WTO - Các cam kết và lộ trình thực hiện của Việt Nam khá là hay
37 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2720 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các cam kết và lộ trình thực hiện của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t cách đơn phương hoặc trong khuôn
khổ cam kết từ Vòng đàm phán Uruguay (Anderson, 2002 và Kheir-El-Din, 2002). Khi
các chính sách cải cách, Đổi mới đã tạo ra nhiều lựa chọn về mặt chính sách ngành, rõ
ràng điều quan trọng là Việt Nam cần có khả năng tiếp cận thị trường để đảm bảo phát
triển xuất khẩu.
Thứ hai, việc áp dụng đầy đủ Hiệp định Dệt may vào năm 2005 đã đem lại một lợi thế
lớn cho Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ khi gia nhập WTO, Việt Nam mới có thể tận dụng đầy
đủ lợi ích từ việc loại bỏ dần cơ chế hạn ngạch mà các nước phát triển duy trì trước đây.
Đặc biệt, trong số những lợi ích của việc gia nhập WTO có việc giảm thuế nhập khẩu và
loại bỏ hạn ngạch của Hoa Kỳ và EU áp dụng đối với xuất khẩu hàng dệt may (tới giữa
năm 2010, mặt hàng này sẽ chiếm khoảng 15% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam).
Điều này có ý nghĩa quan trọng không chỉ do dệt may là mặt hàng xuất khẩu lớn thứ 2
của Việt Nam, sau dầu thô, mà còn do việc gia nhập WTO sẽ khiến Việt Nam tham gia
sân chơi chung với các nhà xuất khẩu khác, những người đã không bị áp dụng hạn ngạch
kể từ đầu năm 2005, khi mà hệ thống thương mại toàn cầu 30 tuổi với truyền thống “đàm
phán các ngoại lệ đối với GATT/WTO mà các bên đều chấp nhận” đã bị phá bỏ. Các biện
pháp phi thuế quan khác (đặc biệt là tự nguyện hạn chế xuất khẩu – VER) cũng được xóa
bỏ nhờ vào tiến trình đàm phán tự do hóa của Vòng Uruguay, ví dụ như hạn ngạch song
phương của EU đối với hàng tiêu dùng, sắt thép hoặc nông sản nhập khẩu vào Việt Nam.
Thứ ba, có thể lập luận rằng các biện pháp chống bán phá giá và đối kháng mà các cường
quốc áp dụng chống lại các “nền kinh tế phi thị trường” (NME) của WTO như Việt Nam
cần phải chịu các quy tắc chặt chẽ hơn so với các trường hợp không phải là Thành viên
WTO.
Rõ ràng, việc Việt Nam bị coi là nền kinh tế thị trường trong vòng 12 năm không phải là
yếu tố thuận lợi cho các nhà xuất khẩu Việt Nam. Quy tắc này thể hiện một mức độ ngờ
vực nhất định đối với bản chất thị trường của hệ thống kinh tế Việt Nam cũng như mối lo
ngại của rất nhiều nhà sản xuất nước ngoài về sự phát triển xuất khẩu của Việt Nam. Do
bị coi là nền kinh tế phi trường, các đối tác thương mại của Việt Nam có nhiều điều kiện
hơn trong việc đưa ra các vụ kiện chống bán phá đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam do
giá so sánh được được sử dụng trong việc xác định phá giá là giá của các nước “tương
tự”, không nhất thiết có các điều kiện kinh tế giống với Việt Nam. Việt Nam, giống như
các nền kinh tế đang chuyển đổi khác, kể cả Trung Quốc, đã phải đối mặt với các điều
khoản phân biệt đối xử liên quan tới quá trình xác định phá giá cả trong giai đoạn trước
khi gia nhập WTO. Vấn đề này đặc biệt quan trọng vì (i) các nhà xuất khẩu của Việt Nam
dễ phải đối mặt với các biện pháp chống bán phá giá hơn so với các nhà xuất khẩu từ các
nền kinh tế thị trường; và (ii) biên độ phá giá áp dụng đối với các nền kinh tế phi thị
trường thường cao hơn (Langhammer và Lücke,1999). Một lý do của kết quả này là các
quyết định về giá của các công ty tại các nền kinh tế phi thị trường thường không liên
quan tới chi phí sản xuất thực tế. Một lý do nữa có thể là trong các cuộc điều tra chống
bán phá giá, các Chính phủ thường có quyền tự do trong việc ước tính giá trong nước của
một sản phẩm xuất xứ từ một nền kinh tế phi thị trường căn cứ vào giá “thông thường”
của sản phẩm tương tự tại một nền kinh tế so sánh (tương tự). Cơ cấu chi phí tại nước so
sánh càng khác với Việt Nam thì cách tiếp cận này càng không phù hợp. Do đó, tác động
của việc gia nhập WTO đối với các cuộc điều tra chống bán phá giá đối với các nhà xuất
khẩu Việt Nam phụ thuộc vào tầm quan trọng tương đối của hai tác động đề cập ở trên.
Nếu như các quyết định về giá của các nhà xuất khẩu Việt Nam bị bóp méo toàn bộ thì
việc trở thành Thành viên của WTO có thể cũng không có tác động đáng kể nào ngoài
việc hành vi của các doanh nghiệp Việt Nam trong tương lai sẽ mang tính định hướng thị
trường nhiều hơn. Tuy nhiên, nếu việc lựa chọn nước tham chiếu/so sánh bóp méo phán
quyết một cách không công bằng, Việt Nam được lợi khi các cuộc điều tra chống bán phá
giá sẽ phải tuân thủ các nguyên tắc chặt chẽ hơn, đặc biệt khi mà các số liệu về giá và chi
phí của nhà sản xuất được sử dụng thay vì sử dụng nước tham chiếu. (Thông tin chi tiết
hơn về vấn đề này được đề cập tại Chương IV).
Tóm lại, các nguyên tắc chặt chẽ hơn từ việc gia nhập WTO sẽ đem lại cho Việt Nam (a)
lựa chọn để lập luận rằng trong một số tình huống cụ thể, đặc biệt, thì “các điều kiện của
nền kinh tế thị trường chiếm ưu thế” (b) vị thế nhất định trong các cuộc tham vấn và
tranh chấp thương mại đa phương, cho phép Việt Nam sử dụng các quy tắc của WTO
trong quan hệ với các Thành viên khác khi quyền lợi của Việt Nam đã bị ảnh hưởng và
sân chơi không hoàn toàn bình đẳng. Hơn nữa, Việt Nam cũng có thể liên minh với các
nền kinh tế phi thị trường khác trong WTO – ví dụ như Trung Quốc. Cuối cùng, Nghị
định thư gia nhập WTO của Việt Nam hạn chế thời gian áp dụng các thủ tục chống bán
phá giá phân biệt đối xử đối với Việt Nam trong thời hạn 12 năm, đồng thời Việt Nam có
nghĩa vụ cải cách hơn nữa hệ thống trợ cấp và định giá của mình.
6. Tự do hóa thương mại tại Việt Nam
Các nhà phân tích kinh tế nhấn mạnh lợi ích quan trọng của việc các nền kinh tế thực
hiện tự do hóa nhập khẩu có thể tiếp cận thị trường trong nước tốt hơn, đặc biệt khi các
thiết bị nhập khẩu cũng như các đầu vào sản xuất có giá rẻ hơn, hàng nhập khẩu đa dạng
hơn. Thông qua việc giảm và ràng buộc thuế nhập khẩu, loại bỏ hạn ngạch nhập khẩu và
cải cách các biện pháp hạn chế khác, các chính sách của Việt Nam sẽ có độ tin cậy cao
hơn và môi trường kinh doanh trong nước được cải thiện, điều này sẽ đem lại lợi ích
trong nước đang kể, quá trình này được giải thích ngắn gọn tại Hộp 2.
Liên quan tới các cam kết mở cửa thị trường, có bằng chứng rõ ràng rằng cái mà những
người theo chủ nghĩa trọng thương thường gọi một cách không chính xác là “giá của việc
gia nhập” – xét từ các nhượng bộ về mở cửa thị trường – đang ngày càng tăng. Các
nhượng bộ của Việt Nam khi gia nhập cũng theo xu hướng này do Việt Nam đã đưa ra
các nhượng bộ quan trọng về thuế quan, loại bỏ các hạn chế định lượng và xóa bỏ trợ cấp
xuất khẩu đối với hàng động sản cũng như rất nhiều khoản trợ cấp trong nước khác. Chi
tiết các điều kiện gia nhập WTO của Việt Nam và các cam kết mở cửa thị trường khá vực
tạp, nằm trong khoảng 880 trang tài liệu.
Hộp 2
Tại sao tự do hóa thương mại không nhất thiết phải là
“cái giá để gia nhập”?
Khái niệm cốt lõi của thương mại quốc tế là chi phí cơ hội. Việc sản xuất (tiêu dùng) một
sản phẩm có chi phí là không sản xuất (tiêu dùng) được sản phẩm khác. Một lý thuyết
kinh tế quan trọng đã khẳng định rằng thương mại đem lại lợi ích nhờ việc tối thiểu hóa
các chi phí cơ hội thông qua phân chia lao động quốc tế, lý thuyết này nhấn mạnh tầm
quan trọng của việc chuyên môn hóa giữa các nước. Lấy một ví dụ đơn giản, giả sử rằng
người dân ở Pescatia rất giỏi về đánh bắt cá nhưng lại bị bắt buộc phải dành thời gian để
trồng lúa (nghề mà họ không thực hiện hiệu quả bằng đánh bắt cá). Mỗi giờ trồng lúa có
chi phí có hội cao xét về số lượng cá bị bỏ qua, nhưng họ không có sự lựa chọn nào khác
ngoài việc dành thời gian để trồng lúa. Giả sử những người dân Agria rất giỏi trồng lúa
nhưng không có tài đánh bắt cá. Khi đó, chi phí cơ hội cao xét từ khía cạnh thời gian
không được dùng để trồng lúa. Nếu hai nước có thể trao đổi thương mại với nhau thì họ
có thể tập trung vào ngành nghề mà mình thực hiện tốt nhất.
Các nhà kinh tế nói rằng các nước sẽ chuyên môn hóa theo lợi thế so sánh của mình. Điều
này sẽ đảm bảo rằng tổng sản lượng được sản xuất sẽ tăng ở cả hai nước và mỗi nước sẽ
có khả năng tiêu dùng lúa gạo và cá nhiều hơn khi không có thương mại. Quyết định
chuyên môn hóa vào ngành nào phụ thuộc vào việc một nước thực hiện một ngành nghề
nào là tốt nhất so với các ngành nghề khác. Người dân Pescatia có thể là những nông dân
giởi hơn nông dân ở Agria, do mỗi giờ làm nghề nông thì người dân Pescatia thu hoạc
được vụ mùa có năng suất cao hơn. Tuy nhiên, nếu mỗi giờ người dân Pescatica làm nghề
nông có chi phí cao hơn xét từ lượng cá bị bỏ qua so với mỗi giờ làm nghề nông ở Agria,
khi đó Pescatia nên chuyên môn hóa việc đánh bắt. Vấn đề không phải là lợi thế tuyệt đối
mà là lợi thế tương đối. Thương mại quốc tế tạo cơ hội cho các nước chuyên môn hóa sản
xuất theo lợi thế so sánh của họ.
Thuế quan. Bản chào mở cửa thị trường của Việt Nam cam kết giảm mức thuế quan bình
quân giản đơn khoảng 11,4% đối với tất cả các loại hàng hóa và ràng buộc hầu như toàn
bộ tất cả các dòng thuế với khoảng thời gian thực hiện là 7 năm. Các cam kết thuế có ý
nghĩa khá lớn đối với nhiều dòng thuế. Một yếu tố đặc biệt quan trọng của gói cam kết
này là việc các nhượng bộ sẽ làm giảm mức độ bảo hộ thực tế đối với hàng nông sản của
Việt Nam. Mức thuế ràng buộc bình quân đối với nông sản được giảm từ mức 25,2%
xuống còn 21%, đưa mức thuế cam kết của Việt Nam thấp hơn mức của các Thành viên
WTO trong khu vực như Thái Lan và Philíppin (Báo cáo phát triển năm 2006 của Việt
Nam). (thông thi chi tiết về thuế quan xem tại Chương III).
Trợ cấp. Việt Nam bị yêu cầu phải cắt giảm tất cả các khoản trợ cấp, kể cả trợ giá và do
đó sẽ làm tăng giá thị trường. Các cam kết của Việt Nam trong WTO cũng bao gồm việc
loại bỏ các khoản trợ cấp liên quan tới thương mại đối với sản xuất công nghiệp và đầu tư
trước năm 2013, đồng thời trợ cấp cho ngành dệt may sẽ bị xóa bỏ ngay sau khi gia nhập.
Các cam kết trợ cấp còn bao gồm cả việc loại bỏ hoàn toàn trợ cấp xuát khẩu đối với
nông sản cho các mặt hàng cà phê, chè, rau quả và thịt lợn ngay tại thời điểm gia nhập
WTO và các nghĩa vụ tự do hóa khác (xem phân tích sâu hơn tại Chương III dưới đây).
Thương mại nhà nước. Các hoạt động thương mại nhà nước cũng bị thay đổi đáng kể và
quyền kinh doanh được dành cho các doanh nghiệp tư nhân – cả các doanh nghiệp trong
và doanh nghiệp nước ngoài. Chính phủ Việt Nam hiện đang thực hiện quá trình cải cách
đầy khó khăn đối với nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động từ cơ chế ngoại thương tập
trung trước đây (Diem, Ngo Van, 2007 and Son, Nguyen, 2007).
Liên quan tới cái “giá” để gia nhập WTO xét về mặt các nhượng bộ thuế quan, cần phải
chú ý rằng ngành sản xuất hàng hóa trong nước của Việt Nam không phải cạnh tranh
hoàn toàn với bên ngoài vì (a) vẫn tồn tại sự bảo hộ đáng kể đối với rất nhiều dòng thuế
và (b) trong rất nhiều trường hợp, Việt Nam được hưởng linh hoạt đáng kể để bảo hộ các
ngành nhạy cảm. Đặc biệt, Việt Nam có thể tăng hầu hết các dòng thuế của mình kể cả
sau khi gia nhập WTO vì các mức thuế ràng buộc trong rất nhiều trường hợp lại cao hơn
mức thuế áp dụng hiện hành. (Ràng buộc cao hơn hiện hành tức là mức thuế ràng buộc
trong biểu cam kết WTO lại cao hơn mức thuế đang áp dụng thực tế). Hơn nữa, rất nhiều
quá trình tự do hóa tại Việt Nam đã diễn ra trước khi gia nhập WTO, khi mà Việt Nam
thực thi các thỏa thuận khu vực ký kết trước năm 2007. Do đó, rất nhiều nhượng bộ thuế
quan mà Việt Nam đưa ra có thể sẽ có tác động thấp hơn những gì các con số ở phía trên
thể hiện. (Xem thêm chi tiết tại Chương III dưới đây).
Chính phủ Việt Nam cũng có thể giúp các nhà sản xuất hàng nông sản đối phó với việc
loại bỏ trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản bằng việc duy trì các “hỗ trợ bóp méo thương
mại”, mức duy trì này có thể nhiều hơn mức tiêu chuẩn mà WTO cho phép dành cho các
nước đang phát triển. Tương tự, một số sản phẩm như trứng, đường, muối và lá thuốc là
tiếp tục được bảo hộ một phần thông qua hạn ngạch thuế quan (TRQs), phương pháp áp
dụng mức thuế quan cao đối với lượng nhập khẩu vượt quá một mức “hạn ngạch” nhập
khẩu.
Bức tranh tổng quan về các cam kết dịch vụ (tức là các nhượng bộ theo GATS) cũng cho
thấy một tình hình tương tự xét về cái “giá phải trả” để gia nhập WTO (Tài liệu
WT/ACC/VNM/48/Add.2, ngày 27 tháng 10 năm 2006). Các cam kết chính trong lĩnh
vực dịch vụ bao gồm hạn chế mức góp vốn của nước ngoài trong các ngành dịch vụ (ví
dụ phía nước ngoài được chiếm 100% trong ngành kế toán ngay sau khi gia nhập hay
phía nước ngoài được chiếm 100% sau 5 năm kể từ ngày gia nhập) (Xem thêm Chương
VI). Về số lượng các phân ngành dịch vụ (danh mục phân loại của WTO bao gồm 160
phân ngành) mà các nước cam kết như một tiêu chí để so sánh về “giá phải trả” khi gia
nhập WTO từ quan điểm trọng thương, chúng ta có thể nhận thấy các nước kém phát
triển là thành viên sáng lập WTO chỉ cam kết khoảng 20 phân ngành. Số lượng trung
bình các phân ngành mà các nước đang phát triển và phát triển cam kết lần lượt là 44 và
108. Việt Nam đã cam kết mở cửa 11 ngành và khoảng110 phân ngành dịch vụ (có thể
thấy khá rõ đây chỉ là một đánh giá sơ bộ về giá phải trả “liên quan tới dịch vụ” để gia
nhập và con số này không nói lên bản chất và mức độ tự do hóa). Tuy nhiên, tương tự
như đối với hàng hóa, các ngành dịch vụ của Việt Nam không hoàn toàn phải đối mặt với
cạnh tranh từ nước ngoài do nhiều ngành dịch vụ của Việt Nam vẫn duy trì hạn chế đối
với sự tham gia của nước ngoài.
Rất khó có thể dự đoán liệu Việt Nam có tự do hóa cơ chế thương mại của mình ở mức
độ tương tự hay không nếu như không gia nhập WTO. Về mặt kinh tế, đã được chứng
minh được quá trình tự do hóa trong nước làm tăng hiệu quả nhiều hơn so với việc cải
thiện khả năng tiếp cận thị trường nước ngoài, do đó, lợi ích thu được từ việc Việt Nam
gia nhập WTO sẽ lớn hơn so với việc không gia nhập. Việc các cam kết gia nhập WTO
của Việt Nam có vượt quá các thỏa thuận hiện hành của WTO hay không phụ thuộc phần
lớn vào diễn giải chủ quan. Thứ nhất, một số nghĩa vụ WTO cộng đề cập tới các luật lệ
chỉ liên quan tới quá trình tham vấn hoặc báo cáo cho WTO. Các nghĩa vụ khác là nghĩa
vụ cơ bản, ví dụ như việc Việt Nam chấp nhận xóa bỏ trợ cấp xuất khẩu nông sản ngay
sau khi gia nhập trong khi các khoản trợ cấp này vẫn được nhiều Thành viên sáng lập ra
WTO áp dụng. Thật đáng tiếc là các cam kết WTO cộng và WTO trừ dẫn tới việc phân
biệt các Thành viên do các cam kết này tạo ra hệ thống thương mại đa phương gồm nhiều
mức khác nhau.
Rõ ràng, các cam kết mở cửa thị trường mà Việt Nam đưa ra cũng sẽ tạo thách thức đáng
kể như nhau đối với các nhà sản xuất và cung cấp dịch vụ trong khu vực tư nhân cũng
như khu vực nhà nước và sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy các nỗ lực
cải cách kinh tế trong tương lai.
7. Chính sách trong nước và gia nhập WTO
Bên cạnh tự do hóa thương mại, gia nhập WTO là một cam kết pháp lý có tác động sâu
rộng tới nhiều chính sách kinh tế trong nước. Những thay đổi về mặt chính sách mà các
nước mới gia nhập áp dụng khi gia nhập WTO thường liên quan tới nhiều biện pháp
trong nước. Đối với Việt Nam, thực tế đã chứng minh cần đưa ra các cải cách toàn diện
để các quy định và chính sách trong nước của Việt Nam phù hợp với các quy tắc của
WTO. Trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam về cơ bản đã điều chỉnh lại
toàn bộ hệ thống pháp lý đối với các hoạt động thương mại và các thủ tục pháp lý (US
Aid, 2007). Đặc biệt, cần tăng cường minh bạch hóa và thúc đẩy một hệ thống pháp trị.
Trong cam kết “cả gói” của mình, Việt Nam đồng ý đưa ra một số biện pháp chính sách
cụ thể như tự do hóa các biện pháp kiểm soát giá và cải cách các mức thuế tiêu thụ đặc
biệt và tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước. Việt Nam cũng đồng ý tuân thủ với các
quy tắc của WTO về sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm (SPS), rào cản
kỹ thuật đối với thương mại (TBT), ưu đãi đầu tư, giá trị hải quan, cấp phép nhập khẩu,
Quy tắc xuất xứ và thủ tục chống bán phá giá. Các biện pháp được soạn thảo nhằm hạn
chế vai trò của một nền kinh tế do Nhà nước dẫn dắt cũng bao gồm việc tự do hóa quyền
kinh doanh ngoại thương. Những cải thiện nữa bao gồm thiết lập điểm hỏi đáp dịch vụ,
TBT và SPS. Tất cả các nội dung này sẽ được trình bày chi tiết hơn tại các chương tiếp
theo. Bây giờ chúng ta sẽ chuyển sang phần tác động của việc gia nhập WTO đối với
Chính phủ Việt Nam.
Khó thực hiện chính sách bảo hộ hơn. Tăng cường tiếp cận thị trường ở nước ngoài và
được quốc tế công nhận khi gia nhập WTO có thể hỗ trợ Chính phủ vượt qua những ý
kiến của các nhóm trong nước phản đối tự do hóa thương mại và cải cách theo cơ chế thị
trường. Khi trở thành Thành viên của WTO, việc phản đối một biện pháp chính sách cụ
thể nào đó sẽ khiến câu hỏi về một số lợi ích tiềm năng của việc gia nhập WTO xuất hiện
một cách tự nhiên và điều này sẽ tạo điều kiện cho các cơ quan chức năng dễ dàng hơn
trong việc tìm kiếm sự ủng hộ chính trị đầy đủ nhằm thực hiện quá trình tái điều tiết. Do
đó, độ tin cậy của một Chính phủ có tư tưởng cởi mở của Việt Nam sẽ được tăng cường
nếu như Chính phủ có thể “tự vượt qua chính mình” thông qua việc trở thành Thành viên
WTO (Francois và Martin, 2007). Tác động quốc tế của việc không thực hiện các cải
cách đã cam kết sẽ là rất lớn về mặt chính trị đối với Chính phủ, do đó Chính phủ rất có
thể sẽ thực hiện đầy đủ các chính sách cải cách của mình. Hơn nữa, nếu như sự thống
nhất về chính sách giữa Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế và WTO được cải
thiện, các cam kết khi gia nhập WTO có thể sẽ thúc đẩy các điều khoản tương tự trong
các chương trình chuyển đổi mà IMF hoặc Ngân hàng Thế giới tài trợ trong các lĩnh vực
như ổn định kinh tế vĩ mô, cán cân thanh toán, trợ cấp hoặc chính sách tư nhân hóa.
Chính phủ cần phân tích kỹ tác động của tự do hóa thương mại không chỉ đối với nền
kinh tế mà đổi với tổng thể toàn xã hội. Điều này đòi hỏi phải thiết lập và cải thiện các
thể chế an sinh xã hội nhằm tạo điều kiện cho họ có thể hỗ trợ một số nhóm doanh nghiệp
và dân cư cụ thể, đặc biệt những người nghèo, những người mà hiện nay rất có thể là
người chịu thua thiệt trong quá trình toàn cầu hỏa.1
Chính sách kinh tế phải phù hợp với các quy định của WTO. Gia nhập WTO thường
khuyến khích việc quản lý kinh tế dựa trên các quy định pháp lý, việc cải cách toàn diện
hệ thống pháp luật của Việt Nam đã diễn ra và rất có thể sẽ tiếp tục trong nhiều năm tới.
Trước tiên, quá trình này cho thấy các luật lệ, quy định và quyết định hành chính đã minh
bạch hơn. Các quy tắc của WTO khuyến khích việc công bố nhanh chóng trên tạp chí
chính thức tất cả các luật và quyết định hành chính áp dụng chung cũng như thông tin
liên hệ cần phải công khai cho công chúng trước khi các luật, quyết định này có hiệu lực.
Bên cạnh đó, các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cũng bị yêu cầu phải dành cho
các cá nhân trong và ngoài nước cơ hội nhận xét các dự thảo văn bản pháp luật do các cơ
quản lý Trung ương và địa phương đề xuất. Thứ hai, quá trình này cho thấy Việt Nam
phải duy trì một hệ thống các cơ quan xét xử tư pháp và hành chính cho phép khiếu nại
các quyết định hành chính đối với các vấn đề mà WTO điều chỉnh. Tất cả các quyết định
như vậy sẽ có thể được khiếu kiện ra tòa và các bên sẽ được thông báo bằng văn bản về
quyết định liên quan tới việc khiếu kiện đó cũng như lý do khiếu kiện. Cuối cùng, Việt
Nam được yêu cầu phải quản lý một cách thống nhất, khách quan và hợp lý tất cả các
luật, quy định và các thủ tục hành chính áp dụng chung ở cả cấp Trung ương và địa
phương. Việc thực thi hiệu quả tất cả các cam kết này – những cam kết vốn đầu tiên được
đưa ra theo các nghĩa vụ trong BTA và sau đó được củng cố, mở rộng thông qua việc áp
dụng các quy tắc của WTO – sẽ đòi hỏi phải tăng cường đáng kể hệ thống pháp luật và
thể chế của Việt Nam. Rõ ràng rằng các chủ thể kinh tế, kể cả tư nhân và nhà nước –
tham gia vào hoạt động thương mại, đầu tư hoặc nghiên cứu và phát triển trong một nền
kinh tế dựa trên các nguyên tắc thị trường cần có một sự đảm bảo cơ bản về quyền sở hữu
trí tuệ, thực thi hợp đồng, bảo vệ chống lại các hành vi phản cạnh tranh, sự vận hành của
thị trường tài chính và chứng khoán cũng như khuôn khổ pháp luật vững chắc cho việc
thành lập, hoạt động và giải thể của các đơn vị kinh tế khác nhau. Do đó, Việt Nam đã bắt
đầu thực hiện các chương trình lớn nhằm xây dựng thể chế và pháp luật, luật quản lý
công và chống tham nhũng. Có thể nói rằng quá trình gia nhập WTO, trước đó là việc
thực hiện các cam kết trong BTA là chất xúc tác chính cho quá trình cải cách hệ thống
trong hệ thống pháp luật, quản lý và hành chính. Những bước tiến này tạo nền tảng vững
chắc cho việc thực hiện mục tiêu của Việt Nam là xây dựng một quốc gia xã hội chủ
nghĩa dựa trên cơ sở pháp trị và cải cách xã hội theo định hướng thị trường cũng như phát
triển khu vực tư nhân một cách tổng thể. Các doanh nghiệp nhà nước sẽ mang định
hướng thị trường nhiều hơn hoặc sẽ được cổ phần hóa; đặc điểm của quá trình này là
cách tiếp cận hỗ trợ các hoạt động kinh doanh nhiều hơn của các cơ quan quản lý Trung
ương và địa phương, nỗ lực giảm quan liêu trong việc xử lý các vấn đề kinh tế cũng như
tăng cường minh bạch. Các tổ chức kinh doanh trong và ngoài nước đóng vai trò tư vấn
nhiều hơn trong việc hoạch định chính sách và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
nhiều hơn sẽ đẩy nhanh xu hướng này. (Khía cạnh pháp lý của việc Việt Nam gia nhập
WTO sẽ được thảo luận trong Chương VII).
Những ưu đãi theo từng ngành cụ thể sẽ dần dần được loại bỏ. Gia nhập WTO sẽ giúp
giảm sự phân biệt đối xử, tạo thuận lợi cho một số ngành cụ thể trong nền kinh tế Việt
Nam. Các chính sách ngày càng thống nhất đối với tất cả các ngành từ lâu đã là mục tiêu
của quá trình tự do hóa thuế quan trong các vòng đàm phán liên tiếp của GATT. Trên
thực tế, các mức thuế thống nhất sẽ góp phần làm giảm sự khác biệt giữa mức thuế bảo
hộ thực tế (tức là bảo hộ giá trị gia tăng) trong các ngành khác nhau và do đó cải thiện
việc phân bổ các nguồn lực. Điều này đặc biệt đúng đối với một nền kinh tế đang trong
giai đoạn chuyển đổi như Việt Nam, nơi mà hệ thống chính trị đang tiếp tục phát triển.
Như kinh nghiệm của nhiều nền kinh tế chuyển đổi đã chỉ ra, với việc các cơ quan quản
lý đang thay đổi bản chất của mình, các nhóm ngành thường thành lập các nhóm vận
động hành lang nhiều quyền lực và nếu như không được kiểm tra, giám sát, có thể các
ngành này sẽ được Chính phủ dành được lợi ích đặc biệt (Olson, 2000, McMenamin,
2002, Kostecki, 2007). Rủi ro của các hành vi tìm kiếm lợi ích đó tại Việt Nam được
giảm thiểu nhờ các quy tắc cụ thể của WTO. Phân tích sâu về các nhượng bộ thuế quan
của Việt Nam (Chương III) cho thấy các cam kết WTO đã làm giảm đáng kể sự khác biệt
giữa mức bảo hộ hiệu quả giữa các ngành khác nhau trong nền kinh tế Việt Nam.
Cần thiết phải thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Khi gia nhập WTO, Việt Nam cũng giống
như bất kỳ Thành viên nào khác của WTO phải chấp nhận áp dụng toàn bộ Hiệp định về
Quyền sở hữu trí tuệ liên quan tới Thương mại (TRIPS). Điều này đòi hỏi có sự cải thiện
đáng kể hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ (IP) của Việt Nam để hệ thống này tương thích với
các yêu cầu của Hiệp định TRIPs. Những thay đổi này liên quan tới cả khuôn khổ pháp lý
và thể chế tại Việt Nam, việc áp dụng nguyên tắc MFN và đối xử quốc gia đối với các
doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài, các tiêu chuẩn về nội dung đối với bảo hộ sở hữu trí
tuệ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong quá trình gia nhập và sau khi gia nhập WTO.
Nhờ có những thay đổi quan trọng này, các quy định pháp luật hiện hành tại Việt Nam
nhìn chung phù hợp với các yêu cầu của WTO và nhiều khả năng sẽ có cải thiện hơn nữa
trong việc thực thi. (Xem thảo luận sâu hơn về vấn đề này tại Chương V dưới đây).
Chính sách thống nhất giữa các vùng. Tại các nước có nhiều khuynh hướng phân chia
theo vùng, quan điểm của Chính quyền Trung ương và sự hội nhập của thị trường quốc
gia sẽ được củng cố khi gia nhập WTO. Các chính sách liên quan tới thương mại về cơ
bản sẽ giống nhau giữa các vùng, địa phương, điều này có nghĩa cả nhà sản xuất và người
tiêu dùng sẽ được hưởng lợi nhờ tăng cường cạnh tranh và tính kinh tế nhờ quy mô của
một thị trường không bị phân chia. Hơn nữa, ngay cả khi Việt Nam vẫn bị phân tách về
mặt kinh tế do chi phí vận tải, hạn chế về di chuyển lao động và sự khác biệt trong mức
độ phát triển giữa các vùng, việc gia nhập WTO đảm bảo rằng các nhà cung cấp trong
nước và nước ngoài được quyền bình đẳng trong việc tiếp cận tất cả các khu vực của nền
kinh tế Việt Nam và có thể đóng góp vào sự phát triển của các vùng trong tương lai.
Cách tiếp cận cân bằng đối với hội nhập khu vực. Việc trở thành Thành viên WTO giúp
việc hội nhập kinh tế khu vực trở nên hài hòa hơn (Việt Nam đang tham gia vào quá trình
này) theo các nguyên tắc của hệ thống thương mại đa phương. Khía cạnh này rất quan
trọng trong bối cảnh Việt Nam tham gia Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Khu
vực Mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc (ACFTA), và các Khu vực Mậu dịch tự do
khác đang được đàm phán với Hàn Quốc và Nhật Bản. Đối với một nước không phải là
mục tiêu địa chính trị của Trung Quốc hoặc Nhật Bản, việc trở thành Thành viên của
WTO tạo ra một mức chuẩn để kiểm tra tính tương thích của các thỏa thuận khu vực với
tổng thể quá trình tự do hóa. Quá trình này có thể giúp Việt Nam thu thập lợi ích hiệu quả
dự kiến nhờ việc tiếp tục hội nhập sâu vào hệ thống thương mại đa phương. Sự bổ sung
giữa tính khu vực và toàn cầu trong quá trình hội nhập dựa trên WTO là rất quan trọng
khi thành viên của một nhóm khu vực áp dụng cách tiếp cận “cả nhóm” để gia nhập
WTO một cách đồng thời như trường hợp của Đông Nam và Trung Á.2
Củng cố định hướng quốc tế. Gia nhập WTO khiến cho Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn
đối với các nhà xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nó cũng cho phép các doanh
nghiệp Việt Nam phát triển các hoạt động quốc tế của mình. Điều này không chỉ nhờ vào
tác động tâm lý, các chính sách trong nước cởi mở và hợp lý hơn cùng quá trình phi điều
tiết hóa mà còn nhờ vào sự chấp nhận các quy tắc của WTO về bảo vệ quyền sở hữu trí
tuệ. Xu hướng này dẫn tới sự phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn giữa Việt Nam và các nước
khác, cho thấy Chính phủ Việt Nam và Chính phủ các nước này sẽ tăng cường tham vấn
về các vấn đề chính sách kinh tế khác nhau và hoạch định các chính sách của mình với
nhận thức rõ ràng về tác động quốc tế của các chính sách này. Cụ thể hơn, quá trình này
cũng đòi hỏi Việt Nam duy trì một mạng lưới các chuyên gia về WTO tại các Bộ ngành
thuộc Chính phủ và một nhóm các nhà ngoại giao tại Geneva và một số nơi khác để đảm
bảo việc tham gia tích cực vào các vấn đề WTO và bảo vệ quyền lợi của mình tại các
diễn đàn thương mại ở cấp đa phương, khu vực và song phương.
Hầu như không có nghi ngờ gì đối với việc quá trình gia nhập WTO sẽ ảnh hưởng tới quá
trình hoạch định chính sách kinh tế tại Việt Nam và tạo động lực cho tăng trưởng phát
triển kinh tế và xã hội. Tổng thu nhập bình quân đầu người (GDP) của Việt Nam đã tăng
5,9% một năm trong suốt giai đoạn 1993-2005 và đã đạt mức tăng 8% vào các năm 2005
và 2006. Một trong những lý do quan trọng dẫn tới thành công này là quá trình tự do hóa
kinh tế: máy móc và thiết bị nhập khẩu rẻ hơn, tiếp cận các dịch vụ có chất lượng của
nước ngoài, thị trường nội địa trở nên cạnh tranh hơn và Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn
đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Xu hướng phát triển này cũng rất quan trọng nếu xét
từ khía cạnh tỷ lệ đói nghèo của Việt Nam đã giảm từ 57% vào năm 1995 xuống xòn
20% và tốc độ tăng trường cao – so với những diễn biến tại nhiều nước khác – chỉ làm
tăng sự phân biệt giàu nghèo chút ít. Trên thực tế, chỉ số Gini về bình đẳng chỉ ở mức
0,37 vào năm 2004 (Báo cáo Phát triển Việt Nam năm 2006). Điều này cho thấy “phần
bánh” mà khu vực nghèo nhất của Việt Nam thu được tiếp tục tăng kể từ khi Việt Nam
bắt đầu tiến hành các cải cách liên quan tới WTO, dẫn tới tăng trưởng kinh tế cao hơn và
các chính sách xã hội hiệu quả hơn.
8. Tác động tới doanh nghiệp
Có nhiều bằng chứng cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam đã phản ứng tích cực trước
những thuận lợi mà quá trình gia nhập WTO đem lại. Phản ứng của các doanh nghiệp đối
với các cam kết gia nhập WTO phụ thuộc vào hai yếu tố quan trọng. Thứ nhất, mức độ tự
do hóa các rào cản đối với thương mại và các nhà xuất khẩu của Việt Nam cũng như các
nhà doanh nghiệp nước ngoài xuất khẩu sang Việt Nam gặp phải. Thứ hai, mức độ nhận
thức và khả năng của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc tận dụng cơ hội tăng cường
khả năng tiếp cận các thị trường nước ngoài và khả năng điều chỉnh trong môi trường
cạnh tranh cao hơn tại thị trường trong nước. Nói cách khác, việc gia nhập WTO có thúc
đẩy xuất khẩu của Việt Nam hay không không chỉ phụ thuộc vào những thay đổi tích cực
trong việc tiếp cận thị trường do quá trình gia nhập WTO đem lại mà còn phụ thuộc vào
các hành động cụ thể của Chính phủ Việt Nam và các doanh nghiệp. Đặc biệt, thành công
xuất khẩu sẽ phụ thuộc vào thông tin kinh doanh, cơ sở hạ tầng cho các nhà xuất khẩu và
tinh thần doanh nghiệp của họ. Cả Đảng Cộng sản Việt Nam và Chính phủ đều nhận thức
đầy đủ về các vấn đề này, như được thể hiện trong Nghị quyết và Chương trình hành
động năm 2007 liên quan tới việc Việt Nam gia nhập WTO (Chính phủ Việt Nam năm
2007). Nghị quyết này kêu gọi tăng cường hỗ trợ kỹ thuật cho các doanh nghiệp Việt
Nam để tận dụng cơ hội và điểu chỉnh trước những thay đổi về thể chế do việc gia nhập
WTO đem lại.
Phản ứng chiến lược. Tuy nhiên, gia nhập WTO không phải là một “thần dược” đối với
nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Trên thực tế, trong một số khía cạnh quan trọng, gia nhập
có thể làm tăng thách thức mà các doanh nghiệp trong nước gặp phải. Loại bỏ trợ cấp và
giảm thuế nhập khẩu được coi là sẽ khiến một số ngành trong nước gặp nhiều khó khăn
hơn và sẽ phải điều chỉnh. Rất nhiều cam kết cắt giảm thuế quan đã được thực thi và các
cam kết khác sẽ được thực hiện trong tương lai gần. Quá trình này đòi hỏi các doanh
nghiệp phải giám sát những sự thay đổi và đề ra phản ứng chiến lược hợp lý (ở mức độ
công ty, phản ứng chiến lược đề cập tới phản ứng trước những điều chỉnh cơ cấu ở cấp
kinh tế vĩ mô). Rõ ràng, các mức thuế suất bình quân không có ý nghĩa nhiều đối với các
doanh nghiệp, từng doanh nghiệp phải tự mình xem xét các dòng thuế cụ thể và phân tích
khả năng cạnh tranh của mình tại từng thị trường xuất khẩu cụ thể. Trong quá trình này,
cần phải xem xét kỹ các cam kết trong các thỏa thuận hội nhập khu vực mà Việt Nam đã
tham gia trước khi có thể phân tích đầy đủ quá trình tự do hóa mà WTO đem lại xét về
khía cạnh thị trường. Ví dụ, trong khuôn khổ Hiệp định ASEAN – Trung Quốc, Việt
Nam đã cam kết từ năm 2008 sẽ áp dụng thuế suất 0% đối với thịt lợn nhập khẩu và trong
bối cảnh này, bất kỳ cam kết cắt giảm nào đối với thịt bò trong WTO trong thời điểm
hiện nay sẽ không có ý nghĩa quan trọng trên thực tế vì rất ít Thành viên WTO có khả
năng cạnh tranh với Trung Quốc đối với mặt hàng này. Do đó, các công ty cần bổ sung
các thông tin liên quan tới WTO vào dữ liệu thông tin thị trường của mình và cân nhắc
những diễn biến trong hệ thống WTO khi xem xét các lựa chọn chiến lược dài hạn (ITC,
2001). Ví dụ, quá trình tự do hóa thương mại đa biên có thể làm xói mòn những ưu đãi
thuế quan mà Việt Nam được hưởng tại một số nước phát triển nhất định nhờ quy chế đối
xử đặc biệt và khác biệt. Sự xói mòn này có thể làm giảm khả năng cạnh tranh do tác
động phân hóa thương mại của các thỏa thuận hội nhập khu vực. Ví dụ, trường hợp một
số nhà sản xuất hàng dệt may của Việt Nam đang gặp phải cạnh tranh ngày càng tăng trên
thị trường EU sau khi một số nước Đông Âu có ngành sản xuất hàng dệt may lớn gia
nhập EU.
Các cuộc đàm phán dịch vụ cũng tạo ra nhiều thách thức cho Việt Nam, tuy nhiên trong
lĩnh vực dịch vụ thì một số cam kết WTO trong một số ngành/phân ngành, ví dụ như
ngân hàng và bảo hiểm, đã được tự do hóa ở một số Hiệp định khác như Hiệp định
Thương mại song phương (BTA) giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Tương tự như đối với hàng
hóa, các nhà quản lý khi phân tích các cam kết WTO phải so sánh chúng với các cam kết
khu vực. Liên quan tới vấn đề sở hữu, một yếu tố quan trọng là cần phân tích chính xác
những lĩnh vực cho phép nước ngoài chiếm sở hữu đa số ngay tại thời điểm gia nhập
hoặc sau một giai đoạn chuyển tiếp nhất định. Có thể tham khảo rất nhiều thông tin liên
quan trên các trang thông tin điện tử của Bộ Tài chính tại Hà Nội.
Hộp 3
Chiến lược kinh doanh trước những diễn biến mới trong hệ thống
Thương mại: Một số vấn đề cho các doanh nghiệp Việt Nam
1. Có những cơ hội tiếp cận thị trường mới nào ở nước ngoài mà các cuộc đàm phán
WTO cũng như các thỏa thuận thương mại khu vực hoặc song phương đem lại, doanh
nghiệp cần có chiến lược gì để tận dụng các cơ hội này? Có cần điều chỉnh chiến lược sản
phẩm, giá và đa dạng hóa tại các thị trường xuất khẩu hay không?
2. Những thay đổi trong môi trường pháp lý ở nước ngoài ảnh hưởng như thế nào tới vị
thế của doanh nghiệp? Cụ thể, (i) tác động của quá trình hội nhập khu vực đối với vị thế
cạnh tranh của doanh nghiệp (ii) tác động của việc giảm ưu đãi đối với doanh nghiệp do
Chính phủ các nước đưa ra các cam kết trong WTO là như thế nào (iii) Có những thay
đổi nào trong các quy định pháp lý về TBT, SPS hoặc sở hữu trí tuệ mà doanh nghiệp cần
phản ứng?
3. Doanh nghiệp cần phản ứng như thế nào trước việc các doanh nghiệp nước ngoài tăng
cường cạnh tranh trên thị trường nội địa? Cần có quy trình quản lý nào? Doanh nghiệp có
thể tiếp cận các đầu vào nào với giá rẻ hơn nhờ quá trình tự do hóa thương mại?
4. Doanh nghiệp cần điều chỉnh chiến lược như thế nào để phù hợp với môi trường pháp
lý mới tại Việt Nam đối với quyền sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn kỹ thuật và vệ sinh dịch tễ?
5. Những nguy cơ nào từ việc bị coi là bán phá giá cũng như các biện pháp đối kháng đối
với doanh nghiệp và có thể giảm thiểu các nguy cơ này như thế nào? Trong những tình
huống nào thì doanh nghiệp hoặc hiệp hội ngành có thể bắt đầu chống bán phá giá hoặc
chống đối khác chống lại các công ty nước ngoài hoạt động tại Việt Nam?
6. Các doanh nghiệp cần quan tâm tới các đề xuất cụ thể nào về tự do hóa thương mại
hoặc bảo hộ nào? Các doanh nghiệp khác có thể quan tâm tới các vấn để nào để ủng hộ
quan điểm của doanh nghiệp? Có thể áp dụng chiến lược phổ biến nào để kêu gọi các
hành động phù hợp với WTO nhằm hỗ trợ một ngành cụ thể trong nước hoặc doanh
nghiệp?
7. Hiệp hội doanh nghiệp có thể đóng vai trò mới nào trong quá trình hoạch định chính
sách? Cụ thể, các hiệp hội doanh nghiệp có thể đóng vai trò hữu ích như thế nào trong
việc thu thập thông tin kinh tế, đào tạo, phát triển chiến lược xuất khẩu của một ngành cụ
thể, tìm kiếm đối tác quốc tế, phổ biến thông tin, v.v…? Doanh nghiệp có thể yêu cầu
những hỗ trợ nào từ Chính phủ hoặc các tổ chức quốc tế nhằm tài trợ cho các dự án, quá
trình điều chỉnh cơ cấu hoặc phát triển xuất khẩu của mình?
Yêu cầu hỗ trợ. Các Hiệp hội doanh nghiệp cần được tư vấn để điều chỉnh cách tiếp cận
của họ trong việc yêu cầu trợ cấp. Các công ty sẽ không thể yêu cầu Chính phủ trợ cấp
xuất khẩu cho hàng hóa sản xuất trong nước do Việt Nam đã cam kết loại bỏ các khoản
trợ cấp này. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam có thể xin được hỗ trợ đối với một số
dự án nghiên cứu và phát triển (R&D), xúc tiến xuất khẩu của một số cơ quan chính phủ
chuyên trách, v.v… Các doanh nghiệp cũng nên biết rằng có những loại trợ cấp phù hợp
với quy định của WTO. Tuy nhiên, những người chuẩn bị yêu cầu trợ cấp cần nắm vững
các quy định của WTO để có cơ sở phù hợp. Các công ty luật của Việt Nam sẽ có nhiều
thị trường cho dịch vụ tư vấn các vấn đề liên quan tới WTO trong lĩnh vực này cũng như
các lĩnh vực khác như thủ tục chống bán phá giá, định giá hải quan và tiêu chuẩn kỹ
thuật, v.v…
Các vấn đề sở hữu trí tuệ. Giám đốc các doanh nghiệp sản xuất hàng nhái hoặc vi phạm
các quy định về sở hữu trí tuệ sẽ có nhiều khả năng bị truy tố hình sự và dân sự tại Việt
Nam. Nguy cơ này đang tăng lên do các công ty nước ngoài ngày càng có cách tiếp cận
chủ động hơn đối với việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của họ tại Việt Nam và các cơ
quan quản lý của Việt Nam đã đạt được tiến bộ trong việc thực thi các sáng kiến pháp
luật khác nhau để thực thi các cam kết TRIPs của Việt Nam. Các quy tắc pháp lý chặt chẽ
hơn về sở hữu trí tuệ đã tạo điều kiện cho nhiều doanh nghiệp Việt Nam bảo hộ các sáng
chế và tài sản marketing của họ hoặc tìm đối tác với các chủ sở hữu tài sản trí tuệ nước
ngoài. Do các công ty Việt Nam đang ngày càng quan tâm nhiều hơn tới việc bảo vệ các
bằng sáng chế, thương hiệu và các quyền sở hữu trí tuệ của họ cũng như việc đảm bảo
hàng xuất khẩu của mình tuân thủ các quy tắc về sở hữu trí tuệ của nước ngoài, do đó
cũng có nhu cầu sử dụng các nhà tư vấn trong lĩnh vực kinh doanh và các chuyên gia
pháp lý. Rõ ràng, việc tăng cường cải thiện bảo vệ sở hữu trí tuệ tại Việt Nam đã có tác
động tích cực tới đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDIs) của nhiều công ty công nghệ cao
đồng thời cũng là những doanh nghiệp sử dụng nhiều tài sản trí tuệ. Các nhà xuất khẩu
Việt Nam sẽ có nhận thức cao hơn về thương hiệu và học được các kỹ năng xây dựng
thương hiệu, hình ảnh và các kỹ năng tiếp thị khác nhằm để nâng giá sản phẩm của mình
trên các thị trường toàn cầu. Giáo dục, đào tạo thực hành và nghiên cứu tiếp thị là các ưu
tiên khẩn thiết đối với nhiều ngành trong nước. (Xem thêm Chương V).
Các tiêu chuẩn kỹ thuật và vệ sinh dịch tễ. Việc mở rộng xuất khẩu của các nhà sản xuất
Việt Nam thường bị cản trở bởi các tiêu chuẩn kỹ thuật và vệ sinh dịch tễ, các tiêu chuẩn
này được các Hiệp định của WTO điều chỉnh. Có thể cần tổ chức các chương trình thâm
nhập thị trường thông qua các quy định kỹ thuật cho các ngành cụ thể của Việt Nam theo
từng vấn đề nhằm thúc đẩy các cơ hội xuất khẩu thông qua việc xác định các lĩnh vực có
thể tuân thủ được các tiêu chuẩn trong ngắn hạn hoặc xác định các vấn đề cần phải đàm
phán với các Thành viên liên quan nhằm đưa ra các quy tắc và thủ tục khác nhau (nhưng
tương đương), tạo điều kiện cho xuất khẩu của Việt Nam (ITC, 2001).
Hỗ trợ doanh nghiệp. Việc Việt Nam gia nhập WTO tạo ra nhu cầu cần hỗ trợ doanh
nghiệp. Một mặt, nhiều hiệp hội ngành, phòng Thương mại và Công nghiệp và các tổ
chức chuyên môn cần thực thi các chính sách tích cực nhằm bảo vệ quyền lợi của các
thành viên trong quá trình đưa ra chính sách. Các công ty nước ngoài đầu tư tại Việt Nam
cũng có thể trở thành thành viên của các hiệp hội doanh nghiệp trong nước. Điều này sẽ
thay đổi xu hướng xây dựng liên minh trong chính sách thương mại và tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp nước ngoài tiếp cận các nhà hoạch định chính sách. Một minh họa về
các cơ hội cho doanh nghiệp là hiện nay các bên quan tâm đã có một khoảng thời gian
“hợp lý” (60 ngày) để bình luận các dự thảo văn bản pháp luật của Việt Nam.
Rất nhiều cải cách khác từ quá trình gia nhập WTO đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp
trong và ngoài nước sẽ được thực thi tại Việt Nam trong những năm tới (Ngo Van Diem
và các tác giả khác, 2007). Ví dụ, Luật Doanh nghiệp thống nhất và Luật Đầu tư chung
có hiệu lực vào năm 2007 đã đưa ra một khuôn khổ quy tắc chung cho các doanh nghiệp
trong và ngoài nước, tạo cơ sở cho việc khuyến khích và bảo hộ tất cả các hình thức đầu
tư. Việc Nam cũng đã đạt được tiến bộ trong việc hài hòa hóa các quy tắc về quyền kinh
doanh, qua đó thủ tục đăng ký sẽ giống nhau cho các doanh nghiệp kinh doanh trong và
ngoài nước – một sự thay đổi chính sách sẽ khuyến khích các nhà đầu tư mới vào Việt
Nam.
9. Kết luận
WTO có lẽ là tổ chức kinh tế quốc tế duy nhất yêu cầu các quốc gia phải tuân thủ chương
trình cải cách và tự do hóa kinh tế với quy mô lớn như thế. Trở thành Thành viên WTO
không phải là một sự bước đi dễ dàng cho cả Chính phủ nước gia nhập và cộng đồng
doanh nghiệp của nước này. Các cuộc đàm phán gia nhập đã rất khó khăn cho cả Việt
Nam cũng như các thành viên WTO, thể hiện ở quá trình đàm phán kéo dài tới 12 năm.
Quá trình đàm phán gia nhập phức tạp và kéo dài đã kết thúc thành công nhờ vào sự quan
tâm liên tục của Chính phủ và nhân dân Việt Nam tới tiến trình này cũng như thiện chí
của các nước Thành viên WTO trong việc chào đón Việt Nam trở thành một Thành viên
mới. Nói một cách đơn giản: các bên đều khó có lựa chọn nào khác ngoài việc kết thúc
tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam.
Trong tiến trình đàm phán gia nhập, các nhà hoạch định chính sách có quan điểm về cải
cách thương mại rộng hơn là chỉ quan tâm tới những thay đổi về mức thuế quan, các hạn
chế định lượng và sự biến đổi về giá so sánh do những thay đổi đó tạo nên. Mối quan tâm
lới nhất là những sự thay đổi sâu sắc hơn về xu hướng hành xử trong khu vực nhà nước
tại Việt Nam và trong mối quan hệ giữa Chính phủ với khu vực tư nhân và nền kinh tế
thế giới. Trong giai đoạn 5 năm trước khi gia nhập WTO, Việt Nam đã đưa ra những thay
đổi cơ bản trong khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động thương mại cũng như các thủ tục
hành chính và tư pháp. Việt Nam đã sửa đổi đáng kể các văn bản pháp luật điều chỉnh các
hoạt động kinh tế và điều chỉnh rất nhiều khía cạnh của hệ thống pháp luật nói chung.
Đôi khi có lập luận rằng đóng góp chính của tiến trình gia nhập WTO đối với một nền
kinh tế mới gia nhập không phải là tự do hóa thương mại hay tuân thủ với các quy định
của WTO mà là mức độ đóng góp của quá trình cải cách đối với việc tạo ra môi trường
thể chế có chất lượng cao (Rodrik, 2002). Trường hợp của Việt Nam phù hợp với quan
điểm trên do quá trình gia nhập đã đóng góp vào việc tạo ra các điều kiện thể chế tiên
quyết cho một nền kinh tế thị trường và cơ chế khắc phục cho việc ổn định kinh tế vĩ mô.
Việt Nam cũng đã thực hiện tự do hóa đáng kể đối với thuế nhập khẩu và thương mại
dịch vụ, đã tiến hành điều chỉnh cơ sở hạ tầng và chuyển đổi hệ thống kinh tế phù hợp
với các quy tắc của WTO. Rất nhiều hạn ngạch nhập khẩu đã bị loại bỏ, thuế quan và trợ
cấp đã được giảm, nhiều cam kết mới được đưa ra trong các ngành dịch vụ then chốt (ví
dụ dịch vụ tài chính) cũng như đối với tiêu chuẩn kỹ thuật và vệ sinh dịch tễ. Việt Nam
cũng đã tăng cường việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ (bao gồm cả việc xét xử hình sự nếu
quy mô vi phạm lớn), định giá hải quan và tiếp tục chương trình tư nhân hóa hay “cổ
phần hóa”. Tuy nhiên, những thay đổi đó khó có thể coi là tạo ra gánh nặng cho nền kinh
tế Việt Nam (nhưng một số người theo tư tưởng bảo hộ có thể coi đó là “cái giá” của việc
gia nhập WTO) do những thay đổi này được đưa ra nhằm tăng năng suất thông qua một
sân chơi bình đẳng hơn giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân cũng như giữa các
doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Do đó, các quy tắc mới có thể
được coi là sẽ giúp các cơ quan quản lý Việt Nam vượt qua được những điểm yếu của rất
nhiều nước có thu nhập thấp trong phương thức quản lý của họ. Các quy tắc này yêu cầu
một mức độ nhất định đối với các yếu tố minh bạch hóa, khả năng dự đoán và hành vi
theo pháp quyền cũng như không phân biệt đối xử trong các chính sách, lĩnh vực thường
mang tính tùy tiện và đem lại lợi ích cho một nhóm người tại các nền kinh tế mới nổi.
Các cơ quan quản lý của Việt Nam đã thành công trong việc quản lý sự thay đổi về cơ
cấu này đồng thời vẫn đảm bảo tăng trưởng kinh tế cao và tăng thu nhập bình quân đầu
người đáng kể trong khi không làm thay đổi sự bình đẳng kinh tế.
Việt Nam tận dụng được các cơ hội mở cửa thị trường và các quy tắc của WTO trong
việc tăng cường xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Một trong số các
động lực của việc gia nhập WTO đối với Việt Nam là nhu cầu gia tăng xuất khẩu nhờ
được tiếp cận nhiều hơn các thị trường xuất khẩu, đặc biệt đối với nông sản, dệt may,
quần áo, thủy sản cũng như tạo ra các cơ hội cho một số lĩnh vực xuất khẩu mới, có tiềm
năng. Tương tự như vậy, một trong số các động lực chính nữa cho việc gia nhập WTO là
hy vọng thu hút thêm nhiều vốn đầu tư nước ngoài từ các công ty tiên phong và tạo ra
việc làm cho giới trẻ Việt Nam.
Tại thời điểm khi Việt Nam mới gia nhập WTO được khoảng 1 năm, còn quá sớm để đưa
ra kết luận cuối cùng về tác động của việc gia nhập đối với nền kinh tế Việt Nam. Hơn
nữa, do nhiều thay đổi pháp lý mới được thực hiện gần đây, rất khó có thể tách biệt tác
động của việc Việt Nam tham gia các thoả thuận thương mại khu vực như Hiệp định
thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA) khỏi tác động của việc trở thành
Thành viên của WTO.3 Tuy nhiên, những số liệu ban đầu cho thấy việc trở thành Thành
viên của WTO đã đem lại lợi ích cho nền kinh tế Việt Nam. Về tổng quan, Việt Nam đã
cân bằng được giữa “giá” phải trả để gia nhập và lợi ích thu được. Việt Nam đã thành
công trong việc hướng tới một môi trường chính sách có chất lượng cao hơn, gửi các tín
hiệu rõ ràng tới các nhà sản xuất và các nhà đầu tư, loại bỏ các hành vi trục lợi, hạn chế
việc lãng phí các tài nguyên kinh tế và duy trì ổn định xã hội.
Rõ ràng, gia nhập WTO sẽ giúp Việt Nam đẩy mạnh cải cách pháp lý, kinh tế và thể chế
xã hội. Tác động trước mắt của việc gia nhập WTO và những yêu cầu thay đổi cụ thể có
thể được tóm tắt như sau:
- Gia nhập WTO sẽ tăng khả năng tiếp cận của Việt Nam vào thị trường dệt may của Hoa
Kỳ; tuy nhiên sẽ không trực tiếp mở rộng quy mô thị trường;
- Gia nhập WTO sẽ giúp Việt Nam trở thành một điểm đến hấp dẫn hơn đối với đầu tư
nước ngoài, điều này sẽ đóng góp vào việc tăng sản lượng, việc làm, tăng trưởng và phát
triển công nghệ;
- Gia nhập WTO sẽ đòi hỏi hiện đại hóa hệ thống hành chính và pháp luật của Việt Nam
nhằm phù hợp với các tiêu chuẩn quôc tế, khuyến khích các hoạt động kinh doanh trong
và ngoài nước;
- Gia nhập WTO sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam có tiếng nói trong WTO và các quyền
của Việt Nam trong WTO sẽ được bảo vệ về mặt pháp lý;
-Yêu cầu cao hơn về minh bạch hóa (công khai dự thảo văn bản pháp luật và quy định để
các bên quan tâm nhận xét); yêu cầu nhiều cải cách thể chế và pháp luật hơn.
Tuy nhiên, ở một số khía cạnh, BTA đi xa hơn WTO như trong lĩnh vực đầu tư: thủ tục
cấp phép rút gọn, bảo hộ đầu tư mạnh hơn và giải quyết tranh chấp tốt hơn. Trong khi tác
động của BTA mang tính chất song phương thì việc gia nhập WTO dẫn tới các lợi ích
chung như: xét về tác động, chúng ta có thể thấy tác động trực tiếp của BTA đối với các
nhà xuất khẩu của Việt Nam là rất lớn do Hoa Kỳ giảm mạnh thuế nhập khẩu đối với
hàng xuất khẩu từ Việt Nam; tác động trực tiếp của việc gia nhập WTO đối với các nhà
xuất khẩu Việt Nam là hạn chế, các Thành viên WTO không bị yêu cầu mở cửa thêm thị
trường cho các nhà xuất khẩu Việt Nam; có tác động trực tiếp lớn từ việc loại bỏ hạn
ngạch dệt may của Hoa Kỳ đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam.
- Gia nhập WTO sẽ tăng cạnh tranh tại Việt Nam đối với một số hàng hóa và dịch vụ và
có thể tác động tới một số nhóm quyền lợi nhưng sẽ đem lại lợi ích chung cho toàn bộ đất
nước.
Bên cạnh những thuận lợi này, các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam cũng sẽ đem lại
những thách thức như:
- Phát triển nguồn nhân lực và khả năng thể chế trong khu vực nhà nước và tư nhân để
thực thi các luật, quy định mới một cách hiệu quả;
- Nhu cầu cần phân tích tác động kinh tế – xã hội của việc gia nhập WTO đối với tất cả
các ngành nhằm xác định các chính sách để giúp các doanh nghiệp, nông dân và công
nhân tại Việt Nam để tận dụng đầy đủ các lợi ích của WTO và giảm các chi phí trong quá
trình điều chỉnh đối với những ngành dễ bị tổn thương;
- Đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước nhằm tăng cường khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam.
Cần cải cách hệ thống pháp luật hơn nữa để có thể thực thi đầy đủ các cam kết WTO:
- Hoàn thiện các văn bản pháp lý để thực thi các luật mới được thông qua
- Điều chỉnh nhiều luật và quy định mới được thông qua để hoàn toàn tuân thủ các yêu
cầu của WTO cũng như đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam
- Cân nhắc các luật “chung” nhằm điều chỉnh, sửa đổi đồng thời một vài luật và quy định
liên quan tới cùng một vấn đề
- Cần có luật để tăng cường thể chế và thủ tục hành chính nhằm thực thi các cam kết
WTO và xây dựng các luật trong nước như:
Luật về Ngân hàng Nhà nước; Luật về Tổ chức của Tòa án; Luật về Tổ chức của Viện
kiểm sát; Luật Ban hành các văn bản pháp luật (và Luật về luật trong nước); có thể chuẩn
bị Bộ luật Tố tụng dân sự mới; Luật Khiếu nại, tố cáo, có thể hình thành hệ thống toà án
hành chính mới; các luật để khuyến khích các thủ tục pháp lý “minh bạch”ở cấp Trung
ương và địa phương.
Các Chương tiếp theo sẽ phân tích cam kết gia nhập WTO, nhấn mạnh ý nghĩa của việc
gia nhập WTO và trong nhiều trường hợp đưa ra khuyến nghị để thực thi chính xác các
cam kết, tận dụng cơ hội từ việc trở thành Thành viên WTO.
Chú thích:
1 MUTRAP II đang thực hiện một nghiên cứu trong khuôn khổ chương trình HOR-9,
chương trình này nhằm đánh giá tác động sau một năm gia nhập WTO đối với Việt Nam.
2. Chương trình HOR-2 của MUTRAP sẽ tập hợp các cam kết của Việt Nam theo ASEAN,
APEC, ASEM và các thỏa thuận khác và sẽ xem xét mối liên hệ của chúng với các cam
kết WTO. Nghiên cứu HOR-11 của MUTRAP sẽ được công bố trên trang thông tin điện
tử của MUTRAP: www.mutrap.org.vn.
3. Về tổng thể, các cam kết của Việt Nam trong WTO khác với BTA ở những khía cạnh
sau:
- WTO yêu cầu cao hơn vì phải áp dụng đầy đủ đối với tất cả các Thành viên thông qua
nguyên tắc MFN;
- Yêu cầu cắt giảm thuế nhập khẩu sâu và rộng hơn;
- Có nghĩa vụ loại bỏ trợ cấp xuất khẩu;
- Tự do hóa dịch vụ nhiều hơn.