“Bình luận những ưu điểm chủ yếu của luật thuế thu nhập cá nhân so vs Pháp lệnh thuế thu nhập đối vs ng có thu nhập cao”-
Trường ĐH Luật Hà Nội 2011
23 trang
23 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5007 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu “Bình luận những ưu điểm chủ yếu của luật thuế thu nhập cá nhân so vs Pháp lệnh thuế thu nhập đối vs ng có thu nhập cao”-, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong quá trình tồn tại và phát triển, nhà nước luôn xây dựng một hệ thống chính sách thuế hoàn thiệnvới nhiêu sắc lệnh thuế khác nhau. Xét dưới nhiều góc độ thuế luôn chiếm vị trí quan trọng trong chính sách xã hội của nhà nước. Bên cạnh chức năng truyền thống là tạo nguônf thu cho quỹ ngân sách quốc gia, thỏa mãn chi tiêu công cộng, thuế còn là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. So với các quốc gia trên thế giới, hệ thống thuế của Việt Nam tương đối hoàn chỉnh, mỗi loại thuế ra đời vào những thời điểm khác nhau của quá trình phát triển nền kinh tế xã hội và phụ thuộc vào mục đích của nhà nước trong việc áp dụng chính sách thuế đó.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hội nhập nền kinh tế vai trò của thuế lại càng được khẳng định đặc biệt là thuế thu nhập. Năm 1900, Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội ban hành pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao nhằm điều tiết một phần thu nhập của những cá nhân có thu nhập cao hơn mặt bằng chung của xã hội. Để chính sách này trở thành một sắc lệnh thuế hiện đại, có tính cạnh tranh pháp lệnh thuế thu nhập cao đã được sửa đổi nhiều lần.
Tuy nhiên trước sự vận động không ngừng của nền kinh tế thị trường và xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, hệ thống thuế nói chung và thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao nói riêng đã bộc lộ một số nhược điểm. Để đáp ứng được yêu cầu của điều kiện mới thì Quốc hội đã thảo luận và thông qua luật Thuế thu nhập và sẽ có hiệu lực vào ngày 1/1/20009
Vậy để hiểu sâu sắc về luật thuế mới này về những điểm mới so với pháp lệnh thuế trước đây nhóm chúng em chọn đề tài “Phân tích và làm sáng tỏ những ưu điểm chủ yếu của luật thuế thu nhập cá nhân so vs Pháp lệnh thuế thu nhập đối vs ng có thu nhập cao”
Trong quá trình làm bài không tránh khỏi những sai sót, chúng em mong nhận được sự góp ý của các thầy cô
KHÁI NIỆM CHUNG VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN:
Cơ sở ra đời của thuế thu nhập cá nhân:
Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) là tên gọi để chỉ những sắc thuế lấy thu nhập làm đối tượng tính thuế. Trong hệ thống thuế của các nước, thuế TNCN là một loại thuế quan trọng được áp dụng phổ biến ở các nước, đặc biệt ở những nước có nền kinh tế phát triển. Sự ra đời của thuế TNCN bắt nguồn từ các lý do sau:
Thứ nhất, đáp ứng được nhu cầu tài chính của nhà nước. Trong quá trình tồn tại và phát triển để đảm bảo sức mạnh của bộ máy nhà nước và đáp ứng được nhu cầu chi tiêu của nhà nước thì cần phải có sự đóng góp của toàn dân. Sự đóng góp của cá nhân có thể là thuế, phí và lệ phí. Với xu thế phát triển của nền kinh tế thu nhập của cá nhân ngày càng tăng cao, Nhà nước huy động nguồn tài chính to lớn từ việc đóng góp của cá nhân thông qua thuế thu nhập.
Thứ hai, bắt nguồn từ nhu cầu tái phân phối thu nhập và đảm bảo công bằng cho cư dân sống trong xã hội. Trong nền kinh tế tập trung, thu nhập của người dân khá thuần nhất nên không có sự phân biệt đáng kể về thu nhập và phân cực giàu nghèo. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, phân phối thu nhập chủ yếu theo cơ chế thị trường, ai chiếm ưu thế về khả năng, chất lượng lao động, vốn và tư liệu sản xuất người đó sẽ có thu nhập cao. Vì vậy, thu nhập của các cá nhân trong xã hội có sự phân biệt rõ rệt, phân hóa giàu nghèo ngày càng nhanh. Để đảm bảo công bằng xã hội trong quá trình thực hiện chức năng của mình, Nhà nước sử dụng thuế thu nhập như một công cụ hữu hiệu trong việc tái phân phối thu nhập.
Thứ ba, thuế TNCN là công cụ để nhà nước quản lý và điều tiết nền kinh tế của đất nước. Trong quá trình phát triển nền kinh tế, Nhà nước thường sử dụng nhiều công cụ khác nhau để điều tiết và quản lý nền kinh tế xã hội. Thuế TNCN là công cụ để nhà nước thực hiện chức năng đó. Thuế TNCN cũng là một chỉ tiêu quan trọng quy định về vấn đề tích lũy, đầu tư, tiết kiệm, phân bổ nguồn lực. Thông qua việc đánh thuế vào thu nhập mà nhà nước có thể điều tiết hoạt động kinh tế xã hội.
Khái niệm, đặc điểm của thuế thu nhập cá nhân:
Thuế TNCN có một số đặc điểm chung và một số đặc điểm riêng.
Đặc điểm chung gồm một số những đặc điểm sau:
Thuế thu nhập là thuế trực thu, đánh trực tiếp vào thu nhập thực tế phát sinh theo từng lần hoặc theo một khoảng thời gian nhất định. Như vậy có thể hiểu thuế TNCN có đối tượng đánh thuế là thu nhập.
Tuy nhiên hiểu thế nào là “thu nhập” hiện nay chưa có cách hiểu chính thức và có rất nhiều cách hiểu khác nhau cũng có thể hiểu “ thu nhập” là tổng giá trị tài sản và của cải được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ mà cá nhân nào đó trong nền kinh tế xã hội tạo ra và nhận được từ các nguồn lao động, tài sản hay đầu tư thông qua quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong một khoảng thời gian nhất định(thường là một năm).
Thông thường các nhà nghiên cứu kinh tế, pháp lý không đưa ra khái niệm cụ thể về thu nhập mà họ thường liệt kê những thu nhập phải chịu thuế.Trong nền kinh tế thị trường , các khoản thu nhập rất đa dạng. Nếu căn cứ vào nguồn tạo ra thu nhập có thu nhập tạo ra từ lao động có thu nhập tạo ra từ kinh doanh, thu nhập từ tài sản, thu nhập từ hoạt động đầu tư… và các khoản thu nhập khác. Nếu căn cứ vào tính đều đặn của có thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên. Nếu căn cứ theo phạm vi lãnh thổ phát sinh có thu nhập phát sinh trong nước và thu nhập phát sinh ở nước ngoài…
Thuế TNCN có đối tượng đánh thuế là thu nhập đã phát sinh thực tế. Tuy nhiên, không phải thu nhập nào cũng là đối tượng của thuế thu nhập mà chỉ những thu nhập thỏa mãn những điều kiện nhất định mới trở thành đối tượng chịu thuế. Vì thế một trong những nội dung quan trọng của chính sách thu nhập là phải xác định đối tượng chịu thuế. Thông thường thu nhập chịu thuế phải là thu nhập hợp pháp, đã thực tế phát sinh có tính phổ biến và Nhà nước có thể kiểm soát được. Tuy nhiên khi đi vào cụ thể chính sách thuế ở mỗi quốc gia, thu nhập chịu thuế có những quy định riêng tùy theo hoàn cảnh kinh tế và quan điểm đánh thuế của nhà nước nhất là chi phí được khấu trừ trước khi đánh thuế.
Ngoài mục tiêu tạo nguồn thu cho Ngân sách nhà nước thuế thu nhập còn mục tiêu điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tái phân phối thu nhập xã hội, kích thích tiêu dùng hoặc đầu tư.
Có tính ổn định không cao việc quản lý thuế, thu thuế tương đối khó khăn, chi phí quản lý và thu thuế thường lớn hơn so với loại thuế khác. Đối với thuế thu nhập ngoài việc xác định thu nhập chịu thuế còn phải xác định thời điểm phát sinh thu nhập, nguồn gốc, địa điểm, thời hạn cư trú của đối tượng nộp thuế và các khoản chi phí được trừ trước khi tính thuế.
Luật điều chỉnh quan hệ thuế TNCN bao gồm luật quốc gia và luật quốc tế. Thu nhập có thể phát sinh trên lãnh thổ quốc gia hay ngoài lãnh thổ, đối tượng nộp thuế có thể là công dân của quốc gia sở tại hay người nước ngoài. Thuế TNCN có thể được điều chỉnh bởi hiệp định đánh thuế hai lần.
Đặc điểm riêng:
Có diện đánh thuế rộng là tất cả các nguồn thu nhập chịu thuế. Về nguyên tắc tất cả các khoản thu nhập dù là tiền lương hay hiện vật không phân biệt nguồn là từ sản xuất kinh doanh hay từ lao động, đầu tư đều có thể được xếp vào thu nhập chịu thuế sau khi đã loại bỏ các khoản thu nhập không phải chịu thuế.
Thuế TNCN luôn gắn liền với chính sách kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Do thuế TNCN là một loại thuế trực thu, tác động trực tiếp vào thu nhập cá nhân là tái phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội. Để thuế thu nhập đạt được hiệu quả cao trong quá trình áp dụng phải đảm bảo cân bằng lợi ích giữa người nộp thuế và nhà nước phụ thuộc vào chính sách xã hội của mỗi quốc gia khác nhau mà nội dung thuế thu nhập được quy định khác nhau.
Vai trò của thuế thu nhập cá nhân:
Thuế TNCN là loại thuế trực tiếp vào thu nhập phát sinh thực tế. Có các loại thuế thu nhập: thu nhập công ty, thu nhập cá nhân.Trong hệ thống thuế, mặc dù ra đời sau các loại thuế khác nhưng thuế thu nhập đã khẳng định vai trò quan trọng:
Thứ nhất, đây là công cụ quan trọng trong việc tái phân phối lại thu nhập đảm bảo công bằng giữa các đối tượng nộp thuế. Hơn nữa trong nền kinh tế thị trường thu nhập được phối hợp chủ yếu thông qua cơ chế thị trường.
Thứ hai, thuế thu nhập có vai trò tạo nguồn thu cho Ngân sách nhà nước, đảm bảo các khoản chi tiêu công cộng.
Thứ ba, thông qua thuế thu nhập Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô kích thích tiêu dùng hoặc khuyến khích đầu tư phát triển kinh tế. Điều đó thể hiện ở những quy định về ưu đãi, miễn giảm thuế thu nhập…
Sự cần thiết phải ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân:
Ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân là thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực tài chính.
Thuế và Nhà nước là hai phạm trù lịch sử luôn đi cùng nhau, chi phối phụ thuộc nhau. Vì vậy, thuế vừa được hiểu là công cụ kỹ thuật hỗ trợ cho sự tồn tại của Nhà nước mà Bộ máy nhà nước; Mặt khác thuế lại được Nhà nước sử dụng như là công cụ để thực hiện những nhiệm vụ mục đích nhất định. Xuất phát từ nhu cầu đó, Nghị quyết Đại hội Đảng IX và X đã xác định "Áp dụng thuế thu nhập cá nhân thống nhất và thuận lợi cho mọi đối tượng chịu thuế, bảo đảm công bằng xã hội và tạo động lực phát triển" và “Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế theo nguyên tắc công bằng, thống nhất và đồng bộ... Điều chỉnh chính sách thuế theo hướng giảm và ổn định thuế suất, mở rộng đối tượng thu, điều tiết hợp lý thu nhập”. Cụ thể hoá nghị quyết đại hội Đảng, Bộ Chính trị đã thông qua Chiến lược cải cách thuế đến năm 2010, trong đó đặt ra yêu cầu: “Cần sớm xác định các bước đi thích hợp để tăng tỷ trọng các nguồn thu trong nuớc cho phù hợp với tiến trình hội nhập. Mở rộng diện thuế trực thu và tăng tỷ lệ thu từ thuế trực thu”.
Ban hành Luật thuế TNCN nhằm tăng cường công tác kiểm soát, phân phối thu nhập và điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội.
Thuế TNCN là loại thuế trực thu trong hệ thống chính sách thuế. Đối tượng của loại thuế này là thu nhập của những người có thu nhập cao trong xã hội nhằm thực hiện chức năng tái phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội. Thu nhập của cá nhân hay tổ chức hay của quốc gia là chỉ tiêu quan trọng quyết định vấn đề tích luỹ đầu tư, tiết kiệm, tiêu dùng đến vấn đề phân bổ nguồn lực trong xã hội. Thông qua việc đánh thuế vào thu nhập với những cách thức khác nhau. Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết của mình.
Thuế TNCN được xây dựng trên các nguyên tắc "lợi ích", "công bằng" và "khả năng nộp thuế". Theo nguyên tắc lợi ích thì mọi người trong xã hội đều được hưởng những thành quả phát triển của đất nước về thể chế luật pháp, cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội, an ninh trật tự ... đồng thời cũng có nghĩa vụ đóng góp một phần thu nhập của mình cho xã hội thông qua việc nộp thuế. Nguyên tắc "công bằng" và “ khả năng nộp thuế” thể hiện ở chỗ: người có thu nhập cao hơn thì nộp thuế nhiều hơn, người có thu nhập như nhau nhưng có hoàn cảnh khó khăn hơn thì nộp thuế ít hơn, người có thu nhập thấp chưa phải nộp thuế. Thời gian qua ở nước ta, khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa nhóm người có thu nhập cao và nhóm người có thu nhập thấp cũng có xu hướng ngày càng tăng (trong thời gian từ năm 1993 đến năm 2004, khoảng cách này đã tăng từ 3,7 lần lên đến 13,5 lần). Như vậy, việc áp dụng thuế TNCN sẽ góp phần đảm bảo tính hợp lý, công bằng, hiệu quả của hệ thống chính sách thuế và hạn chế sự gia tăng khoảng cách chênh lệch giầu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, đồng thời Nhà nước sẽ nắm được thông tin về thu nhập của cá nhân góp phần phòng chống tham nhũng, lãng phí.
Ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách thuế, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian tới.
Thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng, hệ thống chính sách thuế đã được hình thành và từng bước hoàn thiện qua hai lần cải cách (năm 1990 và năm 1995). Việc ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân đã được đặt ra từ trước đây, nhưng xét thấy chưa đủ điều kiện, vì trong giai đoạn đầu chuyển đổi nền kinh tế, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chưa phát triển, các thị trường đang trong quá trình hình thành, thu nhập dân cư nhìn chung còn thấp và chưa đa dạng (chủ yếu là tiền lương, tiền công). Trong bối cảnh đó, Nhà nước đã sử dụng 3 sắc thuế để động viên cho phù hợp với từng loại thu nhập: đối với thu nhập của cá nhân kinh doanh áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp; đối với người có thu nhập từ tiền lương tiền công cao hơn mức bình quân xã hội áp dụng Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao; đối với người chuyển quyền sử dụng đất, áp dụng Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất. Áp dụng chính sách thuế như nói trên trong thời gian qua là phù hợp, nên đã phát huy tác dụng trong quản lý và thu ngân sách.
Trong những năm tới, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (giai đoạn 2006 – 2010), các thị trường tài chính - tiền tệ, thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường khoa học công nghệ sẽ có sự phát triển mạnh mẽ hơn. Nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng nhanh tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân có cơ hội đầu tư, sản xuất kinh doanh, có thêm nhiều nguồn thu nhập khác nhau: thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương, tiền công, từ dịch vụ và đầu tư tài chính… Bên cạnh đó, cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, số người nước ngoài đến làm ăn sinh sống tại Việt Nam và số người Việt Nam có thu nhập từ nước ngoài cũng sẽ tăng lên.
Trước tình hình trên, chính sách thuế hiện hành đối với thu nhập của cá nhân đã bộc lộ một số hạn chế: chưa thực sự đảm bảo công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ thuế vì cùng là thu nhập của cá nhân nhưng thu nhập từ kinh doanh thì không được trừ khởi điểm và nộp thuế theo mức 28%, trong khi thu nhập từ tiền công, tiền lương trên mức khởi điểm 5 Tr.đ/tháng mới phải nộp thuế và áp dụng thuế suất luỹ tiến từng phần từ 10% đến 40%; còn áp dụng biểu thuế khác nhau giữa người Việt Nam và người nước ngoài, người Việt Nam phải nộp thuế cao hơn người nước ngoài. Chính sách thuế hiện hành cũng chưa phù hợp với thông lệ quốc tế: chưa có một chính sách thuế điều tiết thống nhất đối với thu nhập của cá nhân. Việc duy trì các chính sách thuế hiện hành đối với thu nhập của cá nhân sẽ hạn chế việc khuyến khích cá nhân tích cực lao động, đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, làm giàu chính đáng.
Để đảm bảo phát triển kinh tế xã hội ổn định, bền vững và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, việc tiếp tục hoàn thiện các chính sách tài chính trong đó hệ thống chính sách thuế nói chung, thuế thu nhập cá nhân nói riêng là hết sức cần thiết, nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ phân bổ nguồn lực đồng thời giải quyết tốt các mối quan hệ giữa tiết kiệm, đầu tư và tiêu dùng, giữa tăng trưởng với công bằng xã hội và xóa đói giảm nghèo.
Ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân nhằm đảm bảo ổn định nguồn lực cho ngân sách nhà nước.
Thuế TNCN đóng góp một phần thu lớn cho ngân sách nhà nước nhằm ổn định nguồn thu, đáp ứng yêu cầu chi tiêu của nhà nước để giải quyết các vấn đề an ninh, quốc phòng, an sinh xã hội, phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế…
Thuế TNCN được ban hành có những quy định rõ hơn về đối tượng nộp thuế đã góp phần dẫn đến cơ cấu thu ngân sách nhà nước cũng thay đổi theo hướng nguồn thu từ tích luỹ trong nước được tăng dần và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong ngân sách nhà nước. Thuế TNCN cũng sẽ góp phần nâng cao tỷ trọng thu nội địa để ổn định thu cho ngân sách nhà nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Những điểm mới của Thuế thu nhập cá nhân:
Đối tượng nộp thuế:
Theo Điều 2 Luật thuế TNCN 2007 thì: “Đối tượng nộp thuế TNCN là cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế quy định tại Điều 3 của Luật này phát sinh trong lãnh thổ và ngoài lãnh thổ Việt Nam và cá nhân không cư trú có thu nhập chịu thuế quy định tại Điều 3 của Luật này phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam”. Với quy định này thì đối tượng nộp thuế có các điểm mới sau:
Bổ sung và quy định rõ hơn các đối tượng sau thuộc diện nộp thuế TNCN:
Chuyển cá nhân, hộ kinh doanh có thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh; cá nhân hành nghề độc lập; cá nhân có thu nhập từ chuyển nhượng vốn hiện đang nộp thuế TNDN theo Luật thuế TNDN 2003 sang nộp thuế TNCN. Đây là một điểm mới cơ bản nhất. Quy định này nhằm đảm bảo tính công bằng trong điều tiết thu nhập bởi đã là cá nhân có thu nhập chịu thuế thì dù thu nhập từ bất kỳ nguồn nào cũng đều được đối xử như nhau, tức là đều chịu thuế TNCN thông qua việc áp dụng chung biểu thuế và cùng được giảm trừ gia cảnh đồng thời góp phần tăng thêm nguồn thu cho NSNN.
Trước đây nếu thu thuế theo thuế TNDN 2003 và PL thì không thể hiện sự công bằng giữa cá nhân kinh doanh và cá nhân không kinh doanh (ví dụ: A sản xuất kinh doanh thu nhập 10 triệu/tháng sau khi trừ chi phí hợp lý A nộp thuế : 10 × 28% = 2 triệu 8; trong khi đó B thu nhập từ lương 10 triệu/tháng, B nộp thuế tính theo PL: (10 – 5) × 10% = 500.000; còn nếu tính theo Luật thuế TNCN thì số thuế cả A, B phải nộp là 750.000 ); không công bằng giữa cá nhân không kinh doanh trên ngưỡng chịu thuế suất cao nhất (40%) và cá nhân kinh doanh có thu nhập cao (ví dụ: C, D cùng có thu nhập 100 triệu/tháng nhưng A nộp thuế theo PL thì sẽ phải nộp 31,5 triệu; B là kinh doanh sau khi trừ chi phí thì số thuế nộp là 28 triệu ); không công bằng giữa hộ kinh doanh nhỏ với các doanh nghiệp thường là những đơn vị kinh doanh có quy mô lớn vì Luật thuế TNDN 2003 áp dụng thuế suất chung cho đối tượng nộp thuế, việc áp dụng này là quá cao đối với hộ cá nhân kinh doanh. Do đó việc chuyển các đối tượng trên sang nộp thuế TNCN là phù hợp.
Chuyển cá nhân có thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất (CQSDĐ) hiện đang nộp thuế CQSDĐ theo Luật thuế CQSDĐ 1994 sang nộp thuế TNCN. Trong điều kiện hiện nay những giao dịch về bất động sản mang lại nguồn thu nhập rất lớn cho cá nhân mà theo luật thuế hiện hành họ chỉ phải đóng thuế suất CQSDĐ tính trên giá đất. Vì thế đã làm mất đi một nguồn thu cho NSNN và bất bình đẳng giữa cá nhân không kinh doanh và cá nhân kinh doanh vì cá nhân kinh doanh chịu sự điều chỉnh của thuế TNDN 2003 sẽ phải nộp thuế cho thu nhập từ việc CQSDĐ với thuế suất 28% trong khi đó cá nhân không kinh doanh chỉ nộp thuế CQSDĐ với thuế suất 2% hoặc 4% tuỳ loại đất. Như vậy, cùng với điểm mới trên thì thu nhập từ CQSDĐ được quy định chung trong thuế TNCN do đó sẽ không còn sự bất bình đẳng giữa cá nhân phải nộp loại thuế này và tránh thất thu NSNN.
Bổ sung đối tượng cá nhân có thu nhập từ đầu tư vốn, chuyển nhượng bất động sản khác trừ thu nhập từ CQSDĐ đã nói trên, nhượng quyền thương mại, thu nhập thừa kế, quà tặng trước đây chưa có chính sách động viên hoặc được miễn nộp thuế TNCN. Trong điều kiện hội nhập kinh tế đồng thời Việt Nam đang trong quá trình thực hiện lộ trình cắt giảm thuế theo các cam kết quốc tế và khu vực. Do đó, nguồn thu NSNN sẽ bị giảm đi do thu từ hoạt động xuất nhập khẩu giảm theo nên nguồn thu trong nước phải được tăng dần lên (trong đó có thuế TNCN) nhằm tăng thu NSNN. Bên cạnh đó, việc bổ sung này cũng nhằm sử dụng, quản lý việc khai thác tài nguyên thiên nhiên hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả hơn.
Định nghĩa rõ hơn đối tượng cư trú (đối tượng phải nộp thuế TNCN cho Việt Nam đối với toàn bộ thu nhập, kể cả thu nhập phát sinh ở Việt Nam và nước ngoài). Trước đây, đối tượng cư trú chỉ là cá nhân có mặt ở Việt Nam từ 183 ngày trở lên trong năm dương lịch hoặc tính theo 12 tháng liên tục kể từ khi đến Việt Nam thì Luật thuế TNCN đã bổ sung thêm một điều kiện nữa được coi là cư trú ở Việt Nam, đó là: “cá nhân có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, bao gồm có nơi đăng ký thường trú hoặc có nhà thuê để ở lại Việt Nam theo hợp đồng thuê có thời hạn”. Với bổ sung này thì việc xác định đối tượng nộp thuế được thuận lợi hơn, bao quát hết đối tượng nộp thuế và mở rộng đối tượng nộp thuế một cách hợp lý nhằm tăng nguồn thu cho NSNN.
Thu nhập chịu thuế:
Theo Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thu nhập được phân chia thành thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên. Tuy nhiên, Pháp lệnh không định nghĩa rõ thế nào là thu nhập thường xuyên, thế nào là thu nhập không thường xuyên. Do vậy, trong thực tế, việc tính thuế gặp khá nhiều khó khăn, đồng thời, việc tính thuế đối với từng loại thu nhập không hợp lý, không phù hợp với thông lệ quốc tế. Luật thuế TNCN đã khắc phục được hạn chế này với việc phân loại thu nhập chịu thuế theo nguồn phát sinh thu nhập.
Theo đó, thu nhập chịu thuế bao gồm thu nhập từ kinh doanh; thu nhập từ tiền lương, tiền công; thu nhập từ đầu tư vốn; thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản; thu nhập khác (bao gồm: thu nhập từ trúng thưởng, thu nhập từ bản quyền, thu nhập từ thừa kế, quà tặng, thu nhập từ chuyển nhượng quyền thương mại).
Thu nhập từ kinh doanh; thu nhập từ tiền lương, tiền công và thu nhập từ hoạt động chuyển nhượng bất động sản là những khoản thu nhập kế thừa lần lượt từ Luật thuế thu nhập doanh nghiệp; Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao; Luật thuế chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì các khoản thu nhập còn lại thì:
+ Một số khoản thu nhập trước đây không quy định (mặc nhiên được coi là thu nhập không chịu thuế) nay đã được quy định là thu nhập chịu thuế trong Luật thuế TNCN nhưng có sửa đổi, bổ sung gồm: thu nhập từ chuyển nhượng quyền thương mại; thu nhập từ quà tặng là chứng khoán, phần vốn trong các cơ sở kinh doanh, bất động sản hoặc tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc sử dụng (tuy nhiên, thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản của cá nhận chỉ có nhà ở, đất ở duy nhất được miễn thuế); thu nhập từ casino, thu nhập từ trúng thưởng các cuộc thi có thưởng và các hình thức trúng thưởng khác (trước đây chỉ tính đối với trúng thưởng xổ số và khuyến mại). Tất nhiên, những khoản thu nhập này chỉ bị đánh thúê khi thu nhập phát sinh lớn (từ trên 10 triệu đồng một hợp đồng hoặc một lần phát sinh). Quy định này vừa kiểm soát được sự chuyển dịch quyền sở hữu tài sản, vừa đảm bảo công bằng xã hội, khuyến khích mọi ngưòi lao động tự tạo ra thu nhập, không trông chờ, ỷ lại vào người khác.
Liên quan đến thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng, kế thừa, quà tặng, để phù hợp với điều kiện thực tế nước ta trong giai đoạn hiện nay có một quy định đáng chú ý là Luật thuế TNCN quy định miễn thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng, thừa kế, quà tặng giữa vợ với chồng; cha mẹ đẻ; cha mẹ nuôi; mẹ nuôi với con đẻ, con nuôi; cha chồng mẹ chồng với con dâu; cha vợ mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại với cháu nội, cháu ngoại; anh chị em ruột với nhau.
+ Một số khoản thu nhập trước đây tạm thời chưa thu thuế như thu nhập từ đầu tư vốn (gồm lãi cho vay, lợi tức cổ phần và thu nhập từ đầu tư vốn dưới các hình thức khác); thu nhập từ chuyển nhượng vốn bao gồm cả chuyển nhượng chứng khoán thì nay đã đưa vào thu nhập chịu thuế trong Luật thuế TNCN vì kinh tế ngày càng phát triển, đời sống nhân dân dần được cải thiện nên số tiền nhàn rỗi trong xã hội gia tăng đã được người dân đưa vào đầu tư làm tăng thu nhập cho chính họ.
Do đó, việc thu thuế đối với thu nhập này góp phần thực hiện mục tiêu công bằng, kiểm soát thu nhập và khuyến khích thị trường tài chính phát triển. Tuy nhiên, phần thu nhập từ lãi tiền gửi tại các tổ chức tín dụng (ngân hàng, các quỹ tín dụng và các tổ chức tín dụng khác) và lãi từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ được miễn thuế TNCN. Việc miễn thuế này nhằm mục đích thu hút khoản tiền nhàn rỗi nhỏ lẻ trong dân cư vào các kênh tín dụng, để từ đó sử dụng vốn của nền kinh tế vào hoạt động sản xuất kinh doanh, khuyến khích sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn của xã hội.
+ Thu nhập từ bản quyền đã có quy định từ trước trong thu nhập chuyển giao công nghệ nhưng nay được bổ sung thêm các quyền liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Quy định này nhằm đảm bảo các cam kết của Việt Nam với các nước khi gia nhập vào WTO. Đây là quy định bảo vệ quyền và lợi ích của ngưòi phát minh ra các sản phẩm trí tuệ, góp phần khuyến khích sử dụng sản phẩm khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới, thúc đẩy quá trình phát triển công nghiệp hoá - hiện đại hoá cúa đất nước
Mở rộng diện điều tiết như trên sẽ góp phần điều tiết công bằng thu nhập của các tầng lớp dân cư theo hướng mọi cá nhân có thu nhập (trừ trường hợp thu nhập rất thấp và một số trường hợp đặc biêt) đều phải có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước. Đồng thời, bằng quy định mới này, Luật thuế TNCN sẽ góp phần tăng thu cho ngân sách Nhà nước một cách hợp lí trên cơ sở không bỏ sót nguồn thu của nền kinh tế. Cách phân loại này là cơ sở để tính thuế phù hợp với từng loại thu nhập; nên việc áp dụng thuế suất được quy định theo hai hướng: đối với thu nhập từ kinh doanh và tiền lương, tiền công thì áp dụng biểu thuế suất luỹ tiến từng phần; đối với các khoản thu nhập còn lại thì áp dụng biểu thuế luỹ tiến toàn phần.
+ Thuế chính là khoản thu nộp mang tính bắt buộc mà tổ chức hoặc cá nhân phải nộp cho nhà nước khi có đủ điều kiện nhất định. Khi có nguồn thu của tổ chức, cá nhân nào mà không phải nộp thuế thì chứng tỏ nguồn thu của họ chưa đủ điều kiện phải nộp thuế vì vậy khi nhắc tới đến nguồn thu này thì phải nói rằng đây là nguồn thu được nhà nước miễn cho không phải nộp thuế vì chưa đủ điều kiện thì mới đúng bản chất của của nó.Khi nói là "thu nhập không chịu thuế" thì không thể hiện được tính bắt buộc phải nộp thuế của cá nhân, tổ chức với nhà nước.
+ Mặt khác đối với khoản thu nhập miễn thuế thì cá nhân phải kê khai theo quy đinh của Luật quản lý thuế, qua đó Nhà nước nắm nắm được thông tin phục vụ công tác quản lý.
Điểm mới trong Luật thuế thu nhập cá nhân.
Theo Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao thì các khoản không chịu thuế thu nhập bao gồm:
Phụ cấp làm đêm; phụ cấp độc hại, nguy hiểm; phụ cấp khu vực; phụ cấp thâm niên đối với lực lượng vũ trang; phụ cấp đặc biệt đối với một số đảo xa và vùng biên giới có điều kiện sinh hoạt đặc biệt khó khăn; phụ cấp thu hút; tiền công tác phí; tiền ăn định lượng, phụ cấp đặc thù của một số ngành nghề theo chế độ Nhà nước quy định; các khoản phụ cấp của cán bộ, công chức nhà nước và các khoản phụ cấp khác từ ngân sách nhà nước;
Tiền thưởng về cải tiến kỹ thuật, sáng chế phát minh, các giải thưởng quốc gia, quốc tế, tiền thưởng kèm theo các danh hiệu được Nhà nước phong tặng, tiền thưởng hoặc chế độ đãi ngộ khác từ ngân sách nhà nước;
Tiền trợ cấp xã hội, bồi thường bảo hiểm, trợ cấp thôi việc, trợ cấp điều động về cơ sở sản xuất theo quy định của pháp luật;
Thu nhập của chủ hộ kinh doanh cá thể thuộc diện chịu thuế thu nhập doanh nghiệp;
Thu nhập phát sinh tại Việt Nam của người nước ngoài được coi là không cư trú tại Việt Nam dưới 30 ngày;
Tiền nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế từ tiền lương, tiền công theo quy định của pháp luật.
Luật thuế TNCN đã bổ sung thêm các khoản thu nhập được miễn thuế.
Thu nhập từ tiền lương làm việc ban đêm, làm thêm giờ được trả cao hơn lương làm việc ban ngày, làm việc trong giờ; lương hưu;
Tiền thưởng cho cá nhân về việc phát hiện, khai báo cơ quan nhà nước có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật;
Học bổng nhận từ ngân sách Nhà nước và từ các tổ chức trong và ngoài nước theo quy định của Chính phủ;
Thu nhập từ viện trợ, từ thiện với điều kiện các quỹ từ thiện này phải được Nhà nước cho phép thành lập hoặc công nhận hoạt động vì mục đích nhân đạo không nhằm mục đích thu lợi nhuận;
Thu nhập từ lãi trái phiếu chính phủ.
Với việc bổ sung thêm nhiều khoản thu nhập được miễn thuế trên đều làm theo nguyện vọng của nhân dân đồng thời còn thể hiện được chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với một số đối tượng hưởng thu nhập thấp trong những trường hợp gặp khó khăn. Điều này làm giảm đi sự phân hoá trong xã hội còn tăng khả năng đảm bảo an toàn xã hội đồng thời thể hiện chính sách khuyến khích của nhà nước đối với một số hoạt động có lợi cho phát triển kinh tế - xã hội như tốt giác tội phạm, tăng cường lao động sản xuất…
Áp dụng giảm trừ gia cảnh:
Đây là điểm mới được sự ủng hộ của đông đảo nhân dân nhất xuất phát từ cơ sở là thay vì áp dụng mức khởi điểm chịu thuế chung cho mọi đối tượng nộp thuế (có tính riêng đối với người Việt Nam và người nước ngoài cư trú tại Việt Nam) thì chuyển sang áp dụng giảm trừ gia cảnh, tức là có tính đến hoàn cảnh cá nhân của đối tượng nộp thuế.
Cụ thể là, theo Pháp lệnh thì không áp dụng giảm trừ gia cảnh mà tính theo mức khởi điểm chịu thuế, đối với người Việt Nam là 5 triệu đồng. Áp dụng mức khởi điểm chịu thuế hiện hành thì cùng một mức thu nhập những cá nhân có hoàn cảnh khác nhau như độc thân, nuôi 2, 3 người phụ thuộc sẽ nộp thuế TNCN như nhau, như vậy chưa thật sự công bằng. Còn áp dụng giảm trừ gia cảnh thì cùng một mức thu nhập nhưng có hoàn cảnh khác thì số thuế phải nộp khác nhau. Điều này làm cho việc xác định nghĩa vụ thuế của mỗi đối tượng nộp thuế được công bằng hơn. Điều 19 Luật thuế TNCN quy định mức giảm trừ cho bản thân đối tượng nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng, cho mỗi người phụ thuộc mà đối tượng nộp thuế có nghĩa vụ nuôi dưỡng là 1.6 triệu đồng/tháng.Việc giảm trừ cho người phụ thuộc được thực hiện theo nguyên tắc mỗi người phụ thuộc được tính giảm trừ một lần vào một đối tượng nộp thuế.
Những người phụ thuộc được giảm trừ khá rộng, bao gồm: con chưa thành niên, con đang học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, con tàn tật không có khả năng lao động; các cá nhân khác không có thu nhập hoặc có thu nhập nhưng thấp hơn mức quy định của Chính phủ hoặc không có nơi nương tựa mà người nộp thuế phải trực tiếp nuôi dưỡng (gồm cha, mẹ, vợ chồng, cô, dì, chú, bác, cháu…).
Áp dụng giảm trừ đối với các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo.
Điều 20 Luật Thuế TNCN quy định khoản đóng góp từ thiện nhân đạo được trừ vào thu nhập trước khi tính thuế nhưng chỉ áp dụng đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công và thu nhập từ kinh doanh; không áp dụng đối với cá khoản thu nhập khác. Đây là điểm mới so với Pháp lệnh. Với quy định này, Luật đã khuyến khích mọi công dân trong xã hội tham gia các hoạt động từ thiện, nhân đạo. Đồng thời, đây cũng chính là một khoản "chi tiêu qua thuế" của nhà nước, thể hiện ở chỗ một khoản thu lẽ ra được nộp về ngân sách Nhà nước bây giờ được chuyển sang cho đối tượng thụ hưởng khoản đóng góp từ thiện.
Chẳng hạn như, một người có thu nhập từ kinh doanh trước thuế của một năm 360 triệu đồng (thu nhập bình quân tháng 30 triệu đồng) thực hiện góp quỹ ủng hộ đồng bào lụt 10 triệu đồng. Khi đó, 10 triệu đồng này được giảm trừ vào thu nhập chịu thuế. Với biểu thuế như sẽ được trình bày dưới đây, số thuế nhà nước giảm thu khi cho cá nhân này giảm trừ vào thu nhập tính thuế là 2 triệu đồng. Có thể hiểu trong trường hợp này, coi như Nhà nước đã sử dụng ngân sách góp vào quỹ ủng hộ đồng bào bão lụt 2 triệu đồng, còn cá nhân này thực ra chỉ ủng hộ 8 triệu đồng.
Quy định giảm trừ chi phí cho cá nhân kinh doanh một cách hợp lý
Cùng với việc chuyển cá nhân kinh doanh từ diện nộp thuế TNDN sang nộp thuế TNCN, Luật thuế TNCN đã quy định các khoản chi phí hợp lý được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế của cá nhân kinh doanh. Về cơ bản, các khoản chi phí hợp lý được trừ này kế thừa các quy định hiện hành của Luật thuế TNDN. Trường hợp cá nhân kinh doanh không thực hiện chế độ kế toán để làm cơ sở xác định chi phí hợp lý được trừ thì thu nhập chịu thuế đựơc xác định bằng doanh thu ấn định nhân với tỷ lệ thu nhập chịu thuế quy định cho từng ngành.
Biểu thuế và thuế suất:
Đối với cá nhân cư trú:
Luật thuế TNCN đã xây dựng hai biểu thuế để áp dụng đối với cá nhân không cư trú, không phân biệt người Việt Nam - người nước ngoài như Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao năm 2001, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2003.
Biểu thuế luỹ tiến từng phần áp dụng đối với thu nhập từ kinh doanh, thu nhập từ tiền lương, tiền công
So với Pháp lệnh, Luật tăng số bậc thuế suất từ 4 bậc lên 7 bậc, nhưng lại giảm khoảng cách giữa các bậc thuế từ 10 xuống còn 5(%). Đồng thời, Luật cũng giảm mức thuế suất thấp nhất, giảm cả mức thuế suất cao nhất (tương ứng chỉ còn 5% và 35%). Có thể nói, mức thuế suất cao nhất mà Luật quy định là tương đồng với pháp luật một số nước trong khu vực: Malaysia 34%, Thái Lan 37%, Inđônêxia 35%, Trung Quốc 45%. Mặt khác, mức 35% cũng giúp bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước trong hoàn cảnh Việt Nam phải thực hiện những cam kết quốc tế về cắt giảm thuế nhập khẩu.
Hơn nữa, Luật có một tiến bộ rất quan trọng là loại bỏ khỏi thu nhập tính thuế các khoản được giảm trừ. Do đó, biểu thuế luỹ tiến từng phần mới sẽ làm giảm mức động viên về thuế đối với mỗi cá nhân để người dân tự giác kê khai, nộp thuế và hạn chế hiện tượng trốn thuế, gian lận thuế. Chúng ta có thể thấy rõ mức động viên về thuế đối với mỗi cá nhân sẽ giảm như thế nào khi áp dụng Luật thông qua ví dụ sau:
Ông A có thu nhập chịu thuế là 15 triệu đồng/tháng và có 3 người phụ thuộc. Theo Pháp lệnh, ông A phải đóng số thuế là: 15*10% = 1.5 (triệu đồng). Theo Luật có hiệu lực vào ngày 01/01/2009, thu nhập tính thuế của ông A chỉ còn là: 15-4-3*1.6 = 6.2 (triệu đồng). Do đó, ông A phải đóng số tiền thuế là: 5*5% + 1.2*10% = 0.37 (triệu đồng) = 370 (nghìn đồng). Rõ ràng, dù thu nhập chịu thuế hàng tháng của ông A không thay đổi, song sắp tới, ông ta sẽ được giữ lại nhiều hơn phần thu nhập của mình. Phần nhiều hơn này nhìn chung là có ý nghĩa đối với bản thân cũng như gia đình ông A vì nó tương đối đáng kể so với thu nhập chịu thuế hàng tháng của ông A.
Biểu thuế toàn phần áp dụng đối với thu nhập từ đầu tư vốn, chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản, trúng thưởng, tiền bản quyền, nhượng quyền thương mại, nhận thừa kế, quà tặng
Trên cơ sở bổ sung các khoản thu nhập chịu thuế, Luật đã xây dựng một biểu thuế suất toàn phần. Bên cạnh đó, một số loại thu nhập chịu thuế mà Luật kế thừa Pháp lệnh cũng được thay đổi cách tính thuế. Khoản 2 Điều 12 Pháp lệnh quy định: thu nhập về trúng thưởng xổ số trên 15 triệu đồng/lần được tính theo thuế suất 10%/tổng số thu nhập. Còn căn cứ khoản 1 Điều 15 và Biểu thuế toàn phần trong Luật, ta có cách tính thuế khác: thu nhập chịu thuế từ trúng thưởng = thu nhập tính thuế = phần giá trị giải thưởng vượt trên 10 triệu đồng mà đối tượng nộp thuế nhận được theo từng lần trúng giải; và mức thuế suất là 10%.
Như vậy, so với Pháp lệnh, Luật đã tăng diện chịu thuế từ trúng thưởng xổ số. Hiện tại, trúng thưởng xổ số 11 triệu đồng thì không phải nộp thuế thu nhập, nhưng khi Luật có hiệu lực thì người trúng thưởng được 11 triệu đồng phải nộp thuế. Tuy nhiên số thuế huy động đối với mỗi lần trúng thưởng lại giảm. Chẳng hạn, B trúng thưởng xổ số 20 triệu đồng. Căn cứ Pháp lệnh, B phải nộp vào ngân sách nhà nước 20*10% = 2 (triệu đồng). Áp dụng Luật mới, B chỉ phải nộp số thuế là: (20-10)*10% = 1 (triệu đồng). Luật quy định như vậy là có lợi hơn cho cá nhân có thu nhập chịu thuế từ trúng thưởng xổ số.
Tuy nhiên, phải khẳng định rằng có lợi hơn cho người dân không đồng nghĩa với việc nhà nước bị thua thiệt hơn. Bởi lẽ, phải nhắc lại rằng Luật đã bổ sung được các khoản thu nhập chịu thuế mà trước đây chưa được tính đến; đồng thời Luật đã giảm mức khởi điểm chịu thuế đối với thu nhập từ trúng thưởng xổ số.
Đối với cá nhân không cư trú:
Luật đã bổ sung rất nhiều khoản thu nhập chịu thuế so với Pháp lệnh; và cũng giảm mức thuế suất đối với tiền lương, tiền công của cá nhân không cư trú phát sinh tại Việt Nam do thực hiện công việc tại Việt Nam (không phân biệt nơi trả thu nhập). Thật vậy, theo Pháp lệnh, đối với thu nhập thường xuyên (trong đó có tiền lương, tiền công) của người nước ngoài không cư trú tại Việt Nam, áp dụng thuế suất 25%/tổng thu nhập chịu thuế; mà thu nhập chịu thuế = thu nhập phát sinh tại Việt Nam. Luật quy định tính thuế thu nhập đối với tiền lương, tiền công của cá nhân không cư trú = 20% tổng tiền lương, tiền công có được do thực hiện công việc tại Việt Nam hay chính là tiền lương, tiền công phát sinh tại Việt Nam.
Tóm lại, Luật thuế TNCN mới ban hành và sắp có hiệu lực chứa đựng những điểm mới về biểu thuế, thuế suất rất tích cực so với Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Luật đã xây dựng được biểu thuế thống nhất áp dụng cho cả người Việt Nam và người nước ngoài. Hơn nữa, Luật giảm mức huy động về thuế đối với mỗi người dân. Song song với giảm mức huy động, Luật đã quy định thêm một số khoản thu nhập chịu thuế mà Pháp lệnh chưa hề đề cập đến. Nhìn chung, với những thay đổi về biểu thuế và thuế suất như vậy, lợi ích của người nộp thuế và lợi ích của nhà nước đã được điều chỉnh một cách hài hoà.
KẾT LUẬN
Trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà nước cần quỹ tài chính đủ mạnh để vừa có thể thỏa mãn nhu cầu chi tiêu cho bộ máy nhà nước vừa có thể tác động tích cực đến quá trình vận hành và phát triển kinh tế. Nguồn thu này chủ yếu là từ thuế, phí, lệ phí trong đó thuế chiếm vị trí quan trọng đặc biệt là thu thuế thu nhập. Chính vì thế Quốc hội đã ban hành thuế thu nhập cá nhân và sẽ có hiệu lực vào năm 2009 với nhiều quy định ngày càng chặt chẽ hơn và đảm bảo công bằng hơn. Chúng ta hy vọng rằng thuế thu nhập cá nhân sẽ được thực thi môt cách hiệu quả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Luật thuế Việt Nam - Đại học Luật HN.
Tờ trình về dự án luật thuế thu nhập cá nhân – 134/TTr-CP ngày 17 tháng 10 năm 2006.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bình luận những ưu điểm chủ yếu của luật thuế thu nhập cá nhân so vs Pháp lệnh thuế thu nhập đối vs ng có thu nhập cao-.doc