Các cam kết về thuế của Việt Nam khi gia nhập WTO và những tác động của nó đến nền kinh tế - Xã hội của Việt Nam

Mục Lục Trang Lời mở đầu 1 Chương 1: Những quy định về thuế quan của tổ chức thương mại thế giới và sự gia nhập của Việt Nam I. Khái quát về tổ chức Thương Mại Thế Giới 1.Khái quát về tổ chức Thương Mại Thế Giới 2. Quá Trình gia nhập WTO của Việt Nam II. Quy định về thuế quan của WTO với các nước thành viên 1. Quan điểm về thuế quan của WTO 2. Một số phương thức kỹ thuật áp dụng cho các biện pháp thuế quan Ch­ương II:Các cam kết về thuế khi Việt Nam gia nhập WTO và tác động của nó đến kinh tế, xã hội sau hai năm thực hiện I. Các cam kết về thuế khi Việt Nam gia nhập WTO khi Việt Nam gia nhập WTO 1. Các cam kết về thuế của Việt Nam 2. Thực hiện các cam kết về thuế sau hai năm gia nhập WTO 2.1. Lộ Trình thực hiện 2.2. Tình hình thực hiện II.Những tác động đến ền kinh tế sau hai năm gia nhập WTO 1.Tác động đến các chủ thể của nền kinh tế 1.1. Tác động đến nhà nước 1.2.Tác động đến doanh nghiệp 1.3 Tác động đến người tiêu dùng 2. Tác động chủ yếu đến các nghành kinh tế 61 2.1. Đối với lĩnh vực nông nghiệp 2.2. Đối với lĩnh vực phi nông nghiệp 2.3. Đối với lĩnh vực đầu tư 3. Tác động đến xã hội 4.Đánh giá các cam kết về thuế 4.1. Tác động tích cực 4.2. Tác động tiêu cực Chương III: Một số giải pháp để Việt Nam Thực hiện hiệu quả các cam kết về thuế I. Kinh nghiệm thực hiện cam kết thuế quan của Trung Quốc 1. Quan điểm phát triển thương mại trong xu thế hội nhập 2.Trung Quốc thực hiện nghiêm túc và đúng lộ trình các cam kết với WTO 3. Thúc đẩy cải cách 4. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao II. Định hướng phát triển kinh tế, xã hội đến 2020 III. Một số giải pháp nhằm thực hiện hiệu quả các cam kết về thuế 1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật 2. Nâng cao năng lực cạnh tranh 2.1. Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia 2.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh doanh nghiệp 3. Đẩy mạnh thu hút đầu tu nước ngoài, tận dụng các nhân tố bên ngoài để thực hiện hiệuqq ủa các cam kết quốc tế, trong đó là các cam kết về thuế Kết Luận

doc92 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5149 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các cam kết về thuế của Việt Nam khi gia nhập WTO và những tác động của nó đến nền kinh tế - Xã hội của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ chăm sóc khách hàng nếu họ muốn duy trì được thị phần như cũ. Kèm theo những thay đổi về chính sách thuế, các công cụ quản lý thương mại, các tiêu chuẩn kinh doanh, trong đó các tiêu chuẩn chất lượng và kinh doanh thương mại ngày càng hoàn chỉnh và được nâng cao sẽ đảm bảo hơn quyền lợi cho người tiêu dùng. Mặt khác, với tư cách là người lao động, sức ép cạnh tranh do mở cửa thị trường buộc người lao động phải có chất lượng cao. Hiện nay, một phần lớn lao động đang làm việc trong các ngành sử dụng nhiều lao động vì đó là thế mạnh của các nước đang phát triển, chưa có điều kiện công nghệ và vốn hùng hậu như Việt Nam. Trong tương lai, khi cơ cấu kinh tế chuyển dần sang các ngành có hàm lượng giá trị gia tăng cao, đòi hỏi kỹ năng lao động và trình độ cao thì nguy cơ thất nghiệp là khó tránh khỏi với lực lượng lao động chỉ có 20% lao động được đào tạo như hiện nay. Tuy nhiên, tiến trình hội nhập, cắt giảm thuế như đã nêu ở trên cũng góp phần tạo ra cơ hội xuất khẩu các mặt hàng Việt Nam có lợi thế, nhờ đó giái quyết công ăn việc làm. Sự gia tăng đầu tư nước ngoài cũng là một yếu tố đáng kể. Theo ước tính của Bộ Lao động Thương binh Xã hội, sau khi gia nhập WTO, lực lượng lao động trong khối doanh nghiệp FDI có thể tăng khoảng 2 – 3% mỗi năm. Cạnh tranh đòi hỏi chất lượng lao động ngày càng tăng, nguy cơ thất nghiệp không quá nguy hiểm do cơ hội được tạo ra ở các ngành khác. 2. Tác động chủ yếu đến các ngành kinh tế 2.1. Đối với lĩnh vực nông nghiệp Thực hiện các cam kết về thuế của WTO chắc chắn sẽ có ảnh hưởng làm cho cung và cầu nông sản trên thị trường nội địa thay đổi. Giảm thuế nhập khẩu sẽ không ảnh hưởng nhiều đến lúa gạo, cao su và cà phê nhưng rau quả có nguy cơ giá sẽ giảm mạnh do hàng ngoại tràn vào thị trường nội địa. Về trợ cấp, cam kết WTO cho phép trợ cấp gián tiếp nên nếu nhà nước dành ngân sách trợ cấp cho các chương trình nghiên cứu cải tiến kỹ thuật canh tác, công nghệ sau thu hoạch, lai tạo giống mới, xây dựng các công trình thủy lợi, đào tạo đội ngũ kỹ thuật viên, quản lý trong nông nghiệp… thì nhà nông sẽ tiếp tục hưởng lợi. Theo báo cáo năm 2003 của FAO thì khi mở cửa, hàng nông sản Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với gần 1 tỷ tấn nông sản ở khu vực châu Á, chưa nói đến hàng của các nước ở các khu vực khác. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là tất cả các mặt hàng đều sẽ khó khăn như nhau. Như trường hợp của Trung Quốc, năm đầu gia nhập WTO, giá của các mặt hàng như lúa mỳ, đậu nành, bắp… trên thị trường trong nước cao hơn giá trên thị trường thế giới từ 10 – 70% nhưng cũng có một số mặt hàng như thịt, rau quả… có giá thấp hơn giá thị trường thế giứo từ 40 – 80 %. Thấy được những thuận lợi và bất lợi đó, Trung Quốc đã tăng nhập khẩu lúa mì, đậu nành, bông… và tăng xuất khẩu rau quả, hoa màu… Như vậy, một trong những vấn đề quan trọng là nhận ra những thay đổi của thị trường để tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Hiện nay, nước ta xuất khẩu rất nhiều mặt hàng nông sản, trong đó có ba mặt hàng nhiều năm liền luôn luôn chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu nông sản, đó là gạo, cao su và cà phê. Các mặt hàng rau quả tuy cũng có giá trị xuất khẩu tương đối lớn (235 triệu USD) nhưng rau quả có rất nhiều loại nên thực tế mỗi loại chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản. Việc thực hiện các cam kết về thuế đối với hàng nông nghiệp tác động đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu nông sản của nước ta như sau: Thứ nhất, khi gia nhập WTO, việc các nước tuân theo Hiệp định Nông nghiệp, tức là duy trì thuế nhập khẩu ưu đãi trong phạm vi hạn ngạch thuế quan, sẽ đảm bảo sự thâm nhập hàng nông sản nước ta vào thị trường các nước nhập khẩu một cách ổn định. Tuy vậy, vẫn còn một số hạn chế đối với sự bảo đảm nói trên. Ví dụ, một số công trình nghiên cứu cho thấy, một số nước phát triển chỉ duy trì thuế quan thấp trong hạn ngạch thuế quan đối với việc nhập khẩu những loại ngũ cốc có chất lượng thấp dùng làm thức ăn chăn nuôi hoặc sẽ được tái xuất khẩu dưới danh nghĩa của chương trình viện trợ về lương thực. Còn những mặt hàng khác, cạnh tranh gay gắt với nông sản của họ, thì lại chưa duy trì thuế quan thấp trong hạn ngạch. Thứ hai, nguyên tắc mở cửa thị trường công khai trong Hiệp định Nông nghiệp phụ thuộc vào cách thức phân bổ hạn ngạch nhập khẩu tối thiểu Việc quản lý những hạn ngạch tối thiểu, về thực chất là nhằm mục đích hợp pháp hóa vai trò quyết định của các doanh nghiệp nhà nước. Khi các doanh nghiệp nhà nước có được quyền bán sản phẩm trên thị trường nội địa, cộng với độc quyền xuất khẩu nông sản, họ có thể lựa chọn mức định giá, và như vậy, có thể thay đổi giá nội địa một cách dễ dàng kín đáo. , và do vậy, đã tạo ra một số các biện pháp điều tiết khối lượng xuất nhập khẩu sản phẩm nông nghiệp mang tính phân biệt đối xử, như phân biệt đối xử về khối lượng, phân biệt đối xử về giá. Tình trạng phân biệt đối xử giữa các nước xuất khẩu hàng nông sản buộc chúng ta một mặt phải có hình thức đấu tranh, đàm phán song phương, mặt khác phải tích cực tham gia trong tiến trình đàm phán đa phương để loại bỏ tình trạng phân biệt đối xử này. Gia nhập vào WTO cho phép nước ta có tiếng nói để chống lại sự phân biệt đối xử đó. Thứ ba, phần lớn sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu của các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có Việt Nam, là các sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới. Trong khi đó đã có rất nhiều các sản phẩm nhiệt đới được miễn thuế nhập khẩu khi thâm nhập vào thị trường của các nước phát triển dựa trên cơ sở của các hiệp định ưu đãi khác nhau. Chẳng hạn như, Hiệp định chung về ưu đãi thuế quan (GSP). Tuy nhiên, một trong những vấn đề chưa được giải quyết đối với sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới là mức độ leo thang của thuế quan đối với sản phẩm nông nghiệp đã qua chế biến. Hiệp định Nông nghiệp đã yêu cầu các nước thành viên phải đưa ra mức thuế trần để giải quyết vấn đề này. Do đó, Hiệp định này đã tạo ra một số cơ hội tốt cho Việt Nam chuyển dần sang quá trình chế biến và nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới dành cho xuất khẩu và tăng khả năng xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam. Thứ tư, do tác động của cơ chế thị trường nên rất dễ dẫn đến tác động nghiêm trọng tới an ninh lương thực. Việt Nam, mặc dù là nước xuất khẩu lương thực và các sản phẩm sơ chế khác, nhưng lại là nước nhỏ, sản xuất manh mún (chỉ đạt 0,8 ha đất nông nghiệp/hộ), nên năng suất lao động thấp, thu nhập theo đầu người không cao, trong khi đó khả năng nghiên cứu dự báo tình hình sản xuất, giá cả, xuất khẩu hàng nông sản kém. Vì vậy, nếu không có chiến lược lâu dài chúng ta sẽ dễ bị tổn hại khi xảy ra những biến động về thị trường từ bên ngoài. Nếu như xảy ra sự giảm sút sản xuất lương thực trên thế giới, có thể có tác động mạnh đến dự trữ lương thực và an ninh lương thực quốc gia. Do đó, đòi hỏi các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài, các cơ quan nghiên cứu trong nước phải nâng cao khả năng dự báo về tình hình giá cả và biến động của thị trường đối với hàng nông sản. Thứ năm, Hiệp định Nông nghiệp yêu cầu cắt giảm trợ cấp cho sản xuất và xuất khẩu nông sản sẽ làm giảm khối lượng lương thực dư thừa cần thiết cho viện trợ và chi phí cho viện trợ lương thực chính thức sẽ gia tăng đáng kể, từ đó viện trợ lương thực sẽ giảm bởi chính phủ các nước sẽ giảm bớt kho dự trữ. Mặt khác, do sức ép về chính trị ở trong nước ngày càng tăng để có lương thực viện trợ cho các trường hợp khẩn cấp và viện trợ nhân đạo, nên sẽ có ít lương thực hơn để viện trợ thay thế cho việc nhập khẩu mang tính chất thương mại mà các nước có thu nhập thấp vẫn phải nhập khẩu(6). Vì lý do trên, Việt Nam có thể thúc đẩy tiến trình hợp tác ba bên: giữa Việt Nam, một nước Châu Phi và các tổ chức quốc tế tiến hành hoạt động sản xuất lương thực tại một nước đang phát triển (châu Phi) theo quy trình sản xuất của Việt Nam. Thứ sáu, đòi hỏi Việt Nam phải điều chỉnh chính sách trong nước (hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu) phù hợp với Hiệp định Nông nghiệp. Hiệp định cho phép hỗ trợ trực tiếp cho người sản xuất (nông dân), tuy nhiên để việc hỗ trợ này phù hợp với những điều đã cam kết với WTO, phải xây dựng thành các "Chương trình phát triển" với tiêu chí rõ ràng. Trong khi đó, do nguồn Tài chính có hạn, số lao động trong lĩnh vực nông nghiệp lại quá đông (chiếm trên 70% số dân cả nước), nên các chính sách của ta hiện nay, nhất là những chính sách can thiệp thị trường lúc khó khăn lại hướng chủ yếu vào hỗ trợ nhà kinh doanh chứ không phải cho người sản xuất. Nhiều chính sách được ban hành mang tính chất tình thế, giải quyết khó khăn trước mắt, chưa có tính chiến lược lâu dài. Do vậy, việc chuyển đổi chính sách phù hợp với yêu cầu của Hiệp định Nông nghiệp là không đơn giản, phải có thời gian và điều kiện nhất định mới có thể khắc phục được tình trạng này. Thứ bảy, nền nông nghiệp nước ta vốn có trình độ phát triển thấp, chất lượng nhiều loại nông sản, đặc biệt nông sản qua chế biến còn chưa cao, trong khi đó gia nhập WTO Việt Nam sẽ phải hạ thấp thuế nhập khẩu và loại bỏ một số loại trợ cấp cho sản xuất như yêu cầu của Hiệp định Nông nghiệp, nên sẽ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức. Chăn nuôi bò, lợn, gia cầm, sữa, công nghiệp chế biến thực phẩm, mía đường là những ngành có sức cạnh tranh kém, sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn ngay tại thị trường trong nước. Điều đó sẽ gây tác động bất lợi về kinh tế và xã hội cho nông nghiệp, nông thôn và nông dân nước ta. Vì vậy, Chính phủ cần có chính sách chuyển dịch cơ cấu ngành nghề trong nông nghiệp và nông thôn phù hợp với từng địa phương. Nhanh chóng giải quyết những vấn đề kinh tế nảy sinh trong nông nghiệp, nông thôn. Tránh để các vấn đề kinh tế biến thành các vấn đề xã hội và từ các bức xúc xã hội biến thành các vấn đề chính trị, bởi kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Á năm 1997 đã cho thấy rất rõ điều này. 2.2. Đối với lĩnh vực phi nông nghiệp Hiện nay ở Việt Nam, mức độ bảo hộ trong nước đối với một số ngành, lĩnh vực còn khá cao, khi gia nhập WTO cùng với các cam kết cắt giảm bảo hộ, mở cửa thị trường sản xuất, kinh doanh, áp dụng ưu đãi tối huệ quốc và đãi ngộ quốc gia… sẽ ảnh hưởng tiêu cực và trực tiếp tới ngành công nghiệp còn nhiều yếu kém của nước ta. Đối với một số sản phẩm công nghiệp có sức cạnh tranh tương đối cao như dệt may, giày dép, gia nhập WTO sẽ mở ra một triển vọng mới vì Việt Nam được miễn hạn ngạch như đối với tất cả các thành viên khác. Tuy nhiên tăng trưởng xuất khẩu dệt may cũng sẽ còn nhiều bất lợi. Hiện nay Hoa Kỳ vẫn tiếp tục duy trì hạn ngạch đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam. Vì vây, có thể nói trình độ ngành công nghiệp còn phát triển thấp, lạc hậu, năng lực cạnh tranh yếu kém như Việt Nam hiện nay là một trong nhữg ngành còn chịu nhiều tác động tiêu cực khi Việt Nam gia nhập WTO, nhất là các doanh nghiệp khu vực tư nhân, khu vực đang ngày càng sử dung nhiều lao động xã hội. Công nghiệp đóng vai trò chủ đạo trong việc đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và thực hiện mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại vào năm 2020. Công nghiệp là ngành có đóng góp lớn nhất vào tổng kim ngạch xuất khẩu. Theo tổng hợp số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2001, trong 15,027 triệu USD kim ngạch xuất khẩu, hàng công nghiệp chiếm 54,5%; năm 2006, trong 39,606 triệu USD xuất khẩu, hàng công nghiệp đã chiếm 75%. Đến năm 2008, trong 62,9 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu, ngành công nghiệp 78,2%, (nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản chiếm tỷ trọng 31% tổng kim ngạch xuất khẩu). Sau khi gia nhập WTO, cùng với quá trình hội nhập kinh tế thế giới, cơ cấu hàng công nghiệp xuất khẩu của Việt Nam đang thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng kim ngạch hàng công nghiệp chế biến và bắt đầu xuất khẩu được một số sản phẩm có hàm lượng khoa học công nghệ cao. Một trong những biểu hiện của xu hướng thay đổi là sản phẩm công nghiệp nhẹ được sản xuất trên cơ sở phát huy lợi thế về lao động và nguyên liệu nông, lâm, thủy sản có tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu tăng cao hơn tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm thô của công nghiệp khai thác. Bên cạnh đó, cơ cấu công nghiệp theo ngành, theo lãnh thổ và theo thành phần kinh tế cũng có những thay đổi sâu sắc. Cơ cấu ngành công nghiệp đang có sự chuyển biến tích cực : tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến, giảm tỷ trọng công nghiệp khai thác ; tăng dần các ngành có hàm lượng khoa học công nghệ cao ; gắn sự phát triển công nghiệp với nhu cầu thị trường. Năm 2007, trong khi giá trị sản xuất công nghiệp khai thác chỉ tăng 1,1% và chỉ còn chiếm 7,8% giá trị sản xuất công nghiệp, thì giá trị sản xuất của công nghiệp chế biến tăng tới 18,9% và chiếm 86,4% giá trị sản xuất công nghiệp. Công nghiệp đang phát triển rộng rãi ở khắp mọi nơi. Tuy trong cả nước không còn các vùng trắng về công nghiệp nhưng sự phát triển công nghiệp vẫn chủ yếu tập trung ở vùng Đồng bằng sông Hồng và vùng Đông Nam bộ. Cơ cấu công nghiệp theo thành phần kinh tế tiếp tục có những chuyển biến khá mạnh mẽ theo hướng giảm tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp nhà nước, tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản xuất của công nghiệp ngoài nhà nước và công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Năm 2006, tốc độ giá trị sản xuất của toàn bộ công nghiệp đạt 17%, của khu vực nhà nước là 9,1%, của khu vực ngoài nhà nước là 23,9% và của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 18,8%. Đến tháng 12/2008, giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực nhà nước là 13.667 tỉ đồng (tương ứng 24,7%), khu vực ngoài nhà nước là 18.585 tỉ đồng (tương ứng 33,5%), còn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 23.175 tỉ đồng (tương ứng 41,8%). Sự thay đổi cơ cấu công nghiệp trong những năm qua là hoàn toàn phù hợp với xu thế khách quan trong điều kiện hội nhập với kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, công nghiệp trong những năm vừa qua vẫn còn bộc lộ những hạn chế: Chất lượng và hiệu quả công nghiệp còn thấp kém. Cơ cấu công nghiệp chuyển dịch chậm và còn trong tình trạng lạc hậu. Công nghiệp khai thác tài nguyên, đặc biệt là những tài nguyên không thể tái tạo, vẫn chiếm vị trí quan trọng trong cơ cấu ngành công nghiệp. Nhiều sản phẩm dầu thô (dầu mỏ, than đá, cao su, cà phê…) vẫn được coi là những sản phẩm xuất khẩu chủ lực và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu Theo báo cáo của Tổng cục thống kê, năm 2008 có 8 nhóm hàng/mặt hàng xuất khẩu đạt kim ngạch trên 2 tỷ USD là: Dầu thô 10,5 tỷ USD; hàng dệt may 9,1 tỷ USD; giày, dép 4,7 tỷ USD; thuỷ sản 4,6 tỷ USD; gạo 2,9 tỷ USD; sản phẩm gỗ 2,8 tỷ USD; điện tử, máy tính 2,7 tỷ USD; cà phê 2 tỷ USD. Sự phát triển này vừa kém hiệu quả trong ngắn hạn, vừa tiềm ẩn nguy cơ đe dọa sự phát triển bền vững trong trung hạn và dài hạn. Phần lớn các sản phẩm công nghiệp có hàm lượng khoa học công nghệ thấp. May mặc và giày dép là hai ngành có tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu nhưng chủ yếu là gia công cho nước ngoài (trên 70%) và thực chất là xuất khẩu lao động sống. Các ngành công nghiệp phụ trợ còn hết sức non yếu. Các doanh nghiệp trong nước mới chỉ có khả năng sản xuất một số nguyên liệu phụ đơn giản, phần lớn từ các loại nguyên liệu phụ từ nước ngoài. Việt Nam có một thị trường tiêu dùng rộng lớn với 80 triệu dân, trong đó trên 50% dưới độ tuổi 30, sức mua đang lên cao, được tập đoàn tư vấn hàng đầu AT Kearney xếp hạng ở vị trí thứ 3 thế giới về thu hút các tập đoàn bán lẻ. Khi thị trường được “mở cửa”, trong đó có việc mở rộng hệ thống phân phối, doanh nghiệp nước ngoài được tự do buôn bán cung cấp hàng hóa tương tự như doanh nghiệp trong nước mà không bị phân biệt đối xử. Trong bối cảnh này các doanh nghiệp trong nước bị cạnh tranh do thị trường có thêm nhiều doanh nghiệp khác cung cấp hàng hóa, dịch vụ là các đại gia hàng đầu trong phân phối trên thế giới như Walmart, với hàng hóa chất lượng tốt hơn, mẫu mã đẹp hơn, công nghệ cao hơn sẽ chiếm lĩnh thị trường này, dành ưu thế hơn so với doanh nghiệp trong nước. Do vậy hệ thống phân phối truyền thống của ta sẽ có nguy cơ thu hẹp thị phần trong thương mại nội địa. Đối với lĩnh vực đầu tư Cắt giảm thuế quan là mở cửa thị trường tạo ra một môi trường kinh doanh tự do cho nền kinh tế Việt Nam, tạo sự hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Do đó, tổng vốn đầu tư vào Việt Nam trong hai năm vừa qua tăng vọt. Năm 2007 đạt 8,07 tỷ USD, tăng 96% so với năm 2006. Năm 2008 thu hút được 1171 dự án đầu tư FDI với mức tổng vốn đăng ký 60,3 tỷ USD, gấp 3 lần so với 2007, và đây là năm đạt kỷ lục cho đến nay trong điều kiện kinh tế có nhiều khó khăn. Tuy nhiên phần lớn trong số đó là các dự án thuộc lĩnh vực bất động sản và khai khoáng, là dự án chiếm nhiều đất, tác động đến xã hội và môi trường lớn. Hình Tổng vốn đầu tư FDI thực hiện qua các năm Nguån : Tæng côc ®Çu t­ 2008 Hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục duy trì ở mức cao. Năm 2007, tổng doanh thu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 39,6 tỷ USD, tăng 34,8% so với 2006; năm 2008 đạt 45,45 tỷ USD, tăng 26,2% so với năm 2007. Trong đó, năm 2008 giá trị xuất khẩu, (không kể dầu thô) là 22,215 tỷ USD, nhập khẩu là 26,273 tỷ USD. Nhập siêu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 4,06 tỷ USD. Bên cạnh đó, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng tạo nhiều việc làm cho người lao động. Năm 2007 thu hút 10.000 lao động, tăng 12% so với năm 2006, năm 2008 là 18.000 lao động, tăng 16% so với năm 2007. Doanh nghiệp có vốn đầu tư ngày càng tạo năng lực cạnh tranh cho ngành công nghiệp như dầu khí, công nghệ thông tin, hoá chất, ô tô, xe máy, thép, điện tử gia dụng, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, da giầy... Tổng sản lượng công nghiệp năm 2008 đạt 55,4 tỷ đồng, tăng 11,8% so với năm 2007. Trong đó, có một số sản phẩm công nghiệp (dầu khí, điều hoà, máy giặt, thiết bị máy tính) chiếm 100%, cán thép 60%, hàng điện tử 33%, dụng cụ y tế chính xác 76%, sản phẩm da giầy 49% sản lượng công nghiệp của cả nước. 3. Tác động đến xã hội Việc gia nhập WTO cũng chưa để lại dấu ấn đáng kể đối với tạo việc làm. Số lao động có việc làm năm 2007 tăng 2,3% so với 2006, trong khi con số này của năm trước là 2,7%. Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị tuy có giảm, song tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên lại tăng. Tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2008 ước tính 45 triệu người, tăng 2% so với năm 2007, trong đó lao động khu vực nhà nước 4,1 triệu người, tăng 2,5%, lao động ngoài nhà nước 39,1 triệu người, tăng 1,2%, lao động khu vực đầu tư nước ngoài 1,8 triệu người, tăng 18,9%. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi khu vực thành thị ước tính 4,65%. Tỷ lệ thất nghiệp tăng trong năm vừa qua là do khủng hoảng kinh tế tòan cầu hơn là do tác động về thực hiện các cam kết về thuế. Hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội tốt cho điều chỉnh lĩnh vực hoạt động lĩnh vực, giáo dục, nhằm đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế hiện nay. Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam đang phải đối diện lớn về chất lượng giáo dục bậc cao (đại học và sau đại học). Bên cạnh đó, các trung tâm nghiên cứu của ta chưa được đầu tư thích đáng. Tuy gia nhập được hơn hai năm, tác động đến giáo dục chưa rõ nét, và phần lớn là phụ thuộc vào các chính sách Nhà nước phát triển và đạo tạo nguồn nhân lưc. Nền kinh tế có sự chuyển dịch cơ cấu theo vùng, ngành nghề như đã phân tích ở trên. Điều này dẫn đến sự “phân phối” lợi ích cũng không đồng đều giữa các bộ phận dân cư. Một bộ phận dân cư được hưởng lợi ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá; nguy cơ phá sản một bộ phận doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng lên, phân hoá giàu nghèo sẽ mạnh hơn. Hội nhập kinh tế quốc tế càng sâu rộng đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền 4. Đánh giá các tác động của cam kết về thuế 4.1. Tác động tích cực Việc thực hiện các cam kết về thuế khi gia nhập WTO đã đem lại nhiều tác động tích cực, cụ thể: Do hàng rào thuế quan ngày càng được dỡ bỏ, hội nhập kinh tế quốc tế giữa các nước ngày càng tăng. Để thực hiện đúng và đủ theo lộ trình cam kết, thì bên cạnh việc thực hiện các cam kết này, chúng ta phải thực hiện cải cách đồng bộ hệ thống chính sách tong nước, thay đổi thể chế, hoàn thiện từng bước khung pháp lý, xóa bỏ dần những méo mó trong chính sách thuế, cải thiện môi trường kinh doanh. Cắt giảm thuế là một động lực cho xuất nhập khẩu và thu hút vốn đầu tư cả trong và ngoài nước, từ đó làm tăng trưởng kinh tế, cải thiện xã hội như các vấn đề việc làm, nguồn nhân lực, đầu tư, ngoại thương, thu ngân sách nhà nước. Áp lực cạnh tranh tăng cao làm các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp để nâng cao chất lượng, từ đó, sử dụng hiệu quả các nguồn lực như vốn, lao động, công nghệ. Cắt giảm thuế quan là một hình thức loại bỏ mọi sự cản trở tự do thương mại, hướng thị trường phát triển đầy đủ dưới mọi dạng Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang nông nghiệp và dịch vụ theo hướng tăng tỷ trọng các nghành xuất khẩu chủ lực, nông nghiệp, chế biến thục phẩm, các nghành cung cấp các nguyên liệu vật tư cho sản xuất : suy giảm tỷ trọng các ngành cạnh trang kém ( dệt, xe máy và các phụ tùng, nhựa...) Tác động tích cực đến việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng năng suất lao động, cải thiện tỷ lệ sử dụng thời gian làm việc của lao động ở các khu nông thôn, giảm thất nghiệp thành thị, tăng thu nhập của người dân, xóa đói giảm nghèo. Đồng thời, thực hiện chuyển giao công nghệ, trình độ kỹ thuật, tiếp cận nguồn vốn được dễ dàng hơn. 4.2. Tác động tiêu cực Các tác động tiêu cực cho kinh tế, xã hội Việt Nam là: Gia tăng rủi ro, sự bất ổn cho nền kinh tế vĩ mô và tài chính do sự tác động từ bên ngoài, đặc biệt là khủng hoảng kinh tế toàn cầu, mà tiêu biểu là cuộc khủng hoảng toàn cầu vừa qua đã tác động xấu đến nền kinh tế , xã hội Việt Nam Nguy cơ mất cân đối về cán cân thương mại, cán cân thanh toán, ảnh hưởng xấu cho nền kinh tế. Cắt giảm thuế ở một chừng mực nào đó cũng có tác động đến thu ngân sách nhà nước, tuy không nhiều. Các cam kết về thuế bước đầu gây bất lợi cho ta, gây áp lực lớn cho các doanh nghiệp trong nước. Bên cạnh những mặt hàng Việt Nam đã đạt được mức thuế trần cao hơn mức thuế đang áp dụng như xăng dầu, kim loại, hóa chất và phương tiện vận tải; một số mặt hàng trọng yếu với nền kinh vẫn duy trì được mức bảo hộ nhất định như nông sản, xi măng,vật liệu xây dựng, ô tô, xe máy. Tuy nhiên, cũng có một số mặt hàng Việt Nam buộc phải giảm nhiều và giảm ngay lập tức như hàng dệt may. Áp lực lớn gây ra đối với doanh nghiệp, làm họ cạnh tranh mà không có sự ân hạn về thời gian. Từ góc độ quản lý, trong thời gian này, khi vẫn còn tồn tại sự khác biệt tương đối lớn giữa mức độ cam kết trong khuôn khổ WTO và các thỏa thuận khu vực, thì vấn đề thủ tục quản lý, chứng nhận, hợp tác với các nước cũng như hệ thống thống kê về số liệu kim ngạch phân bổ theo các địa bàn cam kết… Mất cân đối giữa cung và cầu lao động theo trình độ và theo vùng ngày càng gia tăng, tác động xấu đến xã hội. Khoảng cách giàu nghèo gia tăng, bất bình đẳng trong phân phối thu nhập và khả năng tụt hậu của một số nhóm người so với trình độ phát triển chung của xã hội. Ch­¬ng III: Mét sè gi¶i ph¸p ®Ó ViÖt nam thùc hiÖn hiÖu qu¶ c¸c cam kÕt vÒ thuÕ I. Kinh nghiệm thực hiện cam kết thuế quan của Trung Quốc. Trung Quốc có thể nói là một nước có khá nhiều điểm tương đồng với Việt Nam nhất trong các thành viên của WTO, cũng là một nước đang phát triển, đang trong giai đoạn chuyển đổi. Hơn thế nữa, thời gian gia nhập WTO là năm 2001, cũng là giai đoạn diễn ra vòng đàm phán Doha, tến tận khi Việt Nam gia nhập. Vì thế, các kinh nghiệm thực thi các cam kết của Trung Quốc là những bài học quý báu cho chúng ta. Quan điểm phát triển thương mại trong xu thế hội nhập. Từ năm 1986, Trung Quốc đã xác định việc gia nhập GATT là mục tiêu hàng đầu nhằm hội nhập với nền kinh tế sau gần nửa thập kỷ đóng cửa với các nền kinh tế khác. Đặc biệt, từ đầu thập kỷ 90, Trung Quốc đã thực sự chuyển sang một nền kinh tế hướng ngoại. Bước đầu đã đạt được những thành tựu đáng kể. Cụ thể: tỷ trọng công nghiệp trong tổng kim ngạch xuất khẩu là từ 49% năm 1980 lên tới 87% năm 2000; Giá trị xuất khẩu năm 1978 là 9,75 tỷ USD thì đến 1993 đã gấp 10 lần là 91,74 tỷ USD. Đến năm 2004, Trung Quốc đã xuất 593,4 tỷ USD. Tốc độ tăng xuất khẩu của Trung Quốc ổn định ở mức khoảng 21 – 23%/năm, và cao hơn mức tăng nhập khẩu. Từ năm 1986 đến nay, hầu như năm nào Trung Quốc cũng xuất siêu về thương mại hàng hóa (trừ năm 1993, nhập siêu 12 tỷ USD). Mức xuất siêu cũng liên tục được tăng lên từ 8,75 tỷ USD năm 1990 lên 12 tỷ năm USD năm 1996, đến năm 2005 lên tới 70 tỷ USD. Chính sách thương mại tự do đã đưa Trung Quốc hơn một thập kỷ qua đã đóng góp quan trọng vào sự nghiệp phát triển chung của nền kinh tế. Trung Quốc thực hiện nghiêm túc và đúng lộ trình các cam kết với WTO Các cam kết về giảm thuế, bỏ hàng rào phi thuế quan, mở cửa lĩnh vực dịch vụ, thừa nhận quyền không phân biệt đối xử với các công ty nước ngoài…đã được Trung Quốc thực hiện theo đúng các lộ trình cam kết. Có một số lĩnh vực Trung Quốc đã thực hiện theo đúng các lộ trình cam kết. Có một số lĩnh vực Trung Quốc đã thực hiện các cam kết đúng thời han như: Tháng 4/2004 Trung Quốc đã bỏ chế độ phê chuẩn quyền mậu dịch đối ngoại, thực hiện chế độ đăng ký ngoại thương trước 6 tháng so với thời hạn. Điều này đã được cơ quan kiểm tra của WTO thừa nhận và ngay cả Ủy ban quản lý chính sách thương mại của Mỹ cũng phải xác nhận. tuy nhiên các cơ quan kiểm tra của Mỹ thường ca thán về sự thiếu minh bạch trong quá trình ban hành các quy định thủ tục hải quan và việc điều hành hoạt động thương mại, về sự trì hoãn thực hiện các cam kết, về những kỹ thuật thay thế hàng rào thương mại, về những vi phạm trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ… Điều mà các nước Châu Âu, Mỹ ca thán lớn nhất là tình trang Trung Quốc xuất siêu vào thị trường Châu Âu, Mỹ, tạo ra sự không cân bằng của cán cân thương mại đặc biệt là với Mỹ. Tuy nhiên khi xem xet việc thực hiện các cam kết với WTO, người ta hầu như đã không tìm ra được những nguyên nhân do việc Trung Quốc không thực hiện các cam kết thương mại. Trung Quốc còn bị chỉ trích mạnh trong lĩnh vực thực thi các cam kết đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ. Liên minh sở hữu trí tuệ Quốc Tế cho biết các thất thoát từ việc ăn cắp bản quyền ở Trung Quốc là khoảng 1,85 tỷ USD năm 2002, với các tỷ lệ sao chép trái phép lên đến hơn 90%. Những chỉ trích còn nhằm vào việc Trung Quốc đã không điều tra, trừng trị các tội phạm ăn cắp bản quyền tác giả, làm nhái hàng giả, đặc biệt là trong lĩnh vực đĩa nhạc, sách, phần mềm kinh doanh, phim, các trò chơi video… Sở dĩ Trung Quốc có thể thực hiện nghiêm túc các cam kết với WTO, vì việc thực hiện những cam kết đó trước hết đã có lợi cho Trung Quốc. Trong trường hợp có lợi về kinh tế nhưng có những tác động xã hội bất lợi, Trung Quốc đã áp dụng nhựng giải pháp thay thế, bao gồm : kéo dài thời hạn thực hiện hoặc áp dụng các biện pháp kỹ thuật thay thế. Ví dụ các doanh nghiệp nước ngoài xuát khẩu bông, thit và nước tương đã gặp cản trở đáng kể của cơ quan quản lý chung về giám sát, nghiệm thu và kiểm định chất lượng của Trung Quốc thông qua các giấy phép kiểm dịch thực vật và gia súc nhập khẩu và các thủ tục kiểm tra. Có thể nói là trong các bản đánh giá việc thực hiện các cam kết với WTO của Trung Quốc thuộc các cơ quan kiểm tra của Mỹ và Châu Âu nói chung đều có những lời phê phán các giải pháp thay thế của Trung Quốc. Tuy nhiên những giải pháp thay thế này đã không vi phạm các nguyên tắc của WTO và các cam kết. Các giải pháp thay thế đã giúp Trung Quốc thực hiện nghiêm túc các cam kết với WTO, mặc dù các cam kết này rất cao về mức độ tự do hóa thương mại, rất toàn diện và cũng khá chặt chẽ. Đây là một bài học kinh nghiệm quan trọng cho Việt Nam tham khảo trong quá trình thực hiện các cam kết với WTO. Thúc đẩy cải cách Trung Quốc đã xem việc gia nhập WTO là một cuộc cách mạng thứ hai với ý nghĩa là những cải cách trước đó dẫu sao vẫn là những cải cách thể chế có tính chất quốc gia, còn từ sau khi gia nhap WTO, Trung Quốc phải tiến hành những cải cách sao cho các thể chế của Trung Quốc phù hợp với thông lệ quốc tế. Để thực hiện những cam kết với WTO đòi hỏi trước hết Trung Quốc phải có những đổi mới tư duy quan trọng. Khi gia nhập WTO, ngay trong năm đầu Trung Quốc đã vấp phải những tranh chấp thương mại và khi xử lý những tranh chấp này, Trung Quốc phải ở vị thế của nền kinh tế phi thị trường với nhiều thiệt thòi. Do vậy Trung Quốc thấy sự cần thiết phải đổi mới tư duy phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện đại. hội nghị Trung ương 3 khóa 16 Đảng Cộng sản Trung Quốc đã lấy việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là mục tiêu và đã nêu ra một số luận điểm mới, đó là : Một là, lần đầu tiên Trung Quốc xem trọng chế đọ sản quyền. Xây dựng chế độ sản quyền hiện đại, rõ ràng, bảo hộ nghiêm ngạt, lưu chuyển thông thoáng có lợi cho việc bảo hộ quyền tài sản công hữu, thúc đẩy kinh tế phi công hữu phát triển, có lợi cho việc tăng cường động lực sang tạo của xí nghiệp và công chúng… Hai là, xem chế độ cổ phần là hình thức thực hiện chủ yếu của chế độ công hữu. Đây là nhận thức hoàn toàn mới mẻ so với trước. Trước đây Trung Quốc xem chế độ cổ phần là của Chủ nghĩa tư bản. Trong quá trình cải cách, tư duy đã tiến triển và cho rằng Chủ nghĩa tư bản đẵ có chế độ cổ phần, Chủ nghĩa xã hội cũng có thể xây dụng chế độ cổ phần và đến nay chế độ này đang được xây dựng ở Trung Quốc và trở thành hình thức thực hiện chủ yếu của chế độ công hữu. Ba là,phát triển mạnh mẽ và tích cực dẫn dắt kinh tế phi công hữu, cho phép nguồn phi công hữu được đi vào các thể chế cơ sở, sự nghiệp, ngành nghề và các lĩnh vực công cộng mà pháp luật chua cấm, được hưởng sự đãi ngộ bình đẳng như các xí nghiệp khác về mọi mặt… 4. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Một yếu tố quyết định sự thành công của công cuộc hội nhập kinh tế của Trung Quốc sau khi gia nhậpWTO đó là phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Trung Quốc đã đầu tư cao cho hệ thống giáo dục trong nhiều năm, kết quả là hiện mỗi năm, Trung Quốc có ½ triệu chuyên gia và kỹ sư tốt nghiệp đại học. Đồng thời, Trung Quốc rất chú trọng đào tạo một tầng lớp chuyên gia ưu tú, đã chi nhiều tiền cho việc hiện đại hóa cơ sở vật chất để nâng cao chất lượng giảng dạy, dù chỉ cho một số ít trường. Du nhập các nhà quản lý, nghiên cứu và đào tạo từ nước ngoài hiện cũng đang là một quốc sách của Trung Quốc. Giám đốc nhiều viện nghiên cứu sinh học, tin học… là người nước ngoài với mức lương Trung Quốc trả rất cao (100–120 ngàn USD/năm). Lương của các giáo sư Trung Quốc cũng được tăng khoảng 10 – 20 lần so với cách đây nhiều năm. Hàng năm Trung Quốc còn có hàng trăm nghìn học sinh đi du học ở Âu - Mỹ. Hiện có tới 140 ngàn sinh viên Trung Quốc học tại các trường Đại học Mỹ và khoảng 70.000 tại châu Âu và hàng năm có khoảng 150 ngàn người trở về Trung Quốc làm việc. Trung Quốc đã cho phép các trí trức Trung Quốc ở nước ngoài và cả các công ty nước ngoài được phép thành lập các trung tâm nghiên cứu tại Trung Quốc. Chỉ trong lĩnh vực viễn thông và tin học đã có 223 trung tâm nghiên cứu như vậy được thành lập. II. Định hướng phát triển kinh tế, xã hội đến 2020 Mục tiêu tổng quát : “Đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của nhân dân nâng cao rõ rệt. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng an ninh được tăng cường; thể chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”. Trong chiến lược kinh tế 10 năm 2001–2010 được đề ra: “Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”. Đồng thời Đại hội X cũng đề ra tầm nhìn đến 2020 là tiếp tục giữ vững quan điểm hội nhập kinh tế trên. III. Một số giải pháp nhằm thực hiện hiệu quả các cam kết về thuế. 1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật Để thực hiện đúng các cam kết vê thuế thì trước tiên, Việt Nam phải đi trước một bước trong cải cách hệ thống pháp luật của mình, đặc biệt là các chính sách thuế. Có như vậy, mới không tạo sự mâu thuẫn với việc thực thi các cam kết do hệ thống chính sách trong nước tạo ra. Trong thời gian qua Quốc hội, chính phủ đã có nhiều nỗ lực ban hành nhiều văn bản đáp ứng hội nhập kinh tế nói chung và gia nhập WTO nói riêng. Tuy nhiên những kết quả đó vẫn chưa đáp ứng được một cách toàn diện yêu cầu thực thi cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy, cần phải tiếp tục khẩn trương, rà soát tổng thể, kỹ lưỡng văn bản pháp luật hiện hành; kiên quyết loại bỏ những văn bản pháp luật không phù hợp; sửa đổi, bổ sung những quy phạm pháp luật, bảo đảm sự tương thích và hài hòa với các nguyên tắc và quy định của WTO. Trong thời gian tới cần có sự ưu tiên đi trước trong xây dựng và các văn bản quy phạm pháp luật quan trọng để ngay sau khi thực hiện các cam kết kinh tế quốc tế, trước hết là các cam kết WTO nền kinh tế vận hành đồng bộ theo cơ chế thị trường: thị trường vốn, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghê, thị trường lao động, quy phạm về quyền tự do kinh doanh, pháp luật về hỗ trợ kỹ thuật và tiêu chuẩn môi trường trong nước sau khi không còn được duy trì những trợ cấp và bảo hộ vi phạm những nguyên tắc WTO… Ngoài ra cần chủ động loại bỏ, sửa đổi và xây đựng mới nhằm rút ngắn so với 12 năm Việt Nam sẽ bị đối xử trong tình trạng kinh tế phi thị trường. Nếu bị kéo dài 12 năm, chúng ta sẽ bị thiệt thòi. Những ngành đang phát triển mạnh tại thị trường các nước, nhất là thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản có thể bị kiện bán phá giá, hoặc lại bị áp đặt chế độ hạn ngạch bất cứ lúc nào. Điều này có nghĩa chi phí cho doanh nghiệp càng lớn và cơ hội mở rộng thị trường bị hạn chế rất nhiều. Mặt khác cũng phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống quy phạm về kỹ thuật, vệ sinh kiểm dịch… các tiêu chuẩn về quy cách chất lượng sản phẩm, không chỉ giúp ngăn chặn hàng hóa nhập khẩu kém chất lượng, thiếu vệ sinh, bảo vệ người tiêu dùng mà còn là điều kiện quan trọng để kiểm soát chất lượng hàng hóa nhập khẩu, đáp ứng yêu cầu kỹ thuật của nước nhập khẩu, tránh các vụ kiện đáng tiếc có thể xảy ra. 2. Nâng cao năng lực canh tranh Năng lực cạnh tranh là yếu tố giữ vai trò quyết định sự thành, bại của nền kinh tế khi thực hiên cam kết +hội nhập kinh tế quốc tế nói chung, các cam kết về thuế nói riêng. Đây là điều kiện hàng đầu để tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức vì thách thức lớn nhất đối với Việt Nam sau khi gia nhập WTO là sự yếu kém năng lực cạnh tranh cả về quốc gia và doanh nghiệp. 2.1. Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia Thứ nhất, huy động mọi nguồn lực cho phát triển kết cấu hạ tầng Đa dạng hóa nguồn vốn và hình thức đầu tư cho đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, trong đó chú trọng các hình thức xây dựng - chuyển giao, xây dựng – kinh doanh - chuyển giao phát hành trái phiếu ra thị trường chứng khoán trong và ngoài nước. Huy động hợp lý sự đóng góp của nhân dân trong việc xây dựng kết cấu hạ tầng ở cơ sở. Một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng cần được tập trung đầu tư trong thời gian tới : Các tuyến đường giao thông giữ vai trò kết nối , lưu thông các vùng có lượng hàng hóa lưu chuyển lớn cũng như giữa các vùng lãnh thổ trên các tuyến hành lang kinh tế. Mở rộng, nâng cao năng lực bốc xếp và khả năng thông qua ở các cảng biển chính, xây dựng một số cảng biển trung chuyển lớn. Phát triển mạnh hơn kết cấu hạ tầng nông nghiệp và nông thôn, trước hết về thủy lợi và giao thông nông thôn. Nhà nước hỗ trợ việc xây dựng kho tang, các cơ sở bảo quản, phơi sấy nhằm giảm hao hụt, đảm bảo chất lượng sản phẩm sau thu hoạch, tạo điều kiện điều tiết lượng hàng hóa trên thị trường nhằm ổn định giá cả, phát triển chợ nông thôn. Kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội nông nghiệp nông thôn có mạnh thì mới có điều kiện thuận lợi chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, bền vững, chuyển dịch lao động nộng nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Đa dạng hóa nguồn cung cấp điện, tăng năng lực cấp điện nhằm đảm bảo trong mọi trường hợp không xẩy ra thiếu điện . Đưa nhà máy lọc dầu Dung Quất vào hoạt động theo đúng tiến độ, đồng thời chuẩn bị tốt mọi điều kiện để thu hút đầu tư xây dựng một số nhà máy lọc dầu mới nhằm bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Phát triển nhanh kết cấu hạ tầng công nghẹ thông tin và truyền thông với tốc độ tăng trưởng cao hơn so với tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Phát triển và hoàn thiện kết cấu hạ tầng khu công nghệ cao Hòa Lạc và Tp Hồ Chí Minh và đẩy mạnh thu hút đầu tư vào 2 khu vực này. Thứ hai, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực có ý nghĩa quyết định nâng cao năng lực cạnh tranh cả ở tầm quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm, thực hiện co kết quả kinh tế quốc tế khu vực. Đây là giải pháp vừa cấp bach, vừa lâu dài. Việc đao tào nâng cao nguồn nhân lực phải tập trung vào hết giáo dục đại học. Điều chỉnh cơ cấu trình độ và hệ thống trường Đại học phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội đang hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới và khu vực và xu hướng phát triển của đất nước. Hướng nghiên cứu – triển khai chuyển mạnh theo mô hình đào tạo tinh hoa. Hướng nghề nghiệp – đào tạo chuyển sang ứng dụng mô hình đa giai đoạn với trình độ đại học và thạc sỹ. Giữa hai hướng có sự liên thông, ưu tiên mở rộng quy mô với hướng nghề nghiệp - ứng dụng trên cơ sở xác định hợp lý cơ cấu, trình độ, vùng miền. Xây dựng các trường đại học và các tập đoàn doanh nghiệp lớn (như trường ĐH FPT đã được thành lập và đi vào hoạt động từ năm 2006). Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài và các trường đại học có uy tín ở nước ngoài xây dựng các trường đại học có đẳng cấp quốc tế, mở chi nhánh hoặc liên kết đào tạo đại học với các trường đại học của Việt Nam. Đẩy mạnh việc gắn đào tạo với nghiên cứu. Xây dựng các viện nghiên cứu hoặc doanh nghiệp khoa học công nghệ trong các trường Đại học. Các trường đại học phải đóng chủ đạo trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới., cơ điện tử - tự động hóa và các ngành phục vụ cho hội nhập cho kinh tế thị trường. Thực hiện chế độ về trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đầy đủ cho các trường Đại học cùng với một chế độ giám sát chặt chẽ. Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm thể hiện ở cả 3 mặt: Chương trình hoạt đông, tổ chức cán bộ và tài chính. Phải đổi mới căn bản nội dung, phương pháp dạy và học. Giáo viên đại học là người dạy học sinh ham tự học và là người sang tạo, có đức, có tài. Phát triển nhanh các loại hình dạy nghề và đào tạo công nhân kỹ thuật, trung học chuyên nghiệp, tăng tỷ trọng của bậc học này trong cơ cấu trong đào tạo nhân lực, sớm xây dựng liên thông giữa các bậc học. Thứ ba, đẩy mạnh cải cách hàng chính Thực hiện sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước theo yêu cầu quản lý đa nngành, đa lĩnh vực nhằm tạo ra sự đột phá về tổ chức bộ máy nhằm khắc phục sự chồng chéo về chức năng, kém hiệu quả trong việc xây dựng và thực thi pháp luật. Các Bộ chức năng ở trung ương chuyển mạnh sang hoạch đinh chính sách, thực thi pháp luật những lĩnh vực quản lý phân cấp cho các Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Minh bạch hóa các thủ tục hành chính; chuẩn hóa các mẫu hồ sơ, thủ tục, niêm yếut công khai các quy đinh về điều kiện, thủ tục, thời gian giải quyết. Đồng thời đẩy mạnh và thực hiện thường xuyên thanh tra công vụ. Khẩn trương xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp và hiện đại, kiên quyết loại bỏ khỏi bộ máy nhà nước nhữngn công chức gây phiền hà, nhũng nhiễu, những công chức thiếu năng lực và thiếu trách nhiệm thi hành công vụ. Việc xây dựng bộ máy công chức chuyên nghiệp, trong sạch cần gắn với việc thực hiên nghiêm Luật phòng, chống tham nhũng. Nâng cao sức cạnh tranh doanh nghiệp Bên cạnh những chính sách, pháp luật của Nhà nước tạo điều kiện cho cộng đồng các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh để đứng vững trên thị trường. Thứ nhất, doanh nghiệp phải xây dựng cho mình chiến lược kinh doanh cho mình trong từng thời kỳ., dựa trên xu hướng và đánh giá lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp, từ đó điều chỉnh cơ cấu dịch vụ, thị trường, sản phẩm, phương thức kinh doanh nhằm nâng cao sức cạnh tranh, nâng cao khả năng thích ứng với thị trường. Không có con đường nào khác ngoài ứng dụng khao học công nghệ, đổi mới thiết bị, nâng cao chất lượng hàng hóa, giảm giá thành, làm tôt công tác tiếp thị, tạo dựng thương hiệu, tạo chữ tín trong hoạt động với khách hàng cũng như với đối tác kinhn doanh. Doanh nghiệp Việt Nam phải phát huy hơn nữa sức cạnh tranh của mình trước sức ép của các doanh nghiệp nước ngoài. Đó là sự hiểu biết về các nguồn cúng ững nguồn lực, thị trường khách hàng và các kênh phân phối. Thứ hai, con nghười có trình độ sản xuất và công nghệ tiên tiền là yếu tố quan trọng, quyết định thành bại trong cuộc chiến gay gắt hiện nay. Con người không chỉ bao gồm đội ngũ lao động mà còn cả như những người hoạt động trong các hiệp hội doanh nghiệp, trong các lĩnh vực khoa học công nghệ, dịch vụ thông tin, tư vấn đào tạo, nghiên cứu thị trường… những tầng lớp mới nảy sinh trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế. Vì vậy, cần phải tập trung hơn nữa cho đào tạo nguồn nhân lực cho nền kinh tế. Thứ ba, đề cao văn hóa trong kinh doanh, xây dựng truyền thống và uy tín của doanh nghiệp, trước hết bằng việc kinh doanh đúng pháp luật và giữ chữ “tín”. Đối với doanh nghiệp và doanh nhân, lợi nhuận là động lực trực tiếp, song người kinh doanh có văn hóa luôn đặt lợi ích của mình trong sự hài hòa với lợi ích của cộng đồng, của đất nước. Doanh nghiệp phải xây dựng nề nếp quản lý kinh doanh minh bạch và trung thực, thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật, tích cực tham gia ccs hoạt động kinh tế, xã hội, khắc phục những hành vi gian lận thương mại, làm hàng giả,… Văn hóa kinh doanh cần phải được tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác, trở thành truyền thống gắn với thương hiệu. Thứ tư, tăng cường hợp tác, liên kết. Cộng đồng doanh nghiệp nói chung và nói riêng cần phải khắc phục tính riêng rẽ trong sản xuất, kinh doanh đang rất phổ biến hiện nay. Phải tăng cường sự hợp tác lẫn nhau vì lợi ích của chính mình và của cộng đồng doanh nghiệp, và của cả quốc gia. Các hiệp hội doanh nghiệp phải phát huy vai trò hỗ trợ của tổ chức kinh tế Việt Nam bao gồm cả doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ kinh doanh cá thể, tiểu thủ thực hiện hợp tác liên kết kinh tế. Đây là việc làm thiết thực nhất với giới doanh nghiệp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, góp phần nhanh chóng vượt qua những thách thức gay gắt khi thực hiện các cam kết WTO, đặc biệt các cam kết về thuế. 3. Đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, tận dụng các nhân tố bên ngoài để thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế, trong đó là các cam kết về thuế Để thực hiện tốt các cam kết về thuế, đặc biệt trong điều kiện hội nhập như hiện nay, thì không thể đạt kết quả tốt nếu không biết tận dụng nguồn lực bên ngoài. Nếu như các nhà đầu tư nước ngoài nhìn thấy cơ hội thông qua các cam kết thuế quan và tăng đầu tư vào Việt Nam thì sẽ làm cho sức cạnh tranh của nền kinh tế nói chung, và của các doanh nghiệp sẽ nâng cao. Vì thế, chúng ta mới có thể thực hiện các cam kết về thuế một cách chủ động, chứ không phải trông chờ vào việc, thực hiện các cam kết về thuế trước, sau đó mới đợi cho các doanh nghiệp cải cách. “thích nghi” với những tác động của các cam kết như đã phân tích ở trên. Đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài (cả trực tiếp và gián tiếp ) theo các hình thức đầu tư của Luật đầu tư 2005, chú trọng thu hút các tập đoàn xuyên quốc gia (TNC) nắm giữ công nghệ nguồn, công nghệ cao, chú trọng thu hút đầu tư vào các công đoạn nghiên cứu - triển khai ( R & D ), thiết kế, tạo mẫu mang lại giá trị gia tăng cao, từng bước tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường bất động sản. Sử dụng có hiệu quả hơn nguồn vốn hỗ trợ chính thức trong lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đào tạo nguồn nhân lực, xóa đói, giảm nghèo, tăng cường thể chế và bảo vệ môi trường. Mở rộng đầu tư ra nước ngoài cho các tổ chức kinh tế, tập trung vào các lĩnh vực mà ta có lợi thế và một số lĩnh vực khai thác tài nguyên thiên nhiên nhằm đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và cung cấp nguồn nhiên liệu cho sản xuất trong nước. KẾT LUẬN Nhìn chung tác động của việc cắt giảm thuế quan theo cam kết với WTO đối với nhóm các sản phẩm phi nông nghiệp lớn hơn đối với nhóm hàng nông nghiệp do năng lực cạnh tranh của các ngành phi nông nghiệp còn thấp. Cắt giảm thuế quan tác động không ít thì nhiều lên mọi lĩnh vực kinh tế xã hội, cả mặt tích cực và tiêu cực, ảnh hưởng khác nhau về ngằn hạn và dài hạn. Nói chung, xét về dài hạn, ảnh hưởng của các cam kết này đều mang tính tích cực, phù hợp với xu thế chung của thế giới, đồng thời theo đúng mục tiêu phát triển kinh tế bền vững của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian tới. Thực hiện giảm thuế theo các cam kết khi gia nhập WTO có mặt tích cực giảm chi phí đầu vào cho sản phẩm nội địa, tạo sức ép cho các doanh nghiệp trong nước phải đổi mới, nâng cao sức cạnh tranh. Bên cạnh đó, trong mô hình kinh tế mở, người tiêu dùng mua được các sản phẩm giá rẻ hơn, chất lượng cao hơn, phong phú hơn về chủng loại. Nhờ đó mà đời sống kinh tế xã hội được nâng cao. Giảm thuế còn ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách trong ngắn hạn. Kim ngạch xuất nhập khẩu gia tăng, cơ cấu mặt hàng cũng chuyển biến theo hướng tích cực, phân bổ hiệu quả các nguồn lực trong nước. Nghiên cứu các cam kết về thuế và các tác động của nó đến nền kinh tế, xã hội Việt Nam trong hơn hai năm vừa qua, ta có thể thấy rằng tác động của các cam kết thuế này là chưa rõ nét. Tuy nhiên, trong thời gian tới, cùng với sự biến động khó lường trước của nền kinh tế thế giới và cùng với giai đoạn chúng ta hoàn thành các cam kết về thuế, những tác động sẽ rõ nét và sâu sắc hơn. Vì thế, cần phải quan tâm, nghiên cứu các tác động trong thời gian tới để phát huy hiệu quả các mặt tích cực và hạn chế các mặt tiêu cực của các cam kết về thuế này. Do kiến thức chuyên môn về lĩnh vực thuế quan, tầm nhìn vĩ mô còn nhiều hạn chế, em xin trình bày một số nội dung cơ bản của các cam kết về thuế và tác động của nó đến kinh tế, xã hội Việt Nam trong hai năm qua. Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn đến Thầy Vũ Đức Cường, người đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Các văn kiện gia nhập tổ chức thương mại Thế giới của Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 2.Trần Thanh Hải (2006), Hỏi đáp về WTO, dự án hỗ trợ thương mại đa biên MUTRAP, Hà Nội. 3.Trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội (2007), Giáo trình Kinh tế Ngoại thương, Nxb Lao động – xã hội, Hà Nội. 4.Thống kê tình hình kim ngạch nhập khẩu Việt Nam năm 2007 và 9 tháng đầu năm 2008, Cục tin học thống kê, Tổng cục Hải Quan. 5.Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương và Dự án Hỗ trợ Xúc tiến Thương mại của cơ quan phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (STAR 2008), Báo cáo cập nhật thương mại Việt Nam năm 2007 sau 9 thánh gia nhập WTO. 6.Nguyễn Thị Vân Chi (2008), Cam kết thuế quan và tình hình thực hiện, Bài trình bày tại Hội thảo “Nông nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập” của Bộ tài chính và UNDP tại Hà Nội. 7.Nguyễn Đăng Bình, Bộ KH&ĐT (2008), Báo cáo về tác động của những thay đổi thể chế do việc Việt Nam trở thành thành viên của WTO đối với khu vực công. 8.Nhóm tư vấn chính sách Bộ Tài chính (2007), Tác động - ảnh hưởng của hội nhập kinh tế quốc tế đến nền kinh tế - tài chính Việt Nam, Nxb Lao động, Hà nội. 9.Vietnam’s Ministry of Planing and Investment’s Central Institute of Economic Management and Star project (2008), 2007 – 2008 Report on Trade, Investment and Economic activity in Vietnam. 10.Website: Phụ lục 1: Cam kết thuế quan của Việt Nam với WTO, ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc Môc lôc Trang Lêi më ®Çu 1 Ch­¬ng I: Nh÷ng quy ®Þnh vÒ thuÕ quan cña Tæ chøc th­¬ng m¹i ThÕ giíi vµ sù gia nhËp cña ViÖt Nam 3 I. Kh¸i qu¸t vÒ Tæ chøc Th­¬ng m¹i ThÕ giíi 3 1.Kh¸i qu¸t vÒ Tæ chøc Th­¬ng m¹i ThÕ giíi 3 2. Qu¸ tr×nh gia nhËp WTO cña ViÖt Nam 7 II. Quy ®Þnh vÒ thuÕ quan cña WTO ®èi víi c¸c n­íc thµnh viªn 9 1. Quan ®iÓm vÒ thuÕ quan cña WTO 9 2. Mét sè ph­¬ng thøc kü thuËt ¸p dông cho c¸c biÖn ph¸p thuÕ quan 12 Ch­¬ng II: C¸c cam kÕt vÒ thuÕ khi ViÖt Nam gia nhËp WTO vµ t¸c ®éng cña nã ®Õn kinh tÕ, x· héi sau hai n¨m thùc hiÖn 14 I. C¸c cam kÕt vÒ thuÕ cña ViÖt Nam khi gia nhËp WTO 14 1. C¸c cam kÕt vÒ thuÕ cña ViÖt Nam 14 2. Thùc hiÖn c¸c cam kÕt vÒ thuÕ sau hai n¨m gia nhËp WTO 22 2.1. Lé tr×nh thùc hiÖn 22 2.2. T×nh h×nh thùc hiÖn 25 II.Nh÷ng t¸c ®éng ®Õn nÒn kinh tÕ sau hai n¨m gia nhËp WTO 44 1.T¸c ®éng c¸c chñ thÓ cña nÒn kinh tÕ 44 1.1. T¸c ®éng ®Õn Nhµ n­íc 45 1.2. T¸c ®éng ®Õn doanh nghiÖp 48 1.3 T¸c ®éng ®Õn ng­êi tiªu dïng 60 2. T¸c ®éng chñ yÕu ®Õn c¸c ngµnh kinh tÕ 61 2.1. §èi víi lÜnh vùc n«ng nghiÖp 61 2.2. §èi víi lÜnh vùc phi n«ng nghiÖp 66 2.3. §èi víi lÜnh vùc ®Çu t­ 69 3. T¸c ®éng ®Õn x· héi 70 4.§¸nh gi¸ c¸c t¸c ®éng cña cam kÕt vÒ thuÕ 71 4.1. T¸c ®éng tÝch cùc 71 4.2. T¸c ®éng tiªu cùc 72 Ch­¬ng III: Mét sè gi¶i ph¸p ®Ó ViÖt Nam thùc hiÖn hiÖu qu¶ c¸c cam kÕt vÒ thuÕ 74 I. Kinh nghiÖm thùc hiÖn cam kÕt thuÕ quan cña Trung Quèc 74 1. Quan ®iÓm ph¸t triÓn th­¬ng m¹i trong xu thÕ héi nhËp 74 2.Trung Quèc thùc hiÖn nghiªm tóc vµ ®óng lé tr×nh c¸c cam kÕt víi WTO 75 3. Thóc ®Èy c¶i c¸ch 76 4. §Çu t­ ph¸t triÓn nguån nh©n lùc chÊt l­îng cao 77 II. §Þnh h­íng ph¸t triÓn kinh tÕ, x· héi ®Õn 2020 78 III. Mét sè gi¶i ph¸p nh»m thùc hiÖn hiÖu qu¶ c¸c cam kÕt vÒ thuÕ 78 1. TiÕp tôc hoàn thiÖn hÖ thèng ph¸p luËt 78 2. N©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh 79 2.1. N©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh quèc gia 80 2.2. N©ng cao søc c¹nh tranh doanh nghiÖp 83 3. §Èy m¹nh thu hót ®Çu t­ n­íc ngßai, tËp dông c¸c nh©n tè bªn ngoµi ®Ó thùc hiÖn hiÖu qu¶ c¸c cam kÕt quèc tÕ, trong ®ã lµ c¸c cam kÕt vÒ thuÕ 84 KÕt luËn 86 Tµi liÖu tham kh¶o 88

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCác cam kết về thuế của Việt Nam khi gia nhập WTO và những tác động của nó đến nền kinh tế- xã hội của Việt Nam.doc
Luận văn liên quan