Lý do chọn đề tài
Trong văn đàn văn học Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX nổi lên rất nhiều nhà
văn với nhiều tác phẩm in đậm dấu ấn cho tới tận bây giờ. Xuất hiện hàng loạt các nhà
văn tên tuổi trong thời kì này như : Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan
được mệnh danh là “những người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng”. Nổi bật nên trong
đó là một tài năng lớn, đặc biệt là về tiểu thuyết và truyện ngắn, đó chính là tác giả Vũ
Trọng Phụng.
Vũ Trọng Phụng là một trong những khuôn mặt độc đáo nhất của văn học tiền chiến.
Văn chương Vũ Trọng Phụng đối lập với văn chương Tự Lực văn đoàn và cũng khác
hẳn lối hiện thực phê phán của những người cùng thời như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công
Hoan, Nguyên Hồng . Không dùng ngòi bút để chống lại một thành phần, một giai
cấp, cũng không trực tiếp chỉ trích sự mục nát, thối rữa của xã hội Việt Nam dưới ách
thống trị của thực dân nửa phong kiến, nhìn trên bề mặt, mà ông mô tả sự tha hoá của
con người, trên toàn diện xã hội, dưới chiều sâu, qua nhiều từng lớp, nhiều hạng
người, mỗi người có một cách tha hoá khác nhau trước thế lực của tiền bạc và tham ô.
Để thể hiện được những nội dung này trong những tác phẩm của mình, Vũ Trọng
Phụng đã dùng bút pháp trào phúng để diễn tả. Bút pháp trào phúng được xem là hồn
trong các tác phẩm của ông.
Vì vậy nghiên cứu bút pháp trào phúng của Vũ Trọng Phụng, là một trong những vấn
đề quan trọng, để hiểu được cách thức truyền tải nội dung trong các tác phẩm của ông,
đồng thời cũng hiểu hơn về xã hội thời bấy giờ. Tìm hiểu về bút pháp trào phúng, góp
phần tìm hiểu về con người và các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng.
Hơn nữa, đề tài được nghiên cứu trên đây còn trau dồi cho tôi thêm kiến thức và kỹ
năng làm bài tiểu luận. Góp phần làm cho tôi ngày càng thêm hoàn thiện kỹ năng viết
tiểu luận mà quá trình gọc tập đòi hỏi tôi phải có.
2. Mục đích
Các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng không phê phán xã hội thối nát lúc bấy giờ một
cách trực tiếp mãnh liệt như những tác phẩm của các tác giả khác, nhưng khi đọc
những tác phẩm của ông độc giả được thưởng thức liên tiếp những tình huống gây
cười, mà thông qua những chuỗi cười, ông lên án gay gắt cái xã hội đồi bại đê tiện thời
ông sống. Tiếng cười ấy đồng thời cũng là tiếng chửi thẳng vào bọn người học đòi làm
quý tộc, làm tư sản nhưng ngu độn, chỉ biết sống vì đồng tiền mà quên đi nhân phẩm.
Nghiên cứu bút pháp trào phúng của Vũ Trọng Phụng để tìm hiểu, phân tích, làm rõ về
thuật ngữ trào phúng và thông qua một số tác phẩm của ông xác định những yếu tố
làm nên trào phúng, đồng thời còn hiểu thêm về cuộc đời của Vũ Trọng Phụng và xã
hội mà ông đang sống.
Tìm hiểu đề tài này ngoài việc cung cấp thêm kiến thúc cho bản thân còn giúp tôi
thành thạo hơn nữa về kĩ năng phân tích, tổng hợp, đánh giá, các tác phẩm, và nhất là
trong kĩ năng viết tiểu luận.
3. Giới hạn đề tài và phạm vi nghiên cứu
Nhắc tới Vũ Trọng Phụng là kéo theo hàng loạt vấn đề đáng chú ý đó là cả một cuộc
đời đầy những bất hạnh, của một số kiếp tài hoa bạc mệnh, một xã hội thực dân nửa
phong kiến đầy những bất công, thối nát, những sự đổi mới mà thực chất chỉ là những
thói rởm đời, đáng phê phán, lên án. Mà nhà thư kí của thời đại – Vũ Trọng Phụng đã
không ngần ngại đưa vào các tác phẩm của mình. Đồng thời với các tác phẩm của
mình Vũ Trọng Phụng đã tạo ra một phong cách trong văn chương mới, lạ, độc đáo, so
với các tác giả khác đặc biệt là ở cách truyền tải nội dung của tác phẩm.
Mỗi tác giả thường có rất nhiều cách thức thể hiện nội dung các tác phẩm của mình,
Vũ Trọng Phụng cũng vậy ngoài trào phúng là phương thức chính để ông truyền tải
nội dung của mình thì còn hàng loạt các phương thức khác có thể là ở những tác phẩm
khác nhau, hoặc trong cùng một tác phẩm như: trần thuật, phóng đại, miêu tả
Tuy nhiên khi nghiên cứu về bút pháp trào phúng của Vũ Trọng Phụng. Do giới hạn
của đề tài nên khi làm tôi chỉ tìm hiểu sơ lược cuộc đời, sự nghiệp của tác giả, và vấn
đề chính của bài nghiên cứu này là tìm hiểu về bút pháp trào phúng của Vũ Trọng
Phụng qua các tác phẩm của ông. Đặc biệt khi đi nghiên cứu đề tài này tôi chú ý tới
việc xây dựng nhân vật, giọng điệu, cách sử dụng ngôn ngữ trong và một số tình
huống khác tạo nên tiếng cười trào phúng ở các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng. Ngoài
ra khi tìm hiểu về bút pháp trào phúng tôi còn tham khảo một số bài nghiên cứu đánh
giá về tác giả và tác phẩm của Vũ Trọng Phụng.
Cần phải nói rõ thêm rằng, nghiên cứu đề tài này, người viết không thể tìm hiểu hết tất
cả các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng để chỉ ra nét độc đáo nghệ thuật của nhà văn họ
Vũ là bút pháp trào phúng. Khi tìm hiểu, nghiên cứu đề tài tôi tập trung vào những tác
phẩm thể hiện đặc sắc, tập trung và cao độ nhất bút pháp trào phúng của Vũ Trọng
Phụng. Và các tác phẩm có được những yêu cầu như trên thường thuộc vào thể loại
tiểu thuyết.
20 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 15864 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bút pháp trào phúng của Vũ Trọng Phụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- 0 -
ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT
KHOA NGỮ VĂN VÀ VĂN HÓA HỌC
CHUYÊN ĐỀ : THỰC TẬP VIẾT TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI
BÚT PHÁP TRÀO PHÚNG CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG
CBHD : NGUYỄN THANH HOÀI
SVTH : PHẠM THỊ UYÊN
MSSV : 0811827
LỚP : NV K32
Đà Lạt, tháng 1 năm 2011
- 1 -
Phần Mở Đầu
1. Lý do chọn đề tài
Trong văn đàn văn học Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX nổi lên rất nhiều nhà
văn với nhiều tác phẩm in đậm dấu ấn cho tới tận bây giờ. Xuất hiện hàng loạt các nhà
văn tên tuổi trong thời kì này như : Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan…
được mệnh danh là “những người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng”. Nổi bật nên trong
đó là một tài năng lớn, đặc biệt là về tiểu thuyết và truyện ngắn, đó chính là tác giả Vũ
Trọng Phụng.
Vũ Trọng Phụng là một trong những khuôn mặt độc đáo nhất của văn học tiền chiến.
Văn chương Vũ Trọng Phụng đối lập với văn chương Tự Lực văn đoàn và cũng khác
hẳn lối hiện thực phê phán của những người cùng thời như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công
Hoan, Nguyên Hồng... Không dùng ngòi bút để chống lại một thành phần, một giai
cấp, cũng không trực tiếp chỉ trích sự mục nát, thối rữa của xã hội Việt Nam dưới ách
thống trị của thực dân nửa phong kiến, nhìn trên bề mặt, mà ông mô tả sự tha hoá của
con người, trên toàn diện xã hội, dưới chiều sâu, qua nhiều từng lớp, nhiều hạng
người, mỗi người có một cách tha hoá khác nhau trước thế lực của tiền bạc và tham ô.
Để thể hiện được những nội dung này trong những tác phẩm của mình, Vũ Trọng
Phụng đã dùng bút pháp trào phúng để diễn tả. Bút pháp trào phúng được xem là hồn
trong các tác phẩm của ông.
Vì vậy nghiên cứu bút pháp trào phúng của Vũ Trọng Phụng, là một trong những vấn
đề quan trọng, để hiểu được cách thức truyền tải nội dung trong các tác phẩm của ông,
đồng thời cũng hiểu hơn về xã hội thời bấy giờ. Tìm hiểu về bút pháp trào phúng, góp
phần tìm hiểu về con người và các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng.
Hơn nữa, đề tài được nghiên cứu trên đây còn trau dồi cho tôi thêm kiến thức và kỹ
năng làm bài tiểu luận. Góp phần làm cho tôi ngày càng thêm hoàn thiện kỹ năng viết
tiểu luận mà quá trình gọc tập đòi hỏi tôi phải có.
2. Mục đích
Các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng không phê phán xã hội thối nát lúc bấy giờ một
cách trực tiếp mãnh liệt như những tác phẩm của các tác giả khác, nhưng khi đọc
những tác phẩm của ông độc giả được thưởng thức liên tiếp những tình huống gây
cười, mà thông qua những chuỗi cười, ông lên án gay gắt cái xã hội đồi bại đê tiện thời
ông sống. Tiếng cười ấy đồng thời cũng là tiếng chửi thẳng vào bọn người học đòi làm
quý tộc, làm tư sản nhưng ngu độn, chỉ biết sống vì đồng tiền mà quên đi nhân phẩm.
Nghiên cứu bút pháp trào phúng của Vũ Trọng Phụng để tìm hiểu, phân tích, làm rõ về
thuật ngữ trào phúng và thông qua một số tác phẩm của ông xác định những yếu tố
làm nên trào phúng, đồng thời còn hiểu thêm về cuộc đời của Vũ Trọng Phụng và xã
hội mà ông đang sống.
Tìm hiểu đề tài này ngoài việc cung cấp thêm kiến thúc cho bản thân còn giúp tôi
thành thạo hơn nữa về kĩ năng phân tích, tổng hợp, đánh giá, các tác phẩm, và nhất là
trong kĩ năng viết tiểu luận.
- 2 -
3. Giới hạn đề tài và phạm vi nghiên cứu
Nhắc tới Vũ Trọng Phụng là kéo theo hàng loạt vấn đề đáng chú ý đó là cả một cuộc
đời đầy những bất hạnh, của một số kiếp tài hoa bạc mệnh, một xã hội thực dân nửa
phong kiến đầy những bất công, thối nát, những sự đổi mới mà thực chất chỉ là những
thói rởm đời, đáng phê phán, lên án. Mà nhà thư kí của thời đại – Vũ Trọng Phụng đã
không ngần ngại đưa vào các tác phẩm của mình. Đồng thời với các tác phẩm của
mình Vũ Trọng Phụng đã tạo ra một phong cách trong văn chương mới, lạ, độc đáo, so
với các tác giả khác đặc biệt là ở cách truyền tải nội dung của tác phẩm.
Mỗi tác giả thường có rất nhiều cách thức thể hiện nội dung các tác phẩm của mình,
Vũ Trọng Phụng cũng vậy ngoài trào phúng là phương thức chính để ông truyền tải
nội dung của mình thì còn hàng loạt các phương thức khác có thể là ở những tác phẩm
khác nhau, hoặc trong cùng một tác phẩm như: trần thuật, phóng đại, miêu tả…
Tuy nhiên khi nghiên cứu về bút pháp trào phúng của Vũ Trọng Phụng. Do giới hạn
của đề tài nên khi làm tôi chỉ tìm hiểu sơ lược cuộc đời, sự nghiệp của tác giả, và vấn
đề chính của bài nghiên cứu này là tìm hiểu về bút pháp trào phúng của Vũ Trọng
Phụng qua các tác phẩm của ông. Đặc biệt khi đi nghiên cứu đề tài này tôi chú ý tới
việc xây dựng nhân vật, giọng điệu, cách sử dụng ngôn ngữ trong và một số tình
huống khác tạo nên tiếng cười trào phúng ở các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng. Ngoài
ra khi tìm hiểu về bút pháp trào phúng tôi còn tham khảo một số bài nghiên cứu đánh
giá về tác giả và tác phẩm của Vũ Trọng Phụng.
Cần phải nói rõ thêm rằng, nghiên cứu đề tài này, người viết không thể tìm hiểu hết tất
cả các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng để chỉ ra nét độc đáo nghệ thuật của nhà văn họ
Vũ là bút pháp trào phúng. Khi tìm hiểu, nghiên cứu đề tài tôi tập trung vào những tác
phẩm thể hiện đặc sắc, tập trung và cao độ nhất bút pháp trào phúng của Vũ Trọng
Phụng. Và các tác phẩm có được những yêu cầu như trên thường thuộc vào thể loại
tiểu thuyết.
4. Lịch sử vấn đề
Bút pháp trào phúng là một trong những vấn đề lý thú, quan trọng và được xem là hồn
trong các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng. Không khi nào nhắc tới Vũ Trọng Phụng mà
người ta không nhắc tới bút pháp trào phúng.
Vì vậy bút pháp trào phúng của Vũ Trọng Phụng là một đề tài được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm, khi thì với quy mô nhỏ tức là chỉ nghiên cứu trong một tác phẩm, khi
thì với quy mô lớn tức là bao quát toàn toàn bộ các tác phẩm như : công trình nghiên
cứu của Hoàng Ngọc Hiến có tên “Trào phúng của Vũ Trọng Phụng trong Số đỏ” đã
cung cấp cho độc giả nhận thấy tác phẩm “Số đỏ” là kho tàng phong phú các thủ thuật
trào phúng hài hước ; các thủ thuật trào phúng qua hình thức ngữ pháp, qua bút pháp
miêu tả nhân vật độc đáo… “Nghệ thuật trào phúng trong tiểu thuyết “Số đỏ” và
“Trúng số độc đắc” của Vũ Trọng Phụng” - Lê Thị Tân khẳng định : bút pháp trào
phúng là hồn trong các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, có thể nói nhờ trào phúng mà
các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng sống mãi với thời gian. Tác phẩm “Vũ Trọng
Phụng trong rừng cười nhiệt đới” của Văn Tâm là bài nghiên cứu độc đáo và sâu sắc
nhưng “không nhằm phân tích tỉ mỉ bút pháp trào phúng trong văn Vũ Trọng Phụng.
Nhưng góp phần tìm hiểu mối quan hệ hữu cơ giữa yếu tố nghệ thuật đặc sắc bậc nhất
của nhà văn họ Vũ, với tố chất hài truyền thống của văn học nghệ thuật dân gian” [1 ;
225].
- 3 -
Ngoài ra còn rất nhiều công trình nghiên cứu khác về Vũ Trọng Phụng và thủ pháp
trào phúng của ông. Những công trình nghiên cứu được nêu trên đây hầu hết đã làm
rõ, chỉ ra được những cái hay, cái hóm hỉnh và hiện thực cuộc sống qua tiếng cười trào
phúng của bút pháp Vũ Trọng Phụng.
5. Ý nghĩa việc nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu bút pháp tráo phúng của Vũ Trọng Phụng có ý nghĩa rất lớn đối với việc
tìm hiểu cách truyền tải nội dung trong các tác phẩm văn học Việt Nam nói chung và
các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng nói riêng. Đặc biệt là cách thức sử dụng bút pháp
trào phúng để thể hiện nội dung trong các phẩm.
Đồng thời nó góp phần chỉ ra cái hay, cái hấp dẫn của văn chương Vũ Trọng Phụng và
toàn thể dân tộc Việt Nam. Qua việc nghiên cứu đề tài này, làm cho chúng ta thấy
được một tài năng lớn, hiếm có của văn học Việt Nam. Vũ Trọng Phụng nhà văn “tài
mệnh tương đố” đã công hiến cho chúng ta những tác phẩm mang phong cách rất
riêng, rất đặc sắc và rất Vũ Trọng Phụng.
Ngoài ra đối với bản thân việc tìm hiểu và phân tích bút pháp trào phúng của Vũ
Trọng Phụng mang một ý nghĩa rất lớn. Qua việc tìm hiểu nghiên cứu này nâng cao
thêm tri thức cơ bản về văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, hiểu được về bút
pháp trào phúng của Vũ Trọng Phụng, về tình hình đất nước và thực tiễn lịch sử xã hội
Việt Nam thời bấy giờ.
6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chủ yếu khi tìm hiểu bút pháp trào phúng của Vũ Trọng Phụng là tôi vận
dụng kiến thức đã được học, đọc một số tác phẩm tiêu biểu của Vũ Trọng Phụng, qua
đó sử dụng các phương pháp phân tích tổng hợp, bình giảng, đánh giá để làm nổi bật
bút pháp trào phúng trong các tác phẩm của ông .
Bên cạnh đó để việc nghiên cứu được thuận lợi và tránh tình trạng đi lạc đề khi nghiên
cứu đề tài này tôi còn tham khảo một số ý kiến khác đặc biệt là của cán bộ hướng dẫn.
Và sử dụng một số tài liệu có liên quan tới Vũ Trọng Phụng và bút pháp trào phúng
của ông.
- 4 -
Nội Dung
1. Cuộc đời và sự nghiệp của Vũ Trọng Phụng
1.1. Cuộc đời
Vũ Trọng Phụng sinh ngày 20 tháng 10 năm 1912 (tức ngày 11 tháng 9 năm Nhâm
Tý) trong một gia đình nghèo, ở Hà Nội.
Cha của Vũ Trọng Phụng là ông Vũ Văn Lân ; nguyên sống ở làng Hảo (tức Bình Yên
Nhân, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên) ; làm thợ điện tại xưởng ôtô Ch. Boillot Hà
Nội. Mẹ là bà Phạm Thị Khách, người làng Vẽ, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông, nay
thuộc thành phố Hà Nội ; sống bằng nghề khâu vá thuê.
Người cha của Vũ Trọng Phụng đã sớm từ giã cõi đời, để lại người mẹ già, người vợ
trẻ và đứa con côi đầu lòng non nớt mới chào đời. Vũ Trọng Phụng mồ côi cha khi
mới được bảy tháng tuổi. Người cha mất sớm để lại một gia cảnh rất đơn côi, tài sản
gia đình không có gì đáng giá ngoài đôi bàn tay tần tảo sớm hôm nuôi mẹ nuôi con của
người vợ góa. Mẹ của Vũ Trọng Phụng có một tấm lòng da diết yêu thương của người
mẹ mới có hai mươi tư tuổi ở vậy nuôi con. Bà giành hết tâm huyết của đời mình dành
cho tương lai của con. Điều này đã để lại trong tâm hồn Vũ Trọng Phụng một niềm tin
tưởng bất diệt vào sự cao quý tốt đẹp của con người.
Vũ Trọng Phụng lớn lên trong tình thương ấm áp của người mẹ và được đến trường
như bao đứa trẻ cùng trang lứa. Năm 1921, lên chín tuổi bắt đầu học Pháp văn ở
trường Hàng Vôi (nay là trường Nguyễn Du), sau được học ở trường Hàng Kèn (nay là
chỗ trường Quang Trung), sau đó là trường Sinh Từ. Từ thuở nhỏ, Tý (tên sữa của Vũ
Trọng Phụng) cũng đã tỏ ra là người có năng khiếu nghệ thuật, đánh đàn nguyệt hay,
vẽ giỏi, thích làm thơ, hay tìm hiểu.
Nhưng trong thế giới vui tươi của nhà trường, hoàn cảnh mồ côi và nghèo khổ đã làm
cho Vũ Trọng Phụng có sự cách biệt với đám bạn con nhà giàu chưa biết đến tình
thương. Sự cách biệt này đã gieo vào đầu óc của Vũ Trọng Phụng mặc cảm tự ti, yếu
đuối và cô độc. Mặc cảm đó ngày một lớn dần trong lòng cậu học trò Tý, rắn lại thành
sự phẫn nộ, thù ghét cái bất công, cách biệt vô lý ở đời.
Năm 1926, Vũ Trọng Phụng đỗ bằng tiểu học lúc mười lăm tuổi. Trong hoàn cảnh gia
đình rất bần cùng. Vũ Trọng Phụng chọn thi vào trường Sư phạm sơ cấp, hy vọng có
học bổng để đỡ phần nào người mẹ sớm hôm tần tảo lo cuộc mưu sinh cho gia đình.
Nhưng kỳ thi không kết quả. Vậy là mới học xong tiểu học, Vũ Trọng Phụng buộc
phải đi làm kiếm sống đỡ đần người mẹ. Khoảng tháng mười năm 1926, Vũ Trọng
Phụng xin được vào làm thư ký ở nhà hàng Godard. Được vài tháng, vì mê văn
chương hơn là bổn phận công việc người thư ký, Vũ Trọng Phụng bị mất việc. Sau đó
xin được chân đánh máy chữ ở nhà in Viễn Đông (Viễn Đông ấn quán - IDEO). Sau
hai năm Vũ Trọng Phụng lại mất việc.
Năm 1930, lúc mười tám tuổi, khi còn làm việc tại nhà in Viễn Đông, Vũ Trọng Phụng
đã có những bài báo đầu tay in trên tờ Ngọ báo – những bài theo ông chủ bút Tam
Lang Vũ Đình Chí là “có một lối văn đặc biệt”, một lối viết “quá bạo”. Lúc này bài
viết được đăng là quý lắm rồi còn nhuận bút thì chưa có. Nhưng do say mê viết văn
chương báo chí nên Vũ Trọng Phụng vẫn cứ tiếp tục viết. Bị mất việc ở xưởng in, ông
quyết định chuyên tâm vào việc viết văn viết báo.
- 5 -
Chính trong khoảng thời gian đi làm thư ký và cuộc sống diễn ra nơi ông đã sống gần
suốt cuộc đời (phố Hàng Bạc), Vũ Trọng Phụng đã tiếp xúc với nhiều hạng người, va
chạm với cuộc sống mưu sinh – những cách làm tiền, bon chen, tội ác, trụy lạc, cảm
bẫy ; những cảnh bi đát và đê tiện. Cũng năm 1930, chàng thanh niên Vũ Trọng Phụng
đã chạm trán với những hiện tượng xã hội bi thương của lịch sử dân tộc và thế giới.
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933 trên quy mô toàn thế giới, làm cho đời sống
của giai cấp cần lao các dân tộc đã khốn đốn lại càng khốn đốn hơn. Rồi cuộc khủng
bố trắng chưa từng có thời kỳ 1930 – 1931. Tiếp đó là bầu không khí ngạt thở của
cuộc thoái trào cách mạng 1931 – 1933. Rồi phong trào Âu hóa rầm rộ, trớ trêu như
một dịch bệnh tràn lan khắp chốn thị thành. Tất cả cộng đồng lại làm cho tình trạng xã
hội vốn đã bi thương lại còn bi hài, đặc biệt đối với tầng lớp trí thức tiểu tư sản thì
cuộc sống lại càng bế tắc. Đời sống xã hội ấy đã cung cấp cho Vũ Trọng Phụng nhiều
mẫu hình nhân vật, gây ra trong ông cái ý thức mạnh bạo, sự cần thiết phải bày tỏ thái
độ trước một thực trạng xã hội vô nghĩa lý. Cũng như ý thức về thân phận và cảnh tình
nghèo khó cơ cực của mình.
Khoảng thời gian từ 1930 – 1939, Vũ Trọng Phụng cộng tác với rất nhiều tờ báo :
Hà thành ngọ báo, Nhật tân, Tiến hóa, Nông công thương, Tân thiếu niên… và viết đủ
các thể loại : truyện ngắn, truyện dài, phóng sự, tiểu thuyết, trào phúng… Ngoài ra,
ông còn dịch các tác phẩm của văn hào người Pháp Victo Huygô.
Thiên Hư, Vũ Trọng Phụng là hai bút danh mà nhà văn của chúng ta thường dùng. Vũ
Trọng Phụng đặc biệt thành công và nổi danh ở hai thể loại phóng sự và tiểu thuyết.
Ông được mệnh danh là : “Ông vua phóng sự đất Bắc”.
Trong khoảng thời gian này, Vũ Trọng Phụng đã nổi danh như cồn nhờ những tác
phẩm của ông được đăng báo như : Cảm bẫy người, Kỹ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm
cô…
Các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng thường được đăng trên các báo trước khi in thành
sách. Tuy là một trong những hiện tượng văn học gây ra nhiều tranh luận vào bậc nhất
trong văn đàn văn học Việt Nam hiện đại, nhưng hầu hết các tác phẩm của Vũ Trọng
Phụng đã được tái bản trong thời kỳ đất nước tiến hành sự nghiệp đổi mới từ năm
1986. Vũ Trọng Phụng được quan tâm nhiều trong đời sống nghiên cứu giảng dạy văn
học và trong đông đảo bạn đọc.
Đầu năm 1938, Vũ Trọng Phụng lập gia đình với cô Vũ My Lương, con một gia đình
buôn bán nghèo ở xã Nhân Mục, thôn Giáp Nhất (nay thuộc phường Nhân Chính,
quận Thanh Xuân, Hà Nội). Cuối năm sinh con gái đầu lòng đặt tên là Vũ My Hằng.
Vũ Trọng Phụng là con người bình dị, phải chăng và giàu lòng tự trọng. Một con
người nề nếp, khuôn phép. Trong cuộc sống riêng, ông chỉ mong kiếm tiền giúp mẹ và
giành giụm tiền để cưới vợ có con nối dõi. Dù ông viết rất nhiều trong khoảng thời
gian chưa đầy mười năm, gần hai mươi tác phẩm và nhiều bài báo nhưng cái nghèo cứ
bám riết gia đình ông. Do phải làm việc quá sức lại trong cảnh thiếu thốn, căn bệnh lao
ngày một thêm trầm trọng và làm ông kiệt sức. Ông mất ngày 13 tháng 10 năm 1939,
tại căn nhà số 73 phố Cầu Mới ngã tư Sở, nay thuộc quận Thanh xuân, Hà Nội nơi ông
mới về ở được vài tháng.
Năm ấy Vũ Trọng Phụng mới 27 tuổi.
Ông ra đi để lại bà nội, mẹ, vợ - ba người đàn bà góa và cô con gái vừa đầy năm.
- 6 -
1.2. Sự nghiệp
Vũ Trọng Phụng là một tài năng lớn, sự nghiệp của ông thành công ở nhiều thể loại :
tiểu thuyết, phóng sự, truyện ngắn, kịch nói,… nhưng ông thành công đặc biệt ở hai
loại tiểu thuyết và phóng sự. Các tác phẩm của ông hầu hết được đăng báo rồi mới in
thành sách. Các tác phẩm thuộc thể loại tiểu thuyết và phóng sự của ông trở thành một
hiện tượng được dư luận quan tâm.
Các tác phẩm của ông qua các thể loại như sau :
Kịch
Không một tiếng vang (1931)
Tài tử (1934)
Chín đầu một lúc (1934)
Cái chết bí mật của người trúng số độc đắc (1937)
Hội nghị đùa nhả (1938)
Phân bua (1939)
Tết cụ Cố (Di cảo - đăng sau khi tác giả qua đời, trên Tiểu thuyết thứ bảy số 295, ngày
3 tháng 2 năm 1940)
Dịch thuật
Giết mẹ (1936) - nguyên bản Lucrèce Borgia của Victo HuyGô
Phóng sự
Đời cạo giấy (1932)
Cạm bẫy người (1933)
Kĩ nghệ lấy Tây (1934)
Hải Phòng 1934 (1934)
Dân biểu và dân biểu (1936)
Cơm thầy cơm cô (1936)
Vẽ nhọ bôi hề (1936)
Lục sì (1937)
Một huyện ăn Tết (1938)
Tiểu thuyết
Dứt tình (1934)
Giông tố (1936), khi đăng trên Hà Nội báo có tên Thị Mịch.
Vỡ đê (1936) - Báo Tương Lai
Số đỏ (1936) - Hà Nội báo
Làm đĩ (1936) - Tạp chí Sông Hương
Lấy nhau vì tình (1937)
Trúng số độc đắc (1938)
Quý phái (1937, đăng dang dở trên Đông Dương tạp chí - bộ mới)
Người tù được tha (Di cảo)
Truyện ngắn
- 7 -
Chống nạng lên đường (1930)
Một cái chết (1931)
Bà lão lòa (1931)
Con người điêu trá (1932)
Quyền làm bố (1933)
Cuộc vui ít có (1933)
Hai hộp xì gà (1933)
Cái hàng rào (1934)
Tình là dây oan (1934)
Duyên không đi lại (1934)
Thầy lang bất hủ (1934)
Ông đừng lầm (1934)
Sao mày không vỡ, nắp ơi? (1934)
Sư cụ triết lý (1935)
Rửa hờn (1935)
Bộ răng vàng (1936)
Hồ sê líu hồ líu sê sàng (1936)
Mơ ngày Tết (1936)
Tết ăn mày (1936)
Lỡ lời (1936)
Người có quyền (1937)
Cái ghen đàn ông (1937)
Lòng tự ái (1937)
Đi săn khỉ (1937)
Máu mê (1937)
Tự do (1937)
Lấy vợ xấu (1937)
Một con chó hay chim chuột (1937)
Một đồng bạc (1939)
Đời là một cuộc chiến đấu (1939)
Bắt vích (1939)
Ăn mừng (1939)
Gương tống tiền (không rõ năm viết)
Đoạn tuyệt (không rõ năm viết)
Từ lý thuyết đến thực hành (không rõ năm viết)
Cái ghen đàn ông
2. Bút pháp trào phúng
2.1. Thuật ngữ trào phúng
Trong lịch sử văn học Việt Nam thuật ngữ trào phúng được sử dụng rất nhiều, và đây
cũng là một khái niệm đã có từ lâu.
Xuất hiện hàng loạt từ có ý nghĩa tương đồng với trào phúng như : trào lộng, khôi hài,
châm biếm… nói chung đều là việc sử dụng những cử chỉ hay lời nói trước tiên là để
tạo ra tiếng cười nhưng tiếng cười ở đây là tiếng cười mỉa mai, đả kích, phê phán cái
- 8 -
sai. Khi sử dụng những biện pháp này trong văn chương những cái sai không bị phê
phán một cách trực tiếp nhưng thông qua tiêng cười để nói nên nhưng cái sai đó.
Trào phúng là nghệ thuật gây ra tiếng cười mang ý nghĩa phê phán, mỉa mai, đả kích
xã hội và con người trong xã hội đó. Để gây được tiếng cười trào phúng, điều quan
trọng nhất là tạo được tình huống mâu thuẫn thông qua việc xây dựng nhân vật, ngôn
ngữ, giọng điệu trong truyện,và tạo được những tình huống bất ngờ.
2.2. Bút pháp trào phúng của một số nhà văn Việt Nam
Ở nước ta tính chất khôi hài thấm đượm rất sâu sắc trong tầng lớp trí thức và dân gian.
Vì vậy trước, sau và cùng thời với Vũ Trọng Phụng cũng đã có rất nhiều nhà thơ, nhà
văn trào phúng như : Tú Mỡ, Nguyễn Công Hoan, Hồ Chí Minh… nhưng hầu hết thể
hiện ở việc châm biếm. Đây cũng một cách trào phúng nhưng dễ làm cho đối tượng
phật ý ấm ức, thù ghét, cũng gây ra tiếng cười nhưng không thâm thúy sâu sắc bằng
trào phúng.
Như Tú Mỡ là nhà thơ trào phúng. “Tuy nhiên tiếng cười trào phúng của Tú Mỡ hóm
hỉnh, có duyên, nhưng không đậm đà sâu sắc” [5 ; 42]. Tú Mỡ thường giữ mục Dòng
nước ngược trên báo phong hóa.
Là nhà văn cùng thời với Vũ Trọng Phụng. Nguyễn Công Hoan được lịch sử văn học
Việt Nam ghi nhận là một cây bút truyện ngắn trào phúng lớn, tiếng cười trào phúng
của ông là sự phát hiện mâu thuẫn, tô đậm nó để gây cười và dẫn đến một kết thúc bất
ngờ. Tuy nhiên tiếng cười của Nguyễn Công Hoan chưa sâu, xây dựng nhân vật chưa
có cá tính độc đáo.
Hồ Chí Minh nổi tiếng với nhiều tác phẩm, đặc biệt là tập Nhật Kí Trong Tù – Tập thơ
được viết bằng cảm hứng hiện thực. Bộ mặt đen tối của nhà tù dưới chính quyền Quốc
dân đảng Trung Quốc được hiện lên một cách tỉ mỉ chi tiết, có giá trị hiện thực và sức
mạnh phê phán sắc sảo, bên cạnh đó xã hội trung quốc lúc bấy giờ được hiện lên rất rõ
qua các tác phẩm. Để thể hiện được những điều này qua tác phẩm của mình Hồ Chí
Minh tuyệt nhiên không dùng đến những lời thóa mạ hay đao to búa lớn mà chỉ đơn
giản sử dụng bút pháp trào phúng châm biếm với nhiều cung bậc khác nhau. Để thông
qua tiếng cười, mà Hồ Chí Minh đả kích chế độ thực dân và kêu gọi nhân dân đấu
tranh, thực hiện được mục đích trong thơ có thép, nhà thơ là chiến sĩ trên mặt trận tư
tưởng.
3. Bút pháp trào phúng của Vũ Trọng Phụng
Hiện thực xã hội đóng một vai trò hết sức to lớn đối với nội dung và hình thức của các
tác phẩm văn học dù là trực tiếp hay gián tiếp. Và với Vũ Trọng Phụng cũng vậy, ông
phải sống trong một xã hội đầy những bất công, sự phân hóa giai cấp diễn ra mạnh mẽ,
xuất hiện nhiều giai cấp mới : tư sản mại bản, tư sản dân tộc, công nhân, vô sản lưu
manh... Kinh tế thì đói kém, lạc hậu. Nhân dân thì phải sống cực khổ dưới nhiều tầng
áp bức : phong kiến, thực dân, phát xít địa chủ. Các phong trào cách mạng thì nổi lên
khắp nơi, nói chung đây là một xã hội hỗn độn và phức tạp.
Chính vì vậy mà Vũ Trọng Phụng “người thư kí của thời đại”. Chỉ trong một thời gian
cầm bút rất ngắn ngủi mà đã để lại một kho tác phẩm đáng kinh ngạc : hơn ba mươi
truyện ngắn, chín tập tiểu thuyết, chín tập phóng sự, bảy vở kịch, cùng một bản dịch
vở kịch từ tiếng Pháp, một số bài viết phê bình, tranh luận văn học và hàng trăm bài
báo viết trực tiếp về các vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa. Năm 1936, ngòi bút của ông
nở rộ nhất là về tiểu thuyết, chỉ trong vòng một năm, bốn cuốn tiểu thuyết lần lượt xuất
- 9 -
hiện trên các báo. Cả bốn tiểu thuyết Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê và Làm đĩ đều hiện thực,
đi sâu vào các vấn đề xã hội. Trong đó, Số đỏ xuất sắc hơn cả, được xem như tác phẩm
lớn nhất của Vũ Trọng Phụng, một vài nhân vật, câu nói trong Số đỏ đã đi vào ngôn
ngữ đời sống hằng ngày.
Tuy nhiên các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đều có một nét nổi bật chung, mà đây
cũng là hồn trong các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, đó là bút pháp trào phúng. Để
chuyển tải nội dung cho các tác phẩm của mình, thủ pháp nghệ thuật chính mà Vũ
Trọng Phụng dùng là trào phúng.
Cũng giống như các nhà văn trào phúng khác, Vũ Trọng Phụng dùng tiếng cười để phê
phán, đả kích những thế lực đen tối, những thói rởm đời ở trong xã hội. Nhưng có thể
nói, Vũ Trọng Phụng là bậc thầy về bút pháp trào phúng với lối viết táo bạo, sắc sảo,
gay cấn đến sỗ sàng. Đặc biệt, tiếng cười lạ lùng của ông đã khiến người khác phải
ngỡ ngàng, thán phục, hoặc sợ hãi, tức tối. Điều này thể hiện rất rõ qua việc xây dựng
nhân vật, cách sử dụng ngôn ngữ, giọng điệu, và một số tình huống gây cười khác ở
các tác phẩm của ông.
3.1. Nhân vật trào phúng
Việc xây dựng nhân vật, là một trong những yếu tố không thể thiếu được khi sử dụng
bút pháp trào phúng trong các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, việc xây dựng nhân vật
trào phúng góp phần quan trọng để tạo ra sắc thái, và hiệu quả tiếng cười.
Trào phúng qua nhân vật, chính là việc xây dựng nhân vật, hay nói chính xác hơn, đó
chính là cuộc đời số phận của các nhân vật được thể hiện thông qua tác phẩm. Nhân
vật ở đây được xây dựng theo nhiều kiểu khác nhau, có thể là theo “nguyên tắc trong
ngoài bất nhất” [1 ; 476], hoặc thay đổi số phận do một nguyên nhân vô nghĩa lý nào
đó. Vũ Trọng Phụng đã sử dụng rất nhiều cách để xây dựng nhân vật, nhằm tạo ra
tiếng cười sâu cay, và thể hiện bút pháp trào phúng độc đáo của mình.
Sự thay đổi đến “đáng sợ” của các nhân vật, được Vũ Trọng Phụng giải thích một cách
rất tự nhiên, hợp tình hợp lý, chính vì vậy mà làm cho người đọc thấy hết sức bất ngờ,
và bật ra tiếng cười trào phúng. Nổi bật nên trong các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng là
Xuân Tóc Đỏ (Số Đỏ), Phúc (Trúng Số Độc Đắc)… nói chung “Vũ Trọng Phụng đã
tạo được một thứ nhân loại độc đáo cho riêng mình” [3 ; 214].
Thông qua Xuân Tóc Đỏ, Vũ Trọng Phụng cho thấy cái xã hội lúc bấy giờ là “tấn kịch
thực sự của con người giữa những sự giả dối buồn cười”. Đó là một tên cơ hội, tiến
được trong xã hội nhờ trò “gian trá bịp bợm”. Xuân Tóc Đỏ thực chất chỉ là một đứa
lưu manh, vô học với lí lịch đen tối: “Thằng Xuân lấy đầu hè, xó cửa làm nhà; lấy sấu
các phố, cá hồ Hoàn Kiếm làm cơm. Nó đã bán phá xa, bán nhật trình, bán cao đơn
hoàn tán trên xe lửa, chạy rạp hát, và với ba nghề tiểu xảo khác nữa. Ánh nắng mặt
trời làm cho tóc nó đỏ như tóc Tây. Cảnh ngộ đó tạo nên nó một đứa hoàn toàn vô
giáo dục, nhưng tính nó quái lắm, thạo đời lắm” [2 ; 302 ].
Cuộc sống đầu đường xó chợ, những bài học ở vỉa hè, tạo ra một thằng Xuân bụi đời,
lưu manh. Xuân lang thang tự kiếm sống với nhiều nghề nghiệp “rẻ tiền” nên về lâu
càng trở nên ranh mãnh hơn. Nhưng cũng nhờ vào những hoàn cảnh đặc biệt đó, Xuân
đã nhập vào những kẻ giàu có, từ ông bà Văn Minh, bà phó Đoan, cô Tuyết. Nói
chung, cái xã hội đó là môi trường rất tốt cho những người như Xuân Tóc Đỏ. Con
đường tiến lên của Xuân hoàn toàn là do những cơ may. Có những điều mà đến chính
Xuân cũng không ngờ được. Để từ một anh nhặt banh ở sân quần, một gã thổi loa kén
- 10 -
quảng cáo thuốc lậu trở thành sinh viên trường thuốc, một quan đốc - tờ Xuân, một vĩ
nhân cứu quốc, một bậc thượng lưu của xã hội. Tất cả tuy có được nhà văn phóng đại,
nhưng cái điều cốt yếu vẫn là sự tố cáo chân thực hiện thực xã hội.
Cuộc đời Xuân Tóc Đỏ hết gặp vận may này đến vận may khác. Sự “huyên thuyên”
của hắn khi chữa bệnh cho cụ cố làm mọi người kinh ngạc, nhưng hắn đã chinh phục
được họ. Ở nhân vật này, xuất hiện nhiều điều bất ngờ nhưng lại phù hợp với lôgíc nội
tại. Tính cách luôn có những mặt trước sau không thể thay đổi. Bản chất của một tên
lưu manh, mở miệng ra là cứ “mẹ kiếp”, “nước mẹ gì”. Sự khôn ranh không phải do
học hành, mà do sự bắt chước, che đậy, đối phó với mọi tình huống. Nào hắn có biết
làm thơ đâu mà cũng được tôn là “Xuân Tóc Đỏ thi sĩ”, thực chất hắn chỉ thuộc bài thơ
“thuốc cảm, nhức đầu” của những tiệm thuốc giao cho hắn đi bán dạo! Trên sân khấu
cuộc đời xô bồ hỗn độn hắn sắm rất nhiều vai hài kịch. Nhưng đôi khi, giữa lúc đang
múa máy khóc cười trên sân khấu, hắn bỗng nhớ đến thân phận hèn mọn của mình và
gần như sững đi trong chốc lát, trong cái giây phút quan trọng đó, hắn hiện nguyên
hình là một thằng Xuân hạ lưu, vô học. Chẳng hạn lúc Xuân Tóc Đỏ “ưỡn ngực” nói to
trước vợ chồng ông Phán và trước mặt cả nhà Văn Minh : “Thưa ngài, ngài là người
chồng mọc sừng !” Tình cảnh bi đát xảy ra : “Ông Phán dây thép ôm lấy ngực ngã quỵ
xuống đất, cụ Tổ cũng nấc một cái to, ngã xuống giường”. Trong lúc bối rối nguy ngập
này, Xuân Tóc Đỏ thú tội và chỉ biết chạy thẳng một mạch như kẻ cắp : “Thưa cụ, quả
con vô học, xưa nay nhặt banh quần hạ lưu, không biết thuốc ạ !” Nhưng rõ là số hắn
quá đỏ : hắn không bị xem thường mà còn được trọng vọng ! Cái chết của cụ Tổ càng
làm người ta nể phục hắn. Đám tang cụ cố trước đó không hề có mặt hắn, nhưng trên
đường mai táng nhộn nhịp bỗng có sự xuất hiện lạ lùng của chiếc xe tang mà trên đó
có Xuân và mấy vị sư chùa bà Đanh ngồi chễm chệ. Chính sự xuất hiện này đã làm
cho đám tang càng thêm sang trọng, thượng lưu. Thân chủ của cụ Tổ càng thấy khâm
phục Xuân bởi Xuân đã góp phần làm lừng danh “đám tang lớn nhất từ trước đến
nay”. Nhưng đó là một sự thật mỉa mai, lố bịch, phũ phàng, tàn nhẫn.
Xuân Tóc Đỏ thấy rõ vị trí của mình trong xã hội, hắn ngày càng nhận rõ muốn tạo
được thanh thế và uy tín thì phải xem thường mọi người ! Hắn càng làm bộ, giả dối
bao nhiêu thì lại được kính trọng bấy nhiêu. Dù làm ra vẻ kiểu cách nhưng bản chất
của nhân vật này vẫn là lố bịch, kệch cỡm. Thái độ của hắn mỗi lần được tiếp xúc với
mọi người chỉ là sự đòi hỏi kiểu cách : “Rất hân hạnh”, và hết sức lố bịch khi hắn đứng
trước quần chúng : “Hỡi quần chúng, mi không hiểu gì, mi oán ta. Ta vẫn yêu quý
mi, mặc lòng mi chẳng rõ lòng ta. Thôi giản tán đi !” Thực chất của Xuân Tóc Đỏ
là như vậy.
Tác giả xây dựng thành công nhân vật này bằng bút pháp châm biếm sâu sắc, bằng
tiếng cười tung hô vào mặt xã hội “Âu hoá” kệch cỡm. Xuân Tóc Đỏ không chỉ là tính
cách của một cá nhân, mà là sự tổng hợp các loại người trong xã hội thối tha ấy.
Những kẻ luôn vỗ ngực tự coi mình là văn minh là những cải cách thực chất bọn họ là
những bầy hề sống thượng lưu, thác loạn. Chỉ trong xã hội thực dân, thì những kẻ như
Xuân Tóc Đỏ mới có “vai trò quan trọng” đứng trên thiên hạ làm xã hội điên đảo, mục
nát.
Xuân Tóc Đỏ là hình tượng độc đáo trong tiểu thuyết độc nhất vô nhị của văn học hiện
thực 1930 – 1945. Thông qua những chuỗi cười, mà Vũ Trọng Phụng lên án gay gắt
cái xã hội đồi bại đê tiện thời ông sống. Tiếng cười ấy, đồng thời cũng là tiếng chửi
- 11 -
thẳng vào bọn người học đòi làm quý tộc, làm tư sản nhưng ngu độn, chỉ biết sống vì
đồng tiền mà quên đi nhân phẩm.
Sự thay đổi của Xuân Tóc Đỏ, tạo ra những tình huống bất ngờ cho người đọc, và tạo
ra những tiếng cười trào phúng để châm biếm, phê phán xã hội bấy giờ, bút pháp trào
phúng của Vũ Trọng Phụng không chỉ dừng lại ở đó, nó còn đi sâu vào cuộc sống gia
đình, bạn bè. Những người mà tưởng rằng sẽ là chỗ dựa cho mình, nhưng thực chất từ
nhân vật tới những người thân đó chỉ sống vì đồng tiền. Điều này thể hiện rất rõ qua
Phúc trong Trúng số độc đắc.
Trúng số độc đắc, là tác phẩm biến một anh chàng nghèo kiết thành một người tỷ phú
với các hoàn cảnh gia đình, xã hội vây quanh anh ta. Trúng số độc đắc là một biến cố
đem đến những thay đổi thật lạ lùng, cái ngày trúng số như chia cuộc đời con người
gặp may ra hai phần mà bao nhiêu thứ điều trái ngược nhau đến bi đát.
Trước khi trúng số, Phúc là một người thất nghiệp, ngày ngày ra vườn hoa để đọc sách
bị vợ sỉ vả đủ thứ. Bố mẹ thì nói ra nói vào chửa Phúc là đồ ăn hại, vô tích sự, gàn dở,
đái nát, không đáng bưng bát cơm lên mà ăn. Nhẫn nhục đi xin một chân thư ký hãng
buôn, thì lão chủ Tây ném lá đơn xuống đất. Viết bài báo được đăng lên trang nhất,
nhưng khi hỏi tiền nhuận bút thì bị tòa báo nhục mạ để quỵt.
Chưa đầy nửa tháng, nghe tin Phúc trúng số thì các nhà báo kéo đến tấp nập, với một
thái độ cung kính xin chụp hình, phỏng vấn. Bố mẹ thì thay đổi như có phép thần
thông, khiến Phúc “phải cay đắng nhận ra rằng khi đứa con trúng số mười vạn cố
nhiên là bất thình lình cả bố lẫn mẹ đều thấy nó biến hình ra là đại quý tử”. Cả lão Tây
chủ hạng buôn ôtô, thấy Phúc đến là cúi chào rất thấp, nịnh hót liên hồi xin lỗi tới tấp.
Còn với Phúc, trước kia được khen là hiền lành, đứng đắn, đạo đức, nhưng từ khi trúng
số được bao nhiêu người nịnh hót tạo cơ hội cho anh ta bắt đầu sống cuộc đời trưởng
giả, lao mình vào con đường doanh thương của những Tây tư bản đến nỗi thịnh thoảng
nhớ lại những tư tưởng cũ của mình, anh lấy làm ngạc nhiên và anh đã thật thà tự nhận
xét rằng : xưa kia tôi đạo đức là vì chưa đủ tiền để hư. Phúc cũng đi theo cái mà Vũ
Trọng Phụng gọi là “vết xe thiên hạ” [1 ; 503].
Tả Phúc, Vũ Trọng Phụng không miêu tả nhiều về vẻ bề ngoài, người đọc chỉ biết đó
là “cậu áo dài trắng”. Vũ Trọng Phụng đã cho người đọc trông thấy theo dõi cụ thể
tường tận, và sinh động những gì xảy ra trong cuộc đời của Phúc : dự định, hành động,
ý nghĩ. Vũ Trọng Phụng đã có cái nhìn rất sáng suốt, nhạy cảm, tinh tế không những
trông thấy tình cảm được biểu lộ mà cả những ý muốn đang tiềm tàng. Nhờ thế mà Vũ
Trọng Phụng có thể miêu tả tất cả những ngõ ngách, trong tâm hồn của Phúc.
Trong tiểu thuyết Giông tố, Vũ Trọng Phụng cũng đã để lại những ấn tưởng đặc sắc về
hình tượng các nhân vật. Trong số hàng loạt các nhân vật trong tác phẩm này, ta thấy
nổi bật lên hình ảnh Thị Mịch với những tính cách điển hình cho nhân vật tha hóa của
Vũ Trọng Phụng. Thị Mịch là nạn nhân trong Giông tố, tuy nhiên ngòi bút của Vũ
Trọng Phụng cũng không đều. Đoạn đầu, ông tả Thị Mịch là một cô gái quê hiền lành,
chất phác, giản dị, chung tình và khi bị Nghị Hách làm nhục, ông tỏ một chút lòng
thương hại. Nhưng về sau dưới ngòi bút của Vũ Trọng Phụng, Thị Mịch trở thành một
nhân vật dâm đãng, và có những cử chỉ vô duyên đáng ghét của một người đang ở
trong cảnh nghèo khổ, bỗng được sống trong cảnh giàu có phong lưu. Tác giả không
có ý đồ xây dựng Thị Mịch thành một chị Dậu thứ hai, Mịch cũng giống như Long,
Phúc, Huyền được ông tạo ra để chứng minh cho cái quy luật tha hóa trong xã hội thực
dân nửa phong kiến lúc bấy giờ. Cảm tình của người đọc sẵn có từ trang đầu với Thị
- 12 -
Mịch đến đây thì mất hẳn. Với cách thể hiện nhân vật kiểu này, Vũ Trọng Phụng đã
phát hiện ra tính không đồng nhất với bản thân mình của nhân vật, tạo ra nhiều yếu tố
bất ngờ và tiếng cười trào phúng từ cái xung đột nội tại của chính nhân vật.
Nhân vật, yếu tố phản ánh trào phúng rõ nét trong các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng.
Vũ Trọng Phụng đã sử dụng biệt tài xây dụng nhân vật, để gây lên những tiếng cười đả
kích, chế giễu, mỉa mai.
3.2. Ngôn ngữ trào phúng
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng, đắc lực và đạt được hiệu quả cao nhất
khi con người sử dụng nó để giao tiếp. Điều này không chỉ được khẳng định trong
cuộc sống thường ngày mà trong văn chương cũng vậy.
Hầu hết các yếu tố để tạo nên một tác phẩm văn chương đều lấy công cụ là ngôn ngữ
để thể hiện. Bút pháp trào phúng của Vũ Trọng Phụng thành công rực rỡ, phần nhiều
được thể hiện qua ngôn ngữ.
Để trào phúng châm biếm trên bình diện ngôn ngữ, cách thường thấy ở Vũ Trọng
Phụng là ghép các tổ hợp từ có nghĩa tương phản trái ngược nhau như một sự “cưỡng
hôn ngôn ngữ”[4 ; 226] để tạo ra mâu thuẫn làm lệch chuẩn, gây cười. Bên cảnh đó,
còn sử dụng cách so sánh tổng hợp phối nghĩa của các ngôn ngữ.
Ngôn ngữ trào phúng được ông vua phóng sự đất Bắc thể hiện một cách sắc sảo, tinh
tế ngay ở nhan đề. “Hạnh phúc của một tang gia” trích đoạn của tiểu thuyết Số đỏ cho
ta thấy một nghịch lý khác đời, khác người. Theo lẽ thường, tang gia đồng nghĩa với
sự mất mát đau buồn, nhưng ở đây, tang gia lại được miêu tả là hạnh phúc, hạnh phúc
đến với cả đại gia đình và với từng cá nhân trong gia đình đó.
Nhan đề trích đoạn là vậy, còn tên của thế giới nhân vật trọng tác phẩm thì sao ? Ở
phương diện nay, Vũ Trọng Phụng cung cấp cho người đọc những tràng cười giòn giã
bằng những cái tên buồn cười : TYPN (Típ Phờ Nờ), Xuân Tóc Đỏ, Phán Mọc Sừng…
Dọc theo chiều dài tác phẩm Số đỏ, người đọc còn gặp thấy hàng loạt từ, cụm từ gây
cười, làm nổi lên cái lố bịch, kệch cỡm của thói đời. “Lớp sóng ngôn từ phát đi là lớp
sóng ngôn từ đô thị”[2 ; 272]. Thế nhưng, quang cảnh tang gia được Vũ Trọng Phụng
miêu tả thật sống động, nhộn nhịp như cảnh chuẩn bị đám cưới với hàng loạt từ :
"huyên náo", "nhốn nháo", "rộn lên". Cảnh đưa đám cũng không kém phần hấp dẫn và
lôi cuốn với các từ : “Đám cứ đi...”, không biết đám cứ đi này là đám cưới hay đám
tang, mà chúng ta nghe thấy các từ ; “Con kia kháu thế ! Con này xinh hơn”. “Gớm cái
ngực đầm quá đi mất”, “Chồng gầy thế, vợ béo thế thì đến mọc sừng mất”, “Thằng ấy
bạc tình”, “Mỏ đồng hay mỏ chì”, “chim nhau, cười tình với nhau”, “đủ trai thanh gái
lịch", cụ cố Hồng cứ liên miệng câu “biết rồi khổ lắm nói mãi”. “Hứt ! Hứt ! Hứt !”,
tiếng khóc của chàng cháu rể Phán Mọc Sừng đã cho người đọc nhận thấy rằng : đây
có lẽ là một đám tang, nhưng đây cũng là một dấu chấm phá, là chi tiết đắt giá trong
bút pháp trào phúng của Vũ Trọng Phụng. Qua miêu tả cảnh tang gia, tác giả gọi nhà
đám là “bầy con cháu chí hiếu” chỉ nóng ruột đem chôn cho chóng cái xác chết của cụ
Tổ, hoặc tác giả miêu tả : ‘‘Thật là một đám to tát có thể làm cho người chết nằm trong
quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu…!”
Ngôn ngữ của Vũ Trọng Phụng bao giờ cũng rất sinh động, câu nào cũng như là của
nhân vật tự mình nói ra, tác giả không hề gọt dũa. Nhân vật của Vũ Trọng Phụng, sống
động có màu có sắc thì điều nhờ vào lời ăn tiếng nói, ngôn ngữ họ dùng. Không chỉ
đối với nhân vật phản diện mà bút pháp trào phúng trong ngôn ngữ còn thể hiện qua cả
- 13 -
những nhân vật chính diện, nhân vật phụ. Trong Trúng số độc đắc, người vợ của ông
Phán nói : “Vẫn biết cái quyền của vị hiền phụ chính danh là không bao giờ lại chịu để
cho chồng cãi lại bất cứ điều gì”, và ông Phán già sợ con quá, ấy là “sợ mất hiếu với
con”.
Từng câu từng chữ trong các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đều như là trào phúng và
cất lên như những tiếng đanh thép nó vừa toát ra ý nghĩa phê phán, phủ nhận, vừa có
tác dụng cảnh tỉnh lâu dài bởi vì ông vẫn đang còn tin, hy vọng vào con người có thể
thay đổi được xã hội đen tối lúc bấy giờ.
3.3. Giọng điệu trào phúng
Khi đọc những tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, không chỉ qua nhân vật và ngôn ngữ
mà người đọc còn nhận thấy bút pháp trào phúng thể hiện rất độc đáo, sống động qua
giọng điệu. Giọng điệu gắn với việc miêu tả nhận xét của người trần thuật, có khi là
của nhân vật, giọng điệu có tính tổng hợp cao độ, việc phân chia giọng điệu trong từng
tác phẩm không hề đơn giản. Nếu căn cứ vào cảm hứng chủ đạo có thể chia thành
nhiều giọng điệu khác nhau như : giọng bi, giọng hài, giọng anh hùng, giọng châm
biếm. Tuy nhiên, trên thực tế các giọng điệu luôn đan xen vào nhau, chứ không tách
bạch.
Trong các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng giọng điệu chính là trào phúng mỉa mai,
châm biếm, mua vui giọng điệu này thường bật lên một cách tự nhiên gắn liền với cái
nhìn thông minh và không kém phần khôi hài của tác giả.
Có thể nói, Số đỏ là đỉnh cao trong việc thể hiện bút pháp trào phúng của Vũ Trọng
Phụng, vì vậy giọng điệu cất lên trong tác phẩm cũng là giọng điệu trào phúng. Tác giả
miêu tả cái đám ma hoành tránh, đám ma thật to, to đến nước “có thể làm cho người
chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng”. Người ta đã lợi dụng đám
ma đến mức cao nhất để khoe giàu khoe sang và khoe lòng hiếu thảo giả vờ của mình !
Các nhân vật trong tác phẩm, cũng được tác giả khai thác đến mức tối đa để có thể làm
nổi bật bút pháp trào phúng của mình : Ông Phán nhận thấy cái sừng có giá trị vì ông
sẽ được thêm vài nghìn đồng trong phần chia gia tài. Cô Tuyết sung sướng có dịp mặc
bộ váy ngây thơ, để chứng tỏ mình còn trong trắng và thể hiện khuôn mặt buồn lãng
mạn rất đúng mốt. Cậu Tú tân, nhân dịp này chứng minh hiệu quả của máy ảnh. Cụ cố
Hồng đã nhắm nghiền mắt lại để mường tượng đến cái lúc được mặc bộ đồ xô gai, lụ
khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: “úi kìa, con
giai nhớn đã già đến thế kia kìa !” Tiệm may Âu Hóa và ông TYPN được dịp để “lăng
xê” mốt mới nhất, hiện đại nhất của mình – “có thể bán cho những ai có tang thương
đau đớn vì kẻ chết cũng được hưởng chút ít hạnh phúc ở đời...”.
Đọc đến đây, người đọc thấy giật mình không phải vì sự lệch chuẩn, trái ngược trong
việc sử dụng từ ngữ, mà là thường khi miêu tả về một đám tang thì giọng điệu chính,
và cũng là theo lẽ thường tình thì phải là giọng bi, nhưng ở đây ông vua phóng sự đất
Bắc không những sử dụng giọng kể bình thường, mà còn pha lẫn vào đó giọng hài
hước, châm biếm, chính vì vậy mà khi đọc Số đỏ người ta không thấy xúc động,
thương tiếc, mà chỉ thấy ngạc nhiên, nực cười.
Không chỉ ở Số Đỏ, mà hầu hết các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đều có giọng điệu
như vậy, “rõ ràng ta thấy ông đã lên án thế gian và người đời rất nghiêm khắc thế mà
giọng văn kể chuyện tả cảnh, tả tình cứ hồn nhiên, vui vẻ, và không quyên pha chút hài
hước” [1 ; 506]. Nhưng chính lúc ấy là lúc bút pháp trào phúng của ông đạt tới đỉnh
- 14 -
cao. Điều này thể hiện rõ nhất ở các nhân vât như: Long, Mịch (Giông Tố), Huyền
(Làm Đĩ), Phúc (Trúng Số Độc Đắc). Sự thay đổi của các nhân vật này được diễn tả
bằng một giọng điệu hết sức tự nhiên, Huyền là một cô gái con nhà tử tế, có học, thông
minh, do cuộc sống với bao nhiêu bi kịch trớ trêu, dồn đẩy đã làm cho Huyền thay đổi
trở thành một kẻ khốn nạn, đồi trụy. Còn với Phúc, sở dĩ thay đổi như vậy là chưa có
tiền, nay có tiền rồi thì phải khác “xưa kia tôi đạo đức là vì chưa đủ tiền để hư”. Tất cả
mọi sự thay đổi tới mức mất hết nhân phẩm của con người được tác giả miêu tả nhẹ
nhàng như vậy đó.
Giọng điệu trong các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng làm cho tiếng cười trào phúng
mỉa mai, châm biếm, chế giễu bớt phần cay độc và từ đó có thể quyên đi những nghịch
lý, vô nghĩa lý của cuộc đời. Nhưng đàng sau giọng điệu này là lời thở than, chán
chường, bi quan, về một xã hội thực dân tư sản thu nhỏ với tất cả sự xấu xa kệch cỡm,
rởm đời, vừa ngu si vừa đáng ghét. Nhưng qua đó, Vũ Trọng Phụng cũng thể hiện khát
vọng mãnh liệt của mình về một xã hội lành mạnh tiến bộ thực sự.
3.4. Các phương diện khác của trào phúng
Ngoài những mặt đã nêu trên, bút pháp trào phúng của Vũ Trọng Phụng còn thể hiện ở
chi tiết truyện, tạo tình huống truyện bất ngờ gây nên cái cười trào phúng.
Điểm chung của các tình huống chi tiết tạo nên tiếng cười trào phúng là sự hài hước
một cách vô nghĩa lý. Và căn cứ vào đó, ta có thể phân loại các tình huống chi tiết này
thành các loại sau : tình huống ngược đời phi lý, tình huống quay ngược, tình huống
cãi lộn.
Tình huống ngược đời
“Ngược đời thì dễ gây cười, vì nó vi phạm lôgíc hiện thực lệch chuẩn, có tình huống
ngược đời về hoàn cảnh, có tình huống ngược đời về quan hệ, đạo lý” [1; 542]. Vậy
mà nó cứ xảy ra như một lẽ tự nhiên trong các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, khiến
người đọc ít nghi ngờ về tính chân thực của nó. Trong chương ba của tiểu thuyết Số
đỏ, Vũ Trọng Phụng miêu tả cảnh sát bảo vệ pháp luật mà lại đau khổ vì dân ta văn
minh mất rồi, không ai chịu đánh chửi nhau, đái bậy ra đường, tức là không ai chịu
phạm luật, thế là họ đành bóp đầu nghĩ ra một diệu kế : Cảnh sát phải nhè chính mình
ra mà phạt lẫn nhau để đủ tiền giao nộp cho đúng chỉ tiêu trên giao. Đây chỉ là một
trong chuỗi những tình huống ngược đời của các tác phẩm Vũ Trọng Phụng. Tiếng
cười của ông đã phanh phui sự xuống cấp về giá trị, nhân phẩm, tâm hồn, sự suy thoái
đạo đức của con người. Ngược đời mà tất cả mọi thứ cứ diễn ra như một lẽ tự nhiên,
nhân vật trong các tác phẩm của ông lúc này được xem như những con rối, vai hề rất
vô nghĩa lý.
Tình huống quay ngược
Tình huống này phản ánh những nghịch lý của bản thân đời sống, sự bất nhất trong
một con người. “Sự thay đổi tạo nên những tình huống đột ngột bất ngờ, xoay ngược
tình thế mà nhân vật cũng như người đọc không thể lường trước được” [1 ; 544]. Rất
nhiều nguyên nhân khiến con người thay đổi, người ta quay ngoắt một trăm tám mươi
độ. Điển hình ta thấy các tình huống truyện đặc sắc như : Phúc trước khi trúng số, thì
cha mẹ, vợ con không coi ra gì đối xử thẩm tệ. Nhưng khi đã trúng số, thật lạ thay mọi
thái độ lại khác trước ; cả nhà điều khiếp hãi xúm vào nịnh bợ Phúc. Ở nhân vật Thị
Mịch, khi Mịch cưới Nghị Hách thì người làng Quỳnh thay đổi hẳn thái độ, từ chỉ chửi
xỏ bà đồ Uẩn một cách hèn mạt nhất đến chỗ làm giúp một cách hăng hái nhất.
- 15 -
Nguyên nhân chỉ là do được ăn. Đối với Xuân Tóc Đỏ đã từng bị nhiều người căm
ghét, nhưng sau khi được Chính phủ tặng mề đay thì mọi người xúm vào nịnh hót.
Trào phúng như Vũ Trọng Phụng quả là cay độc và thâm thúy, ông đã chứng minh cho
mọi người thấy sức mạnh của đồng tiền, miếng ăn qua các tình huống truyện đã nêu
trên và còn nhiều chi tiết khác trong tác phẩm.
Tình huống cãi lộn
Trong xã hội thời bấy giờ, thường xuyên xảy ra những xung đột cãi lộn. Vũ Trọng
Phụng rất hay tả những cái như thế. Những màn cãi lộn được Vũ Trọng Phụng miêu tả
bao giờ cũng quyết liệt và kéo dài. Thực thế, những cuộc cãi vã đầy những tình huống
gay cấn và lên đến mức cao trào của nó. Điển hình ta thấy cuộc cãi vã của dân làng
Quỳnh Thôn họp bàn việc kiện cáo Nghị Hách diễn ra rất sinh động. Lần nào họp cũng
dọn cỗ, và lần nào họp cũng cãi nhau theo đúng lý thuyết của Vũ Trọng Phụng : “Vì
chưng dân quê có cái chứng nói chuyện mà như cãi nhau, nên người ta tưởng vỡ mất
phòng họp hội đồng làng”. Khi ông chánh hội vỗ đùi múa máy nói : “cái kiện này thể
nào cũng phải được”, ông lý trưởng ngăn lại (vì nhớ số xe không chính xác), thế là cãi
lộn nổ ra. Kẻ thì hăng hái đến giận dữ, người thì lo lắng bàn lùi, lại thêm bà Đồ Uẩn “ở
phòng con gái đi ra, xưng xưng cái mặt lên mà cự ông Trương Tuần”, khiến ông đồ
hiền lành mà cũng phải “nhảy lên mặt đất như đám kiến lửa, tru tréo”, rồi người ta lập
luận một cách vô nghĩa lý rằng “nghĩa lý” bữa ăn là để bàn việc đi kiện mà sao lại bảo
thôi (Giông tố). Rất nhiều cuộc cãi nhau như thế, ở trong các tác phẩm của Vũ Trọng
Phụng xong lần nào cũng tạo ra tiếng cười trào phúng.
Ngoài những tình huống truyện đặc sắc, thể hiện một cách tinh tế nét trào phúng của
nhà văn Vũ Trọng Phụng. Qua các tác phẩm của ông, chúng ta còn bắt gặp trào phúng
được thể hiện : giữa sự kết hợp của cái ngẫu nhiên và cái tất yếu (tính thống nhất giữa
thật giả, ngẫu nhiên, tất yếu của ngòi bút Vũ Trọng Phụng thể hiện rõ nhất qua Số đỏ -
đó là cái ngẫu nhiên mang vận đỏ trùm lên cuộc đời của Xuân, Xuân may mắn không
chỉ là chuyện “chó ngáp táp phải ruồi” mà tất cả điều có tính quy luật của nó). Đối lập
các bình diện quan sát miêu tả, về mặt này, Vũ Trọng Phụng thường cho nội dung xấu
lẫn vào hình thức đẹp, cái nhếch nhác lẫn vào cái nghiêm trang, đối lập lệch pha, sự
không thống nhất trong một con người, chính điều này góp phần tạo ra những mâu
thuẫn trào phúng tô đậm thêm những chi tiết hài hước tạo ra tiếng cười mỉa mai châm
biếm. Kịch tính trong trần thuật. đây là một yếu tố có vai trò rất quan trọng ở loại hình
tự sự, Vũ Trọng Phụng đã không bỏ sót một điểm, một phương diện nào mà có thể sử
dụng để tô đậm hơn nữa bút pháp trào phúng của ông, trần thuật không xuôi chiều, đối
thoại rất sinh động, là một trong những cách mà Vũ Trọng Phụng dùng để kể chuyện,
với lối trần thuật kiểu này xung đột ở các tác phẩm của ông luôn ở dạng bền vững, các
mâu thuẫn thì cứ liên tiếp gọi nhau, mà không có nút mở, vì vậy tiếng cười dường như
không bao giờ chịu tắt trên môi người đọc.
- 16 -
Kết Luận
Mỗi dòng văn đều có cảm hứng riêng cho nó. Đối với văn học hiện thực, nhìn chung
cảm hứng của nó là sự phủ nhận và phê phán thực tại xã hội thông qua những nhân vật
điển hình và đặc sắc. Tuy nhiên, để chuyển tải nội dung ra sao thì tùy vào mỗi tác giả,
mỗi nhà văn sẽ có lối viết của riêng mình.
Cũng là những chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, nhưng Vũ Trọng Phụng có lối viết rất
khác biệt đối với các nhà văn cùng thời. Ông thể hiện nội dung tác phẩm của mình chủ
yếu bằng bút pháp trào phúng, nhằm gây ra tiếng cười và đàng sau tiếng cười đó là sự
lên án, phê phán một cách sâu sắc và gay gắt xã hội bấy giờ.
Bút pháp trào phúng của ông thể hiện chủ yếu qua nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu và
bên cạnh đó tình huống truyện, sự kết hợp giữa cái ngẫu nhiên và tất yếu, việc đối lập
của các bình diện quan sát miêu tả, kịch tính trong trần thuật cũng được Vũ Trọng
Phụng khai thác tối đa để đưa cái trào phúng vào. Có thể nói Vũ Trọng Phụng không
bỏ qua một kẽ hở nào trong các tác phẩm của mình để thể hiện cho kì được nghệ thuật
trào phúng.
Qua bài tìm hiểu, nghiên cứu về bút pháp trào phúng của Vũ Trọng Phụng, làm cho
chúng ta phải nể phục, trân trọng một tài năng lớn của văn học Việt Nam. Chỉ có mười
năm cầm bút, vậy mà khối lượng tác phẩm ông để lại làm cho mọi người phải ngưỡng
mộ. Cuộc đời ngắn ngủi của nhà văn tài mệnh tương đố đã để lại sự mất mát cho nền
văn học Việt Nam chúng ta.
- 17 -
Một số hình ảnh về tác giả Vũ Trọng Phụng và các tác phẩm của ông.
Tác giả Vũ Trọng Phụng
Một số hình ảnh về tác phẩm
- 18 -
Tài Liệu Tham Khảo
Tài liệu tham khảo từ sách
1. Nguyễn Ngọc Thiện, Hà Công Tài (tuyển chọn và giới thiệu) _ Vũ Trọng Phụng về
Tác giả và Tác phẩm _ NXB Giáo dục _ Thành phố Hồ Chí Minh _ 2003. Tr 15 – 569.
2. T.S. Tôn Thảo Miên (tuyển chọn) _ Số đỏ - Tác phẩm và Dư luận _ NXB Văn học _
Hà Nội _ 2002. Tr, 1 – 411.
3. Đinh Trí Dũng _ Nhân vật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng _ NXB Khoa học xã hội _
Hà Nội _ 2005. Tr, 1 – 215.
4. Đinh Lựu _ Nghệ thuật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng _ NXB Giáo dục _ Đà Nẵng _
2004. Tr, 1 – 226.
5. T.S. Nguyễn Mạnh Hùng (giáo trình tóm tắt) _ Lịch sử Văn học Việt Nam (giai đoạn
1930 - 1945) _ Đà Lạt _ 2010. Tr, 42 – 62.
Tài liệu tham khảo từ các trang web
6.
ource=univ&ei=fhMtTdDuE8zCcfzEud4H&sa=X&oi=imageresultgroup&ct=tititle&r
esnum=5&ved=0CE0QsAQwBA&biw=1001&bih=617
7.
8.
- 19 -
Mục Lục
Phần Mở Đầu
1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………………..…..1
2. Mục đích………………………………………………………………………….....1
3. Giới hạn đề tài và phạm vi nghiên cứu………………………………………………2
4. Lịch sử vấn đề…………………………………………………………………..…...2
5. Ý nghĩa việc nghiên cứu đề tài……………………………………………..……….3
6. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………………..……..3
Nội Dung
1. Cuộc đời và sự nghiệp của Vũ Trọng Phụng……………………………….………4
1.1. Cuộc đời……………………………………………………………..……..….….4
1.2. Sự nghiệp…………………………………………………………………….…....6
2. Bút pháp trào phúng……………………………………………………………..….7
2.1. Thuật ngữ trào phúng…………………………………………………………..…7
2.2. Bút pháp trào phúng của một số nhà văn Việt Nam……………………………....8
3. Bút pháp trào phúng của Vũ Trọng Phụng……………………………………….....8
3.1. Nhân vật trào phúng……………………………………………………………....9
3.2. Ngôn ngữ trào phúng………………………………………………………….....12
3.3. Giọng điệu trào phúng………………………………………………………..….13
3.4. Các phương diện khác của trào phúng………………………………………...…14
Kết Luận………………………………………………………………………..…….16
Một số hình ảnh về tác giả Vũ Trọng Phụng và các tác phẩm của ông…………..…..17
Tài Liệu Tham Khảo………………………………………………………………....18
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bút pháp trào phúng của vũ trọng phụng.pdf