DẪN LUẬN
Trang phục là một trong những thành tố cơ bản nhất phản ánh đặc trưng văn hoá tộc người. Để biến các nguyên liệu thành trang phục, người ta phải trải qua nhiều công đoạn, nhiều bước khác nhau. Mỗi công đoạn, mỗi loại nguyên liệu lại có các công cụ khác nhau. Để chế tác trang phục bằng vải, cần có các công cụ dùng để biến nguyên liệu thành sợi, dụng cụ dùng để xe sợi, dụng cụ dùng để dệt sợi, nhuộm sợi, nhuộm vải Chế tác trang phục bằng kim loại phải có khuôn gò, đúc, lò nung, nồi nấu và các dụng cụ cần thiết kèm theo để gò, rèn, giũa Trang phục bằng các chất liệu từ động vật phải có các dụng cụ dùng trong việc thuộc da, sấy ép, cắt bào, hấp, may Các công cụ này được phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Chúng phản ánh trình độ phát triển của công nghệ địa phương, công nghệ dân gian; thể hiện trình độ kỹ thuật, kỹ năng, kỹ xảo của một cộng đồng người.
Vì vậy, tìm hiểu trang phục không thể chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu kiểu dáng, mẫu mã, chất liệu, màu sắc, hoa văn trên trang phục mà còn phải tìm hiểu bộ công cụ để làm nên bộ trang phục ấy. Từ đó, góp phần nghiên cứu về văn hoá dân gian trên góc độ công nghệ truyền thống.
Thôn Cát Cát hiện nay được đông đảo du khách trong và ngoài nước biết đến bởi những giá trị to lớn không chỉ về mặt cảnh quan thiên nhiên mà còn cả về bản sắc văn hoá dân tộc Mông được bảo lưu khá đậm nét trong các nếp sống sinh hoạt hàng ngày. Tuy nhiên, do sự phát triển của du lịch nói riêng, của kinh tế thị trường nói chung đang từng ngày, từng giờ tấn công mạnh mẽ vào mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - văn hoá – xã hội nơi đây. Trong đó, công nghệ dân gian cũng đang bị lấn át mạnh mẽ bởi công nghệ và các loại máy móc, thiết bị công nghiệp hiện đại.
Tình hình đó đã đặt ra một yêu cầu bức thiết là phải khẩn trương nghiên cứu, tiến tới bảo tồn và phát huy giá trị của công nghệ dân gian truyền thống nói chung, công nghệ dân gian trong lĩnh vực dệt may của người Mông ở Cát Cát nói riêng bằng các phương pháp bảo tồn phù hợp, có hiệu quả để nó không chỉ đứng vững mà còn có thể khẳng định được vị thế của mình trong xã hội công nghiệp.
Chuyên đề Bộ công cụ dệt may của người Mông ở thôn Cát Cát, xã San Xả Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai nhằm góp phần giải quyết vấn đề đó. Chuyên đề nằm trong Đề tài Bảo tồn nghề dệt truyền thống, thuộc Dự án Bảo tồn làng truyền thống dân tộc Mông ở thôn Cát Cát, xã San Xả Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Chuyên đề được thực hiện bằng các phương pháp dân tộc học truyền thống, sử dụng kết quả điền dã tại thực địa làm nguồn tài liệu nghiên cứu chủ yếu.
MỤC LỤC
Dẫn luận .
1
1.
Bộ công cụ trồng và chăm sóc lanh
2
2.
Bộ công cụ chế biến lanh thành sợi
2
2.1.
Công cụ giã lanh
2
2.2.
Guồng xe sợi
3
2.2.1.
Trụ đỡ (ndêx yuôz) .
3
2.2.2.
Giá đỡ trục (nênhv yuôz) .
3
2.2.3.
Lỗ cắm que cuốn sợi (kror nzeir) .
4
2.2.4.
Bánh xe (câux yuôz) .
4
2.2.5.
Trục bánh xe (ntơs yuôz)
5
2.3.
Guồng thu và tháo sợi
5
2.3.1.
Trục đỡ (tâuz lis)
5
2.3.2.
Thanh cuộn (khâuz lis) .
6
2.3.3.
Chốt chặn (chel khâuz lis)
6
2.4.
Công cụ luộc sợi
7
2.5.
Công cụ lăn sợi
7
2.5.1.
Thớt lăn sợi
8
2.5.2.
Đá lăn sợi
8
3.
Bộ công cụ dệt vải
8
3.1.
Kiểu dáng, chất liệu .
8
3.2.
Cấu tạo và kỹ thuật chế tác các cấu kiện .
9
3.2.1.
Thân khung dệt (ndêx ntus)
10
3.2.2.
Trục cuốn sợi (chênhx ntus) .
10
3.2.3.
Bộ cần nâng sợi (gangz ntus) .
11
3.2.4.
Cái dập sợi (duôx)
12
3.2.5.
Trục cuốn vải (chênhx ntux)
13
3.2.6.
Đai buộc lưng (hluô san ntus)
13
3.2.7.
Thoi dệt (goz) .
14
3.3.
Cơ chế vận hành .
15
4.
Bộ công cụ tạo màu sắc và hoa văn trên vải
16
4.1.
Thùng nhuộm chàm .
16
4.2.
Thớt và đá lăn vải
18
4.3.
Bộ công cụ in sáp ong
18
5.
Bộ công cụ chế tác đồ trang sức
20
6.
Một số biến đổi và giải pháp bảo tồn bộ công cụ trồng lanh, dệt vải và cắt may trang phục truyền thống của người Mông ở Cát Cát .
21
6.1.
Một số biến đổi
21
6.2.
Một số giải pháp bảo tồn bộ công cụ trồng lanh dệt vải và cắt may trang phục truyền thống của người Mông ở Cát Cát
24
Kết luận
27
27 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3246 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bộ công cụ dệt may của người Mông ở thôn Cát Cát, xã San Xả Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỗi lỗ có đường kính 3 cm. Tâm lỗ tròn cách đầu thanh ngang ≈ 4 cm, cách cạnh trên và cạch dưới đều ≈ 2 cm. Một bộ phận nằm trên giá đỡ trục cuốn sợi nhưng lại có chức năng tác động đến dây kéo cần nâng sợi chính là thanh ngang. Vì chức năng của thanh ngang là làm mốc giữ cho dây kéo cần nâng sợi ở khoảng cách hợp lý để không bị vướng vào sợi trong quá trình thao tác. Vì thế, người ta phải chế tác sao cho khi lắp đặt và vận hành, thanh ngang có thể quay trơn tru khi dây kéo cần nâng sợi trượt qua trượt lại (do tác động của lực kéo của chân). Thanh ngang có hình trụ tròn dài (dài 50 cm; đường kính 4 cm). Hai đầu thanh ngang được gọt dũa tạo thành 2 ống trục (đường kính ≈ 2 cm; dài 2 cm) để lắp vào hai lỗ tròn của hai thanh dọc dóng ra từ thân khung dệt.
3.2.2. Trục cuốn sợi (chênhx ntus)
Trục cuốn sợi có chức năng để giữ sợi trên khung dệt. Khi muốn mắc sợi vào khung, người phụ nữ Mông sẽ phải đặt sợi vào bộ phận này trước. Kỹ thuật lắp sợi (không kể đến số sợi) được thực hiện theo phương pháp cuộn tròn từ trong ra ngoài theo hướng ngược chiều kim đồng hồ để khi lắp xong, làn sợi dọc sẽ quay ra phía ngoài khung dệt. Đồng thời, ở mỗi tầng sợi, người ta phải lắp các cặp phân cách để tách các phần sợi không cho chúng rối vào nhau (một thanh đặt trên, một thanh đặt dưới điểm trung tâm là lõi trục).
Với kỹ thuật lắp sợi như trên. Bộ trục cuốn sợi sẽ có cấu tạo và kỹ thuật chế tác sao cho thích hợp. Trục cuốn sợi do đó sẽ có 2 bộ phận chủ yếu. Đó là lõi trục và các thanh phân cách.
Lõi trục cuốn sợi là một miếng gỗ có hình chữ H chạy dài theo chiều ngang làm cho nó được phân thành 3 đoạn rõ rệt. Lõi trục cuốn sợi có kích thước: dày 3 cm; rộng 5 cm, dài 75 cm. Chiều dài được chia đều cho 3 đoạn, mỗi đoạn dài 25 cm.
Các thanh phân cách ở trục cuốn sợi được làm đơn giản. Do đây chỉ là những cấu kiện tạm thời, dễ dàng thay thế nếu cần nên chúng chỉ được làm bằng các thanh tre hoặc cành que nhỏ to cỡ bằng một ngón tay. Mỗi thanh phân cách có chiều dài ≈ 27 – 28 cm. Do kỹ thuật xếp sợi ngang nêu trên nên trên trục cuốn sợi có bao nhiêu tầng sợi thì sẽ có bấy nhiêu cặp thanh phân cách.
3.2.3. Bộ cần nâng sợi (gangz ntus)
Cần nâng sợi có chức năng tách một tầng sợi để cho chúng tách xa ra khỏi tầng sợi còn lại trong quá trình vận hành của khung dệt, tạo điều kiện thuận lợi cho con thoi chạy qua chạy lại xen vào giữa hai làn sợi dọc để đưa sợi ngang đan đi đan lại liên tục thay đổi trình tự lượt trên - lượt dưới để tạo thành tấm vải (kỹ thuật đan theo lóng). Cần nâng sợi được cấu tạo bởi 04 thanh gỗ mỏng ghép lại với nhau bằng kỹ thuật chui mộng và được ghép với thân khung dệt bằng kỹ thuật buộc dây (khi khlôz).
Giữ ở vị trí trung tâm là một thanh gỗ cùng một loại gỗ với khung dệt. Miếng gỗ này có dày hay mỏng, tròn hay dẹt đều được. Chiều dài của nó thường là 41 cm. Ở giữa thanh ngang, người ta đục một lỗ mộng để lắp cần giật. Cách lỗ mộng cần giật đều về hai bên 11 cm, người ta đục 2 lỗ mộng khác để lắp 2 cần nâng.
Cần nâng và 2 cần nâng sợi có hình dáng, kích thước tương đối giống nhau. Chúng cũng được làm bằng cùng một loại gỗ với khung dệt. Về hình dáng, chúng có dạng mỏng, dẹt. Phần đáy nở to và thuôn nhỏ dần về phía trước. Đầu cần được đẽo gọt cho nở to ra tạo thành hình tròn hoặc bầu dục (tính tương đối) tạo thành đầu khấc có tác dụng như một mắt khoá để ngăn không cho dây buộc tuột ra trong quá trình vận hành. Về kích thước, mỗi chiếc cần có chiều dài khoảng 20 – 22 cm (có khi chiều dài của chúng lên tới 25 – 26 cm), dầy 1 cm. Phần đáy nở to ≈ 3 cm, càng về phía trước càng thuôn nhỏ dần. Sát với đầu khấc, thân cần nhỏ chỉ còn ≈ 1,2 cm. Ở đầu khấc, bề mặt của nó bất chợt nở rộng, đoạn phình nhất ≈ 2 cm.
Sau khi đẽo, gọt và lắp ghép với nhau, người ta lắp bộ cần nâng sợi vào thân khung dệt bằng kỹ thuật buộc dây. Dây buộc được bố trí ở hai đầu thanh gỗ mỏng, dẹt tạo thành hai đầu buộc đối xứng. Một đầu dây nối với thanh gỗ dẹt của bộ cần nâng sợi; đầu dây còn lại được buộc vào thân thanh gỗ giằng ngang phía trên thân khung dệt. Người ta phải buộc sao cho độ dài - ngắn của hai dây ở hai đầu bằng nhau. Điều này có tác dụng làm cho bộ cần nâng sợi có được tư thế thăng bằng, không bị nghiêng, không bị lệch.
Ở đầu cần giật, người ta buộc vào đó đầu của đoạn dây kéo cần nâng sợi. Dây kéo cần giật thường được làm bằng song hoặc mây (Ngày nay, người ta thay bằng dây ni lông). Dây có chiều dài ≈ 1,7 m. Một đầu dây được buộc với cần nâng. Thân dây được luồn từ cần nâng cho chạy xuống dưới – phía đằng sau thân khung, qua thanh trượt – thanh ngang đặt ở giá đỡ trục cuốn sợi rồi chạy luồn xuống dưới khung dệt. Đầu dây còn lại được buộc lại tạo thành vòng để xỏ vào chân người dệt tạo thành chức năng như một bàn đạp.
Ở đầu hai cần nâng, người ta buộc vào đó hai đoạn dây ngắn - gọi là dây nâng sợi. Dây này cũng được làm từ chất liệu truyền thống nhưng nhỏ hơn dây kéo cần nâng sợi. Dây nâng sợi to cỡ bằng chiếc đũa hoặc có thể nhỏ hơn một chút. Khi được buộc vào cần và lược chia sợi, mỗi đoạn dây nâng sợi có chiều dài ≈ 25 cm. Đặc biệt, hai đoạn dây nâng cần phải bằng nhau tuyệt đối. Có như vậy thì chúng mới có thể kéo cho lược chia sợi nâng lên hay hạ xuống đều được ở cả hai bên, các làn sợi nhờ đó mà được tách đều, không bị nghiêng, không bị lệch, con thoi vì thế cũng chạy qua chạy lại được dễ dàng hơn.
3.2.4. Cái dập sợi (duôx)
Cái dập sợi còn có thể gọi là lược dập sợi bởi trong thành phần cấu tạo của chúng có các nan khít đều nhau trông giống như răng lược. Cái dập sợi trong bộ khung dệt của người Mông ở Cát Cát có 2 loại phân biệt theo số nan và kích thước. Loại nhỏ dùng để dệt loại khổ vải 15 – 20 cm và loại to dùng để dệt khổ vải 25 – 30 cm. Ngoài ra, cấu tạo của chúng đều giống nhau. Cụ thể như sau:
Cái dập sợi gồm có 4 bộ phận hợp thành. Quan trọng nhất trong số đó là các nan chia sợi dọc. Thông thường, một cái dập sợi có 154 nan (loại nhỏ) và 166 nan (loại to). Nan được chế tác từ cật tre già nên có độ cứng khá cao. Trong quá trình sử dụng, các sợi dọc trượt qua trượt lại mài một lực ma xát vào các nan chia sợi tạo nên một độ thâm bóng rất đẹp mắt. Càng dùng nhiều và lâu, độ thâm bóng càng lớn. Mỗi chiếc nan có chiều dài 9 cm (loại nhỏ) và 10 cm (loại to); tiết diện 0,5 x 2 mm. Khi lắp vào cái dập sợi, mỗi thanh nan cách đều nhau 1 mm.
Để giữ các nan dập sợi, người ta dùng một thanh tre không quá già nhưng cũng không dùng tre non để cho nó không bị mềm nhưng cũng không bị giòn. Người ta chẻ đôi ở giữa thanh tre - chẻ dọc ra hai đầu (mỗi đầu để lại 1 đoạn ≈ 3 – 4 cm không chẻ). Người ta luồn chân nan chia sợi vào khe thanh tre kẹp, lần lượt từng nan một. Luồn đến đâu, người ra dùng một loại dây rừng nhỏ như sợi chỉ nhưng rất dai (nay người ta sử dụng dây gai dệt công nghiệp) buộc ép chặt chân nan theo kiểu buộc xoắn sợi (giống như kiểu thùa khuyết). Cứ như vậy cho đến hết thì sợi dây sẽ được buộc thắt lại cho chắc rồi cắt bỏ đầu dây thừa. Sau đó, người ta lại thao tác tiếp với đầu chân nan bên kia với kỹ thuật và trình tự như vậy.
Khi hai đầu chân nan đã được kẹp chắc vào hai thanh tre nhỏ, người ta lấy hai dóng trúc đường kính 2 cm (loại nhỏ) và 2,5 cm (loại to); dài 34 cm (loại nhỏ) và 41 cm (loại to). Ở mỗi thanh, người ta chẻ dọc từ một đầu dóng trúc thành một đường rãnh rộng khoảng 0,5 cm chạy suốt dọc thân dóng trúc đến cách đầu bên kia khoảng 3 – 4 cm thì dừng lại. Đường rãnh này dùng để lắp (luồn) thanh kẹp các chân nan chia sợi (mỗi dóng trúc kẹp một đầu chân nan) là hoàn thành. Có người trong quá còn dùng dây buộc cố định đầu khe của hai dóng trúc để không cho chúng rơi ra.
3.2.5. Trục cuốn vải (chênhx ntux)
Trục cuốn vải trong bộ khung dệt truyền thống của người Mông ở Cát Cát có tác dụng cuốn giữ những đoạn vải vừa được dệt xong và chờ để cuốn tiếp vào đó những đoạn vải sẽ còn tiếp tục được dệt. Trục cuốn vải có cấu tạo gọn nhẹ. Chất liệu tạo thành là tre (jôngz). Kỹ thuật chế tác do đó cũng rất đơn giản. Trục này được làm từ 2 thanh tre với chiều dài 39 cm, bề ngang 5 cm, dầy 1,5 cm. Nó vốn được chẻ ra từ một thân tre nhỏ (đường kính khoảng 6 – 7 cm), được gọt bỏ những phần xù xì của đốt tre làm cho thân ngoài thanh tre đạt được độ thẳng mịn cần thiết. Tiếp đó, người ta lại gọt lược bớt bề dầy ở phía phần bụng thân tre. Hai đầu mỗi thanh tre này được vót cho thuôn nhỏ về phía trước với đường lượn khá gấp, độ cong lớn cộng thêm chiều dài của đoạn lượn không lớn (9 cm) làm cho nó có hình dạng hơi thiên về hình dạng nhọn. Sau khi đẽo, gọt xong, để lắp vào khung, người ta áp bụng hai nửa thanh trục cuốn vải lại với nhau rồi cuốn vải xung quanh theo hướng ngược chiều kim đồng hồ (cuốn từ trên xuống dưới).
3.2.6. Đai buộc lưng (hluô san ntus)
Đai buộc lưng trong bộ khung dệt của người Mông ở Cát Cát được làm từ da trâu (tơưr nhưngx) hay da bò (tơưr nhưngx đăngk). Người Mông ở Cát Cát trước đây thường hay sử dụng da trâu hay da bò để chế tác ra nhiều công cụ phục vụ lao động, sản xuất và một số công cụ phục vụ các hoạt động sinh hoạt văn hoá – xã hội khác (VD: làm mặt trống, mặt tấm trượt chuyên trở hàng trên các bề mặt địa hình phức tạp, lồi lõm; làm bao da, dây kéo.v.v…).
Trước đây, cứ mỗi lần mổ một con trâu hay một con bò trưởng thành (từ hơn 4 năm tuổi trở lên), đồng bào thường thuộc da để dùng (người ta không dùng da của những con chưa trưởng thành vì da của chúng chưa đủ “độ chín”, sẽ mỏng và không dai, không bền). Chỗ da được lấy thường từ cổ đến sát 4 đùi. Nói cách khác là đồng bào sử dụng phần da lưng và da bụng của con trâu, con bò đã trưởng thành để thuộc. Tấm da sau khi được lột ra sẽ được kẹp vào 6 đôi thanh cật tre già (1 đôi gồm có 2 thanh cật tre già đã bổ dọc từ 1 thân cây tre đã được gọt và chuốt cho thật nhẵn, phẳng đều đặt nằm úp vào nhau: một thanh đặt nằm ngửa ở dưới, một thanh đặt nằm úp ở trên, tấm da được đặt kẹp vào giữa). Trong đó, 4 đôi thanh tre được đặt nằm vây xung quanh có tác dụng đóng thành khung và 2 đôi thanh tre được đặt nằm bắt chéo với nhau tạo thành hình dấu nhân (X) ở trong lòng khung để tăng thêm độ chắc chắn. Các đôi thanh tre được ghim lại với nhau bằng chốt tre (chal jôngz). Mỗi chốt tre cách nhau khoảng 1 gang tay (≈ 22 – 24 cm) để đảm bảo cho khung giằng có thể chịu đựng được khi tấm da khi co lại.
Tấm da sau khi được căng sẽ được phơi nắng. Hôm nào không có nắng, người ta mang vào nhà dựng ở góc bếp lò để nhiệt của bếp lò giữ cho tấm da không bị thối. Nếu nắng to, thời gian phơi tấm da là 2 ngày. Nếu nắng vừa, thời gian phơi tấm da từ 4 – 5 ngày là được.
Tấm da sau khi phơi đủ nắng sẽ được tháo ra khỏi 6 đôi thanh tre nẹp, cuộn tròn lại để lên gác phía bên có bếp nấu cơm để bảo quản. Khói bếp sẽ làm cho tấm da bền hơn, tránh được sự tấn công của các loài sinh vật nhỏ và sự phát sinh, phát triển của các loài vi sinh. Theo ông Vàng A Sử, sinh năm 1963, trú tại Đội I thôn Cát Cát thì một tấm da khi đã được thuộc và bảo quản như vậy sẽ không bao giờ bị hỏng.
Đai buộc lưng trong bộ khung dệt của người Mông ở Cát Cát xưa kia được làm bằng loại da kiểu như vậy. Mỗi khi cần dùng, người ta mang tấm da xuống rải ra cắt lấy một hay vài miếng (tuỳ theo nhu cầu sử dụng). Vị trí cắt thì không có quy định cụ thể, nhưng thường được cắt ở sát ngoài rìa cạnh của tấm da. Kích thước của mỗi tấm đai như vậy thường dài 38 cm; rộng 8 – 10 cm; độ dày phụ thuộc vào độ dày của tấm da. Hai đầu đai có thể được cắt lượn tròn hoặc cắt vuông góc (tạo thành 4 góc 450) đều được. Hai đầu đai được dùi 4 lỗ thủng (mỗi đầu 2 lỗ) dùng để sâu dây buộc gắn đai với hai đầu của trục cuốn vải. Khi khung dệt “nghỉ”, một đầu dây này có thể tháo ra hay để nguyên trạng thái buộc đều được. Nhưng khi người phụ nữ Mông bắt đầu dệt vải, người ta phải tháo một đầu dây để luồn đai qua sau lưng rồi buộc lại vào đầu trục cuốn vải. Khi người dệt vải ngồi xuống, người ta sẽ điều chỉnh cả ở trục cuốn vải, trục cuốn sợi và vị trí ngồi khiến cho làn sợi dọc căng ra. Tấm đai buộc lúc này cùng với lưng người ngồi dệt có tác dụng góp phần làm căng sợi dọc để có thể thực hiện thao tác dệt vải.
3.2.7. Thoi dệt (goz)
Thoi dệt của người Mông ở Cát Cát thường được làm bằng loại gỗ dẻo, khó vỡ như gỗ dâu (nhăngz) hoặc gỗ cây xương cá (đông đangk); trong đó gỗ xương cá vàng ít được ưa chuộng hơn vì nó nặng, làm cho người thao tác nhanh mỏi tay. Việc chọn gỗ làm khung dệt của họ rất cầu kỳ. Gỗ phải được lấy từ một đoạn cây to, thẳng, ít thớ và đặc biệt là không có mắt gỗ. Theo ông Vàng A Sử, sinh năm 1963, trú tại đội I, thôn Cát Cát (một trong 4 người thành thạo nghề mộc tại thôn Cát Cát) thì có khi hạ cả một cây dâu xuống mà không chọn được một đoạn gỗ nào để làm thoi dệt vì nhìn bên ngoài thì to nhưng bổ ra thấy nhiều thớ quá. Ông Sử còn cho biết, do thoi dệt phải khoét lòng rộng, thành mỏng nên nếu thớ nhiều thì sau một thời gian sử dụng, con thoi sẽ bị cong, vênh do thớ gỗ co ngót. Còn nếu gặp mắt gỗ thì sẽ hỏng ngay từ khâu chế tác, bởi thành con thoi chỉ dày có 1 cm và cứ thế chạy dài tới 30 cm nên nếu gặp mắt gỗ sẽ không thể đẽo được cho phẳng, nhẵn; mà nếu có cố đẽo thì trong quá trình sử dụng con thoi cũng sẽ bị vỡ do mắt gỗ rời ra khỏi thân gỗ.
Con thoi dệt của người Mông ở Cát Cát có hình dáng và kích thước như sau:
Nếu quay “cửa buồng thoi” (nơi để tra suốt sợi vào) lên trên thì con thoi có hình dạng như một cái thuyền có khoang. Do đó, thoi có 3 đoạn (1 khoang giữa và 2 đoạn đầu).
Hai đoạn đầu được gọt nhẵn, mỏng, nhọn đầu với chiều dài mỗi đoạn 9 cm. Cạnh trên bằng. Cạnh dưới lượn cong. Càng vào trong, thân thoi càng to. Càng lên trên, thân thoi càng dày. Đến khoảng cuối – nơi giáp với buồng thoi thì thân thoi có chiều rộng 6 cm, dày 3 cm. (Dạng vát mỏng chạy suốt dọc cạnh dưới của thoi). Hai đầu thoi có tác dụng “mở đường” cho con thoi chạy qua chạy lại giữa hai làn sợi dọc.
Buồng thoi là nơi chứa suốt sợi nên được có dạng phình đều (rộng ở giữa và hẹp về hai đầu). Vành ngoài buồng thoi dài 29 cm; rộng 6 cm. Vành trong buồng thoi dài 23 cm; rộng 4 cm. Thành buồng thoi dày 1,5 cm phía đầu cạnh dọc; và 1 cm phía đầu cạnh ngang. Lòng buồng thoi sâu 6 cm. Lòng buồng thoi có dạng thon nhỏ dần về dưới. Ở cửa buồng thoi, chiều ngang là 6 cm. Đến đáy buồng thoi, chiều ngang chỉ còn ≈ 2 cm. Ở hai thành ngang của buồng thoi, người ta khoan 1 cặp lỗ nhỏ đối xứng ở 2 thành ngang của thân buồng thoi. Mỗi lỗ cách cửa buồng thoi 1 cm, đường kính mỗi lỗ 2 mm (những con thoi đã qua sử dụng lâu ngày, lỗ có thể rộng ra thành 3 mm). Lỗ này để người ta xuyên sợi từ con suốt sợi ở trong lòng buồng thoi ra ngoài để chạy sợi ngang.
Các bộ phận trên khi liên kết với nhau rồi còn cần phải có người ngồi vào vị trí dệt, đeo dây qua lưng và trở thành một bộ phận của khung dệt thì khung dệt mới có thể hoạt động được.
3.3. Cơ chế vận hành
Với loại khung dệt này, độ căng của sợi dọc được tạo ra bằng cách cuốn thành nhiều vòng vào trục cuốn sợi. Trục này được đóng vào giữa hai cột cao khoảng 150 cm bằng tre hoặc gỗ. Đầu bên kia của sợi dọc được buộc vào trục cuốn vải. Khi dệt, người phụ nữ Mông ngồi vào nghế, lấy dây buộc lưng khi đó đã được buộc một đầu vào trục cuốn vải, dùng thân người để căng sợi dọc. Vải dệt đến đâu được cuộn tròn vào trục cuốn vải đến đó. Để luồn sợi ngang qua sợi dọc nhanh hơn, người Mông sử dụng một bộ nâng sợi dọc, gồm hai cái cần tác sợi hay còn được gọi là trục go được làm bằng tre, cứ cách một sợi dọc lại buộc một sợi dọc vào một sợi dây nối với một trục go, các sợi còn lại được buộc vào trục go kia. Để làm cho cơ cấu nâng sợi dọc này chuyển động, người phụ nữ Mông dùng một sợi dây vải hoặc dây mây, dây vải buộc từ trục go xuống chân người dệt. Khi chân người dệt kéo sợi này chuyển động về phía sau sẽ làm cho trục go nối với nó được nâng lên hay hạ xuống tạo ra một khoảng trống cho sợi ngang chạy qua. Để làm cho các sợi ngang khít lại với nhau, người ta dùng cái dập sợi đẩy sợi dồn xuống dưới sát với sợi ngang vừa được đan qua lúc trước. Vì vậy, mặc dù chưa đóng thành bàn đạp nhưng với cấu tạo dùng dây buộc vào chân thay bàn đạp như trên, loại khung dệt này của người Mông còn được gọi là loại khung dệt đạp (giống với tên gọi loại khung dệt của người Thái, người Mường hay người Việt). Để đưa sợi ngang luồn qua sợi dọc, người ta cuốn sợi vào từng suốt nhỏ, sau đó để suốt sợi vào bên trong con thoi làm bằng gỗ để có thể dễ dàng trượt qua khoảng trống giữa các sợi dọc một cách nhanh chóng. Vải được dệt thưa hay mau là phụ thuộc vào số răng của go – nơi sợi dọc phải chạy qua từ trục cuốn sợi đến trục cuốn vải.
Người phụ nữ ngồi trên ghế, buộc đai nối với trục cuốn vải vào lưng để làm căng sợi dọc, chân buộc vào dây nối với cơ cấu nâng sợi, họ trở thành một bộ phận của khung dệt. Trong khi dệt, người phụ nữ dùng chân điều khiển dây nối. Khi kéo dây về phía sau, cần tách sợi sẽ tách hai luồng sợi làm đôi tạo một khoảng trống để đưa thoi vào, dùng lực nén dập cho các sợi khít lại với nhau. Khi thả chân, mặt sợi dọc trùng xuống, cần tách sợi trượt về phía trên để trở lại thế ban đầu.
4. Bộ công cụ tạo màu sắc và hoa văn trên vải
4.1. Thùng nhuộm chàm
Thùng nhuộm chàm gọi theo tiếng Mông là trơưr. Thùng nhuộm chàm truyền thống của người Mông ở Cát Cát được chế tác từ chất liệu bằng gỗ pơ mu. Trước đây, gỗ pơ mu trong địa bàn người Mông ở Cát Cát có rất nhiều, người ta chỉ cần đi vào rừng cách nhà khoảng 2 giờ đi bộ là đã có thể kiếm được những cây gỗ pơ mu ưng ý.
Việc đi lấy gỗ pơ mu không quy định thời gian cụ thể. Mỗi khi gia đình có nhu cầu về thùng nhuộm chàm, người đàn ông Mông ở Cát Cát thường mang sẵn công cụ (rìu, dao) vào rừng tìm gỗ làm thùng nhuộm chàm vào những lúc nông nhàn, không bận việc đồng áng, thường vào tháng 11 đến tháng giêng âm lịch hàng năm.
Cây gỗ pơ mu “ưng ý” với người Mông ở Cát Cát để dùng làm thùng nhuộm chàm là những cây mọc thẳng, đường kính gốc tối thiểu là 50 cm, tối đa là 90 cm (90 cm là đường kính gốc lớn nhất đối với hầu hết các cây gỗ pơ mu trong vùng này), cây cao khoảng 6 – 10 m.
Sau khi tìm được cây ưng ý, người ta sẽ chặt hạ ngay chứ không đánh dấu để dành như đối với việc tìm gỗ làm nhà. Khi chặt cây, người ta thường chọn vị trí bên dốc lên. Cách chặt là tỉa rộng vòng ngoài rồi thu hẹp dần vào trong. Sau khi nhát chặt đã “chín”, người ta giáng một nhát bổ mạnh cho cây sẽ đổ về phía đối diện với người chặt, không gây nguy hiểm đến tính mạng.
Sau khi cây được chặt xuống, người ta tỉa bỏ phần ngọn và các cành nhánh ra khỏi thân cây. Tiếp đó, người ta ước lượng chiều cao của những chiếc thùng định đóng rồi chặt thân cây ra làm nhiều đoạn sao cho độ dài của thân cây tương ứng với chiều cao của thùng. Có được những xúc gỗ vừa ý, người ta lại dùng rìu bổ dọc theo thân cây để cho ra những tấm ván thô. Sau đó, cũng vẫn chỉ với chiếc rìu, người ta lại đẽo, gọt cho tấm ván có được độ phẳng tương đối rồi mới vác gỗ về nhà. Bằng kỹ thuật chặt - bổ - đẽo - gọt bằng rìu truyền thống, thông thường, với số gỗ thu được từ mỗi cây pơ mu, người Mông ở Cát Cát trước đây làm được từ 3 – 6 chiếc thùng nhuộm chàm (tuỳ thuộc vào cái cây ấy to hay nhỏ, cao hay thấp). Số gỗ như vậy cần phải đi 2 – 4 chuyến mới có thể vận chuyển hết về nhà. Việc vận chuyển thùng vế nhà được thực hiện bởi 1 – 2 người.
Để tránh hiện tượng co ngót, gỗ pơ mu sau khi mang về nhà sẽ được để lên gác phía bên bếp 1 – 2 tháng thì khô. Lúc này, người ta đã có thể sử dụng gỗ để chế tác thùng nhuộm chàm. Nhiều người cẩn thận hơn còn để gỗ ở đó tới 1 năm.
Công đoạn đầu tiên của việc đóng thùng là bào cho nhẵn các tấm ván. Kỹ thuật bào - tiếng Mông gọi là baol (bạo). Đây là một kỹ thuật được du nhập từ người Kinh trong vùng. Còn trước đây, tiền nhân người Mông cũng chỉ sử dụng chiếc rìu để gọt tỉa kỹ lưỡng để tạo độ nhẵn cho ván thùng. (Trong quá trình khảo sát tại cơ sở, chúng tôi vẫn phát hiện những chiếc thùng cũ có dấu vết của việc làm nhẵn bằng kỹ thuật gọt tỉa bằng rìu).
Sau khi các tấm ván đã được làm nhẵn, người ta đẽo (hoặc đục) ở hai cạnh dài của các tấm ván để tạo thành các đường gờ so le. Việc tạo các đường gờ phải được tính toán sao cho khi ghép các tấm ván vào với nhau, các đường gờ phải khít lại, ghé mắt nhìn qua không thấy lọt ánh sáng là được. Mặt đáy của thùng cũng được tạo bởi các tấm ván đặt khít thành các đường gờ. Chỉ khác là, nếu như các tấm ván thành thùng có chiều thẳng đứng thì các tấm ván đáy sẽ được cắt gọt thành một khối hình tròn, đường kính tuỳ thuộc vào ý muốn của người sử dụng.
Sau khi đã tạo được các cấu kiện ưng ý, người ta sẽ ghép các tấm ván lại với nhau. Đầu tiên, người ta kê các đá hoặc gỗ cao lên một khoảng để tạo khoảng cách giữa mặt dưới đáy thùng với mặt đất. Sau đó, các mảnh ván đáy được đặt khớp vào nhau ở trên khoảng kê ấy. Các tấm ván thành thùng sẽ được lần lượt đặt quây xung quanh tấm ván đáy. Công đoạn này đòi hỏi phải có nhiều người cùng tham gia (thông thường, khi quây ván thùng sẽ có 5 – 8 người cùng tham gia thao tác). Các mảnh ván thành thùng đã được ghép sẽ có người giữ không để cho nó tuột ra. Điều đặc biệt là người Mông ở Cát Cát khi ghép ván thành thùng không cần dùng đến khuôn lót bên trong. Đây là một đặc điểm để chúng ta ghi nhận trình độ ghép ván tài tình của họ. Ván thành thùng sau khi được ghép xong (vòng quây đã kín) sẽ được buộc cố định. Mỗi chiếc thùng ngâm chàm bằng gỗ truyền thống của người Mông ở Cát Cát sẽ có khoảng từ 3 – 4 vòng buộc tuỳ thuộc vào thùng to hay nhỏ, cao hay thấp. Vị trí vòng buộc trên cùng cách cạnh trên mặt thùng ≈ 15 – 20 cm. Vị trí vòng buộc dưới cùng cách cạnh đáy thành thùng ≈ 25 – 30 cm. Sau đó, người ta chia khoảng cách giữa hai vị trí vòng buộc trên cùng và dưới cùng. Khoảng ở giữa sẽ được buộc từ 1 – 2 vòng với tỷ lệ khoảng cách chia đều nhau. Để không cho các tấm ván trượt ra hay thụt vào, khi buộc, người ta phải dùng tay vừa ép bên ngoài, vừa tì bên trong mặt các tấm ván.
Dây buộc thùng ngâm chàm truyền thống của người Mông ở Cát Cát là dây mây (cơx thênhk) hoặc cật tre (giâux xungz). Kỹ thuật buộc thùng của họ là kỹ thuật xoắn dây. Tức là, hai đầu dây sẽ được xoắn vào vòng dây buộc một đoạn dài khoảng 20 cm mỗi đầu rồi cắt bỏ đầu thừa. Đầu thừa của dây buộc được gài vào bên trong vòng dây sao cho kín, không bị tuột ra.
Buộc xong, người ta đổ nước vào thử. Chỗ nào có nước rỉ ra, người ta sẽ đánh dấu lại. Sau đó, người ta đổ hết nước trong thùng đi, lau khô ván thùng và dùng một loại keo thảo mộc chít các khe hở lại sao cho kín là xong.
Nhìn chung, chiếc thùng ngâm chàm của người Mông ở Cát Cát không có chuẩn mực về kích thước. Tuỳ theo số gỗ, ý muốn của người làm và nhu cầu của người sử dụng mà mỗi chiếc thùng lại có một chỉ số về kích thước khác nhau. Ở đây, chúng tôi dẫn ra số đo chiếc thùng nhuộm chàm của gia đình ông Vàng A Seng (sinh năm 1962), trú tại đội 1, thôn Cát Cát như sau: Thùng có chiều cao phía ngoài 92 cm, phía trong 65 cm, mặt đáy dày 4 cm (mặt dưới đáy cách đất 23 cm). Thùng có hình trụ đứng với đường kính 80 cm, thành thùng (các tấm ván) dày 4 cm.
4.2. Thớt và đá lăn vải
Trong quy trình dệt vải và cắt may trang phục của người Mông ở Cát Cát có một công đoạn làm tăng độ bóng cho vải. Đó là công đoạn lăn vải. Đây không phải là một công đoạn chính, không có tác dụng làm hình thành nên miếng vải đen truyền thống mà chỉ nhằm trang trí cho một loại vải cổ truyền thường được dùng để may trang phục mặc ngoài (áo khoác) dùng để mặc đi chơi, mặc trong đám cưới, đám hội và mặc cho người chết. Bộ công cụ lăn vải của người Mông ở Cát Cát gồm có thớt lăn vải (changr đauk qưr ntuôx) và đá lăn vải (poz jez qưr ntuôx).
Thớt lăn vải giống thớt lăn sợi về chất liệu tạo thành, chỉ khác về kiểu dáng và kích thước. Thớt lăn vải được làm từ một nửa thân gỗ bổ dọc nên một mặt có dạng vồng tròn; mặt còn lại thì có dạng phẳng và được tạo chân. Chiều dài của thớt là 65 cm; ngang 40 cm; dầy 20 cm. Tại tâm điểm của mặt phẳng, người ta đo đều về hai bên - mỗi bên 6 cm và cũng tại tâm điểm ấy đo thẳng lên trên một góc 450 với chiều cao của đường đo này là 7 cm. Ba điểm đo rồi được đánh dấu ấy là điểm người ta căn để tạo chân thớt bằng cách khoét rỗng lõi, để lại hai rìa cạnh (hai chân). Lõi thớt được khoét theo dạng vồng lên trên. Bề rộng của lõi là 12 cm; cao 7 cm. Mỗi chân thớt rộng 4 cm. Mặt thớt dày 13 cm. Chân thớt có tác dụng làm cho thớt được vững chãi hơn, khi thao tác sẽ không bị ngả nghiêng do gặp đất lồi lõm.
Đá lăn vải cũng giống đá lăn sợi ở chất liệu và kiểu dáng. Điểm khác nhau giữa chúng chỉ là kích thước. Đá lăn vải có kích thước lớn hơn đá lăn sợi. Đá lăn vải có chiều dài 87 cm; rộng 25 cm; dầy 7 cm.
4.3. Bộ công cụ in sáp ong
Bộ công cụ để in sáp ong của người Mông ở Cát Cát hiện nay gồm có chảo đun sáp ong (jav) và các loại bút (Đar), ngòi được làm bằng đồng nên được gọi là bút ngòi đồng (Đar sưr taz) Xét về kích thước, bút có 2 loại: to và nhỏ. Xét về cấu tạo ngòi bút, bút cũng có 2 loại: loại 1 khoang bụng gọi là Đar nrơư; và loại 2 khoang bụng gọi là Đar changz zsangz. Đặc điểm của mỗi loại công cụ như sau:
- Chảo đun sáp ong: là loại chảo rán cỡ nhỏ được mua ở chợ, thường được làm bằng gang hoặc hợp kim nhôm. Kích thước của chảo thường cao 4 cm; đường kính 20 cm. Khi đun sáp ong, người ta dùng chảo này đặt trên bếp nấu cơm của gia đình (trái nhà bên phải) để đun.
- Bút: gồm có 2 bộ phận chính là quản bút (đar) và ngòi bút (sưr).
Quản bút giống nhau ở cả hai loại cấu tạo bởi chúng đều được làm bằng tre (siôngz); dài 12 – 13 cm (loại nhỏ) và 16 – 17 cm (loại to); rộng 0,7 cm (loại nhỏ) và 1 cm (loại to); dày 1 mm (loại nhỏ) và 2 mm (loại to). Quản bút là nơi người nghệ nhân tạo hình dùng tay cầm vào đó để thực hiện thao tác. Nhìn chung, quản bút in sáp ong của người Mông không có gì đặc biệt. Điều đặc biệt và làm nên tác dụng chính của bút là ở ngòi bút.
Ngòi bút in sáp ong của người Mông ở Cát Cát được làm bằng đồng. Gồm có 4 loại khác nhau là: - loại nhỏ 1 khoang bụng; - loại to 1 khoang bụng; - loại nhỏ 2 khoang bụng; - loại to 2 khoang bụng.
Về cấu tạo, loại bút 1 khoang bụng được ghép bởi 2 lá đồng có dạng hình thang chéo, phình to ở bụng bút và hẹp về phía rìa cạnh lưỡi và giáp quản. Phần giáp quản được cố định với quản bút bởi đai và chốt giữ (cũng đều được làm bằng đồng). Trong khoang bụng là một khoảng trống – đó chính là buồng chứa sáp ong. Loại bút 2 khoang bụng thoạt nhìn bề ngoài cũng có cấu tạo như trên, chỉ khác là bên trong có thêm một lá đồng ngăn giữa khiến cho khoang bụng được chia thành 2 ngăn.
Về kích thước, rìa cạnh lưỡi dài 2,5 cm (loại to) và 1,7 cm (loại nhỏ). Do ngòi bút có dạng hình thang chéo nên 2 đường chéo có chiều cao khác nhau. Trong đó, chiều cao cạnh chéo dài - Cạnh phía ngoài, phía đầu bút là 1,5 cm (loại to) và 11 cm (loại nhỏ). Chiều cao cạnh chéo ngắn - cạnh phía trong, gần với quản bút là 1 cm (loại to) và 0,8 cm (loại nhỏ). Hai đỉnh trên của hai cạnh chéo cách nhau 1,5 cm (loại to) và 0,8 cm (loại nhỏ). Đai ôm ngòi bút với quản bút dài bằng chiều dài cạnh đỉnh trên của hai cạnh chéo. Chiều cao của đai là 0,6 cm (loại to) và 0,3 cm (loại nhỏ). Để tăng thêm độ chắc chắn cho ngòi bút không bị tuột ra khỏi thân bút, ở chính giữa đai ôm ngòi bút, người ta đặt thêm 01 chốt giữ bằng cách khoan 1 lỗ xuyên qua cả ngòi - đầu quản và đai ôm, lồng 1 lá đồng nhỏ qua rồi bẻ gập 2 đầu của chốt giữ sang 2 bên là được.
Mỗi khi vẽ, người nghệ nhân tạo hình chấm bút này vào chảo sáp nóng chảy, sáp ong sẽ tràn vào buồng này. Khi nhấc bút lên, sáp người ta cầm ở tư thế cho cạnh lưỡi nằm song song với bề mặt mặt đất để sáp ong không chảy ra. Khi in, người ta nghiêng dần ngòi bút cho sáp ong chảy ra. Khi mới in, người ta nghiêng ít. Độ nghiêng cứ lớn dần tỷ lệ thuận với lượng sáp ong đã chảy ra khỏi buồng chứa cho đến khi sáp chảy hết hoặc lượng sáp không còn đủ để thể hiện hoa văn theo ý đồ người tạo hình thì người ta mới lại chấm tiếp.
Cũng theo kết quả khảo sát của chúng tôi, ở Cát Cát hiện nay chỉ còn 04 người còn có thể in được sáp ong. Trong đó, có 02 nghệ nhân cao tuổi là Thào Thị Sung (1960, đội III) và Sùng Thị Sao (1963, đội I). Ngoài ra, còn có 01 phụ nữ trẻ là Vàng Thị Mảo (1981, con của nghệ nhân Thào Thị Sung) và 01 thiếu nữ là Vàng Thị Me (1985, đội I). Cả 04 người này đều khẳng định từ lâu nay, người Mông ở Cát Cát đều chỉ in sáp ong trên mấy loại bút kể trên, kể cả in hoa, in chấm nhỏ, in đường xoáy, in đường kẻ, đường riềm…
Trên thực tế, nghệ thuật batit (in sáp ong) của người Mông còn có 02 loại bút nữa là bút chuyên in các đường xoáy (ngòi được tạo sẵn hình xoáy) và bút chuyên in các chấm nhỏ (ngòi là những que sắt nhỏ trông như chiếc bàn chải). Nhưng có lẽ bởi những nguyên nhân nào đó mà 02 loại bút này và kỹ thuật sử dụng nó đã bị thất truyền đối với người Mông nơi đây.
5. Bộ công cụ chế tác đồ trang sức
Bộ công cụ chế tác đồ trang sức của người Mông ở Cát Cát có bễ thổi (puz), lò nung (kha truz đăcl khlâuz), khuôn đúc (chzôr), nồi nấu kim loại (jak) và các loại kìm (chax), búa (châux). Những người thợ chế tác đồ trang sức đều là những người thợ rèn có tay nghề cao nên hầu hết các công cụ này đều do chính người đó tự chế tạo.
Bễ thổi lò rèn của người Mông ở Cát Cát được làm bằng các loại gỗ thuộc họ khoả tử như thông, pơ mu… Các loại gỗ này không chỉ được lựa chọn để làm bễ thổi mà còn được ưa chuộng để làm nhà và chế tác các loại công cụ lao động cũng như các đồ dùng sinh hoạt bằng gỗ bởi vì chúng nhẹ, ít bị nứt nẻ, khi đục không bị vỡ. Người Mông gọi chung chúng là ntông đăngx lăngz.
Khi muốn làm ống bễ (chăngx sungz), người ta chọn đoạn gỗ tròn dài 1,5 m, tiết diện 25 – 30 cm. Thân bễ được khoét rỗng, thành dày 3,5 – 5 cm. Dọc theo chiều dài đoạn ống, người ta đục một rãnh nhỏ làm đường dẫn gió vào lò nung. Hai đầu ống được bịt kín bằng hai miếng gỗ tròn có đưòng kính bằng với đường kính của lòng bễ.
Pít tông (găngx puz) xưa được làm bằng một thuốn gỗ tròn có đường kính vừa khít độ rỗng của ống bễ, dày 5 – 7 cm. Đầu bít tông có tay cầm để kéo, đẩy, được làm bằng gỗ hoặc tre. Phía cuối pít tông là lá gió được làm bằng đĩa gỗ bọc lông gà có đường kính vừa khít ống bễ thổi. Hiện nay, người ta làm bằng thép tròn xuyên qua một đầu nắp gỗ. Pít tông có tác dụng hút và nén gió thổi vào lò. Ống bễ được đặt ngang lò với độ cao vừa phải, sao cho người ta có thể đứng đẩy pít tông một cách dễ dàng và tiết kiệm lực nhất.
Lò nung được đắp bằng đất xét, cao chừng 1 m, rộng 60 cm, dài 80 cm. Thành lò dày 25 – 30 cm, xung quanh có ốp gỗ, đường kính miệng lò khoảng 20 cm.
Nồi nấu kim loại được làm bằng đất xét trắng trộn với cát và lông gà hoặc một loại đá mềm chịu được nhiệt độ cao. Nồi có đường kính 40 cm, cao 4 cm, thành nồi dày 3 mm.
Khuôn đúc lằm bằng đá, có 2 rãnh: rãnh to dài để đúc vòng cổ, rãnh nhỏ để đúc vòng tay, nhẫn, hoa tai.
Búa của người thợ bạc Mông là loại búa có củ búa làm từ một khúc sừng trâu ngắn, đặc. Một đầu to, một đầu nhỏ.
Kìm sắt có mỏ dài, hơi cong quặp xuống cán gỗ dùng để lắp thành phẩm, cời than.
Đe là một cục sắt tròn, vuông có tiết diện 5 x 5 cm.
Đục chạm hoa văn có nhiều loại. Loại hình chữ nhật dẹt dùng để chạm khắc hoa văn gạch nhỏ li ti. Loại tròn, mũi nhọn tạo hoa văn hình chấm. Loại có mũi lòng máng dùng để chạm các loại hoa văn hình bán nguyệt, chân ngựa. Loại có mũi vuông tạo các hoa văn hình vuông…
Để chế tác đồ trang sức bằng bạc, người thợ bạc đổ hai bát than vào lò, kéo bễ nổi lửa. Sau vài phút là đã đủ nhiệt độ cần thiết. Người thợ bạc cho đồng bạc vào nồi đặt lên than hồng khoảng 30 – 50 phút là đồng bạc tan chảy. Người thợ bạc dùng kìm quặp quai nồi nấu bạc đang sôi đổ vào khuôn đúc tạo thành hình các thanh bạc có chiều dài tương ứng với lòng máng của khuôn đá. Sau khi bạc nguội và đông lại, người thợ bạc cho thanh bạc vào than nung nóng rồi đem ra rèn thành hình các đũa bac rồi lại tiếp tục nung và lại rèn đập. Công đoạn này được thực hiện 3 lần. Thanh bạc được nung đúng độ lửa khiến sản phẩm không cứng cũng không quá mềm rồi lại được rèn đập nhiều lần tạo thành hình sản phẩm. Người nghệ nhân chạm bạc bằng loại đục tương ứng sao cho thành các hình hoa văn như ý muốn hoặc theo yêu cầu của người đặt hàng.
* Trong các kỹ thuật tạo hoa văn trên nền vải, người Mông còn có kỹ thuật ghép vải và đính/ghép các hạt cườm, kim loại lên vải. Tuy nhiên, kỹ thuật này không có công cụ gì đặc biệt mà chỉ cần có chiếc kim khâu được mua sẵn ngoài chợ huyện.
Tình hình cũng diễn ra tương tự ở công đoạn cắt may trang phục. Do kỹ thuật cắt may của người Mông không cần phải có số đo tỉ mỉ, chính xác đến từng chi tiết nên đồng bào không có công cụ dùng để đo các số đo hình thể mà chỉ dùng ngay miếng vải định cắt may trang phục, ướm lên cơ thể người sẽ được may rồi đánh dấu vị trí nào cần khoét lỗ, vị trí nào cần may ghép là xong. Khi cắt, đồng bào cũng dùng loại kéo hai lưỡi được người Mông trong thôn chế tạo hoặc được bán sẵn ở chợ. Khi ráp nối các bộ phận của trang phục, đồng bào cũng dùng chiếc kim giống chiếc kim thêu.
6. MỘT SỐ BIẾN ĐỔI VÀ GIẢI PHÁP BẢO TỒN BỘ CÔNG CỤ DỆT MAY TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI MÔNG Ở CÁT CÁT
6.1. Một số biến đổi
Sự biến đổi trên lĩnh vực công cụ trồng lanh, chế biến lanh thành sợi và cắt may trang phục hiện nay đối với người Mông ở Cát Cát diễn ra đáng kể đối với chiếc khung dệt. Do chiếc khung dệt truyền thống của đồng bào tốn nhiều công sức khi dệt vải mà hiệu quả lại không cao. Đồng thời, do sống gần với người Giáy. Quá trình giao lưu, tiếp biến văn hoá đã làm cho đồng bào thấy được tính hiệu quả của chiếc khung dệt Giáy so với khung dệt Mông và đã học theo. Chiếc khung dệt Giáy xuất hiện đầu tiên ở thôn Cát Cát nói riêng, xã San Xả Hồ nói chung vào năm 1985. Đó là chiếc khung dệt của gia đình ông Vàng A Phay, trú tại đội III, thôn Cát Cát do ông Phay học theo mẫu của người Giáy ở Tả Van rồi tự đóng cho bà Thào Thị Sung là vợ của chủ hộ sử dụng. Hồi đó, các anh em trai ông còn ở chung 1 nhà nên họ cũng học được cách làm khung dệt của ông và các cô em dâu cũng học được kỹ thuật dệt từ vợ ông. Đó là các bà Hạng Thị Sáy (sau chuyển sang đội I), Hạng Thị Mị (sau khi tách hộ vẫn ở đội III), Sùng Thị So (sau chuyển sang đội I) và Má Thị Mú (cũng chuyển sang đội I). Sau khi tách hộ, những cặp vợ chồng này đã mang theo “công nghệ” đóng mới khung dệt và kỹ thuật dệt toả ra cả thôn và sau đó là cả xã.
Dần dần về sau, bà con người Mông nơi đây thấy việc dệt bằng khung dệt của người Giáy hiệu quả nên học làm theo ngày càng đông. Chiếc khung dệt cổ truyền của Mông dần dần bị “thất xủng” là do đó. Qua khảo sát thực tế, hiện trong toàn thôn Cát Cát có 27 chiếc khung dệt Giáy, tương ứng với 27 hộ thường xuyên sử dụng khung dệt này. Ngoài ra, các hộ gia đình không có khung dệt này vẫn đi dệt nhờ ở những nhà có hoặc mượn về nhà để dệt. Số hộ còn sử dụng khung dệt truyền thống Mông chỉ có 10 hộ. Cả thôn có 09 hộ gia đình có đồng thời 2 loại khung dệt. Trong số đó, có 06 hộ chỉ thường xuyên sử dụng khung dệt Giáy, còn khung dệt Mông thì được tháo ra bỏ trên gác bếp nhiều năm nay không sử dụng. Chúng tôi cũng đã thử tiến hành phỏng vấn nhanh 20 thanh - thiếu nữ của một số gia đình trong bản về khả năng dệt vải. Kết quả cho thấy có 11 người biết dệt bằng loại khung dệt Giáy (84,6%), chỉ có 02 người biết dệt bằng khung dệt Mông (15,4%) và không có ai biết dệt bằng cả hai loại khung dệt.
Chiếc khung dệt của người Giáy được sử dụng ở Cát Cát hiện nay được người Mông ở đây gọi là ndêx ntus Sur. Nó không có gì khác so với khung dệt của người Giáy ở Tả Van hay khung dệt của người Thái, người Mường, người Lào, người Việt…. Đó là loại khung dệt được phát triển từ loại khung dệt giống như khung dệt của người Mông, được gọi là khung dệt dùng bàn đạp. Khung dệt này được đóng cố định thành khung có 4 chân bằng gỗ hoặc tre dựng đứng trên sàn. Sợi dọc được căng thẳng giữa trục cuốn chỉ và trục cuốn sợi được đóng cố định vào khung, không cần dùng dây buộc lưng để căng sợi dọc và giữ cho trục cuốn sợi nữa. Ghế ngồi dệt cũng được đóng cố định luôn vào khung. Thay vì dùng dây buộc vào chân để điều khiển cơ cấu nâng sợi dọc, người ta thay bằng hai bàn đạp nối với các trục go (cần nâng lược tách sợi). Để dệt hoa văn, người ta phải dùng nhiều trục go, hoa văn càng phức tạp thì càng phải dùng nhiều trục go, có khi lên tới 16 trục. Số bàn đạp cũng phải tương ứng với số trục go. Riêng người Thái hay người Mường, người Lào… còn có thêm sợi dọc để tạo hoa văn bằng cách dùng tay hoặc que thêu thêm cho mỗi hàng sợi ngang.
Tuy học theo cách dệt bằng khung dệt này nhưng người Mông ở Cát Cát chỉ dệt vải trơn, không dệt hoa văn nên cấu tạo khung dệt mới của người Mông không sử dụng nhiều trục go lấy sợi. Khung được đóng bằng 4 cột gỗ; trục cuốn vải và ghế ngồi được đóng cố định vào khung; thay dây buộc điều khiển cần nâng lược tách sợi bằng bàn đạp.
Ngoài khung dệt, sự biến đổi còn diễn ra trên một số công cụ dệt may khác.
Đối với việc trồng và chăm sóc lanh, người Mông nơi đây đã sáng tạo ra con dao phát mới thay cho con dao quắm cổ truyền. Đây cũng là một loại dao dùng để phát quang cây cỏ từ loại dao quắm truyền thống. Loại dao này có lưỡi dao cong theo bề mặt của bản dao mà không cong theo lưỡi dao như loại dao quắm cổ truyền. Đồng thời, sống dao cũng biến mất để thế chỗ cho lưỡi dao thứ hai khiến cho loại dao này có hai lưỡi mà không có sống dao. Dao được làm từ thép pha với một tỷ lệ gang rất ít tạo nên một loại hợp kim tốt, được tôi kỹ, mài sắc tạo hiệu quả vừa rắn chắc, khoẻ, cứng nhưng không giòn; đồng thời với hai lưỡi dao, người ta có thể thực hiện động tác phát cây cỏ được nhanh hơn, đỡ tốn thời gian và công sức hơn. Thay vì cứ mỗi lần lia lưỡi dao xong lại phải mất một lần vung dao lên thì người ta có thể lia dao thoăn thoắt qua hai bên cho hiệu quả không chỉ nhanh gấp đôi mà còn hơn thế nữa vì không phải mất công, mất sức vươn cao dao lên ngang tầm bắp tay hay ngang tầm vai.
Trong các công đoạn của quy trình chế biến lanh thành sợi, sự biến đổi về công cụ không diễn ra. Tất cả các công cụ vẫn đều giữ nguyên những yếu tố truyền thống. Nguyên nhân sâu xa dẫn đến kết quả này là do người Mông cho đến nay vẫn giữ gìn được truyền thống ăn vận trang phục truyền thống bằng vải lanh. Đồng thời, do điều kiện cư trú và giao lưu chưa thực sự rộng mở. Khoa học công nghệ hiện đại theo mô hình sản xuất công nghiệp chưa vươn sâu vào các “ngóc ngách” của công nghệ dân gian như hiện tượng đã diễn ra đối với các làng nghề dệt vải của người Việt mà tiêu biểu là làng nghề dệt lụa ở Vạn Phúc (Hà Đông).
Trong công đoạn tạo màu sắc và hoa văn trên nền vải, sự biến đổi về công cụ diễn ra chủ yếu ở thùng nhuộm chàm. Ở khía cạnh này, chiếc thùng nhuộm chàm bằng gỗ pơ mu đã dần dần được thay thế bằng các loại thùng bằng nhựa hay bằng sắt (vốn là các phi dầu được tái sử dụng). Theo số liệu thống kê của chúng tôi, tính đến tháng 8/2009, toàn thôn Cát Cát có 166 thùng nhuộm chàm. Trong số đó, chỉ có 83 chiếc thùng nhuộm chàm bằng chất liệu gỗ pơ mu truyền thống (chiếm 50%), chủ yếu là thùng cũ, đã sử dụng lâu năm. Còn lại là các loại thùng nhựa, thùng sắt được đồng bào mua ở chợ huyện về sử dụng thay thế cho những chiếc thùng gỗ đã hỏng. Nguyên nhân của hiện tượng này không phải bắt nguồn từ chủ quan mà do gỗ pơ mu hiện đã gần như cạn kiệt trong vùng cư trú của người Mông ở Cát Cát do hậu quả của việc khai thác gỗ pơ mu làm hàng xuất khẩu. Theo kết quả khảo sát của chúng tôi, hầu hết người Mông ở Cát Cát cho đến nay vẫn thích dùng loại thùng gỗ truyền thống. Vì theo họ, chiếc thùng ấy bền, chắc và cho chất lượng cao chàm tốt hơn khi ngâm bằng các loại thùng nhựa hay thùng sắt. Điều này cho đến nay chưa được khoa học kiểm nghiệm. Song nhận xét trên là được đúc kết qua sự chắt lọc từ kinh nghiệm dân gian. Ví như việc pha trà bằng ấm gốm hay sứ sẽ ngon hơn khi pha vào ấm Ilốc hay bình nhựa vậy.
Trong công đoạn cắt may trang phục, chiếc máy khâu đã xuất hiện và trở lên phổ biến ở Cát Cát. Theo kết quả khảo sát của chúng tôi, toàn thôn Cát Cát hiện có 57 chiếc máy khâu (tương ứng với tỷ lệ 78,1% số gia đình người Mông trong thôn có thiết bị này). Toàn bộ máy khâu trong thôn là những loại máy khâu đạp chân được sản xuất ở Trung Quốc được sản xuất từ những năm 80 của thế kỷ trước. Hầu hết phụ nữ Mông ở Cát Cát ngày nay đều biết sử dụng máy khâu. Vì vậy, sau khi cắt vải thành các bộ phận của trang phục, người ta đều dùng máy khâu để ráp nối chúng lại với nhau. Những gia đình không có máy khâu thì người ta đi may nhờ ở những nhà có máy.
Tóm lại, sự biến đổi về công cụ trong nghề dệt may của người Mông ở Cát Cát cho đến nay chủ yếu diễn ra ở chiếc khung dệt và thùng nhuộm chàm. Hiện tượng này là tất yếu trong quá trình phát triển và hội nhập của cộng đồng người Mông ở Cát Cát vào xã hội hiện đại. Tuy nhiên, nếu chúng ta có các biện pháp can thiệp kịp thời và phù hợp thì không những chúng ta có thể cứu vãn được một nét đẹp văn hoá của một tộc người có truyền thống lịch sử lâu đời và có một kho tàng văn hoá dân gian giàu bản sắc mà còn làm cho dòng văn hoá ấy không bị biến mất, không bị đứt đoạn mà nó sẽ tiếp tục tuôn chảy mạnh mẽ và mãnh liệt trong dòng chảy của nhịp sống hôm nay và mai sau; góp phần giữ gìn sự đa dạng và phong phú của văn hoá Việt Nam.
6.2. Một số giải pháp bảo tồn bộ công cụ dệt may truyền thống của người Mông ở Cát Cát
Xuất phát từ truyền thống và các kinh nghiệm dân gian trong việc xử lý các công đoạn chế tác và sử dụng các công cụ của nghề dệt may truyền thống với tư cách là một “dây truyền” công nghệ dân gian khép kín. Đồng thời, từ thực tế của sự biến đổi và nguyên nhân của sự biến đổi, sự phát triển của du lịch hiện nay và xu hướng phát triển của du lịch Cát Cát nói riêng, du lịch Sa Pa nói chung, chúng tôi đưa ra một số giải pháp nhằm bảo tồn bộ công cụ dệt may truyền thống của người Mông ở thôn Cát Cát như sau:
Một là, giải pháp về nâng cao nhận thức. Do sự phát triển của loại hình du lịch cộng đồng ở Cát Cát nên nhận thức về việc bảo tồn các giá trị văn hoá nói chung, bảo tồn các công cụ dệt cổ truyền nói riêng trong cộng đồng dân cư đang dần dần được hình thành. Tuy nhiên, nhiều người vẫn chưa có sự nhận thức thật sự đúng đắn về vai trò của văn hoá dân gian và việc sự dụng công cụ truyền thống trong đời sống văn hoá để chuyển biến thành những hành động tích cực. Vì vậy, cần tiếp tục tuyên truyền về vai trò và động lực của văn hoá truyền thống, trong đó có nghề dệt may và sử dụng các công cụ dệt may cổ truyền. Từ sự chuyển biến về mặt nhận thức, người dân sẽ có trách nhiệm cao hơn trong việc chủ động bảo tồn bộ công cụ dệt may truyền thống của dân tộc mình.
Hai là, cần có sự đầu tư kinh phí, dành mức chi cho hoạt động của tổ nghề dệt thủ công truyền thống bằng các công cụ cổ truyền của người Mông ở Cát Cát. 5 năm trở lại đây, doanh thu từ việc bán vé cho khách du lịch tham quan làng Cát Cát liên tục tăng. Tuy nhiên, người dân hưởng lợi từ doanh thu du lịch chưa nhiều, chủ yếu vẫn là do đồng bào tự tổ chức kinh doanh tự phát, quy mô nhỏ theo cấp hộ gia đình.
Để có những bước đi phù hợp, mang tính chiến lược lâu dài, cần tổ chức quy hoạch theo nhóm, tổ ngành nghề. Mỗi nhóm, tổ ngành nghề tập hợp các gia đình hay các cá nhân có tiềm năng, lợi thế cụ thể về ngành nghề đó. Trong đó, ngành nghề dệt thổ cẩm truyền thống quy tụ những cá nhân thành thạo trong việc xử lý các công đoạn của nghề dệt, tạo hoa văn và cắt may trang phục làm tiền đề cho việc thành lập Câu lạc bộ hoặc Hợp tác xã dệt vải lanh truyền thống dân tộc Mông ở thôn Cát Cát. Tổ ngành nghề dệt cũng phải có quỹ hoạt động, có người quản lý cùng một bộ phận giúp việc gọn nhẹ, có kế hoạch và chương trình hoạt động cụ thể. Mỗi cá nhân có thể sản xuất ngay tại nhà mình. Hoạt động sản xuất vừa mang tính trình diễn để tạo nguồn thu; đồng thời cũng vừa là một hoạt động sản xuất thật sự nhằm góp phần bảo tồn nét văn hoá dân tộc thông qua bộ công cụ dệt may, kỹ năng và các sản phẩm của nó. Hàng tuần hay hàng tháng, các thành viên trong tổ sản xuất phải họp để lắng nghe, chia xẻ những khó khăn, những kinh nghiệm và giải pháp tháo gỡ những vướng mắc. Cùng giúp đỡ nhau trong sản xuất, kinh doanh.
Để làm được điều đó, cần có một nguồn kinh phí để trang bị cho tổ những trang thiết bị cần thiết, hỗ trợ tiền mua sắm nguyên vật liệu, hỗ trợ về chuyên môn tổ chức của tổ/nhóm, hướng tới việc, kinh phí để duy trì hoạt động thường xuyên của tổ nghề.v.v… Nguồn kinh phí ấy trước mắt có thể dựa vào kinh phí đầu tư của nhà nước với vai trò như là một “cú huých” đánh thức một tiềm năng đang ngủ quên. Tiếp theo, kinh phí sẽ phải được trích một phần từ nguồn thu của hoạt động du lịch. Bởi chính hoạt động du lịch ở Cát Cát có được cũng một phần là do khai thác từ tiềm lực văn hoá dân gian nơi đây.
Ba là, cần tổ chức tập huấn và trao truyền các kỹ năng, kỹ thuật trong việc sử dụng các công cụ dệt may cổ truyền cho thế hệ trẻ. Hiện nay, số người thành thạo các công đoạn dệt vải, tạo hoa văn, màu sắc và cắt may trang phục ở Cát Cát không ít, nhưng phần lớn tập trung ở các phụ nữ trung niên trở lên. Các thiếu nữ người Mông ở Cát Cát hầu hết cũng biết thêu và nhiều công đoạn của nghề dệt nhưng nhiều em không biết cách sử dụng các công cụ vẽ và in hoa văn bằng sáp ong, không biết cách mắc sợi lên khung dệt cổ truyền và kỹ thuật dệt trên loại khung dệt ấy. Tình hình này cho chúng ta thấy “viễn cảnh” trong một tương lai không xa, khi các nghệ nhân đương thời mất đi, thế hệ trẻ sẽ không kế thừa được trọn vẹn những tri thức dân gian của nghề dệt, đặc biệt là kỹ năng vận hành và thao tác loại khung dệt cổ truyền của dân tộc mình. Vì vậy, việc tổ chức tập huấn và trao truyền các kỹ năng, kỹ thuật trong việc sử dụng các công cụ may cổ truyền, đặc biệt là việc thao tác trên loại khung dệt truyền thống và kỹ thuật sử dụng công cụ in hoa văn bằng sáp ong cho thế hệ trẻ là điều cần thiết cần làm ngay.
Bốn là, cần đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá về bộ công cụ dệt may truyền thống trên các phương tiện quảng cáo về du lịch. Hiện nay, có một thực tế ở Cát Cát là hoạt động du lịch đang đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo lưu bộ khung dệt và các công cụ dệt cổ truyền. Khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch nước ngoài rất thích thú khi được chứng kiến cảnh người dân thao tác trên các công cụ dệt may truyền thống. Nắm bắt được thị hiếu này của khách, một số gia đình người Mông ở hai bên đường đá đã chủ động thao tác các công đoạn của nghề dệt ngoài hiên nhà thay vì thao tác trong nhà như trước kia để thu hút khách tham quan nhằm bán các sản phẩm thủ công để kiếm lời. Tuy nhiên, hoạt động trình diễn của người dân vẫn mang tính tự phát mà hầu như chưa có sự vào cuộc của các cơ quan chức năng cũng như các doanh nghiệp đóng trên địa bàn. Khách du lịch hầu như cũng mới chỉ biết chung chung về làng Cát Cát là có cảnh quan sinh thái đẹp cùng một số nét sinh hoạt văn hoá của người Mông nơi đây chứ chưa biết nhiều về các công cụ dệt truyền thống. Do đó, để giúp cho khách tham quan hiểu được rõ hơn về vấn đề này, gợi cho họ một số thông tin cơ bản trước khi đến với thôn, cần tổ chức xây dựng các cuốn sách ảnh cùng các bài text thuyết minh ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ. Ấn phẩm này có thể được đưa lên các trang web quảng cáo về du lịch, xuất bản thành các cuốn cẩm nang phát miễn phí trên các chuyến bay của các hãng hàng không có tuor đến Việt Nam, phát tại các khách sạn, nhà hàng, nhà nghỉ trong và ngoài vùng. Khi khách đến tham quan các hoạt động dệt may bằng các công cụ truyền thống càng nhiều, việc bảo tồn các công cụ ấy sẽ càng được người dân chú ý và tham gia tích cực. Suy ra thì đó cũng là một giải pháp về xã hội hoá bảo tồn văn hoá truyền thống có hiệu quả.
Năm là, cần tổ chức sưu tầm, bảo quản, trưng bày và giới thiệu về bộ công cụ dệt may truyền thống của người Mông trong bảo tàng nhằm một mặt góp phần bảo tồn, lưu giữ chúng với tư cách là hiện vật bảo tàng vừa góp phần giáo dục cho quần chúng về chức năng, giá trị, ý nghĩa của bộ công cụ này. Người dân ở khắp các vùng miền trên cả nước, do điều kiện và hoàn cảnh khác nhau nên không phải ai cũng có thể đi du lịch, không phải ai cũng có thể đến với làng Cát Cát hay một thôn người Mông bất kỳ. Càng không phải ai cũng có thể tận mắt nhìn thấy bộ công cụ dệt may truyền thống của người Mông và các kỹ thuật thao tác các công cụ ấy cũng như nội dung, ý nghĩa và giá trị của nó. Vì vậy, ngành văn hoá nói chung, ngành bảo tàng nói riêng cần tổ chức sưu tầm, bảo quản, trưng bày và giới thiệu bộ công cụ dệt truyền thống của dân tộc Mông để tuyên truyền giáo dục cho người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ, giúp cho họ hiểu được một cách sâu sắc về một nét đẹp văn hoá của một trong 54 dân tộc anh em ngay cả khi họ không có điều kiện đến với các thôn làng người Mông.
KẾT LUẬN
Bộ công cụ của nghề trồng lanh dệt vải và cắt may trang phục của người Mông ở thôn Cát Cát, xã San Xả Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai với các kỹ thuật, kỹ năng thao tác và xử lý theo từng công đoạn vừa góp phần phản ánh lịch sử văn hoá của dân tộc Mông, vừa nói lên đức tính cần cù, sáng tạo và sự tinh anh, khéo léo của đồng bào.
Bộ công cụ này có giá trị to lớn trong việc nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của công nghệ dệt ở giai đoạn tiền công nghiệp. Một giai đoạn mà bất kỳ quốc gia, dân tộc hay vùng, miền nào cũng đều phải trải qua. Do sự chi phối của các điều kiện và hoàn cảnh chủ quan và khách quan cụ thể, hầu hết các vùng miền và các dân tộc trên toàn thế giới đã vươn lên giai đoạn công nghiệp và hậu công nghiệp. Vì vậy, muốn tìm hiểu về lịch sử phát triển của công nghệ ngành dệt và các loại máy móc từ thủa ban đầu, các nhà khoa học có thể tìm đến với các thôn làng người Mông nói chung, thôn Cát Cát nói riêng để có thể “thực mục sở thị” cho các đề tài nghiên cứu của mình.
Bộ công cụ trồng lanh, dệt vải và tạo hoa văn trên trang phục của người Mông ở thôn Cát Cát còn cung cấp cho ngành nhân học nhiều tư liệu quý trong việc tìm hiểu về lịch sử và xã hội của dân tộc Mông được dễ dàng, thuận lợi và khoa học hơn. Với những gì đã và đang tồn tại cho thấy người Mông có một lịch sử lâu dài, đầy bi tráng những đồng thời cũng là một dân tộc bất khuất, kiên cường. Đối chiếu bộ công cụ này của người Mông với các dân tộc khác cho thấy mối liên hệ trong suốt chiều dài lịch sử hàng ngàn năm giữa dân tộc Mông với nhiều dân tộc trên địa bàn châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng.
Với những giá trị và ý nghĩa nêu trên, việc bảo tồn bộ công cụ trồng lanh dệt vải và tạo hoa văn trên trang phục của người Mông ở thôn Cát Cát sẽ góp phần vào quá trình bảo tồn và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bộ công cụ dệt may của người Mông ở thôn Cát Cát, xã San Xả Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai.doc