Học kì Tài Chính.
Khi nói đến Ngân sách nhà nước người ta thường hay biết tới đó là hai loại hình hoạt động tài chính cơ bản của Nhà nước, đó là hoạt động thu ngân sách và hoạt động chi ngân sách. Trong đó thu ngân sách nhà nước làm hình thành nên quỹ ngân sách nhà nước thì chi ngân sách nhà nước là chu trình phân phối, sử dụng các nguồn vốn tiền tệ đã được tập trung vào quỹ tiền tệ đó. Vậy điều chi ngân sách nhà nước là gì và nó được thực hiện như thế nào? Sau đây em xin được tìm hiểu đề tài “Bình luận về các điều kiện chi ngân sách nhà nước” (quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng).
16 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3267 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bình luận về các điều kiện chi ngân sách nhà nước quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Khi nói đến Ngân sách nhà nước người ta thường hay biết tới đó là hai loại hình hoạt động tài chính cơ bản của Nhà nước, đó là hoạt động thu ngân sách và hoạt động chi ngân sách. Trong đó thu ngân sách nhà nước làm hình thành nên quỹ ngân sách nhà nước thì chi ngân sách nhà nước là chu trình phân phối, sử dụng các nguồn vốn tiền tệ đã được tập trung vào quỹ tiền tệ đó. Vậy điều chi ngân sách nhà nước là gì và nó được thực hiện như thế nào? Sau đây em xin được tìm hiểu đề tài “Bình luận về các điều kiện chi ngân sách nhà nước” (quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng).
B . NỘI DUNG.
I. CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC.
1. Khái niệm chi ngân sách nhà nước.
Chi ngân sách nhà nước là phân phối và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước theo dự toán ngân sách đã được chủ thế quyền lực quyết định nhằm duy trì sự hoạt động của bộ máy nhà nước và bảo đảm nhà nước thực hiện được các chức năng của mình. Nếu hoạt động thu nhân sách nhà nước là nhằm thu hút các nguồn vốn tiền tệ đề hình thành nên quỹ ngân sách nhà nước thì chi ngân sách là chu trình phân phối, sử dụng các nguồn vốn tiền tệ đã được tập trung vào quỹ tiền tệ đó.
Luật ngân sách nhà nước 2002 cũng đã đưa ra khái niệm chi ngân sách nhà nước nhưng ở dạng liệt kê, tại Khoản 2 Điều 2. Theo đó, chi ngân sách nhà nước bao gồm các khoản chi phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước; chi trả nợ của nhà nước; chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
2. Đặc điểm của chi ngân sách nhà nước.
Thứ nhất: Chi ngân sách nhà nước chỉ được tiến hành trên cơ sở pháp luật và theo kế hoạch chi ngân sách cũng như phân bổ ngân sách do cơ quan quyền lực nhà nước quyết định. Điều 15 Luật ngân sách nhà nước năm 2002 Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền quyết định về tổng số chi, cơ cấu, nội dung, mức động các khaỏn chi ngân sách nhà nước và quyết định phân bổ ngân sách trung ương. Điều 25 Luật ngân sách nhà nước năm 2002 giao cho hội đồng nhân dân các cấp quyền quyết định dự tóan chi ngân sách địa phương và quyền quyết định phân bổ ngân sách cấp mình. Mọi hoạt động chi ngân sách phải được thực hiện trên cơ sở các quyết định của Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp.
Thứ hai: Chi ngân sách nhà nước nhằm vào mục tiêu thỏa mãn nhu cầu về tài chính cho sự vận hành của bộ máy nhà nước, bảo đảm cho nhà nước thực hiện được các chức năng, nhiệm vụ của mình.
Thứ ba: Chi ngân sách nhà nước là hoạt động được tiến hành bởi các chủ thể quyền lực gồm hai nhóm:
Nhóm chủ thể đại diện cho Nhà nước thực hiện việc quản lý, cấp phát, thanh toán các khoản chi ngân sách nhà nước. Đó là các cơ quan đại diện cho nhà nước thực thi quyền hạn có liên quan tới việc xuất quỹ NSNN cho các mục tiêu đã được phê duyệt. Nhóm chủ thể này gồm Bộ tài chính, Sở tài chính – vật giá tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Phòng tài chính quận, huyện, thị xã thuộc tỉnh, thành phố, Sở kế hoạch và đầu tư và Kho bạc nhà nước.
Nhóm chủ thể sử dụng ngân sách nhà nước. Đây là nhóm chủ thể được hưởng kinh phí từ ngân sách nhà nước để trang trải các chi phí trong quá trình thực hiện hoạt động của mình. Nhóm chủ thể này rất đa dạng nhưng có thể phân thành ba loại chủ yếu gồm: Các cơ quan nhà nước, kể cả các cơ quan hành chính thực hiện khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính. Các đơn vị, kể cả đơn vị sự nghiệp có thu. Các chủ dự án sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước.
3. Phân loại chi ngân sách nhà nước.
Trong công tác quản lý ngân sách nhà nước, việc phân loại các khoản chi có ý nghĩa quan trọng. Lựa chọn tiêu chí thích hợp để phân loại các khoản chi ngân sách nhà nước có tác dụng hỗ trợ cho việc phân tích, đánh giá 1 cách chính xác hiêu quả của từng loại chi, từ đó có thể dưa ra những định hướng những sửa đổi chính sách chi ngân sách nhà nước một cách hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước.
Có nhiều cách phân loại các khoản chi ngân sách nhà nước khác nhau: nếu căn cứ theo mức dộ định kỳ của các khoản chi có thể phân các khoản chi ngân sách thành hai nhóm: chi thường xuyên và chi không thường xuyên.
Chi thường xuyên là khoản chi nhằm thực hiện nhiệm vụ thường xuyên của Nhà nước về quản lý các mặt của đời sống xã hội. Đây là những khoản chi mang tính ổn định, định kỳ, lặp đi lặp lại và là khoản chi mang tính tiêu dùng, vì vậy nó không có tính tích lũy. Những khoản chi này gồm: chi cho các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, xã hội, văn hóa thông tin, văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ; chi cho hoạt động của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; chi cho các hoạt động sự nghiệp kinh tế; chi cho quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội…Chi thường xuyên theo định kỳ được bố trí kinh phí đều trong năm để chi.
Chi không thường xuyên là những khoản chi như: chi đầu tư phát triển kinh tế; chi trả nợ gốc và lãi khoản tiền do Chính phủ vay, chi viện trợ, cho vay theo quy định của pháp luật, chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính của trung ương/ cấp tỉnh…
II. BÌNH LUẬN ĐIỀU KIỆN CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH.
1. Các Quy Định Pháp Luật Hiện Hành Về Điều Kiện Chi Ngân Sách Nhà Nước.
Đơn giản mà nói chi ngân sách nhà nước là hoạt động thực hiên việc chi tiền trong một cái quỹ ngân sách lớn của nhà nước mà đòi hỏi phải đảm bảo những điều kiện nhất định mới được chi. Đối với vấn đề chi ngân sách mà nói đây là một việc đòi hỏi phải có sự kiểm tra giám sát kĩ lưỡng để tránh những thất thoát tiền một cách lang phí gây ra nhiều sự thâm hụt thiếu xót, vấn đề này không chỉ có chi ngân sách nhà nước mới có mà ngay kể cả trong một gia đình thì việc chi tiêu cũng được cân nhắc xem xét kĩ lưỡng trươc khi chi tiêu cho một vấn đề gì đó, trong 1 gia đình là người quản lí tiền chăm no cho gia đình, trước khi muốn chi tiền ra thì không thể nói chi là chi mà không biết là chi cho cái gì mà phải biết cái mình cần mua cái gì mình phải bỏ tiền ra rồi sau đó xem xét xem cái đó giá như thế nào, khoản chi là bao nhiêu, tiêu chuẩn là bao nhiêu sau khi đã xem xét kĩ lưỡng xong chỉ còn một việc cuối là quyết định chi tiền ra cho cái mà mình cần; đó là mức đơn giản trong một gia đình vậy khi xét đến một quỹ ngân sách nhà nước khổng lồ thì điều kiện để chi ngân sách nhà nước cần những gì?
Tiền của nhà nước nó rất quan trọng đối với sự phát triển và duy trì hoạt động của nhà nước đó nhưng ngược lại nó lại bị những kẻ cơ hội thiếu ý thức khoác nên trên mình 1 cái khái niệm “tiền công” là tiền không của riêng ai khiến cho các đối tượng thụ hưởng ngân sách nhà nước có xu hướng chi tiêu thoải mái, lãng phí, còn cắt xén, ăn bớt, chỉ cần có cơ hội là chúng không từ thủ đoạn nào để chiếm đoạt tiền công… bởi chính vì vậy nhà nước phải quan tâm đến chình cái hầu bao của mình không thể để thất thoát lãng phí. Công cụ hữu hiệu để đảm bảo cho hoạt động sử dụng nguồn tài chính đó chính là pháp luật. Nhà nước đã quy định những điều kiện cụ thể mà chỉ khi đáp ứng đủ những điều kiện đó, hoạt động chi ngân sách nhà nước mới được thực hiện. Những quy định này đã tạo nên một giới hạn pháp lý đối với các đối tượng sử dụng ngân sách nhà nước, đảm bảo các chủ thể này sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả nguồn tài chính do Nhà nước đầu tư.
Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật thì điều kiện để chi ngân sách được thực hiện là:
Căn cứ theo khoản 2 điều 5 Luật NSNN năm 2002.
Chi ngân sách nhà nước chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Đã có trong dự toán ngân sách được giao, trừ trường hợp quy định tại Điều 52 và Điều 59 của Luật này;
b) Đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định;
c) Đã được thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được uỷ quyền quyết định chi.
Ngoài các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều này, đối với những khoản chi cho công việc cần phải đấu thầu thì còn phải tổ chức đấu thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu.
Điều 51 Nghị định 60/2003/NĐ-CP(Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách nhà nước). Chi ngân sách nhà nước chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau đây:
1. Đã có trong dự toán ngân sách nhà nước được giao, trừ các trường hợp sau:
a) Dự toán ngân sách và phân bổ dự toán ngân sách chưa được cơ quan có thẩm quyền quyết định theo quy định tại Điều 45 của Nghị định này;
b) Chi từ nguồn tăng thu so dự toán được giao và từ nguồn dự phòng ngân sách theo quyết định của cấp có thẩm quyền;
2. Đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cấp có thẩm quyền quy định;
3. Đã được Thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được ủy quyền quyết định chi;
4. Ngoài các điều kiện quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều này; trường hợp sử dụng vốn, kinh phí ngân sách nhà nước để đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc và các công việc khác phải qua đấu thầu hoặc thẩm định giá thì còn phải tổ chức đấu thầu hoặc thẩm định giá theo quy định của pháp luật;
5. Các khoản chi có tính chất thường xuyên được chia đều trong năm để chi; các khoản chi có tính chất thời vụ hoặc chỉ phát sinh vào một số thời điểm như đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm, sửa chữa lớn và các khoản chi có tính chất không thường xuyên khác phải thực hiện theo dự toán quý được đơn vị dự toán cấp I giao cùng với giao dự toán năm.
2. Bình Luận Các Điều Kiện Chi Ngân Sách Nhà Nước.
2.1. Khoản chi dự định thực hiện phải có trong dự toán ngân sách được giao.
Lập dự toán ngân sách nhà nước là quá trình xây dựng và quyết định dự toán thu, chi ngân sách của nhà nước trong thời hạn 1 năm. Thực chất bản dự toán ngân sách nhà nước là sự phản ảnh những chương trình, kế hoạch hành động hay chính sách của nhà nước trong một tài khóa xác định. Dự toán ngân sách rất quan trọng, là tài liệu khá phức tạp, bảo đảm tính thông nhất, toàn diện và tính cân đối, trong đó các khoản chi là mục tiêu phải thực hiện, các khoản thu là phương tiện để thực hiện các mục tiêu đó. Mỗi một khoản chi của ngân sách nhà nước đề hết sứa quan trọng và nó tác động, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển không chỉ kinh tế chính trị xã hội… Việc pháp luật quy định các khoản chi ngân sách nhà nước muốn được thanh toán, chi trả phải có trong dự toán ngân sách được giao là bởi vì mọi nhu cầu chi dự kiến cho năm kế hoạch phải được xác định trong dự toán kinh phí từ cơ sở thông qua các bước xét duyệt của cơ quan nhà nước có thẩm quyền từ thấp đến cao. Quyết định cuối cùng cho dự toán chi ngân sách nhà nước thuộc về Quốc hội. Chỉ sau khi dự toán chi đã được Quốc hội xét duyệt và thông qua mới trở thành căn cứ chính thức để phân bổ số chi cho mỗi ngành, mỗi cấp.
Hàng năm, các cơ quan đơn vị có sử dụng ngân sách nhà nước phải lập dự toán trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Dự toán ngân sách nhà nước của cả nước được Chính phủ tổng hợp trình Quốc hội quyết định. Quốc hội tiến hành phân bổ dự toán ngân sách trung ương; hôi đồng nhân dân các cấp phân bổ dự toán ngân sách của cấp mình. Dự toán chi ngân sách nhà nước được lập dựa vào các căn cứ sau:
-Nhiệm vụ cụ thể của các Bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan khác ở trung ương và các cơ quan nhà nước ở địa phương. Cơ chế phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi của ngân sách các cấp và tỷ lệ % phân chia các khoản thu và mức bổ sung cho ngân sách cấp dưới (trong năm tiếp theo của thời kỳ ổn định). Lập ngân sách nhà nước dựa trên các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức hiện hành về thu chi ngân sách nhà nước như chi tiền lương, sinh hoạt phí cho cán bộ, v.v… Đối với các cơ quan thụ hưởng ngân sách, viêc lập dự toán ngân sách cho ngân sách của cơ quan phải dựa vào số kiểm tra về dự toán ngân sách được thông báo.
Quốc hội quyết định chi tiết một số nội dung quan trọng trong dự toán ngân sách nhà nước như tổng số chi ngân sách nhà nước trong đó có chi ngân sách trung ương và chi ngân sách địa phương, quyết định chi tiết theo các lĩnh vực chi đầu tư phát triển, chi trả nợ….Xét trên góc độ pháp lý, khoản kinh phí đã được ghi trong dự toán chi ngân sách thể hiện cam kết thanh toán của Nhà nước đối với các đơn vị sử dụng ngân sách. Có thể nhân xét rằng, đây là điều kiện ở cấp trung ương đối với các khoản chi. Bởi nó quy định khoản chi đó phải nằm trong dự toán ngân sách- đạo luật ngân sách thường niên mà chỉ cơ quan lập pháp cao nhất là Quốc hội có quyền thông qua. Đối với Hội đồng nhân dân căn cứ vào nhiệm vụ thu, chi ngân sách được cấp trên giao và tình hình thực tế tại địa phương quyết định; dự toán chi ngân sách địa phương, quyết định điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết.. Quy định này đưa ra đảm bảo các khoản dự định chi sẽ phù hợp với tổng thể các khoản chi khác, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội mà Nhà nước đề ra trong năm ngân sách.
Việc quy định này tạo ra tính công khai cho việc thực hiện chi ngân sách, bởi tất cả đã có trong bản dự toán ngân sách được giao, tránh xảy ra những việc khoản chi bất minh, chi không rõ mục đích, chi quá gây ra những thất thoát lớn. Tuy nhiên nếu chỉ theo như đúng các khoản được chi trong dự toán được giao thì có khi lại gây ra những thiếu xót bởi không thể dự liệu đc hết trước mọi vấn đề có thể xảy ra bởi chính vì vậy mà nhà làm luật đã dự liệu thêm một số ngoại lệ (theo điều 52, 59 của luật NSNN năm 2002 và điều 45 nghị định 60/2003/NĐ-CP)
Một là trường hợp đầu năm ngân sách, dự toán ngân sách và phương án phân bổ ngân sách chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thì cơ quan tài chính các cấp được phép tạm cấp kinh phí cho các nhu cầu không thể trì hoãn được( Mức tạm cấp hàng tháng tối đa không quá mức chi bình quân 01 tháng của năm trước, Chi nghiệp vụ phí và công vụ phí…) cho tới khi dự toán ngân sách và phương án phân bổ ngân sách được quyết định. Đây có thể coi là phương án bổ sung mà luật đưa ra cho các chủ thể sử dụng ngân sách áp dụng, tạo sự linh hoạt trong hoạt động của các chủ thể đó khi chưa có dự toán ngân sách, đảm bảo ứng phó kịp thời với các trường hợp xảy ra ngoài dự kiến, đảm bảo thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên các chủ thể được tạm cấp kinh phí phải đảm bảo hoàn trả ngay khi dự toán ngân sách và phân bổ ngân sách được quyết định, nguồn vốn đã được chuyển về. Đây là quy định thể hiện sự linh hoạt của các nhà làm luật, tạo điều kiện để việc thực hiện nhiệm vụ của các đối tượng thụ hưởng ngân sách không bị gián đoạn.
Hai là trong quá trình chấp hành ngân sách nhà nước, có sự thay đổi về thu chi, khoản chi từ nguồn tăng thu so với dự toán được giao và từ nguồn dự phòng ngân sách theo quyết định của cấp có thẩm quyền. Nguồn tăng thu là nguồn thu phát sinh tăng thêm, nằm ngoài dự toán ngân sách vì vậy chi từ khoản này cũng không thể nằm trong dự toán ngân sách. Chi từ nguồn tăng thu ở cấp ngân sách nào sẽ do cơ quan có thẩm quyền của cấp ngân sách đó quyết định. Số tăng thu này sẽ được sử dụng để giảm bội chi, tăng chi trả nợ, tăng chi đầu tư phát triển, bổ sung quỹ dự trữ tài chính, tăng dự phòng ngân sách. Còn các khoản chi từ nguồn dự phòng ngân sách được sử dụng trong trường hợp có nhu cầu chi đột xuất ngoài dự toán ngân sách. Khoản chi ngoài dự toán này sẽ giúp giải quyết kịp thời vấn đề phát sinh đột xuất ngoài dự kiến. Trường hợp có nhu cầu chi đột xuất ngoài dự toán nhưng không thể trì hoãn được mà dự phòng ngân sách không đủ đáp ứng, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phải sắp xếp lại các khoản chi trong dự toán được giao hoặc sử dụng các nguồn dự trữ để đáp ứng nhu cầu chi đột xuất đó.
Đây là điều kiện đầu tiên, quan trọng và cơ bản nhất để thực hiện chi ngân sách nhà nước.
2.2. Khoản chi dự định thực hiện phải đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cấp có thẩm quyền quyết định.
Khi đã đáp ứng được điều kiện thứ nhất là nằm trong dự toán ngân sách hoặc một số trường hợp khác thì chi ngân sách nhà nước còn phải đáp thêm 1 số diều kiện nữa và một trong số đó là khoản chi dự định thực hiện phải đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cấp có thẩm quyền quyết định.
Nhà nước ban hành các chế độ, định mức về chi ngân sách, tạo cơ sở để quản lý chi ngân sách, tạo cơ sở để quản lý chi ngân sách một cách khoa học và thống nhất. có hai loại định mức chi ngân sách nhà nước: + Đ ịnh mức phân bổ ngân sách. Đây là căn cứ để xây dựng và phân bổ ngân sách cho các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ, cơ quan khác ở trung ương và các địa phương.
Thẩm quyền quyết định mức phân bổ ngân sách theo chế độ hiện hành như sau: Thủ tướng chính phủ quyết định định mức phân bổ ngân sách nhà nước làm căn cứ để xây dựng và phân bổ ngân sách cho các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ, cơ quan khác ở trung ương và các địa phương. Hội đồng nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào định mức phân bổ ngân sách nhà nước do thủ tướng chính phủ ban hành, khả năng tài chính – ngân sách và đặc điểm tình hình ở địa phương, quyết định định mức phân bổ ngân sách lam căn cứ xây dựng dự toán và phân rbổ ngân sách ở địa phương. + Định mức chi tiêu: Định mức chi tiêu là những chế độ, tiêu chuẩn làm căn cứ để thực hiện chi tiêu và kiểm soát chi tiêu ngân sách. Theo chế độ hiện hành, thẩm quyền ban hành định mức chi tiêu như: Chính phủ quyết định những chế độ ngân sách quan trọng, phạm vi ảnh hưởng rộng, liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội của cả nước. Thủ tướng chính phủ quyết định các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu thực hiện thống nhất trong cả nước. Bộ trưởng Bộ tai chính quyết định chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách đối với các ngành lĩnh vực sau khi thống nhất với các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực. Đối với một số nhiệm vụ chi có tính chất đặc thù ở địa phương trên cơ sở nguồn ngân sách địa phương được đảm bảo. Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được quyết định chế độ chi ngân sách phù hợp với các đặc điểm thực tế ở địa phương. Các cơ quan có thẩm quyền ban hành các chế độ, định mức chi ngân sách phải được định kỳ rà soát lại các định mức tiêu chuẩn chi tiêu cho phù hợp với yêu cầu thực tế và nguồn lực ngân sách. Đồng thời, tiếp tục ban hành các chế độ, định mức chi theo nhu cầu thực tế.
Các quy định này đặt ra một giới hạn cho các khoản chi dự định thực hiện, phải nằm trong định mức đã được quy định trong dự toán. Bởi các chủ thể lập dự toán ngân sách nhà nước khi đưa ra bản dự toán với những khoản phân bổ ngân sách đã tính toán rất kỹ đến đặc thù từng lĩnh vực chi, và hơn thế là chiến lược kinh tế - xã hội đã được hoạch định. Vì vậy, các khoản chi phải phù hợp với chiến lược kinh tế - xã hội đã được xây dựng.
Việc xây dựng các định mức tiêu chuẩn, chế độ cũng rất quan trọng phải căn cứ trên các văn bản pháp luật do cơ qua co thẩm quyền ban hành và phải dụa trên con số liên quan trên thực thế ví dụ như tiêu chí xây dựng định mức: Đầu biên chế đối với quản lý hành chính. Đầu dân số các loại sự nghiệp. Sự nghiệp giáo dục, đào tạo: Đầu học sinh. Sự nghiệp y tế: Đầu giường bệnh, đối với chữa bệnh. Ngoài ra còn phân vùng và một số tiêu chí phụ như tỷ lệ chi cho con người và chi cho hoạt động.
(Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định số 59/2010/QĐ-TTg ban hành định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước áp dụng cho năm ngân sách 2011, năm đầu của thời kỳ ổn định ngân sách mới. định mức phân bổ dự toán chi quản lý hành chính cho khối cơ quan hành chính từ 19-30 triệu đồng/biên chế/năm (tùy thuộc vào số biên chế của cơ quan). Đối với khối các cơ quan Tư pháp, Kiểm toán Nhà nước, Thanh tra Chính phủ, định mức phân bổ năm 2011 là 30 triệu đồng/biên chế/năm.)
Việc chi theo định mức, chế độ, tiêu chuẩn này tạo ra sự công bằng, chống thất thoát lãng phí tạp ra tính cụ thể trong khoản chi có định lưỡng ró ràng không mờ hồ. đảm bảo chỉ đủ chi đúng hạn chế việc chi quá mức rồi lại xin cấp tăng cường tính tự chủ và năng động trong việc thực hiện khoản chi. Nhưng cũng với đinh mức việc quy định định mức cho các khoản chi ngân sách có thể làm giảm tính chủ động của các đơn vị sử dụng ngân sách, hơn nữa có thể làm xuất hiện tình trạng các đơn vị sử dụng ngân sách chi cho hết số ngân sách đã được phân bổ, không quan tâm đến hiệu quả của khoản chi đó. Thêm vào đó việc xác định các đinh mức tiêu chuẩn, chế độ sao cho phù hợp là một vấn đề cần phải được quan tâm theo dõi và có những thay đổi sao cho phù hợp với từng giai đoạn, thời kì nhất định.
2.3. Khoản chi dự định thực hiện phải được Thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được ủy quyền quyết định chi.
Khi mà đã đáp ứng đủ hai điều kiện trên thì vấn đề còn lại là ra quyết định chi. Thủ trưởng đơn vị là người đứng đầu một cơ quan là người điều hành, nắm rõ mọi vấn đề cần thiết cái gì cần phải chi và chi như thế nào cho hợp lí phù hợp với định mức, tiêu chuẩn, chế độ, hoặc người được ủy quyền quyết định chi. Không những thế, với quy định này sẽ góp phần tăng cường hơn tính sáng tạo, tự chủ trong thực hiện ra những quyết định chi sao cho đạt được hiệu quả cao. Bởi nếu như quyết định chi sai, chi không đúng mục đích làm thất thoát thì người phải chịu trách nhiệm ở đây chính là thủ trưởng cơ quan hoặc có thể là người được ủy quyền quyết định chi.
Luật đã quy định rất rõ trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách: khoản 4 điều 52 Nghị định 60/2003/NĐ-CP. Thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách: (a) Quyết định chi đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức và trong phạm vi dự toán được cấp có thẩm quyền giao; (b) Quản lý, sử dụng ngân sách và tài sản nhà nước theo đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức; đúng mục đích, tiết kiệm, có hiệu quả. Trường hợp vi phạm, tuỳ theo tính chất và mức độ, sẽ bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Đối với những khoản chi do cơ quan tài chính cấp phát trực tiếp thì quyết định chi là “lệnh chi tiền” của cơ quan tài chính. Đối với các khoản chi cơ quan tài chính không cấp phát trực tiếp thì khi có nhu cầu chi, đơn vị sử dụng ngân sách lập và gửi Kho bạc nhà nước giấy rút dự toán ngân sách nhà nước cùng với quyết định chi do thủ trưởng đơn vị ký.
Tuy nhiên nếu như thủ thưởng cơ quan hay người được ủy quyền thực hiện chi mà kém năng lực hay chi một cách sai phạm thì sẽ có những hậu quả lớn có xử lí cũng chưa chắc phục hồi lại được hay thu về được số tiền thất thoát, việc này đòi hỏi phải có những cơ chế giám sát việc chi này sao cho hiệu quả và hữu ích nhất và thủ trưởng hay người được ủy quyền đòi hỏi phải có năng lực làm việc tốt. Vai trò của thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách trong quá trình chi ngân sách là hết sức quan trọng.
Khoản chi được thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được ủy quyền quyết định chi. Điều này có nghĩa, chỉ người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền mới được phép quyết định chi. Pháp luật cũng quy định cụ thể về chế độ ủy quyền khi quyết định chi ngân sách nhà nước (việc ủy quyền quyết định chi gắn với chế độ mở, sử dụng tài khoản của đơn vị sử dụng ngân sách tại kho bạc nhà nước).
+ cơ quan có thẩm quyền chung: Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp điều chỉnh các chỉ tiêu ngân sách nhà nước, giám sát hoạt động chi ngân sách của Chính Phủ, Ủy ban nhân dân.
Chính Phủ, thủ tướng chính phủ kiểm tra quá trình tuân thủ các chỉ tiêu ngân sách thông qua nguyên tắc chi ngân sách
Ủy ban nhân dân chấp hành ngân sách nhà nước cấp mình và giám sát hoat động chi cấp dưới.
+ cơ quan có thẩm quyền riêng:
Cơ quan tài chinh có chưc nang quản li chung đối với hoạt động chi ngân sách và chịu trách nhiệm về tính hiệu quả của việc sử dụng ngân sách nói chung. Qua đó giám sát tình hình sử dụng kinh phi ở các đơn vị sử dụng ngân sách và quyền đề nghi tạm ngừng cấp phát khi đơn vị sử dụng ngân sách không tuân thủ pháp luật.
Cơ quan kho bạc nhà nước phai tuân thủ các điều kiện chi ngân sách và chiu trách nhiệm về các quyết dịnh của mình
Ngân hàng nhà nước khả nang cân đối ngân sách băng việc “tạm ứng cho NSNN để xử lí thiếu hụt tạm thời của quỹ ngân sách nhà nươc theo Quyêt định của thủ tương chính phủ”.
Các chủ thể khác:
Có thể thấy khi đáp ứng đủ với 3 điều kiện này thì việc chi ngân sách nhà nước sẽ dễ dàng được thực hiện và 3 điều kiện này cũng có sự phân tầng về cả thẩm quyền với điều kiện thứ nhất là điều kiện ở cấp cao nhất, khi quy định khoản chi dự định thực hiện phải nằm trong dự toán ngân sách được thông qua bởi Quốc hội và Hội đồng nhân dân với dự toán ngân sách ở địa phương; điều kiện thứ hai là khoản chi phải phù hợp với định mức, tiêu chuẩn, chế độ do các cơ quan, người chuyên trách có thẩm quyền quyết định; và thứ ba là điều kiện quy định ở cấp thụ hưởng ngân sách là có quyết định chi của thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách- người trực tiếp quản lý đơn vị, nắm rõ các nhu cầu chi tiêu của đơn vị. Việc quy đinh những điều kiện này cho thấy đảm bảo được sự liên kết từ cấp cao nhất đến thấp nhất mà lại có sự phân công rõ ràng không có sự chồng chéo với nhau, và cho thấy ba điều kiện này thực tế thì cũng giống như khi chi. Ngoài những quy định trên thì cần phải xem xét tới một số quy định khác.
2.4. Các điều kiện cụ thể khác.
-Khoản 4 Điều 51 NĐ 60/2003/NĐ-CP
Pháp luật quy định đối với trường hợp sử dụng vốn, kinh phí ngân sách nhà nước để đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc và các công việc khác phải qua đấu thầu hoặc thẩm định giá thì trước khi khoản chi được thực hiện, còn phải tổ chức đấu thầu hoặc thẩm định giá theo quy định của pháp luật. Đây chính là khoản chi hành chính đảm bảo cho hoạt động thường xuyên của bộ máy nhà nước. Quy định này đảm bảo chi hoạt động chi trong lĩnh vực này là chi đúng, chi đủ, tổ chức đấu thầu hoặc định giá tài sản với mục đích xác định giá trị thực sự của tài sản, từ đó thực hiện khoản chi hợp pháp,đúng đắn và minh bạch để tránh trường hợp giá cả báo cáo không rõ ràng mơ hồ tạo ra sự thất thóat .
-Khoản 5 Điều 51 NĐ 60/2003/NĐ-CP
Khoản này đưa ra quy định các khoản chi có tính chất thường xuyên được chia đều trong năm để chi; các khoản chi có tính chất thời vụ hoặc chỉ phát sinh vào một số thời điểm như đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm, sửa chữa lớn và các khoản chi có tính chất không thờng xuyên khác phải thực hiện theo dự toán quý được đơn vị dự toán cấp I giao cùng với giao dự toán năm. Quy định này đưa ra nhằm đảm bảo thêm tính rõ ràng và phù hợp với dự toán năm của những khoản chi không mang tính chất thường xuyên đối với các đơn vị dự toán cấp dưới. Đối với những khoản chi có tính chất thường xuyên ( là khoản thu mang tính định kì và lặp đi lặp lại) thì quy định này đảm bảo cho thực hiên chi một cách đủ và đều nhất.
-Khoản chi dự định thực hiện phải có đủ hồ sơ, chứng từ thanh toán đầy đủ
Đây là một điều kiện cụ thể được đưa ra tại Thông tư 79/2003/TT-BTC. Theo đó các khoản chi dự định thực hiện (bao gồm các khoản chi thường xuyên; chi sự nghiệp kinh tế; chi chương trình mục tiêu; chi kinh phí uỷ quyền và các khoản chi khác của ngân sách nhà nước) phải có đủ hồ sơ, chứng từ thanh toán hợp lệ. Tùy theo tính chất của từng khoản chi mà hồ sơ, chứng từ thanh toán được yêu cầu khác nhau.
Tuy đây không phải quy định này dù điều kiện chính nhưng cũng là điều kiện cần thiết. Nó tạo cơ sở chắc chắn, cụ thể, chính xác cho các khoản chi khi thực hiện vì đã có chứng từ, hóa đơn kèm theo. Hơn nữa, việc này sẽ tạo ra các đối tượng sử dụng ngân sách một thói quen sử dụng chứng từ khi có các nhu cầu chi phát sinh, đảm bảo tính minh bạch cho những khoản chi, và còn dễ dàng hơn cho việc thống kê hay điều tra..
Hiện nay chi NSNN đã từng bước được cơ cấu lại theo hướng thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tăng cho đầu tư cho phát triển xã hội và cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực, xóa đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp và nông thôn, bảo vệ môi trường, nâng cao năng lực quản lý, đảm bảo chi ngân sách ngày càng tiết kiệm và đạt hiệu quả cao.
III. Thực Trạng Chi Ngân Sách Nhà Nước Những Năm Qua Khi Áp Dụng Thực Hiện Điều Kiên Chi Ngân Sách Nhà Nước.
Theo như các quy định về điều kiện chi ngân sách cho thấy những quy định này tạo điều kiện cho các đơn vị sử dụng ngân sách, cơ quan tài chính, cơ quan kho bạc có đủ căn cứ pháp lý để chấp hành trong việc chi ngân sách
1. Những kết quả đạt đươc.
Việc thực hiện chi ngân sách nhà nước có tuân thủ một cách nghiêm ngặt các điều kiện luật định trong hoạt động chi ngân sách nhà nước hay không nó sẽ trực tiếp ảnh hưởng trực tiếp đến quỹ ngân sách… Qua năm 2010 vừa rồi qua tổng kết về báo cáo tình hình thu chi ngân sách thì việc chi ngân sách thì qua nhận xét chung thì chi ngân sách nhà nước đã và đang đảm bảo đúng với các điều kiện chi ngân sách nhà nước và đã đạt được nhiều thành quả cụ thể.
Tổng chi cân đối ngân sách nhà nước ước đạt 637.200 tỷ đồng, tăng 9,4% so với dự toán và tăng 9% so với thực hiện năm 2009. Bội chi ngân sách năm 2010 ước khoảng 117.100 tỷ đồng, bằng khoảng 5,95% GDP, giảm so với năm 2009 (6,9%) và cũng giảm so với kế hoạch đề ra (6,2%). Đó là những kết quả rất đáng khích lệ trong bối cảnh nền kinh tế vừa trải qua cơn suy giảm. Năm 2010, nhu cầu tăng chi cho các nhiệm vụ, chế độ chính sách đã ban hành ban hành năm 2010 là rất lớn, trong đó tăng chi an sinh xã hội khoảng trên 80.000 tỷ đồng[, nhu cầu tăng chi trả nợ khoảng 12.000 tỷ đồng, nhu cầu tăng chi cho đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội khoảng trên 100.000 tỷ đồng,... Báo cáo của Chính phủ ước thực hiện tổng chi cân đối NSNN đạt 637.200 tỷ đồng, tăng 9,4% so với dự đoán, tăng 9% so với thực hiện năm 2009. Trong điều hành, nhìn chung các Bộ, cơ quan Trung ương và địa phương đã nghiêm túc thực hành tiết kiệm, chi trong phạm vi dự toán được giao, hạn chế tối đa việc bổ sung ngoài dự toán, chi đúng chi đủ. Số tăng chi ngoài dự toán chủ yếu là kinh phí phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, chi bù lỗ kinh doanh đầu năm 2008 chưa xử lý hết, chi hỗ trợ của ngân sách Trung ương cho các địa phương để bù giảm thu cân đối ngân sách địa phương do thực hiện chính sách miễn, giảm, giãn thuế và thực hiện chế độ khuyến khích cho các địa phương hoàn thành vượt dự toán thu theo quy định.
Được biết, mục tiêu đặt ra cho giai đoạn 2006 - 2010 là bội chi NSNN không quá 5%GDP. Thực tế thực hiện 3 năm đầu 2006 - 2008, duy trì ở mức khoảng 5%GDP. Trong 2 năm 2009 - 2010, trong bối cảnh khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu, Bộ Tài chính đã báo cáo Chính phủ trình Bộ Chính trị, Quốc hội cho phép tăng bội chi NSNN và tăng huy động trái phiếu Chính phủ để tăng nguồn lực thực hiện các giải pháp kích thích kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội (năm 2009 bội chi NSNN ở mức 6,9%GDP; dự toán năm 2010 là 6,2%GDP, khả năng thực hiện giảm còn 5,8%GDP). Trong bối cảnh đặc biệt của nền kinh tế sự biến động giá cả …, việc chủ động điều hành bội chi ở mức cao trong 2 năm qua là cần thiết và tích cực, nhờ vậy kinh tế của nước ta đã kịp thời phục hồi nhanh chóng (từ Quý II/2009, tăng trưởng đã bắt đầu phục hồi dần), đời sống nhân dân, đặc biệt là các đối tượng người nghèo, chế độ chính sách được đảm bảo, an ninh và trật tự an toàn xã hội được giữ vững, tạo nền tảng cho giai đoạn phát triển mới.
Tuy nhiên ngoài những mặt tích cực đã làm được thì vấn đề chi ngân sách nhà nước vẫn còn 1 số những hạn chế.
2. Những điểm còn hạn chế- một số nguyên nhân.
Dù đã các cơ quan chức năng, những người có thẩm quyền đã cố gắng nhiều trong việc thực hiện dựa toán chi ngân sách, chi theo định mức, tiêu chuẩn, chế độ; đôn đốc thực hiện chấp hành quy định chi ngân sách theo đúng những điều kiện mà pháp luật quy định nhưng vẫn có những bất cập vẫn còn diễn ra. Một ví dụ về chi ngân sách ( (Dân trí) - Từ năm 2007 đến tháng 6/2008, ông Hà Văn Hợp, kế toán ngân sách xã Ban Công, huyện Bá Thước (Thanh Hóa) đã chi sai ngân sách gần 100 triệu đồng. Chủ tịch xã cho rằng lỗi là do ông Hợp... yếu chuyên môn nên chỉ cần khiển trách để rút kinh nghiệm. )
Năm 2009: Chính phủ ước đạt tổng chi cân đối NSNN là 533.005 tỷ đồng, tăng 8,5% so với dự toán, tăng 13,9% so với thực hiện năm 2008. Mặc dù, do thực hiện các chính sách chống suy giảm kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội đã gia tăng sức ép chi ngân sách so với dự toán, nhưng UBTCNS cũng đánh giá, có một số khoản chi vượt dự toán lớn đã làm mất ý nghĩa của việc chấp hành dự toán chi. Tiết kiệm chi thường xuyên chưa triệt để, chi quản lý hành chính vẫn vượt dự toán là một hạn chế cần khắc phục. Qua giám sát cho thấy, quản lý chi ngân sách chưa thật chặt chẽ, thanh quyết toán chưa nghiêm, còn để xảy ra vụ việc vi phạm, lãng phí, tiêu cực.
Bội chi ngân sách năm 2010 tuy có giảm nhưng vẫn còn cao (chưa về mức dưới 5% như đã duy trì trong nhiều năm) và là một trong những nhân tố góp phần làm gia tăng lạm phát. Điều này cũng cảnh báo độ an toàn của ngân sách trong các năm tiếp theo nếu như không chủ động có các biện pháp cải cách để tạo nền tảng tăng nguồn thu cũng như tăng cường kỷ luật tài chính cho ngân sách. Chi thường xuyên thực hiện tăng 6,3% dự toán. Khoản chi khác ngân sách và chi trợ giá các mặt hàng chính sách tăng ở mức cao. Ủy ban Tài chính –Ngân sách đánh giá, trong điều kiện khó khăn hiện nay của ngân sách thì việc thực hiện tiết kiệm chi thường xuyên chưa thật triệt để, chi quản lý hành chính vẫn vượt dự toán là một hạn chế lớn. Bên cạnh đó, qua giám sát cho thấy, quản lý chi tiêu chưa chặt chẽ, thanh quyết toán chưa nghiêm, còn để xảy ra vi phạm, lãng phí, cần có giải pháp khắc phục.
Tổng chi NSNN 5 năm 2006 - 2010 ước tăng 480.000 tỷ đồng so với chỉ tiêu đề ra. Tốc độ tăng chi bình quân hàng năm đạt 19,8%/năm, cao hơn chỉ tiêu đề ra (tăng 11,2%/năm). Quy mô chi NSNN năm 2010 tăng 2,5 lần so với năm 2005. Ủy ban Tài chính – Ngân sách cho rằng, xu thế chi vượt dự toán lớn đã làm giảm ý nghĩa của việc lập dự toán và phê chuẩn dự toán, thể hiện việc chấp hành kỷ luật chi ngân sách chưa nghiêm. Ủy ban đã đề nghị Chính phủ phân tích kỹ nguyên nhân tăng, giảm các khoản chi NSNN, đặc biệt là chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi trả nợ.
Chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách nhà nước còn thiếu, chưa tương xứng với tình hình thực tế, gây khó khăn trong việc cấp phát, kiểm tra, kiểm soát trong chi NSNN. Ví dụ như hàng năm Quốc hội phân bổ 2% tổng chi ngân sách nhà nước cho lĩnh vực khoa học, công nghệ, nhằm đẩy mạnh nghiên cứu và áp dụng thành tựu khoa học để phát triển kinh tế - xã hội liệu có quá ít. Hơn nữa, thủ tục pháp luật quy định quá rườm rà khiến cho ngân sách dành cho khoa học không dùng hết. Đối với lĩnh vực giáo dục, hàng năm được dành 20% tổng NSNN nhưng hiệu quả sử dụng ngân sách vẫn không cao.
Tác động của các yếu tố thị trường kinh tế xã hội ảnh hưởng rất lớn đến tăng chi ngân sách, sự neo thang của giá cả, xăng dầu, thực phẩm…(Bộ Tài chính công bố bắt đầu trích 27.000 tỷ đồng để thực hiện việc tăng lương tối thiểu từ 730.000 đồng lên 830.000 đồng một tháng vào ngày 1/5 tới)…
Hằng tháng, Kho bạc Nhà nước (KBNN) lại báo cáo số liệu trong tháng về Bộ Tài chính. Theo đó, các khoản chi không đúng quy định bị KBNN từ chối thanh toán ngày càng tăng cao, tháng sau cao hơn tháng trước, năm sau cao hơn năm trước. Riêng 10 tháng đầu năm 2009, hệ thống KBNN đã thực hiện kiểm soát ước đạt 175.000 tỷ đồng chi thường xuyên của NSNN qua KBNN.Thông qua công tác kiểm soát chi NSNN, các đơn vị KBNN đã phát hiện 37.500 khoản chi của 16.200 lượt đơn vị chưa chấp hành đúng thủ tục, chế độ quy định và yêu cầu đơn vị bổ sung các thủ tục cần thiết; từ chối chưa thanh toán với số tiền khoảng 240 tỷ đồng chi không đúng chế độ quy định.
Theo KBNN, các khoản chi được chấp thuận nếu đảm bảo đủ 4 điều kiện chi ngân sách, cụ thể: đã có trong dự toán được giao, đúng chế độ, tiêu chuẩn định mức; được thủ trưởng đơn vị chuẩn chi và có đầy đủ hồ sơ, chứng từ cần thiết. Thông qua quá trình kiểm soát chi, KBNN đã phát hiện nhiều khoản chi chưa chấp hành đúng thủ tục và các điều kiện chi quy định, như chi vượt dự toán hoặc chi vượt giá trị hợp đồng; chi chưa đúng chế độ, tiêu chuẩn định mức; chi sai mục lục ngân sách nhà nước; thiếu hồ sơ, chứng từ kiểm soát chi; hoặc hồ sơ, chứng từ chưa hợp lệ, hợp pháp; chưa chấp hành đầy đủ thủ tục chi ngân sách đối với từng nội dung chi (thủ tục đấu thầu, thủ tục thẩm định giá, thủ tục chi nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ …).
Có 1 số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những vấn đề trên
Một là hiện các quy định về chế độ, tiêu chuẩn định mức còn chưa đầy đủ, rõ ràng, được điều chỉnh bởi nhiều văn bản khác nhau; nhiều tiêu chuẩn, định mức còn lạc hậu so với thực tế cũng gây khó khăn cho đơn vị sử dụng NSNN trong việc chi tiêu cũng như kiểm soát chi của KBNN. Ngoài ra, một số đơn vị sử dụng ngân sách chưa chấp hành đúng và đầy đủ các thủ tục chi ngân sách nhà nước do thủ trưởng đơn vị còn chưa sâu sát trong việc kiểm soát chi tiêu của đơn vị; cá biệt cũng có những trường hợp lợi dụng khai khống hồ sơ, chứng từ chi ngân sách. Và một nguyên nhân nữa dẫn đến tình trạng có sai sót của các đơn vị trong chi ngân sách là việc KBNN chưa có chế tài để xử lý vi phạm, việc xử lý của KBNN mới chỉ dừng lại ở mức từ chối thanh toán và trả lại hồ sơ, chứng từ cho đơn vị…
Các thủ tục về đấu thầu mua sắm, đầu tư, còn phức tạp, liên quan đến nhiều cơ quan, tổ chức có chức năng quản lý nên không ít các đơn vị sử dụng ngân sách không nắm vững chế độ, dẫn đến trong quá trình triển khai không thực hiện đầy đủ thủ tục chế độ chi tiêu theo quy định. Cùng với đó, một số đơn vị (đặc biệt là các đơn vị thuộc khối ngân sách xã) hoạt động ở vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo do trình độ cán bộ kế toán còn yếu, đa phần chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý nên trong quá trình chuẩn bị hồ sơ, chứng từ chi còn nhiều sai sót, lúng túng dẫn đến KBNN phải trả đi, trả lại nhiều lần để hướng dẫn, bổ sung.
Dự toán ngân sách chưa thực sự được tổ chức xây dựng, tổng hợp từ đơn vị sử dụng ngân sách. Kết quả kiểm toán tại các Bộ, ngành cho thấy một số đơn vị không lập dự toán gửi cơ quan chủ quản (Bộ, ngành) hoặc có lập dự toán nhưng không thuyết minh cơ sở tính toán; gửi dự toán cho Bộ, ngành sau khi Bộ, ngàng đã gửi dự toán cho Bộ Tài chinh. Việc tổng hợp dự toán của một số Bộ, ngành cũng không có thuyết minh chi tiết đến đơn vị sử dụng ngân sách. Dự toán ngân sách theo các lĩnh vực chi chưa có căn cứ vững chắc, còn nhiều tồn tại, hầu hết các Bộ, ngành được giao nhiệm vụ xây dựng, tổng hợp dự toán ngân sách theo lĩnh vực không có đầy đủ số liệu thực hiện năm trước và nhu cầu chi năm kế hoạch do các địa phương báo cáo....
Dự toán thu, chi còn chưa thực sự bảo đảm tính khách quan và phần nào còn chứa đựng ý kiến chủ quan của cơ quan soạn lập ngân sách. Cơ quan soạn lập ngân sách luôn có xu hướng lập dự toán thu thấp và dự toán chi cao để có thể chủ động điều hành ngân sách. Đối với các địa phương luôn có xu thế để đẩy dự toán chi lên cao và dự toán thu xuống thấp để tăng mức hỗ trợ từ NSTW hoặc giảm số phải điều tiết cho NSTW từ đó tăng khả năng ngân sách cục bộ cho địa phương mình, tình trạng này đã kéo dài trong nhiều năm nhưng được chậm khắc phục.
Dự toán chi đầu tư phát triển còn bất cập do công tác lập kế hoạch chi đầu tư còn nhiều tồn tại, hạn chế các văn bản pháp lý về quản lý nhà nước trong lĩnh vực này còn thiếu và chưa đồng bộ. Dự toán chi thường xuyên thiếu tích cực và phần nào còn mang tính chủ quan. Dự toán chi thương xuyên của một số nhiệm vụ chưa có đầy đủ căn cứ và cơ sở khoa học Chi sự nghiệp khoa học-công nghệ được lập chưa thực sự căn cứ vào nhiệm vụ nghiên cứu khoa học . ..Quy lập dự toán chi còn có sự tách rời giữa chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển.…
3. Một số biện pháp để nâng cao hiệu quả áp dụng các điều kiện chi ngân sách nhà nước.
- Xây dựng chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm điều kiện chi NSNN.
- Hoàn thiện pháp luật về quy trình lập, chấp hành, quyết toán ngân sách nhà nước. Đây là ba khâu quan trọng trong quá trình ngân sách nhà nước.
- Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp lập dự toán ngân sách để tránh tình trạng thẩm quyền nơi thì thiếu nơi thì chồng chéo.
- Cơ cấu lại các khoản chi ngân sách nhà nước sao cho phù hợp, theo kịp với tình hình kinh tế - xã hội. Chi ngân sách phải cần được thực hiện theo quan điểm phải gắn liền với việc xác định đúng đắn cơ cấu chi tối ưu, có tỷ trọng hợp lý giữa chi đầu tư phát triển với chi thường xuyên, chi trả nợ, chi dự phòng…
- Cần hoàn thiện cơ chế kiểm soát chi chặt chẽ để các chủ thể sử dụng ngân sách chấp hành nghiêm túc các điều kiện chi trong hoạt động chi ngân sách. Có chế tài tương xứng đối với những đơn vị sử dụng ngân sách không chấp hành tốt các điều kiện chi NSNN theo luật định.
- Những người quyết định chi ngân sách nhà nước đòi hỏi phải có năng lực nghề nghiệp cao, có trách nhiệm với công việc, trong việc chi phải đảm bảo tính minh bạch rõ ràng, hóa đơn chứng từ hồ sơ đầy đủ, quyết định chi rõ ràng…
- Nâng cao mức độ tham gia, kiểm tra giám sát của nhân dân đối với hoạt động chi ngân sách để các đơn vị sử dụng ngân sách có ý thức hơn trong việc sử dụng nguồn vốn được cấp, đảm bảo đủ các điều kiện chi để chi đúng, chi đủ, chi hợp pháp.
C. Kết Luận.
Trong những năm qua từ khi thực hiện các điều kiện chi ngân sách nhà nước đến nay tuy vẫn còn những hạn chế nhưng những năm quá chi ngân sách đã có những bước tiến rỗ rệt đã ngày một hiệu quả hơn, chi sai, chi hiếu, thất thoát.. đã được hạn chế và giảm một cách đáng kể. Có thể nhận thấy rằng nếu như chúng ta làm tốt thực hiên, chấp hành tốt hơn nữa các điều kiện thì sẽ giúp cho việc chi ngân sách đạt được hiểu qua cao, giảm bội chi ngân sách một cách hiệu quả, tăng hiệu quả của nền tài chính công giúp cân đối ngân sách nước nhà.
Tài Liệu Tham Khảo.
Giáo trình luật ngân sách nhà nước – ĐH Luật
Luật NSNN 2002
Từ điển giải thích thuật ngữ luật học
Nghị định 60/2003/NĐ-CP
Thông tư 79/2003/TT-BTC
ểu-luận-Các-quy-định-pháp-luật-về-điều-kiện-chi-ngân-sách-nhà-nước
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bình luận về các điều kiện chi ngân sách nhà nước quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng.doc