Thiệt hại là điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường. Việc xác định cơ sở thiệt hại có ý nghĩa quan trọng trong việc ấn định mức bồi thường cho người gây thiệt hại đối với người bị thiệt hại. Có thể là thiệt hại do tài sản bị xâm phạm, thiệt hại do sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm, hay danh dự, nhân phẩm, uy tín. Trong đề tài này, xác định thiệt hại chỉ dừng ở việc xác định thiệt hại do sức khoẻ, tính mạng bị xâm phạm, qua đó làm rõ thêm vấn đề xác định thiệt hại nói chung. Bởi, xác định thiệt hại là một việc rất khó khăn và phức tạp, do những quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại mang tính định tính chứ không định lượng cụ thể.
15 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5030 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thiệt hại là điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường. Việc xác định cơ sở thiệt hại có ý nghĩa quan trọng trong việc ấn định mức bồi thường cho người gây thiệt hại đối với người bị thiệt hại. Có thể là thiệt hại do tài sản bị xâm phạm, thiệt hại do sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm, hay danh dự, nhân phẩm, uy tín. Trong đề tài này, xác định thiệt hại chỉ dừng ở việc xác định thiệt hại do sức khoẻ, tính mạng bị xâm phạm, qua đó làm rõ thêm vấn đề xác định thiệt hại nói chung. Bởi, xác định thiệt hại là một việc rất khó khăn và phức tạp, do những quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại mang tính định tính chứ không định lượng cụ thể.
Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm
Sức khỏe của con người là vô giá khó có thể xác định được bằng một khoản tiền hay lợi ích tương đương chính xác. Do vậy, việc xác định làm căn cứ xác định thiệt hại về sức khoẻ rất khó khăn. Mặc dù vây, khi một hành vi trái pháp luật xâm hại tới sức khoẻ cần thiết phải tính toàn đến những thiệt hại thực tế mà người bị thiệt hại phải gánh chịu để buộc người gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Vì vậy, bồi thường thiệt hại về sức khoẻ thực chất có ý nghĩa đền bù một phần thiệt hại về vật chất, tạo điều kiện cho nạn nhân hay gia đình nạn nhân khắc phục khó khăn do tai nạn gây ra, và trong một số trường hợp có ý nghĩa trợ cấp cho nạn nhân, gia đình nạn nhân.
Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm được xác định theo quy định tại Điều 609 Bộ luật dân sự năm 2005:
“1.Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại
b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại
c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phi hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại
2. Người xâm phạm sức khoẻ của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.”
a. Đối với thiệt hại về vật chất
Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm được xác định theo quy định tại Điều 609 BLDS bao gồm những chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại. Theo quy định tại mục II, Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08 tháng 07 năm 2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:
“1.1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại bao gồm: tiền thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu tại cả sở y tế; tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu... theo chỉ định của bác sỹ; tiền viện phí; tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ cho người bị thiệt hại theo chỉ định của bác sỹ; các chi phí thực tế, cần thiết khác cho người bị thiệt hại (nếu có) và các chi phí cho việc lắp chân giả, tay giả, mắt giả, mua xe lăn, xe đẩy, nạng chống và khắc phục thẩm mỹ... để hỗ trợ hoặc thay thế một phần chức năng của cả thể bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại (nếu có).
Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại. Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng do sức khoẻ bị xâm phạm họ phải đi điều trị và do đó khoản thu nhập thực tế của họ bị mất hoặc bị giảm sút, thì họ được bồi thường khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút đó.a. Thu nhập thực tế của người bị thiệt hại được xác định như sau:- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động, thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó bị xâm phạm sức khoẻ nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại
- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập thực tế nhưng mức thu nhập của các tháng khác nhau, thì lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) trước khi sức khoẻ bị xâm phạm nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng không ổn định và không thể xác định được, thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại chưa làm việc và chưa có thu nhập thực tế thì không được bồi thường theo quy định tại khoản 2 Điều 613 BLDS”
Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại. Những chi phí hợp lý có thể bao gồm: tiền thuê phương tiện đưa người thiệt hại đi cấp cứu tại các cơ sở y tế; tiền thuốc điều trị cho nạn nhân và tiền mua các thiết bị, dụng cụ y tế cần thiết khác, chi phí chiếu, chụp X quang, chụp cát lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu…theo chỉ định của bác sỹ tiền viện phí; tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ cho người bị thiệt hại (nếu có). Nếu trong trường hợp người bị gây thiệt hại về sức khoẻ bị gây thương tích về phần đầu, phần chi, phần da được xác định gồm các khoản chi cho việc lắp chân giả, tay giả, mắt giả, tiền giải phẫu thẩm mỹ khác để phục hồi phần nào về thẩm mỹ của khuôn mặt người đó như khi chưa bị gãy thiệt hại như chi phí làm mũi, làm môi, làm cằm giả; chi phí khắc phục lại làn da do bị cháy, bị bỏng lửa, do hoá chất, do axit và các khoản chỉ để mua xe đẩy, chống nạng…Trên thực tế, có trường hợp người bị thiệt hại được đưa ra nước ngoài điều trị hoặcc giữa các bên có tranh chấp về thiệt hại phát sinh liên quan đến việc cứu chữa, điều trị của người bị thiệt hại… Trong trường hợp này, nếu xét thấy cần thiết và theo yêu cầu của một trong các bên, toà án có thể trưng cầu giám định để xác định thiệt hại (chi phí điều trị) cho hợp lý.
Ngoài những khoản chi nhằm để cứu chữa, khắc phục chức năng sống, chức năng lao động của người bị gây thiệt hại về sức khoẻ là những chi phí liên quan đến thu nhập của người bị thiệt hại. Trên thực tế, người bị gây thiệt hại về sức khoẻ trước khi bị gây thiệt hại đã có thu nhập do lao động, do chuyên môn… nhưng những thu nhập đó bị mất hoặc bị giảm sút sau khi người đó bị gây thiệt hại về sức khoẻ. Để xác định khoản thu nhập bị giảm sút hoặc bị mất của người bị gây thiệt hại về sức khoẻ, cần phải căn cứ vào thu nhập thực tế, hợp pháp của người đó trước khi bị gây thiệt hại; và khoản chênh lệch về thu nhập trước khi bị gây thiệt hại và sau khi bị gây thiệt hại. Thu nhập được tính để làm căn cứ bồi thường thường là những thu nhập thực tế. Có nghĩa là trước khi sức khoẻ bị xâm hại, người bị thiệt hại có những khoản thu nhập này, tuy nhiên sau khi sức khoẻ bị xâm phạm thì một phần thu nhập đó của họ không được thu nữa (bị mất) hoặc chỉ thu được một phần (bị giảm sút). Sau khi xác định được thu nhập thực tế, người bị thiệt hại sẽ được bồi thường thiệt hại này nếu họ thuộc trường hợp bị mất thu nhập hoặc được hưởng phần chênh lệch thu nhập từ việc thu nhập thu được sau khi bị thiệt hại về sức khoẻ thấp hơn thu nhập trước đó. Thu nhập thực tế để làm căn cứ xác định mức bồi thường được tính như sau:
Nếu trước khi bị gây thiệt hại về sức khoẻ, người bị thiệt hại có thu nhập ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động thì căn cứ vào mức tiền lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó bị xâm phạm sức khoẻ nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.
Nếu trước khi người bị gây thiệt hại về sức khoẻ, có những thu nhập không ổn định trong từng tháng thì lấy mức thu nhập trung bình của sáu tháng liền kề trước khi sức khoẻ bị xâm phạm nhân với thời gian điều trị để xác định thu nhập thực tế của người bị gây thiệt hại về sức khoẻ. Trong trường hợp không đủ sáu tháng để tính mức thu nhập bình quân của người đó thì lấy tổng thu nhập của các tháng chia tổng số tháng để tính.
Xác định thu nhập thực tế và những thu nhập bị mất, bị giảm sút không phải bao giờ cũng dễ dàng vì người bị gây thiệt hại về sức khoẻ có thể có thu nhập thực tế ổn định, có thể không có thu nhập ổn định và còn có thể là người chưa có thu nhập, cho nên việc xác định thu nhập thực tế, hợp pháp của những người bị gây thiệt hại về sức khoẻ, cần theo cách tính sau:
Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng những thu nhập đó không ổn định, khó xác định vị người này có thể không có chuyên môn, nghề nghiệp ổn định và đã làm nhiều nghề khác nhau để kiếm sống như xe ôm, bán đồng nát…thì xác định mức thu nhập trung bình của lao động phổ thông cùng loại nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.
Trong trường hợp trước khi một người gây thiệt hại về sức khoẻ chưa làm việc, chưa có thu nhập thực tế thì không được bồi thường theo quy đinh tại điểm b khoản 1 Điều 609 BLDS “ Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của người lao động cùng loại”
Theo nội dung của Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08 tháng 07 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp thì việc xác định thu nhập được trình bày như sau:
“Bước một: Xác định thu nhập thực tế của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị có hay không. Nếu có thì tổng số thu nhập là bao nhiêu.
Bước hai: Lấy tổng số thu nhập thực tế mà người bị thiệt hại có được trong thời gian điều trị so sánh với thu nhập thực tế tương ứng được xác định theo hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 1.2 này. Nếu không có khoản thu nhập thực tế nào của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại bị mất; nếu thấp hơn thì khoản chênh lệch đó là thu nhập thực tế của người bị thiệt hại bị giảm sút; nếu bằng thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không bị mất.”
Chi phí hợp lý cho người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị bao gồm: tiền tàu, tiền xe đi lại, tiền thuê nhà trọ theo giá trung bình ở địa phương nơi thưc hiện chi phí nếu có cho một trong những người chăm sóc cho người bị thiệt hại trong thời gian điều trị do cần thiết hoặc theo yêu cầu của cơ sở y tế.
Ngoài những chi phí trên, còn là phần thu nhập thực tế bị mất của người bị thiệt hại về sức khoẻ trong thời gian được điều trị:
Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có thu nhập thực tế ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công trong hợp đồng lao động thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất.
Nếu người chăm sóc cho người bị thiệt hại về sức khoẻ có việc làm và thu nhập ổn định hàng tháng, nhưng lại có thu nhập trong các tháng khác nhau, thì lấy mức thu nhập trung bình của sáu tháng liền kề (nếu chưa đủ sáu tháng thì của tất cả các tháng). Trước khi người đó chăm sóc người bị gây thiệt hại về sức khoẻ nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất
Nếu người chăm sóc cho người bị thiệt hại không có việc làm hoặc có tháng làm việc, có tháng không và do đó mức thu nhập không ổn định thì được hưởng tiền công chăm sóc bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú.
Nếu trong thời gian chăm sóc người bị thiệt hại, người chăm sóc vẫn được cơ quan, người sử dụng lao động trả lương, trả tiền công lao động theo quy định của pháp luật lao động, bảo hiểm xã hội thì họ không bị mất thu nhập thực tế và do đó không được bồi thường.
Đối với trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc: liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần hoặc các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên thì phải bồi thường chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.
Chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại bao gồm: chi phí hợp lý hàng tháng cho việc nuôi dưỡng, điều trị của người bị thiệt hại và chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại. Đối với khoản này, người bị thiệt hại được bồi thường cho đến chết.
Chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại được tính bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú. Về nguyên tắc, chỉ tính bồi thường thiệt hại cho một người chăm sóc người bị thiệt hại do mất khả năng lao động.
b. Đối với thiệt hại về tinh thần
Ngoài thiệt hại về vật chất thì thiệt hại về tinh thần cũng là một vấn đề quan trọng.
Tiền tổn thất về tinh thần cho chính người bị thiệt hại. Mức tiền tổn thất tinh thần được xác định trên nhiều yếu tố: vị trí vết thương của cơ thể, mức độ ảnh hưởng đối với đời sống, sinh hoạt, giao tiếp xã hội… Mức bồi thường do các bên tự thoả thuận với nhau, nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không qua 30 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết việc bồi thường.
Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm
Khi một người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến tính mạng của người khác thì thiệt hại được xác định buộc người gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị gây thiệt hại, quy định tại Điều 610 BLDS: “
Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết;
b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng.
Người xâm phạm tính mạng của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Ðiều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá sáu mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.”
Đối với thiệt hại về vật chất
Những chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc bệnh nhân trước khi bệnh nhân chết bao gồm: tiền thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu tại cơ sở y tế, tiền thuốc và tiễn mua các thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X quang, chụp cát lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu… theo chỉ định của bác sỹ; tiền viện phí, tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hội sức khỏe cho người bị thiệt hại theo chỉ định của bác sỹ; các chi phí thực tế, cần thiết khác cho người bị thiệt hại nếu có và các chi phí cho việc lắp chân giả, tay giả, mắt giả, mua xe lăn, xe đẩy, nạng chống và khắc phục thẩm mỹ…để hỗ trợ hoặc thay thế một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị giám sát của người bị thiệt hại nếu có.
Chi phí hợp lý cho việc mai táng phù hợp với phong tục, tập quán gồm: các khoản tiền mua quan tài, các vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương nến…thuê xe tang, các khoản chi phục vụ cho việc chôn cất hoặc hoả táng nạn nhân theo thông lệ chung. Không chấp nhận các yêu cầu về chi phí cúng lễ, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc mộ…
Tiền cấp dưỡng cho những người mà người chết có nghĩa vụ cấp dưỡng: con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động…Chỉ xem xét khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng, nếu trước khi tính mạng bị xâm phạm người bị thiệt hại thực tế đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Những người đang được người bị thiệt hại cấp dưỡng được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng tương đương đó. Đối với những người mà bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng nhưng sau khi người bị thiệt hại xâm phạm đến tính mạng, thì những người này được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng hợp lý phù hợp với thu nhập và khả năng thực tế của người phải bồi thường, nhu cầu thiết yếu của người được bồi thường. Các đối tượng cấp dưỡng được xác định:
Vợ hoặc chồng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và được chồng hoặc vợ là người bị thiệt hại đang được thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng.
Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động, không có tài sản để nuôi mình mà cha, mẹ là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng
Cha, mẹ là người không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà con là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
Vợ hoặc chồng sau khi ly hôn đang được bên kia là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên không có khả năng lao động hoặc không có tài sản để tự nuôi mình mà cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi dưỡng là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
Em chưa thành niên không có tài sản để tự nuôi mình hoặc em đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng lao động, không có tài sản để cấp dưỡng cho con hoặc anh, chị đã thành niên không sống chnung với em là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
Anh, chị không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà em đã thành niên không sống chung với anh, chị là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
Cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không còn người khác cấp dưỡng mà ông bà nội, ông bà ngoại không sống chung với cháu là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Ông bà nội, ông bà ngoại không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người khác cấp dưỡng mà cháu đã thành niên không sống chung với ông bà nội, ông bà ngoại là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Căn cứ vào những quy định về những người được hưởng khoản tiền cấp dưỡng do người có hành vi gây thiệt hại về tính mạng cho những người thân thích của họ phải bồi thường, là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất hoặc thuộc hàng thừa kế thứ hai của nhau. Quy định này dựa trên nhưng quy định của pháp luật giữa họ có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau và trong trường hợp người đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng bị gây thiệt hại về tính mạng, thì người gây thiệt hại có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ này. Tuy nhiên, thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng giữa những người thân thích không chỉ đơn thuần về vật chất mà còn là tình cảm, bổn phận của họ đối với nhau. Còn những người có hành vi gây thiệt hại về tính mạng, có trách nhiệm bồi thường khoản tiền cấp dưỡng là thực hiện một nghĩa vụ pháp lý mang tính chất bắt buộc, mệnh lệnh mà không phải dựa trên bổn phận, tình cảm khi phải cấp dưỡng cho những người thân thích của người bị thiệt hại về tính mạng.
Việc cấp dưỡng sẽ chấm dứt nếu một trong các trường hợp được quy định tại Điều 61, Luật hôn nhân và gia đình 2000:
“1. Người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động 2. Người được cấp dưỡng có thu nhập hoặc tài sản để tự nuôi mình”
Đối với tổn thất về tinh thần
Theo quy định tại mục II Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP, khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do tính mạng bị xâm phạm được xác định gồm những người thân thích của những người bị thiệt hại về tính mạng, gồm toàn bộ những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất, quy định tại khoản1 Điều 676 BLDS. Những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị gây thiệt hại về tính mạng được hưởng khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do tính mạng của người thân thích bị xâm phạm không phải theo trình tự thừa kế di sản, không phải là việc hưởng di sản thừa kế của người bị thiệt hại về tính mạng để lại. Pháp luật quy định cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị gây thiệt hại về tính mạng được hưởng khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần, là căn cứ vào mối quan hệ thân thuộc nhất trong cơ cấu gia đình và dòng họ theo truyền thống ở Việt Nam. Những người trong hàng thừa kế thứ nhất xét trong mối quan hệ với người bị gây thiệt hại về tính mạng đều là những người có một hoặc hai mối quan hệ pháp lý với người bị thiệt hại về tính mạng khi còn sống. Như vậy khi người bị gây thiệt hại về tính mạng, những người thân thích tại hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần là hoàn toàn hợp lý.
Trong trường hợp không có những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất thì người được nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần là người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng và người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại.
Theo quy định tại điểm d, tiểu muc 2.4, mục II Nghị quyết đã viện dẫn thì mức bồi thường chung khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trước hết do các bên thoả thuận. Trong trường hợp không thoả thuận được thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho tất cả những người thân thích của người bị thiệt hại phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, số lượng người thân thích của họ, nhưng tối đa không qua 60 tháng lương tối thiểu do nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường.
Thiệt hại về sức khoẻ, tính mạng bị xâm phạm từ một vụ án
Trong văn bản kháng nghị, viện kiểm sát đề nghị tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại TP.HCM xét xử phúc thẩm vụ án theo hướng tăng nặng hình phạt đối với Đặng Hữu Anh Tuấn, kẻ đã cán ba lần người thiếu nữ. Theo viện kiểm sát, bản án 8 năm tù là quá nhẹ, chưa tương xứng với tính chất, mức độ hành vi nguy hiểm mà bị cáo Tuấn đã gây ra. Theo phần II nghị quyết 3-2006 của hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, người gây ra thiệt hại về sức khỏe, tính mạng cho người khác có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.Theo hướng dẫn của hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, khi nạn nhân bị thương tật, người gây ra thiệt hại cũng phải bồi thường các chi phí cứu chữa, thu nhập thực tế bị giảm sút của nạn nhân và người chăm sóc như khi nạn nhân chết... Tuy nhiên, thời gian mà nạn nhân được hưởng bồi thường kéo dài hơn rất nhiều, thậm chí suốt đời nếu như nạn nhân bị mất hoàn toàn khả năng lao động. Trong khi đó trường hợp nạn nhân bị chết tuy phải bồi thường tiền mai táng, tiền cấp dưỡng và tiền bù đắp tổn thất tinh thần cho người thân của nạn nhân nhưng những khoản tiền đó vẫn thấp hơn rất nhiều so với tiền điều trị, thuốc men và thu nhập thực tế bị giảm sút của nạn nhân trong cả thời gian dài. Do đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người gây ra tai nạn trong trường hợp nạn nhân bị thương tật là lớn hơn rất nhiều so với trường hợp nạn nhân chết.Như vậy, nghịch lý lái xe cán chết người lại bồi thường ít hơn gây thương tật xuất phát từ nghịch lý trong quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Chúng ta đều hiểu rằng mạng sống con người là vô giá, các quy định pháp luật về bồi thường chỉ là sự bù đắp mang tính tương đối. Tuy nhiên, bồi thường cho một mạng người mà chỉ bao gồm tiền mai táng và 60 tháng lương tối thiểu là một cái giá quá rẻ, gần như không thể gọi là bồi thường vì không thấm vào đâu so với những thiệt hại mà nạn nhân và người thân phải gánh chịu (thu nhập của nạn nhân trong cả phần đời còn lại, tình cảm, tinh thần của những người thân...). Do vậy, các cơ quan có thẩm quyền nên xem xét lại quy định về vấn đề bồi thường, làm sao để thể hiện được tính nhân văn, coi trọng mạng sống con người và vẫn có giá trị thi hành thực đó việc tham gia giao thông có lẽ sẽ trở thành nỗi kinh hoàng cho tất cả người dân. Về mặt bồi thường thiệt hại dân sự, theo quy định tại điều 609 và điều 610 của Bộ luật dân sự 2005, đúng là có sự khác biệt giữa bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm và bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm (xem phân tích ở bảng trên). Như vậy, nếu gây thiệt hại cho sức khỏe của người khác dẫn đến hậu quả người bị thiệt hại mất khả năng lao động thì ngoài các khoản tiền bồi thường một lần, người gây ra thiệt hại còn phải thanh toán chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại đến suốt đời. Trong khi nếu gây thiệt hại tính mạng người khác thì chỉ phải bồi thường một lần. Theo đó, cũng không phải gặp nhiều rắc rối trong thủ tục bồi thường thiệt hại như đối với bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm. Để xóa bỏ điều bất hợp lý này thì phải sửa đổi bổ sung các quy định trên theo hướng tăng nặng hơn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm so với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm.
Kết luận
Việc xác định thiệt hại do sức khoẻ tính mang bị xâm hại có ý nghĩa thực tiễn trong xét xử. Nhưng việc bồi thường do các hành vi trái pháp luật gây nên không chỉ là bồi thường một khoản tiền cụ thể mà cần căn cứ vào đời sống thực tại để việc thực thi pháp luật mới đạt được đúng ý nghĩa. Nhờ đó, pháp luật sẽ đạt được hiệu quả cần thiết vốn có, thiết lập một nhà nước kỷ cương, đảm bảo trật tự xã hội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bt hkỳ Luật Dân sự - Bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe.doc