cho chủ sở hữu trái phiếu đó, họ trở thành chủ nợ của công ty và việc phát hành trái phiếu chỉ ảnh hưởng tới khả năng tài chính của công ty. Do vậy, việc pháp luật không cho phép công ty hợp danh phát hành cổ phiếu là hoàn toàn phù hợp với bản chất của loại hình công ty này. Nhưng việc phát hành trái phiếu để huy động vốn cũng không ảnh hưởng đến tính chất đóng và hạn chế tiếp nhận thành viên mới của công ty hợp danh.
Tư cách pháp lý của công ti.
Nếu như Luật doanh nghiệp năm 1999 không quy định công ty hợp danh có tư cách pháp nhân thì đến Luật doanh nghiệp năm 2005, các nhà làm luật đã quy định điều này. Với tư cách pháp lý này, công ty hợp danh thuận lợi hơn trong các quan hệ pháp luật và cũng phải chịu những trách nhiệm như các pháp nhân khác. Các nhà làm luật đã làm cho công ty hợp danh có tài sản riêng (một trong những yêu cầu của pháp nhân) bằng cách quy định: khi thành viên góp vốn vào công ty thì phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản cho công ty. Tuy nhiên, quy định công ty hợp danh có tư cách pháp nhân có ổn hay không? Hãy cùng xem xét vấn đề này.
Luật doanh nghiệp năm 2005 thừa nhận công ty hợp danh là một pháp nhân trong khi vẫn quy định về chế độ chịu trách nhiệm vô hạn của ít nhất hai thành viên hợp danh đối với các khoản nợ của công ty là chưa nhất quán với quy định về pháp nhân trong bộ luật. Khoản 3 Điều 84 BLDS quy định pháp nhân không những phải có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác mà pháp nhân còn phải tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó. Theo luật doanh nghiệp khi tài sản của công ty hợp danh không còn đủ để thanh toán thì các thành viên hợp danh phải đem tài sản riêng của mình để thanh toán khoản nợ đến hạn của công ty. Bên cạnh đó, Khoản 3 Điều 93 BLDS quy định: “Thành viên của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa vụ do pháp nhân xác lập, thực hiện”. Bởi vậy, trong trường hợp trên, theo quy định của luật doanh nghiệp thì rõ ràng thành viên pháp nhân đã phải chịu trách nhiệm dân sự thay pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện, như vậy là mâu thuẫn với bộ luật dân sự.
Các quy định về công ty hợp danh:
2.1. Bản chất pháp lý của công ty hợp danh:
Cũng như đặc tính chung của tất cả công ty đối nhân, mỗi thành viên trong công ty hợp danh đều có phần của mình trong công ty gọi là phần lợi. Phần lợi của mỗi người tương ứng với phần vốn góp của họ vào công ty. Vốn góp của các thành viên có thể là tài sản hoặc hiện vật, có khi vốn góp chỉ là uy tín kinh doanh. Nếu một người góp vốn bằng uy tín kinh doanh hay bằng giá trị tinh thần khác thì phần vốn góp đó phải được trị giá bằng tài sản tương ứng. Công ty hợp danh phải hoạt động dưới một hãng chung và đặt tên công ty theo luật định. Hợp danh có nghĩa là kinh doanh dưới một tên chung cho nên tên của công ty phải mang tên ít nhất của một thành viên kèm theo các chữ “và công ty”, “và các con” hoặc “và anh em”…đặt tên cho công ty là để phân biệt công ty này với công ty khác.
Trong công ty hợp danh, tất cả các thành viên hợp danh đều có tư cách thương nhân. Điều này có nghĩa là nếu muốn trở thành thành viên của công ty hợp danh thì cần phải có năng lực cần thiết mà pháp luật quy định để hành nghề kinh doanh. Vì có tư cách thương nhân nên mỗi thành viên hợp danh đều phải ghi tên mình vào sổ thương mại. Nếu công ty bị phá sản thì mỗi thành viên đương nhiên bị công bố phá sản. Sở dĩ như vậy là vì mỗi thành viên đều phải chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới về công việc của công ty, do đó mặc dù công ty là một tổ chức biệt lập nhưng trách nhiệm của công ty cũng đồng nhất với trách nhiệm của mỗi thành viên.
Việc thay đổi thành viên trong công ty hợp danh rất khó khăn, chỉ cần có một thành viên chết hoặc ra khỏi công ty là công ty có thể bị giải thể. Ngược lại, thành viên hợp danh của công ty muốn ra khỏi công ty chỉ có cách xin giải thể công ty hoặc chờ đến ngày công ty hết thời hạn đăng kí. Các thành viên của hợp danh không được chuyển nhượng phần vốn góp của mình trong công ty cho người khác. Sở dĩ có quy định như vậy là bởi bất cứ việc chuyển nhượng phần vốn nào trong bất cứ loại hình công ty nào cũng đều dẫn đến sự thay đổi của các thành viên. Mà việc thay đổi của các thành viên trong công ty hợp danh đều dẫn tới việc giải thể công ty. Chính vì thế mà các nhà làm luật không cho các thành viên hợp danh tự do chuyển nhượng phần vốn góp của mình. Việc quy định này rất có lợi cho công ty hợp danh vì nó tránh được sự xâm nhập của người ngoài vào công ty.
Tuy nhiên việc chuyển nhượng vốn của các thành viên góp vốn không bị cấm và không bị hạn chế. Các thành vên góp vốn giống như một bộ trợ lực cho công ty hợp danh chứ không phải là nguyên nhân để ra đời công ty, vì thế trợ lực đó có thể bị thay đổi mà không làm ảnh hưởng đến sự tồn tại của công ty
2.2. Quy chế thành viên trong công ty
Thành viên hợp danh.
Thành viên hợp danh theo quy định của luật phải là cá nhân, có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp và phải tự mình chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty và phải đáp ứng đủ điều kiện như quy định của Điều 13 luật doanh nghiệp 2005.
Một trong các điều kiện tiên quyết của thành viên hợp danh trong công ty hợp danh phải là cá nhân. Các đối tượng khác như pháp nhân, tổ chức… không thể trở thành thành viên hợp danh của công ty này vì thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Điều này chỉ có cá nhân mới có thể làm còn tổ chức hoặc pháp nhân thì rất khó để thực hiện. Nếu công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực ngành nghề như dịch vụ pháp lý, khám chữa bệnh, dược phẩm, dịch vụ thú y, thiết kế công trình, kiểm toán, môi giới chứng khoán..thì các thành viên phải có chứng chỉ hành nghề; các trường hợp khác các thành viên hợp danh phải là người được đào tạo về ngành nghề đăng ký kinh doanh.
Xuất phát từ chế độ chịu trách nhiệm vô hạn của thành viên hợp danh mà Điều 134 Luật doanh nghiệp 2005 quy định thành viên hợp danh có quyền quyết định các vấn đề của công ty, tiến hành các hoạt động kinh doanh nhân danh công ty, cùng liên đới chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty.
Như vậy có thể nói rằng các thành viên hợp danh trong công ty hợp danh có quyền tự điều hành, quản lý công ty, sử dụng tài sản của công ty vào việc kinh doanh nhân danh công ty đến những việc nội bộ khác của công ty cũng như nhận được thông tin về hoạt động kinh doanh của công ty. Có thể nói, trong công công ty hợp danh, các thành viên hợp danh được luật quy định cho các quyền của một chủ công ty thực sự. Đi đôi với quyền là chế độ chịu trách nhiệm vô hạn mà mỗi thành viên hợp danh phải gánh vác khi thực hiện hoạt động kinh doanh nhân danh công ty. Thành viên hợp danh chịu trách nhiệm về các hoạt động của công ty từ khi đăng ký vào danh sách thành viên của công ty, bất kể là thành viên đó trực tiếp tham gia thực hiện các dịch vụ phát sinh trách nhiệm ấy hay không.
Trách nhiệm của thành viên hợp danh là trách nhiệm vô hạn và liên đới, thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm với các nghĩa vụ của công ty ngay từ khi đăng kí trở thành thành viên của công ty, phải chịu trách nhiệm ngay cả khi chưa được hưởng một chút lợi nhuận nào và thậm chí phải chịu trách nhiệm ngay cả khi đã chấm dứt tư cách thành viên hợp danh với các nghĩa vụ phát sinh từ hoạt động trước khi thành viên đó chấm dứt tư cách thành viên của công ty. Theo Điều 133 của luật doanh nghiệp thì: “ thành viên hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp danh của doanh nghiệp tư nhân khác, trừ trường hợp được sự nhất trí của các thành viên còn lại”. Quy định này xuất phát từ lý do thành viên hợp danh chỉ có thể chịu trách nhiệm vô hạn một lần, bởi lẽ, một cá nhân thì chỉ có một khối tài sản chung duy nhất, cho nên không thể chịu trách nhiệm vô hạn nhiều hơn một lần. Mặt khác, quy định như vậy là cũng tránh tình trạng giữa bản thân thành viên hợp danh và công ty hợp danh tranh chấp quyền lợi với nhau.
Luật pháp đề cao vai trò của thành viên hợp danh trong công ty hợp danh thông qua việc quy đinh tất cả các thành viên hợp danh của công ty hợp danh đều có tư cách thương nhân. Điều này, có nghĩa là các thành viên hợp danh có quyền hoạt động thương mại một cách độc lập, song theo Khoản 2 Điều 133 thì thành viên hợp danh không được quyền nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác thực hiện kinh doanh cùng ngành, nghề kinh doanh của công ty để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác mà theo điểm b Khoản 1 Điều 134 thì thành viên hợp danh chỉ được nhân danh công ty để tiến hành các hoạt động thương mại. Như vậy ta có thể thấy mặc dù thành viên hợp danh tuy có tư cách thương nhân nhưng vẫn không được tự do tuyệt đối kinh doanh nhân danh mình hoặc người khác, đây thực sự là một hạn chế của luật doanh nghiệp vì theo tôi thì các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn về các nghĩa vụ của công ty nên nếu thành viên đó có kinh doanh nhân danh cá nhân mình để kinh doanh thì cũng không dám làm tổn hại đên công ty vì nếu mà làm tổn hại đến công ty thì anh ta cũng phải chịu trách nhiệm vô hạn nên không dại gì mà họ lại làm tổn hại đến lợi ích của mình bằng cách này hay cách khác.
Thành viên góp vốn.
Khác với thành viên hợp danh thì thành viên góp vốn không chỉ là cá nhân mà có thể là tổ chức hoặc pháp nhân trừ cán bộ, công chức theo pháp lệnh cán bộ, công chức hoặc cơ quan nhà nước, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang. Cũng khác so với thành viên hợp danh là phải chịu trách nhiệm vô hạn về các nghĩa vụ của công ty còn thành viên góp vốn chỉ phải chịu trách về các nghĩa vụ của công ty trong phạm vi vốn đã cam kết góp vào công ty (theo điểm c Khoản 1 Điều 130). Công ty hợp danh theo luật doanh nghiệp có thể có cả thành viên góp vốn. Sở dĩ luật doanh nghiệp quy định có cả hai loại thành viên là tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sự liên kết giữa các nhà đầu tư. Luật quy định như vậy cũng chính là tạo điều kiện vật chất cho một công ty hợp danh thực ra đời, bởi vì nếu như một nhóm người hợp danh có thêm một lượng cơ sỏ vật chất nhất định được đóng góp từ những thành viên góp vốn, chắc chắn điều kiện đầu tư sẽ dễ dàng hơn, nâng cao được chất lượng dịch vụ, hàng hóa và quan trọng nhất là thu hút được người sử dụng dịch vụ ngày càng nhiều. Hơn nữa luật doanh nghiệp quy định như vậy “là nhằm triệt để thu hút vốn nhàn rỗi vì có nhiều người có tiền nhưng không có phương hướng kinh doanh hoặc không muốn mạo hiểm trong kinh doanh; việc luật quy định như vậy là mở ra cho họ con đường mới là tìm đến những người có nghề nhưng không có vốn hoặc vốn ít, để hợp nhau lại cùng kinh doanh và những người bỏ vốn sẽ hưởng lợi nhuận trên tỉ lệ vốn góp vào công ty.
Ta thấy luật quy định các thành viên góp vốn có thể là tổ chức, pháp nhân thì như vậy người nước ngoài, tổ chức nước ngoài không thường trú tại Việt Nam có thể trở thành thành viên góp vốn của công ty hợp danh vì họ không thuộc đối tượng bị cấm. Tuy nhiên, thẩm quyền quyết định cho nhà đầu tư góp vốn vào công ty hợp danh hoàn toàn do các thành viên hợp danh quyết định.
Ngoài các quyền giống thành viên hợp danh là được chia lợi nhuận theo điều lệ công ty, được nhận thông tin cơ bản của công ty và các quyền khác thì thành viên góp vốn cũng có những hạn chế. Hạn chế này được quy định trong Điều 140 của luật này như: chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty, không được tham gia quản lý công ty, không được tiến hành hoạt động kinh doanh trên danh nghĩa công ty…
Luật doanh nghiệp không thừa nhận quyền quản lý công ty hợp danh của các thành viên góp vốn không có nghĩa là không tuân thủ nguyên tắc công bằng giữa các thành viên công ty trong quan hệ với bên ngoài cũng như trong nội bộ công ty. Nhưng trong hoạt động thì công ty cũng phải có sự phân công trách nhiệm và quyền hạn rõ ràng để đảm bảo hiệu quả cho hoạt động của công ty. Những thành viên hợp danh góp vốn bằng cả “chất xám” và sử dụng “chất xám” ấy để sinh lợi nhuận cho nên hơn ai hết họ hiểu được họ cần làm thế nào cho hiệu quả nhất, mặt khác luật doanh nghiệp quy định cho họ một cơ chế trách nhiệm vô hạn nên buộc họ phải cẩn trọng trong kinh doanh. Từ lý do đó, luật trao cho những thành viên hợp danh quyền quản lý, điều hành công ty là hợp lý, vừa đảm bảo lợi ích cho họ, vừa đảm bảo lợi ích cho công ty. Đối với những thành viên góp vốn, ngoài những nghĩa vụ chung đối với công ty như phải góp đủ vốn, chấp hành điều lệ công ty, nội quy công ty, không được tham gia quản lý công ty thì họ chỉ chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty trong phần vốn góp vào công ty. Chính vì thế mà các thành viên góp vốn có thể sẽ không cẩn trọng đến mức tối đa nếu trao quyền quản lý công ty cho họ, việc này sẽ làm tổn hại đến thành viên hợp danh và gia đình họ
2.3. Vốn trong công ty hợp danh.
Vốn góp của công ty hợp danh cũng như các loại hình công ty khác là giống với quy định tại Khoản 4 Điều 4 của luật doanh nghiệp. Tuy nhiên công t yhợp danh là công ty đối nhân nên nó khác với công ty cổ phần hay trách nhiệm hữu hạn. Với tính chất là công ty đối vốn nên phần vốn góp của công ty cổ phần hay trách nhiệm hữu hạn chỉ đơn thuần mang tính vật chất như tiền bạc, tài sản, giấy tờ có giá… với công ty hợp danh ngoài yếu tố vật chất còn có cả yếu tố phi vật chất đó chính là danh tiếng, uy tín, chuyên môn nghề nghiệp của thành viên hợp danh. Nói cách khác, phần vốn góp của thành viên hợp danh trong công ty hợp danh không chỉ bao gồm phần vốn góp nguyên nghĩa của nó mà còn cả yếu tố nhân thân của thành viên hợp danh, và yếu tố này quyết định việc thành lập và hoạt động của công ty hợp danh. Trong công ty hợp danh, về nguyên tắc thì các thành viên hợp danh không được đem phần vốn góp của mình trong công ty để chuyển nhượng cho người khác và khi chết thì phần vốn góp đó cũng không được thừa kế nếu như các thành viên hợp danh khác không đồng ý.
Việc thành lập công ty hợp danh đều căn cứ vào sự tin cậy, quen biết giữa các thành viên hợp danh với nhau. Những người thỏa thuận thành lập công ty hợp danh đều là những người biết rõ về nhau, uy thế cá nhân, khả năng làm việc, khả năng tài chính của nhau. Vì họ phải liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về các nghĩa vụ của công ty nên việc hiểu rõ về nhau như vậy là rất cần thiết. Do vậy nếu chấp nhận một thành viên hợp danh của công ty rút khỏi công ty bằng cách đem phần vốn góp của mình chuyển nhượng cho người khác để người này trở thành viên hợp danh của công ty thì hậu quả sẽ là một người “xa lạ” mà các thành viên hợp danh khác không biết rõ về nhân thân của người này dẫn đến rất khó chấp thuận thành viên đó. Luật quy định như vậy là để đảm bảo sự an toàn cho công ty hợp danh và cả thành viên mới vào.
Là một công ty đối nhân nên công ty hợp danh không được phép phát hành bất kì loại chứng khoán nào để huy động vốn trong công chúng. Đây là một quy định hạn chế quyền của công ty hợp danh nhưng nó cũng là một thiết chế tốt để ngăn chặn những người bên ngoài xâm nhập vào công ty. Trong quá trình hoạt động, công ty hợp danh có thể tăng vốn điều lệ bằng cách tăng phần vốn góp của các thành viên hợp danh hoặc kết nạp thành viên mới vào công ty theo quy định của pháp luật và điều lệ của công ty.
Tài sản của công ty hợp danh bao gồm tài sản góp vốn của các thành viên đã chuyển nhượng quyền sở hữu cho công ty; tài sản tạo lập được mang tên công ty; tài sản thu được từ hoạt động kinh doanh của các thành viên thực hiện nhân danh công ty và từ hoạt động kinh doanh đã đăng ký của công ty do các thành viên hợp danh nhân danh cá nhân thực hiện; các tài sản khác theo quy định của pháp luật. Theo Điều 131 của luật doanh nghiệp thì thành viên góp vốn cũng như thành viên hợp danh phải góp đủ số vốn như đã cam kết, nếu không góp đủ thì số vốn còn thiếu đó được coi là khoản nợ của công ty.
2.4. Cơ cấu tổ chức và quản lý trong công ty hợp danh.
Công ty hợp danh theo pháp luật nước ta là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, nên bắt buộc phải có cơ chế quản lý của một pháp nhân, phải có người đại diện cho pháp nhân vì pháp nhân chỉ có thể hoạt động thông qua người đại diện. Theo Điều 135 luật doanh nghiệp 2005 thì “ tất cả các thành viên họp lại thành hội đồng thành hội đồng thành viên, Hội đồng thành viên bầu ra một thành viên hợp danh làm chủ tịch hội đồng thành viên, đồng thời kiêm giám đốc hoặc tổng giám đốc”. Như vậy cơ cấu tổ chức của công ty hợp danh được quy đinh trong luật sẽ bao gồm Hội đồng thành viên, giám đốc hoặc tổng giám đốc. Trong hội đồng thành viên bao gồm cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn, điều này đồng nghĩa với việc thành viên góp vốn cũng có quyền tham gia vào việc quyết định các vấn đề của công ty, vì tại Khoản 3 Điều 135 có quy định “ hội đồng thành viên có quyền quyết định tất cả các công việc kinh doanh của công ty”. Tuy nhiên trên thực tế, “các thành viên góp vốn không có quyền quản lí, điều hành công ty mà chỉ được tham gia thảo luận và biểu quyết những vấn đề sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty; sửa đổi bổ sung quyền, nghĩa vụ của thành viên góp vốn, về tổ chức lại, giải thể công ty và các vấn đề khác của điều lệ có liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của họ. Vậy có nghĩa là các nhà luật quy định thừa vì trên thực tế các thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty trong phạm vi vốn góp thôi còn các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn nên thành viên góp vốn không được nhân danh công ty để kinh doanh là đúng. Thành viên góp vốn chỉ được quyền kinh doanh nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác chứ không được nhân danh công ty. Tuy nhiên theo tôi thì các thành viên góp chỉ đóng vai trò như một trợ lực cho công ty và họ được chia lợi nhuận theo tỉ lệ vốn góp vào công ty là đủ chứ không cần kinh doanh những ngành nghề mà công ty đã đăng kí. Vì như vậy sẽ dẫn đến sự hiểu lầm cho khách hàng khi giao dịch với họ và buộc khách hàng phải quan tâm tìm hiểu về công ty và các thành viên của công ty nhiều hơn, và sẽ mất nhiều thời gian hơn.
Việc điều hành kinh doanh của công ty được thực hiện bởi các thành viên hợp danh chứ không phải giám đốc hoặc tổng giám đốc. Mặt khác, ta thấy công ty hợp danh là một pháp nhân nên phải có một người đại diện cho pháp nhân tham gia các quan hệ xã hội cũng như trong quan hệ với pháp luật. Nhưng ta lại thấy trong công ty hợp danh tất cả các thành viên hợp danh đều có quyền điều hành kinh doanh và theo Khoản 1 Điều 137 thì: “các thành viên hợp danh có quyền đại diện theo pháp luật và tổ chức diều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty”. Như vậy ta thấy vai trò của các thành viên hợp danh trong công ty rất lớn, bởi vì họ có quyền quyết định tất cả các vấn đề của công ty. Vai trò của giám đốc hay tổng giám đốc không lớn lắm, họ chỉ làm nhiệm vụ phân công, phối hợp, điều hòa công việc giữa các thành viên hợp danh; điều hành công ty theo sự phân công, phân nhiệm hoặc ủy quyền của hội đòng thành viên. Giám đốc công ty hợp danh không có quyền tự quyết bất cứ một vấn đề gì nếu không thông qua hội đồng thành viên của công ty. Ngay cả trong việc đại diện cho công ty trong quan hệ với nhà nước; đại diện cho công ty với tư cách là bị đơn hay nguyên đơn trong các vụ kiện, tranh chấp thương mại hoặc tranh chấp khác thì đơn giản cũng chỉ vì chủ tịch hội đồng thành viên , giám đốc hoặc tổng giám đốc đó cũng chính là thành viên hợp danh của công ty hợp danh mà thôi.
2.5. Giải thể và phá sản công ty hợp danh
Cũng như các doanh nghiệp khác, hợp danh có thể được giải thể tự nguyện hay bắt buộc; khi mất khả năng thanh toán có thể được xử lí theo thủ tục phá sản doanh nghiệp (điều 157 - 159 LDN).
Giải thể:
Giải thể công ty là việc chấm dứt sự tồn tại của công ty, chấm dứt hoạt động kinh doanh của công ty theo quyết định của cơ quan đã cấp giấy phép hoạt động cho công ty hợp danh đó. Sau khi hoàn tất thủ tục giải thể, công ty sẽ bị xóa tên trong sổ đăng kí kinh doanh. Công ty hợp danh bị giải thể trong các trường hợp sau: Kết thúc thời hạn hoạt động đã ghi trong điều lệ của công ty mà không có quyết định gia hạn; Giải thể theo quyết định của tất cả các thành viên. Đây là trường hợp các thành viên hợp danh không muốn kinh doanh chung nữa nên quyết định giải thể công ty. Trường hợp này công ty giải thể theo ý muốn chủ quan của các thành viên chứ không phải từ phía các cơ quan nhà nước; Công ty không đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy đinh của luật doanh nghiệp 2005 trong thời hạn 6 tháng. Như đã nói ở trên thì thành viên hợp danh trong công ty hợp danh có vai trò rất lớn, nếu trong trường hợp một thành viên xin rút khỏi công ty hoặc bị tòa án tuyên bố là đã chết thì rất dễ dẫn tới việc công ty bị giải thể. Vì các thành viên hợp danh là những người “sống chết có nhau” nên nếu một thành viên ra khỏi công ty hoặc chết thì rất khó để tiếp nhận thành viên mới vào công ty. Vì thành viên hợp danh là những người kinh doanh nhân danh công ty, không kể trong trường hợp công ty đòi hỏi phải có giấy phép hành nghề của các thành viên hợp danh cho nên việc tìm thành viên mới để thay thế thành viên cũ là rất khó; Công ty bị giải thể do bị thu hồi giấy phép đăng kí kinh doanh. Đây là trường hợp công ty vi phạm các quy định của nhà nước nên bị thu hồi giấy phép kinh doanh. Việc giải thể này không phụ thuộc vào các thành viên của công ty.
Phá sản công ty hợp danh:
Trong phá sản, thành viên hợp danh khi nhận thấy công ty hợp danh lâm vào tình trạng phá sản có quyền nộp đơn xin mở thủ tục phá sản đối với công ty. Nhưng thủ tục giải quyết phá sản của công ty hợp danh có điểm khác biệt so với các loại hình khác. Kể cả khi công ty được xóa tên khỏi sổ đăng ký kinh doanh sau khi thanh lí theo thủ tục phá sản, điều đáng lưu ý là các thành viên hợp danh không được tuyên bố miễn trách nhiệm trả nợ; ngược lại, họ vẫn phải chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của công ty (khoản 1 điều 90 Luật phá sản). Một số vấn đề được đặt ra thêm như: Thành viên hợp danh cũng là một thương nhân, có quyền tạo lập các hành vi kinh doanh, ký kết hợp đồng và hoàn toàn có thể có nợ. Trong khi đó, họ lại chịu trách nhiệm vô hạn với tư cách là thành viên hợp danh của công ty hợp danh. Một điều được đặt ra là họ sẽ phải thanh toán nợ của công ty trước (trong trường hợp công ty không thể thanh toán hết nợ) rồi mới đến nợ của họ đối với người khác hay ngược lại? Việt Nam chưa quy định rõ điều này. Theo Luật Hợp danh thống nhất của Hoa Kỳ thì thành viên hợp danh sẽ phải thanh toán cho chủ nợ của thành viên hợp danh trước, sau đó mới đến nợ của công ty (quy định này áp dụng ngay cả khi chủ nợ của công ty cũng chính là chủ nợ của thành viên hợp danh). Nếu công ty hợp danh chưa trả hết, thành viên hợp danh sẽ phải trả bằng tài sản của mình nhưng theo cách thức nào? Điểm e, khoản 2 điều 134 luật doanh nghiệp có quy định: thành viên hợp danh phải chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp của mình hoặc theo thỏa thuận quy định tại điều lệ công ty (luật doanh nghiệp 1999 không quy định cách thức nào cả). Hiện nay, theo tinh thần Luật phá sản 2004, việc này phụ thuộc việc định giá và đánh giá lại tài sản góp vốn, đây cũng là một vấn đề không dễ giải quyết. Còn Bộ Luật Thương Mại Sài Gòn 1973 có quy định về cách thức trả nợ này của công ty của thành viên hợp danh tùy thuộc vào khế ước lập hội, nếu không sẽ do các hội viên quyết định theo đa số và nếu có Hội Viên bất đồng ý kiến có thể xin Tòa án xét xử
C. KẾT LUẬN
Tóm lại công ty hợp danh là một mô hình công ty rất phù hợp với nền kinh tế nước ta hiện nay. Nó cho phép các công dân không cần nhiều vốn mà vẫn có thể mở các công ty kinh doanh dựa trên sự liên kết giữa các người thân quen nhau. Những quy đinh của Luật daonh nghiệp 2005 về công ty hợp danh khá hoàn chỉnh. Nó là cở sở pháp lý quan trọng để tiến hành các hoạt động của công ty hợp danh. Tuy nhiên Luật doanh nghiệp 2005 vẫn còn có những quy định chưa được hoàn chỉnh về công ty hợp danh. Chính vì vậy mà em mong muốn các nhà làm luật cần nghiên cứu kĩ hơn để đưa ra những quy chế hoàn hảo cho công ty hợp danh. Và, từ đó có thể thu hút được nhiều người hơn tham gia thành lập công ty với mô hình công ty hợp danh này để tăng trưởng thêm nền kinh tế quốc dân ở nước ta. Đặc biệt hơn là có thể sớm xây dựng thành công sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở nước ta như chủ trương của Đảng và nhà nước đã đề ra.
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu
Nội dung………………………………………………………..1
I. Khái niệm và đặc điểm chung của công ty hợp danh ………………….1
1.1 Khái niệm của công ty hợp danh………………………………...1
1.2 Đặc điểm của công ty hợp danh. …………………………………1
II. Các quy định về công ty hợp danh ……………………………………6
2.1 Bản chất pháp lý của công ty hợp danh………………………….6
2.2 Quy chế thành viên trong công ty hợp danh……………………7
2.3 Vốn góp trong công ty hợp danh…………………………………11
2.4 Cơ cấu và tổ chức quản lý trong công ty hợp danh……………….12
2.5 Giải thể và phá sản công ty hợp danh……………………………14
Kết luận
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Luật doanh nhiệp 2005.
giáo trình luật thương mại của trường Đại học Luật Hà Nội 2006, nhà xuất bản công an nhân dân.
Luận văn thạc sĩ của Vũ Thị Hải Yến: một số vấn đề pháp lý của công ty hợp danh.
Khóa luận tốt nghiệp của Đặng Gia Kiên: công ty hợp danh theo pháp luật Việt Nam.
Pháp luật về tổ chức các hình thức kinh doanh của Ths. Nguyễn Thị Khế.
Luận văn thạc sĩ của Trần Thùy Anh: một số khía cạnh pháp lý về công ty hợp danh.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bình luận các quy định của luật doanh nghiệp 2005 về công ti hợp danh.doc