Bộ sưu tập lấy cảm hứng từ trường phái lập thể CUBISM

Tại London, Nicholson đã gặp nhà điêu khắc Barbara Hepworth (người mà ông đã kết hôn 1938-1951) và Henry Moore . Những lần ghé thăm đến Paris , ông gặp Mondrian, mà làm việc trong các phong cách ung thư là ảnh hưởng đến anh ta trong một hướng trừu tượng , và Picasso, cóphái lập thểcũng sẽ tìm thấy cách của mình vào công việc của mình. Món quà của Ngài, tuy nhiên, là khả năng kết hợp các xu hướng châu Âu thành một phong cách mới recognizably riêng của mình. Đầu tiên ông đến thăm StIves , Cornwall vào năm 1928 với họa sĩ đồng nghiệp của ông Christopher Wood , nơi ông đã gặp các ngư dân và họa sĩ, Alfred Wallis. Ở Paris vào năm 1933, ông đã cứu trợ gỗ đầu tiên của mình, cứu trợtrắng, trong đó có góc vuông và hình tròn .

pdf31 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4437 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bộ sưu tập lấy cảm hứng từ trường phái lập thể CUBISM, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HU TE CH MỞ ĐẦU LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU MỤC TIÊU ĐỀ TÀI CẤU TRÚC LUẬN VĂN Danh mục các ký hiệu Danh mục các bảng Danh mục các hình vẽ NỘI DUNG Chương 1 : SƠ LƯỢC TỔNG QUAN VỀ TRƯỜNG PHÁI LẬP THỂ - CUBISM 1.1 Lịch sừ, bối cảnh hình thành trường phái lập thể - CUSBIM. 1.1.1 Sự ra đời của hội họa trừu tượng. 1.1.2 Ảnh hưởng của giai đoạn hội họa trừu tượng đến việc hình thành nên trư ờng phái lập thể. 1.1.2.1 Ảnh hưởng của trường phái dã thú (hay chủ nghĩa dã thú..) 1.1.2.1 ảnh hưởng của chủ nghĩa siêu thực, trường phái ấn tượng 1.2 Những đặc trưng cơ bản của trường phái lập thể CUBISM 1.3 Các giai đoạn của trường phái lập thể 1.3.1 Lập thể phân tích HU TE CH 1.3.2 Lập thể tổng hợp 1.4 Một số họa sỹ tiêu biểu của trường phái lập thể CUBISM 1.4.1 Picasso 1.4.2 Juan Gris 1.4.3 Mondrian 1.4.4 Ben Nicholson 1.5 Ứng dụng của trường phái lập thể trong đời sống 1.5.1 Ứng dụng trong kiến trúc, tạo hình. 1.5.2 Ứng dụng trong thiết kế minh họa ( illustrator ) 1.5.3 Ứng dụng trong thời trang, trang sức 1.5.4 ... Chương 2 : NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA TRƯỜNG PHÁI LẬP THỂ LÊN TRANG PHỤC DẠO PHỐ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 2.1 Xu hướng ăn mặc và thời trang dạo phố của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay . 2.2 Những đặc trưng cơ bản của xu hướng thời trang thế giới 2011-2012 2.3 Những mảng màu lập thể trong bộ sưu tập của các nhà thiết kế trên thế giới. ( BST của Oscar de la Renta , Rag & Bone...) Chương 3 : GIẢI PHÁP THIẾT KẾ 3.1 Ý TƯỞNG HU TE CH 3.2 MÀU SẮC 3.3 PHOM DÁNG 3.4 CHẤT LIỆU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG XỬ LÝ CHẤT LIỆU 3.5 MẪU PHÁC THẢO KẾT LUẬN NỘI DUNG Chương 1 : SƠ LƯỢC TỔNG QUAN VỀ TRƯỜNG PHÁI LẬP THỂ CUBISM 1.1 Lịch sừ hình thành trường phái lập thể CUBISM. Chủ nghĩa lập thể, còn gọi là trường phái lập thể, (CUBISM) là một trường phái hội họa tạo ra cuộc cách mạng về hội họa và điêu khắc châu Âu vào đầu thế kỷ 20. HU TE CH Trong tác phẩm của họa sỹ lập thể, đối tượng được mổ xẻ, phân tích và được kết hợp lại trong một hình thức trừu tượng. Người họa sỹ không quan sát đối tượng ở một góc nhìn cố định mà lại đồng thời phân chia thành nhiều mặt khác nhau, nhiều khía cạnh khác nhau. Thông thường các bề mặt, các mặt phẳng giao với nhau không theo các quy tắc phối cảnh làm cho người xem khó nhận ra chiều sâu của bức tranh. Chủ nghĩa lập thể do Georges Braque và Pablo Picasso khởi xướng năm 1906 tại khu Montmartre của kinh đô ánh sáng Paris, Pháp. Họ gặp nhau năm 1907 và làm việc cùng nhau cho đến năm 1914 khi Đệ nhất thế chiến bắt đầu. Nhà phê bình hội họa người Pháp Louis Vauxcelles sử dụng danh từ "lập thể" lần đầu tiên để ngụ ý rằng đó là những hình lập phương kỳ quặc vào năm 1908. Sau đó danh từ này được hai nhà khai phá của trường phái lập thể sử dụng một vài lần và sau đó thành tên gọi chính thức. Trường phái Lập thể khai sinh ở đồi Montmartre, sau đó lan ra các họa sỹ khác ở gần đó và được nhà buôn tranh Henry Kahnweiler truyền bá. Nó nhanh chóng trở nên phổ biến vào năm 1910 và được gọi là chủ nghĩa lập thể. Tuy nhiên, một số họa sỹ khác cũng tự coi là họa sỹ lập thể khi đi theo các khuynh hướng khác với Braque và Picasso. Lập thể ảnh hưởng tới các nghệ sỹ vào thập niên 1910 và khơi dậy một vào trường phái nghệ thuật mới như chủ nghĩa vị lai, chủ nghĩa cấu trúc và chủ nghĩa biểu hiện. 1.1.1 Sự ra đời của hội họa trừu tượng. Trào lưu mỹ thuật hay trường phái mỹ thuật là một xu hướng hoặc phong cách mỹ thuật tuân theo một mục đích hoặc triết lý cụ thể, trào lưu mỹ thuật được những nhóm các nghệ sĩ theo đuổi trong một khoảng thời gian nhất định. Trong mỹ thuật phương Tây, khái niệm trào lưu mỹ thuật có vai trò phân loại quan trọng, đặc biệt là cho mỹ thuật phương Tây thế kỷ 20 vì có rất nhiều trào lưu và HU TE CH nhóm nghệ sĩ khác nhau coi họ là trào lưu mang tính tiên phong. Khi triết lý của trào lưu không chỉ dừng lại ở các hình thức nghệ thuật thị giác như hội họa, điêu khắc, kiến trúc mà còn là một phần của trào lưu nghệ thuật lớn hơn trong văn học, âm nhạc, trào lưu mỹ thuật thường được coi là một phần của trào lưu hay chủ nghĩa nghệ thuật. Trào lưu mỹ thuật phương Tây Mỹ thuật phương Tây thường được đánh dấu bằng thời kỳ Phục Hưng mà tiên phong là các họa sĩ và nhà điêu khắc Ý. Bắt đầu là Chủ nghĩa phục hưng, Nghệ thuật kiểu cách, Chủ nghĩa cổ điển, trường phái Caravagio, Trường phái Baroque, Trường phái Rococo, Chủ nghĩa tân cổ điển, Chủ nghĩa lãng mạng, Trường phái Barbizon, Chủ nghĩa kinh viện, Chủ nghĩa hiện thực, Chủ nghĩa ấn tượng, Trường phái tự nhiên, Glasgow boys, Trường phái hồn nhiên, Chủ nghĩa Tân ấn tượng, Trường phái tượng trưng, Trường phái Pont-Aven, Art nouveau, Chủ nghĩa biểu hiện, Trường phái Dã thú, Trư ờng phái lập thể, Trường phái vị lai, Chủ nghĩa trừu tượng, Chủ nghĩa Dada, Art Déco, Chủ nghĩa siêu thực, Chủ nghĩa hiện thực XHCN, Trường phái biểu hiện trừu tượng, Action Painting và Pop Art. 1.1.2 Ảnh hưởng của giai đoạn hội họa trừu tượng đến việc hình thành nên trường phái lập thể. Bên cạnh Matisse và Derain, những họa sĩ theo trường phái này gồm có Họa sĩ và phong cách Albert Marquet, Charles Camoin, Louis Valtat, họa sĩ Bỉ Henri Evenepoel, Jean Puy, Maurice de Vlaminck, Alfred Maurer, Henri Manguin, Raoul Dufy, Othon Friesz, Georges Rouault, họa sĩ Hà Lan Kees van Dongen, họa sỹ người Thụy Sỹ Alice Bailly và Georges Braque (sau đó trở thành cộng tác viên với Picasso trong trường phái Lập thể). Trường phái này có sự phản ứng mạnh mẽ chống lại trường phái ấn tượng, chống lại sự mất mát không gian do dùng quá nhiều ánh sáng, do sự phân tích tỉ mỉ, không theo quy luật nào, vì thế chỉ là sự ngẫu nhiên và không có suy tính trước.Sự cần thiết cho họa sĩ trường phái Dã thú là màu sắc, chứ không phải vẽ như thấy thực tế, mà là phải sáng tạo sắc độ. Bức tranh là một bố cục nhiều màu, không phải là sự sao chép thiên nhiên; là sự liên tục tạo hình sống động, không là c ảnh sắc vặt vụn, là một sự bố cục màu sắc mạnh bạo, không phải là sự tình cờ đẹp mắt. Sự phát triển HU TE CH Khuynh hướng Dã thú ra đời đầu thế kỷ 20, phát triển cực thịnh năm 1905 - 1906, có dấu hiệu suy tàn năm 1907 và chấm dứt hoạt động trước Thế chiến thứ nhất để chuyển sang những phong cách rất khác nhau.Cách tân về màu sắc một cách triệt để. Tranh không diễn tả khối, không vờn sáng tối mà chỉ có những mảng màu gay gắt, nhưng đường viềm mạnh bạo nhưng không vì vậy mà mất đi vẻ đẹp dứt khoát Những thành viên tiêu biểu là: Henri Matisse, Vlaminck, Derain, Van Doghen, Marquet, Dufy.... 1.1.2.1 Ảnh hưởng của trường phái dã thú (hay chủ nghĩa dã thú..) Trường phái dã thú (Fauvism hay Les Fauves) là một trường phái nghệ thuật tồn tại trong thời gian ngắn của một nhóm họa sĩ hiện đại. Trong khi phong cách nghệ thuật dã thú bắt đầu từ năm 1900 và kéo dài qua năm 1910, thì tr ường phái này chỉ tồn tại trong vòng 3 năm, 1905 đ ến 1907, và có 3 cuộc triển lãm. Những người đứng đầu trường phái này là họa sĩ Henri Matisse và André Derain. Henri Matisse 1.1.2.2 Ảnh hưởng chủ nghĩa siêu thực Nghệ thuật siêu thực là một trào lưu văn học và nghệ thuật ở thế kỷ 20, bắt đầu ở Paris và được nhà thơ người Pháp André Breton viết tuyên ngôn vào năm 1924. Chủ nghĩa siêu thực cố gắng diễn tả tiềm thức bằng các trình bày các vật thể và sự việc như được thấy trong những giấc mơ Siêu thực là một khuynh hướng nghệ thuật lớn bao trùm nhiều loại hình của nghệ thuật. Bắt đầu từ thơ, siêu thực lan tới hội họa rồi tiếp đến điện ảnh, tiểu thuyết. Thuật ngữ Chủ nghĩa siêu thực Surréalisme được nhà thơ Guillaume Apollinaire dùng trong tác phẩm của mình HU TE CH vào năm 1917. Sau tuyên ngôn năm 1924, thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi trong văn học và nghệ thuật 1.2 Những đặc trưng cơ bản của trường phái CUBISM Trong tác phẩm của họa sỹ lập thể, đối tượng được mổ xẻ, phân tích và được kết hợp lại trong một hình thức trừu tượng. Người họa sỹ không quan sát đối tượng ở một góc nhìn cố định mà lại đồng thời phân chia thành nhiều mặt khác nhau, nhiều khía cạnh khác nhau. Thông thường các bề mặt, các mặt phẳng giao với nhau không theo các quy tắc phối cảnh làm cho người xem khó nhận ra chiều sâu của bức tranh. Một số tác phẩm hội họa lập thể HU TE CH 1.3 Các giai đoạn của trường phái lập thể 1.3.1 Lập thể phân tích Picasso và Braque sát cạnh bên nhau để mở đường cho ý tưởng tiền lập thể vào những năm 1906_1909 sau đó là "chủ nghĩa lập thể phân tích" (1909-1912). Vào thời kỳ này, hội họa của họ là nhiều bề mặt gần như đơn sắc, những đường thẳng không hoàn thiện, những hình khối đan xen lẫn nhau. Bức họa Les Demoiselles d'Avignon (Những cô nàng ở Avignon) của Picasso không được coi là lập thể nhưng nó lại được coi là cột mốc quan trọng để tiến đến trường phái lập thể. Trong tác phẩm này, lần đầu tiên Picasso thể hiện các hướng nhìn khác nhau cùng một lúc của vật thể ba chiều trên không gian hai chiều của bức tranh. Dựa trên ý tưởng này, Braque khai triển thêm nhiều khía cạnh khác và hai người này đã tạo ra trường phái lập thể. Juan Gris, Still Life with Fruit Dish and Mandolin, 1919, tranh dầu trên vải bố. HU TE CH Một số nhà sử học còn gọi giai đoạn này của chủ nghĩa lập thể là giai đoạn bí hiểm vì các công trình được vẽ theo lối đơn sắc và khó có thể hiểu được. Người họa sỹ chỉ để lại một chút dấu vết trên bức tranh để có thể nhận ra đối tượng của họ. Lúc này, chủ nghĩa lập thể rất gần với chủ nghĩa trừu tượng. Một số chữ cái cũng được đưa vào các bức tranh để làm đầu mối gợi ý ý nghĩa của các bức tranh. 1.3.2 Lập thể tổng hợp Giai đoạn tiếp theo của lập thể phân tích là "lập thể tổng hợp", bắt đầu vào năm 1912. Trong lập thể tổng hợp, bố cục của bức tranh gồm các chi tiết chồng chất lên nhau, những chi tiết này được tô sơn hoặc được trát sơn lên nền vải, chúng có màu sắc sặc sỡ hơn. Không giống như lập thể phân tích, ở đó vật thể bị bẻ gãy làm nhiều mảnh, lập thể phân tích cố gắng kết hợp nhiều vật thể với nhau để tạo nên các hình khối mới. Thời kỳ này còn đánh dấu sự ra đời của tranh dán và tranh dán giấy. Picasso đã phát minh ra tranh dán với bức tranh nổi tiếng của ông là Tĩnh vật với chiếc mây trong đó ông đã dán những miếng vải dầu lên một phần của chiếc ghế mây. Thorvald Hellesen (Norwegian, 1888-1937) - Painted in 1920 Braque cũng lấy cảm hứng từ bức tranh này để tạo ra tác phẩm Đĩa hoa quả và cốc thủy tinh. Tranh dán giấy cũng gồm các vật liệu dùng để dán nhưng có điều khác là các mẩu giấy dán chính là các vật thể. HU TE CH Ví dụ, cốc thủy tinh trong bức tranh Đĩa hoa quả và cốc thủy tinh chính là một mẩu giấy báo được cắt thành hình chiếc cốc.Trước đó Braque đã sử dụng chữ cái nhưng các tác phẩm của thời kỳ lập thể tổng hợp đã đưa ý tưởng này đến một tầm cao mới. Các chữ cái trước đây dùng để gợi ý cho chủ đề thì này chúngchính là chủ đề. Các mẩu giấy báo là các vật dụng được các họa sỹ dùng nhiều nhất. Họ còn đi xa hơn nữa là dùng giấy với Juan Gris (1887– 1927) hình khắc gỗ. Sau đó còn đưa thêm các mẩu quảng cáo trên báo vào tác phẩm của họ và điều này làm cho các công trình của các nhà lập thể có thêm phần màu sắc Gitarre und Klarinette (1920) Friedrich Schiller -1991 (lập thể trong điêu khắc) HU TE CH 1.4 Một số họa sỹ tiêu biểu của trường phái lập thể CUBISM 1.4.1 Picasso Pablo Picasso sinh năm 1881 tại Málaga, miền nam Tây Ban Nha. Picasso là con đầu lòng của ông José Ruiz y Blasco và bà María Picasso y López. Ông được đặt tên thánh là Pablo, Diego, José, Francisco de Paula, Juan Nepomuceno, Maria de los Remedios và Cipriano de la Santísima Trinidad. Ngay từ khi còn nhỏ, Picasso đã bộc lộ sự say mê và năng khiếu trong lĩnh vực hội họa, theo mẹ ông kể lại thì từ đầu tiên mà cậu bé Pablo nói được chính là "piz", cách nói tắt của từ "lápiz", trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là bút chì[4]. Cha của Picasso là một họa sĩ chuyên vẽ chim theo trường phái hiện thực, ông José còn là một giảng viên nghệ thuật và phụ trách bảo tàng địa phương, trường Mỹ thuật công nghệ tạo hình của Barcelona. Vì vậy, Picasso có được những bài học đầu tiên về nghệ thuật chính từ cha mình. Vào Học viện mỹ thuật (Academia de San Fernando) tại Madrid được chưa đầy một năm, năm 1900 Picasso đã bỏ học để sang Paris, trung tâm nghệ thuật của Châu Âu thời kỳ đó. Tại thủ đô nước Pháp, ông sống cùng Max Jacob, một nhà báo và nhà thơ, người đã giúp Pablo học tiếng Pháp. Đây là giai đoạn khó khăn của người họa sĩ trẻ khi ông phải sống trong cảnh nghèo túng, lạnh lẽo và đôi khi tuyệt vọng, phần lớn tác phẩm của Pablo đã phải đốt để sưởi ấm cho căn phòng nhỏ của hai người. Năm 1901, cùng với người bạn Soler, Picasso đã thành lập tờ tạp chí Arte Joven ở Madrid. Số đầu tiên của tạp chí hoàn toàn do Pablo minh họa. Trong những năm đầu của thế kỉ 20, Picasso thường xuyên qua lại giữa hai thành phố Barcelona và Paris. Tại Paris, Picasso kết bạn với rất nhiều nghệ sĩ nổi tiếng ở khu Montmartre và Montparnasse, trong đó có người sáng lập trường phái siêu thực André Breton, nhà thơ Guillaume Apollinaire và nhà văn Gertrude Stein. Năm 1911, Picasso và Apollinaire thậm chí đã từng bị bắt giữ vì bị nghi ăn trộm bức tranh Mona Lisa khỏi Bảo tàng Louvre nhưng cuối cùng hai người cũng được tha vì vô tội HU TE CH Năm Đời tư 1904, ông bắt đầu mối quan hệ lâu dài với Fernande Olivier, người phụ nữ xuất hiện trong rất nhiều tác phẩm Thời kỳ Hồng của họa sĩ. Thời kỳ này được gọi là Thời kỳ Hồng vì đây là thời kỳ ông toàn dùng màu hồng nhạt mềm mại để làm nền tranh cho mình, thời kỳ Hồng của ông được tồn tại trong 3 năm. Sau khi bắt đầu nổi tiếng và trở nên giàu có, Picasso đã bỏ Olivier để quan hệ với Marcelle Humbert mà ông gọi đơn giản là Eva, chủ đề của rất nhiều bức tranh theo trường phái lập thể của ông. Sau đó ông còn đi lại với Picasso tỏ ra trung lập trong suốt Thế chiến thứ nhất, Nội chiến Tây Ban Nha và Thế chiến thứ hai, họa sĩ từ chối ủng hộ bất cứ bên tham chiến nào. Trong Nội chiến Tây Ban Nha, tuy thể hiện sự phẫn nộ và phản đối chế độ của tướng Francisco Franco và chủ nghĩa phát xít qua các tác phẩm của mình, Picasso không hề cầm vũ khí chống lại chế độ này. Năm 1944, Picasso gia nhập Đảng Cộng sản Pháp và tham gia một hội nghị hòa bình quốc tế tổ chức ở Ba Lan. Năm 1950, họa sĩ được nhận Giải thưởng hòa bình Stalin của chính phủ Liên Xô. Năm 1962, ông được nhận một giải thưởng lớn khác của nhà nước Xô viết, đó là Giải thưởng hòa bình Lenin. Bức tranh màu phấn Autoportrait à la palette (Bức tự họa với bảng màu), mùa thu năm 1906 HU TE CH Các tác phẩm của Picasso thường được phân loại theo các thời kỳ khác nhau. Tuy rằng tên gọi các thời kỳ sáng tác sau này của họa sĩ còn gây nhiều tranh cãi, người ta phần lớn đều chấp nhận cách phân chia thời kỳ đầu sáng tác của Picasso thành Thời kỳ Xanh (1901–1904), Thời kỳ Hồng (1904–1906), Thời kỳ Ảnh hưởng Phi châu - điêu khắc (1908–1909), Thời kỳ Tác phẩm Lập thể phân tích (1909–1912) và Thời kỳ Lập thể tổng hợp (1912–1919). Picasso bắt đầu tập vẽ dưới sự hướng dẫn của cha ông từ năm Trước 1901 1890. Sự tiến bộ trong kỹ thuật của họa sĩ có thể thấy trong bộ sưu tập các tác phẩm thời kì đầu ở Bảo tàng Museu Picasso tại Barcelona. Có thể thấy chủ nghĩa hiện thực hàn lâm trong các tác phẩm thời kì đầu này, tiêu biểu là bức The First Communion (1896). Cũng năm 1896, khi mới 14 tuổi, Picasso đã hoàn thành tác phẩm Portrait of Aunt Pepa (Chân dung dì Pepa), một bức chân dung gây ấn tượng sâu sắc đến mức Juan -Eduardo Cirlot đã đánh giá rằng "không nghi ngờ gì nữa, đây là một trong những tác phẩm lớn nhất trong lịch sử hội họa Tây Ban Nha". Tác phẩm Portrait of Aunt Năm 1897, chủ nghĩa hiện thực của Picasso bắt đầu chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng, thể hiện qua một loạt các bức tranh phong cảnh sử dụng tông màu xanh lá cây và tím không tự nhiên. Trong thời kỳ này, tác phẩm của Picasso có tông màu tối hơn với màu chủ đạo là xanh thẫm, đôi khi được làm ấm hơn bởi các màu khác. Mốc bắt đầu của Thời kỳ Thời kỳ Xanh (1901–1904) HU TE CH Xanh không rõ ràng, nó có thể bắt đầu từ mùa xuân năm 1901 ở Tây Ban Nha, hoặc ở Paris nửa cuối năm đó. Có lẽ cách dùng màu của họa sĩ chịu ảnh hưởng từ chuyến đi xuyên Tây Ban Nha và sự tự sát của người bạn Carlos Casagemas. Các tác phẩm của Picasso trong giai đoạn này mang vẻ tươi tắn hơn với việc sử dụng nhiều màu cam và hồng. Năm Thời kỳ Hồng (1905–1907) 1904 tại Paris, Picasso gặp Fernande Olivier, một người mẫu cho các họa sĩ và nhà điêu khắc, rất nhiều tác phẩm của ông trong thời kỳ này chịu ảnh hưởng bởi mối quan hệ nồng ấm giữa hai người. Thời kỳ Ảnh hưởng Phi châu bắt đầu với tác phẩm nổi tiếng Thời kỳ Ảnh hưởng Phi châu (1908–1909) Những cô nàng ở Avignon (Les Demoiselles d'Avignon) lấy cảm hứng từ những đồ tạo tác Phi châu. Ông cho rằng mọi loại nghệ thuật phải tự học được cái hay của nhau. Ông chọn châu Phi làm cảm hứng của mình bởi tính Lập thể rõ ràng của nó. Chủ nghĩa Thời kỳ Lập thể phân tích (1909–1912) Lập thể phân tích là phong cách vẽ mà Picasso đã phát triển cùng Georges Braque sử dụng những màu đơn sắc ngả nâu cho các tác phẩm. Các vật thể sẽ được hai họa sĩ tách thành những bộ phận riêng biệt và "phân tích" chúng theo hình dạng bộ phận này. tác phẩm Những cô nàng ở Avignon Thời kỳ Lập thể tổng hợp (1912–1919) Đây là sự phát triển chủ nghĩa lập thể của Picasso với việc sử dụng nghệ thuật cắt dán bằng các chất liệu vải, giấy báo, giấy dán tường để mô tả đề tài tĩnh vật và nhân vật. Sau Chủ nghĩa cổ điển và siêu thực Thế chiến thứ nhất, Picasso bắt đầu thực hiện các tác phẩm theo trường phái tân cổ điển (neoclassicism). Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Picasso, bức HU TE CH Guernica đã được sáng tác trong thời kì này. Bức tranh mô tả cuộc ném bom vào Guernica của phát xít Đức trong Nội chiến Tây Ban Nha. Tác phẩm điêu khắc của Picasso tại Giai đoạn sau Chicago Picasso là một trong 250 nhà điêu khắc tham gia Triểm lãm điêu khắc quốc tế lần thứ 3 tổ chức tại Bảo tàng mỹ thuật Philadelphia vào mùa hè năm 1949. Trong thập niên 1950, họa sĩ một lần nữa thay đổi phong cách sáng tác, ông thực hiện các bức tranh dựa trên phong cách của các bậc thầy cổ điển như Diego Velázquez, Goya, Poussin, Édouard Manet, Courbet và Delacroix. Khi Picasso qua đời, rất nhiều tác phẩm do họa sĩ sáng tác vẫn thuộc quyền sở hữu của ông vì Picasso cảm thấy không cần thiết phải bán chúng. Thêm vào đó, ông còn có một bộ sưu tập rất giá trị các tác phẩm của những họa sĩ yêu thích như Di sản Henri Matisse. Vì Picasso không để lại di chúc, một phần bộ sưu tập này được dùng để trả thuế cho chính phủ Pháp và nó được trưng bày tại Bảo tàng Musée Picasso tại Paris. Năm 2003, những người thân của họa sĩ đã cho khánh thành một bảo tàng tại thành phố quê hương ông, Málaga, đó là Bảo tàng Museo Picasso Málaga. Picasso có vài bức tranh nằm trong danh sách những tác phẩm nghệ thuật đắt giá nhất thế giới: • Bức Les Noces de Pierrette - được bán với giá hơn 51 triệu USD năm 1999. • Bức Garçon à la pipe - được bán với giá 104 triệu USD tại nhà đấu giá Sotheby's ngày 4 tháng 5 năm 2004 đã lập kỉ lục thế giới về giá cho một tác phẩm nghệ thuật. • Bức Dora Maar au Chat - được bán với giá 95,2 triệu USD tại nhà đấu giá Sotheby's ngày 3 tháng 5 năm 2006 HU TE CH • Bức "Nude on a black armchair" -được bán với giá 45,1 triệu USD năm 1999. 1.4.2 Juan Gris Victoriano José González-Pérez (23 tháng ba, 1887 - 11 tháng 5 năm 1927), tốt hơn được gọi là Juan Gris, là một họa sĩ Tây Ban Nha và nhà điêu khắc đã sống và làm việc ở Pháp, hầu hết của cuộc đời mình. Tác phẩm của ông, gắn liền với sự xuất hiện của một nghệ thuật sáng tạo thể loại pha ́i lâ ̣p thê ̉ là một trong nhất của phong trào đặc biệt. Sinh ra ở Tiểu sử Madrid , ông đã nghiên cứu bản vẽ cơ khí Escuela de Artes y Manufacturas tại Madrid 1902-1904, trong thời gian ông đã đóng góp các bản vẽ để định kỳ tại địa phương. Từ 1904 đến 1905 ông học hội họa với các trường đại học và học viện nghệ sĩ José Maria Carbonero. Có lẽ vào năm 1905, José González đã thôn g qua bút danh Juan Gris đặc Năm 1906, ông chuyển đến Paris và trở thành bạn bè với Henri Matisse , Georges HU TE CH Braque , Fernand Léger, sau đó vào năm 1915, ông được vẽ bởi người bạn của mình , Amedeo Modigliani. Tại Paris, Gris theo sự dẫn đầu của một người bạn và đồng hương, Pablo Picasso . Mặc dù ông đã gửi những hình ảnh minh họa đậm hài hước cho các tạp chí như Le Rire, L'assiette au beurre, Lê Charivari, và Lê Cri de Paris, Gris bắt đầu vẽ nghiêm trọng vào năm 1910, và vào 1912, ông đ ã phát triển một phong cách Cubist cá nhân. Chân dung của ông Picasso năm 1912 là một bức tranh đáng kể Cubist đầu được thực hiện bởi một họa sĩ khác hơn so với Picasso hay Braque. Mặc dù Gris coi Picasso là một giáo viên, Gertrude Stein đã viết trong Tự truyện của Alice B. Toklas "Juan Gris là người duy nhất mà Picasso muốn đi". Chân dung của Picasso, năm 1912, dầu trên vải, Viện Nghệ thuật Chicago. Lúc đầu Gris vẽ theo phong cách phân tích của pha ́i lâ ̣p thê ̉, nhưng sau 1913 ông bắt đầu chuyển đổi pha ́i lâ ̣p thê ̉ tổng hợp, trong đó ông đã tr ở thành một thông dịch viên kiên định, với việc sử dụng rộng rãi các giấy Colle . Không giống như Picasso và Braque, có Cubist công trình đã được đơn sắc, Gris sơn với màu sắc tươi sáng hài hòa kết hợp táo bạo, mới lạ trong cách thức của một người bạn của ông Matisse. Gris triển lãm với các họa sĩ của Tập đoàn Puteaux trong các Salon de la d'Mục Hoặc vào năm 1912 . Sở thích của ông cho rõ ràng và trật tự ảnh hưởng đến thuần phong cách của Amédée Ozenfant và Charles Edouard Jeanneret ( Le Corbusier), và Gris một bản mẫu quan trọng của " hậu chiến tranh trở lại trật tự " Năm 1924, ông lần đầu tiên thiết kế bộ và trang phục cho múa ba lê Sergei Diaghilev và các Russes ballet nổi tiếng . Gris khớp nối hầu hết các lý thuyết thẩm mỹ của mình trong suốt năm 1924 và 1925. Ông đã đưa ra bài giảng dứt khoát của mình, Des những khả năng de la peinture tại Sorbonne vào năm 1924. Thiếu Gris triển lãm diễn ra tại Simon HU TE CH Galerie ở Paris và Flechtheim Galerie ở Berlin vào năm 1923, và tại Flechtheim Galerie trong Düsseldorf vào năm 1925. Sau tháng 10 năm 1925, Gris được thường xuyê n bị bệnh với những cơn vấn đề nhiễm độc niệu và tim. Ông qua đờ vỉ suy thận vào tháng 11 năm 1927, ở tuổi bốn mươi, để lại một người vợ, Josette, và một cậu con trai, Georges. Một số tác phẩm của Juan Gris 1.4.3 Mondrian Piet Mondrian Pieter Cornelis "Piet" Mondriaan, sau năm 1912 đổi thành Mondrian (sinh ngày 7 tháng 3, 1872 – mất ngày 1 tháng 2, 1944), là một họa sĩ người Hà Lan. Ông là một cộng tác viên quan trọng của nhóm De Stijl, do Theo van Doesburg sáng lập. Tại đây Mondrian phát triển một thể loại mới của trường phái trừu tượng HU TE CH gọi là trường phái Tân tạo hình (Neo-Plasticism). Theo ông, hội họa không nên chỉ tái hiện lại một cách thô thiển những đường nét của vật thật, mà phải thể hiện vật thể qua những đường nét cơ bản nhất cùng với linh hồn đã làm nên vật thể đó. Với quan niệm này, Mondrian đã tiến tới sự đơn giản tối đa những màu sắc sử dụng trong tranh và những đường cong được thay thế dần bằng đường thẳng...Bởi vậy, trường phái này của Mondrian bao gồm một hệ thống các đường thẳng ngang, dọc và sự dụng 3 màu sắc chính là đỏ, vàng xanh. Một số tác phẩm tiêu biểu của Mondrian 1.4.4 Ben Nicholson Một họa sĩ người Anh của tác phẩm trừu tượng (đôi khi trong cứu trợ thấp), cảnh quan và vẫn còn sống . Sinh ra vào ngày 10 tháng 4 năm 1894 tại Denham, Buckinghamshire, Nicholson đã là con trai của họa sĩ Sir William Nicholson và Mabel Pryde, và anh trai của nghệ sĩ Nancy Nicholson, kiến trúc sư Christopher Nicholson và Anthony Nicholson. Các gia đình chuyển đến London vào năm 1896, Nicholson đã được học tại trường chuẩn bị Tyttenhangar Lodge, Seaford , Heddon Tòa án, Hampstead và sau đó là một học sinh nội trú tại trường Gresham , Holt, Norfolk . Ông được đào tạo như một nghệ sĩ ở London Slade tại Trường Mỹ thuật từ 1910-1914, nơi ông là một hiện đại của Paul Nash , Stanley Spencer , Mark Gertler , và Edward Wadsworth . HU TE CH Chân dung Ben Nicholson được vẽ bởi Mabel Pryde, circa 1910-1914 Cuộc hôn nhân đầu tiên của ông là Winifred Roberts diễn ra vào ngày 05 tháng 11 năm 1920 tại St. Martin-in-the-Fields Giáo Hội, London. Nicholson và Winifred có ba người con, một con trai Jake trong tháng 6 năm 1927, một đứa con gái của Kate trong tháng 7 năm 1929 (người sau này trở thành một nghệ sĩ mình) và một con trai Andrew trong tháng 9 năm 1931. Họ ly dị vào năm 1938. Cuộc hôn nhân thứ hai của ông là nghệ sĩ đồng nghiệp của Barbara Hepworth ngày 17 tháng 11 , 1938 tại Văn phòng Đăng ký Hampstead. Nicholson và Hepworth đã ba, hai con gái Sarah và Rachel và một đứa con trai Simon vào năm 1934. Họ ly dị vào năm 1951. Cuộc hôn nhân thứ ba và cuối cùng là Felicitas Vogler, một nhiếp ảnh gia người Đức. Họ kết hôn tháng 7 năm 1957 và ly dị năm 1977. Cuộc sống Làm việc đáng chú ý đầu tiên của ông sau một cuộc họp với các nhà và các công trình viết kịch JM Barrie vào kỳ nghỉ trong Rustington, Sussex vào năm 1904. Như là một kết quả của cuộc họp này, Barrie đã sử dụng một bản vẽ bởi Nicholson như là cơ sở cho một áp phích quảng cáo cho vở kịch Peter Pan, cha ông William thiết kế một số bộ và trang phục. Nicholson đã được miễn nghĩa vụ quân sự Chiến tranh thế giới thứ I do hen suyễn . Ông đi du lịch đến New York vào năm 1917 cho một hoạt động của mình amidan , sau đó đến thăm các thành phố khác của Mỹ, trở về Anh vào năm 1918. Trước khi ông trở về, mẹ của Nicholson chết vào tháng Bảy cúm và em trai Anthony Nicholson của ông bị giết trong hành động. Từ 1920 đến 1933, ông kết hôn với họa sĩ Winifred Nicholson và sống ở London. Sau khi triển lãm đầu tiên của Nicholson công trình tượng trưng ở London vào năm 1922, công việc của mình bắt đầu bị ảnh hưởng bởi tổng hợp phái lập thể, và sau đó bởi phong cách nguyên thủy của Rousseau . Năm 1926, ông trở thành chủ tịch của Seven và Hội Năm . HU TE CH Tại London, Nicholson đã gặp nhà điêu khắc Barbara Hepworth (người mà ông đã kết hôn 1938-1951) và Henry Moore . Những lần ghé thăm đến Paris , ông gặp Mondrian, mà làm việc trong các phong cách ung thư là ảnh hưởng đến anh ta trong một hướng trừu tượng , và Picasso, có phá i lập thể cũng sẽ tìm thấy cách của mình vào công việc của mình. Món quà của Ngài, tuy nhiên, là khả năng kết hợp các xu hướng châu Âu thành một phong cách mới recognizably riêng của mình. Đầu tiên ông đến thăm St Ives , Cornwall vào năm 1928 với họa sĩ đồng nghiệp của ông Christopher Wood , nơi ông đã gặp các ngư dân và họa sĩ, Alfred Wallis. Ở Paris vào năm 1933, ông đã cứu trợ gỗ đầu tiên của mình, cứu trợ trắng, trong đó có góc vuông và hình tròn . Năm 1937, ông là một trong những biên tập viên của vòng tròn, một chuyên khảo có ảnh hưởng trên constructivism. Ông tin rằng nghệ thuật trừu tượng phải được hưởng công chúng, như thể hiện bởi bức tường Nicholson, một bức tranh tường của ông đã tạo ra cho khu vườn của Sutton Place ở Guildford , Surrey. Năm 1943, ông gia nhập Hội Nghệ sĩ St Ives. Một cuộc triển lãm truy tác phẩm của ông được trưng bày tại Gallery Tate ở London vào năm 1955 Nicholson đã kết hôn với nhiếp ảnh gia Felicitas Vogler trong năm 1957 và chuyển đến Castagnola , Thụy Sĩ, vào năm 1958 . Trong năm 1968, ông được nhận Huân Anh Bằng khen (OM). Năm 1971, ông tách ra từ Vogler và chuyển đến Cambridge. Năm 1977 họ ly dị. Nicholson đã qua đời tại London vào ngày 06 Tháng Hai 1982, và đã được hỏa táng ở Golders xanh nghĩa trang. Tro của ông đã được rải rác trên nghĩa trang Golders xanh trong trường hợp không có hướng dẫn từ gia đình, vì vậy có nghiêm trọng không. Một số công trình Nicholson có thể được nhìn thấy ở thư viện , các Tate St Ives Ấm Art Gallery của Yard ở Cambridge, và Wakefield Hepworth. HU TE CH Ứng dụng Ứng dụng trong kiến trúc, tạo hình. HU TE CH Ứng dụng trong thiết kế minh họa HU TE CH Ứng dụng trong thời trang HU TE CH CHƯƠNG 2 NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA TRƯỜNG PHÁI LẬP THỂ LÊN TRANG PHỤC DẠO PHỐ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 1.1 Xu hướng ăn mặc và thời trang dạo phố của Việt Nam trong những năm gần đây. HU TE CH 1.2 Những đặc trưng cơ bản của xu hướng thời trang thế giới 2011-2012 HU TE CH 1.3 Những mảng màu lập thể trong bộ sưu tập của các nhà thiết kế trên thế giới. (tiêu biểu là BST của Oscar de la Renta...) BST Resort 2012 của thương hiệu này mang đậm âm hưởng chủ nghĩa lập thể của họa sĩ tài ba Picasso, cũng như hương vị rất riêng của đất nước Tây Ban Nha – quê hương của họa sĩ và nhà điêu khắc vĩ đại này. HU TE CH HU TE CH HU TE CH Chương 3 : GIẢI PHÁP THIẾT KẾ 3.1 Ý TƯỞNG 3.2 MÀU SẮC 3.3 PHOM DÁNG 3.4 CHẤT LIỆU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG XỬ LÝ CHẤT LIỆU 3.5 MẪU PHÁC THẢO HU TE CH KẾT LUẬN (kết thúc việc đánh số trang ở đây) Tài liệu tham khảo – Phụ lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfUnlock-bo_suu_tap_lay_cam_hung_tu_truong_phai_lap_the_cubism__5523.pdf