CHƯƠNG I – MỞ ĐẦU
1.1 GIỚI THIỆU
Trong quá trình sinh sống và phát triển của mình, loài người đã tác động nhiều đến thiên nhiên, làm thay đổi chúng và cũng là làm thay đổi khung cảnh sống của chính mình. Do không nhận biết được các quy luật tự nhiên hoặc do chỉ nghĩ tới lợi ích trước mắt, trong quá trình phát triển xã hội, loài người đã làm cho môi trường sống suy thoái, tài nguyên cạn kiệt.
Ngày nay môi trường trở thành mối quan tâm hàng đầu của mọi quốc gia và của cộng đồng quốc tế. Các vấn đề ô nhiễm không khí, nguồn nước, suy thoái đất đai, tàn phá rừng, sa mạc hoá, sự suy giảm tính đa dạng sinh học, nguy cơ diệt chủng nhiều loại sinh vật quý hiếm, mất cân bằng sinh thái . Đang trở thành phổ biến và trầm trọng trên phạm vi toàn cầu. Đặc biệt là sự suy giảm tầng ozon. Sự nóng dần lên của khí quyển và do đó nguy cơ nâng cao mực nước biển đang đe doạ sự sinh tồn và phát triển của loài người. Đấu tranh để bảo vệ môi trường, giữ gìn ngôi nhà chung - trái đất chúng ta đang sống là nghĩa vụ của mọi người, vì sự phát triển chung của cả nhân loại. Nếu chỉ vì lợi ích trước mắt, lợi ích cục bộ mà gây tổn hại môi trường thì đó chính là hành động ngăn chặn quy trình phát triển của chính mình, nếu không nói là sự tự phá huỷ mình.
Lịch sử đã để lại cho chúng ta nhiều bài học thấm thía. Nhiều vùng rộng lớn trước kia đã từng có nền văn minh chói lọi nay trở thành xa mạc. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là do sự phát triển không đi đôi với bảo vệ môi trường, không tuân thủ các quy luật tự nhiên.
Ô nhiễm môi trường gây ra do con người trong hoạt động nông-lâm nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, do chiến tranh và do những chất thải sinh hoạt ở các khu dân cư tập trung.
Ở các nước công nghiệp, đất không chỉ mất lớp phủ thực vật do phá rừng mà còn là “nghĩa địa” chôn cất bã phóng xạ, chất thải công nghiệp và chất thải sinh hoạt.
Trên đất nông nghiệp, do thâm canh và đốt rừng lấy đất trồng trọt nên đất bị thoái hóa và ô nhiễm hóa học do dùng phân bón và thuốc hóa học bảo vệ thực vật. Nguồn nước sạch, kể cả nước ngầm cũng bị thu hẹp bởi không những do tốc độ khai thác ngày càng cao mà còn do nước bị ô nhiễm, chẳng hạn hàm lượng nitrat (là một trong những chất độc) trong nước ngầm tăng lên gấp 3 lần so với 20-30 năm trước đây.Biển và đại dương hàng năm nhận trung bình 1,6 triệu tấn dầu do tàu thuyền thải xuống và do tai nạn của các tàu chở dầu. Đại dương còn là bãi chôn cất các chất thải phóng xạ. Không khí bị ô nhiễm, khí hậu bị xáo trộn, do khai thác rừng bừa bãi nên diện tích rừng hàng năm bị thu hẹp dần (mà rừng là bộ máy điều hòa và duy trì tỷ lệ CO2/O2 trong không khí), nền công nông nghiệp hàng năm thải vào khí quyển khoảng 1-2 tỉ tấn CO2 và cứ tăng dần theo tốc độ công nghiệp hóa, lượng oxit lưu huỳnh, CH4, CFC, Chính vì những lẽ đó Thế giới ngày càng phát triển càng gây nên những tác động xấu đến môi trường, làm cho môi trường ngày càng biến đổi sâu sắc, rộng lớn, bị ô nhiễm nghiêm trọng, đe dọa sự sống còn của hành tinh chúng ta. Vì vậy, vấn đề môi trường và phát triển bền vững đã trở thành vấn đề hết sức cấp bách của chúng ta hiện nay. Ở nước ta, Đảng và Nhà nước đã sớm nhận rõ tầm quan trọng và mối quan hệ gắn kết giữa phát triển kinh tế - xã hội và công tác bảo vệ môi trường, đặc biệt là trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.Bảo vệ môi trường là một vấn đề sống còn của đất nước, của nhân loại; là nhiệm vụ có tính xã hội sâu sắc
Mục tiêu của công tác quản lý bảo vệ môi trường là “Ngăn ngừa ô nhiễm môi trường, phục hồi và cải thiện môi trường ở những nơi, những vùng đã bị suy thoái, bảo tồn đa dạng sinh học, từng bước nâng cao chất lượng môi trường ở các khu công nghiệp, đô thị và nông thôn, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, góp phần phát triển kinh tế-xã hội bền vững tiến hành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước”.The UN and World Bank has encouraged adopting a " natural capital " measurement and management framework. [ citation needed ]
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Nhận thức về tầm quan trọng của môi trường, hiểu rõ các vấn đề môi trường của tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu đang phát triển theo chiều hướng nào
Hoàn thiện các hệ thống quản lý , công cụ quản lý và quy hoạch môi trường thích hợp hơn.
Trang bị một cách nhìn tổng thể vững, quy hoạch môi trường và quản lý môi trường,
Tìm hiểu sự cần thiết việc tham gia của các nhà hoạt động và công chúng trong quy hoạch môi trường và quản lý môi trường và nhận thức về kế hoạch hoá phát triển và quy hoạch môi trường,
Thiết lập một mối liên kết giữa phát triển bền sâu sắc vai trò tương ứng của họ trong quá trình tham gia của cộng đồng.
Đưa ra hướng giải quyết mới , tốt hơn cho vấn đề môi trường Bà Rịa Vũng Tàu nói riêng và cả nước .
1.3 PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Các vấn đề môi trường phát sinh từ sinh hoạt , sản xuất của các khu công nghiệp trong tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu
Quy hoạch môi trường của tỉnh
Tình trạng quản lý Môi Trường của tỉnh
Hiện trạng việc sử dụng các loại tài nguyên
1.4 SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Mục tiêu trước mắt là phải ngăn ngừa, hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường do hoạt động của con người và tác động của tự nhiên gây ra; khắc phục ô nhiễm môi trường, trước hết ở những nơi đã bị ô nhiễm nghiêm trọng, phụchồi các hệ sinh thái đã bị suy thoái; quản lý, sử dụng hợp lý, bền vững tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ đa dạng sinh học; từng bước nâng cao chất lượng môi trường.
Ô nhiễm, suy thoái môi trường là một trong những vấn đề mà loài người đang phải đối mặt song song với các vấn đề đói nghèo, đại dịch AIDS vì vậy, bảo vệ môi trường cũng đồng nghĩa với bảo vệ môi trường sống, bảo đảm mọi người dân được sống trong môi trường trong lành, sạch đẹp, góp phần nâng cao sức khỏe và chất lượng cuộc sống của nhân dân, đồng thời là nội dung quan trọng của phát triền bền vững.
Nếu công tác phòng ngừa, hạn chế các tác động xấu đối với môi trường được thực hiện khoa học, nghiêm túc và hiệu quả thì sẽ tiết kiệm được nguồn lực lớn cho công tác khắc phục, phục hồi môi trường sau này.
1.5 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp tham khảo tài liệu về các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm
Phương pháp đánh giá nhanh hiện trạng môi trường
Phương pháp khảo sát trực tiếp.
Phương pháp thống kê số liệu.
Phương pháp điều tra, phỏng, nhân viên có liên vấn các công nhân quan.
1.6 NỘI DUNG THỰC HIỆN
Tìm hiểu về cơ sở lý luận của quản lý môi trường.
Thu thập các dữ liệu và khảo sát các khu công nghiệp tại tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu
Thu thập các dữ liệu và khảo sát về ĐDSH trên địa bàn tỉnh
Tìm hiểu các văn bản pháp quy có liên quan đến việc quản lý môi trường
Tìm hiểu về cơ cấu nhân sự , bộ phận chuyên trách , có liên quan đến quản lý
Đánh giá thực trạng quản lý môi trường tại KCN và STNMT Tỉnh .
Nghiên cứu đề xuất các giải pháp cải tiến cho công tác quản lý môi trường
MỤC LỤC
CHƯƠNG I – MỞ ĐẦU1
1.1GIỚI THIỆU1
1.2MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU3
1.3PHẠM VI NGHIÊN CỨU3
1.4 SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI. 3
1.5PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU4
1.6NỘI DUNG THỰC HIỆN4
CHƯƠNG II – TỔNG QUAN5
2.1 TỔNG QUAN VỀ TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU5
2.1.1 Lịch sử hình thành. 5
2.1.2Vị trí địa lý. 7
2.1.3 Tự Nhiên Dân Cư. 8
2.1.4 Khí hậu - Thời tiết9
2.1.5 Tài nguyên du lịch. 10
2.1.6 Thông Tin Về Các Khu Công Nghiệp. 13
2.2 THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG15
2.2.1 Hiện trạng môi trường nước. 15
2.2.2 Hiện trạng môi trường không khí18
2.2.3 Hiện trạng môi trường đất19
2.2.4 Đa dạng sinh học. 20
2.3 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG22
2.3.1 Tình trạng khai thác gỗ. 23
2.3.2 Săn bắt, buôn bán trái phép động vật rừng. 23
2.3.3 Tình hình đánh bắt thủy sản. 24
2.3.4 Hiện trạng quản lý chất thải25
2.3.4.1 Thu gom và xử lý chất thải rắn đô thị và công nghiệp. 25
2.3.4.2 Thu gom và xử lý chất thải rắn công nghiệp. 25
2.3.4.3 Thu gom và xử lý chất thải rắn y tế. 25
2.3.4.4 Chất thải rắn trong sản xuất nông nghiệp. 26
2.4 CƠ CHẾ , CHÍNH SÁCH , LUẬT PHÁP VỀ QUẢN LÝ BẢO VỆ TNTN26
2.4.1 Về cơ cấu tổ chức quản lý môi trường. 26
2.4.2 Về mặt tài chính. 27
CHƯƠNG III - CÁC CHÍNH SÁCH VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ , PHÁT TRIỂN MÔI TRƯỜNG HƯỚNG TỚI BỀN VỮNG28
3.1 GIẢI PHÁP ĐÔ THỊ BỀN VỮNG :28
3.2 QUY HOẠCH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN31
3.3 HOÀN THIỆNCHÍNH SÁCH TỔNG THỂ34
3.3.1 Nhóm chính sách liên quan đến động lực:34
3.3.1.1 Các chính sách đối với các vấn đề ưu tiên. 35
3.3.1.2 Mức độ hiệu quả và thực thi của các vấn đề theo kế hoạch/chiến lược quy hoạch đề ra35
3.4 TỐI ƯU CƠ CẤU TỔ CHỨC QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG35
3.4.1 Giải pháp về mặt chính sách, thể chế, luật pháp liên quan lĩnh vực bảo vệ môi trường36
3.4.2 Giải pháp về mặt tài chính, đầu tư cho bảo vệ môi trường. 37
3.5 TĂNG CƯỜNG CÁC HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CHẤT LƯỢNG , QUAN TRẮC VÀ CẢNH BÁO Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG37
3.6 VẤN ĐỀ NGUỒN LỰC CON NGƯỜI, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG.38
3.7 CÁC GIẢI PHÁP VỀ QUY HOẠCH PHÁT TRIỀN38
3.8 CÁC GIẢI PHÁP VỀ CÔNG NGHỆ VÀ KỸ THUẬT39
3.9 CÁC GIẢI PHÁP CỤ THỂ KHÁC39
3.9.1 Bảo vệ nguồn nước. 39
3.9.2 Quản lý việc sử dụng năng lượng. 40
3.9.3 Quản lý nước thải42
3.9.4 Quản lý rác thải42
hỗ trợ việc xây dựng các hệ thống xử lý, tái chế thu gom và phân loại chất thải hiệu quả.43
3.9.5 Dùng hoá chất43
3.10 CUNG CẤP NƯỚC SẠCH VÀ VỆ SINH MÔI TRƯỜNG44
3.11 QUẢN LÝ VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG KHÔNG KHÍ. 46
3.12 BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG CÔNG NGHIỆP. 50
3.13 QUẢN LÝ CHẤT THẢI. 51
3.14 BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC51
3.15 GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO VÀ NÂNG CAO NHẬN THỨC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG53
3.16 HỢP TÁC TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC54
3.17 GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:54
CHƯƠNG IV KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ57
5.1 KẾT LUẬN57
5.2 KIẾN NGHỊ. 57
61 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4455 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các chính sách và giải pháp quản lý, phát triển môi trường hướng tới bền vững môi trường tỉnh Bà Rịa - Vũng tàu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I – MỞ ĐẦU
GIỚI THIỆU
Trong quá trình sinh sống và phát triển của mình, loài người đã tác động nhiều đến thiên nhiên, làm thay đổi chúng và cũng là làm thay đổi khung cảnh sống của chính mình. Do không nhận biết được các quy luật tự nhiên hoặc do chỉ nghĩ tới lợi ích trước mắt, trong quá trình phát triển xã hội, loài người đã làm cho môi trường sống suy thoái, tài nguyên cạn kiệt.
Ngày nay môi trường trở thành mối quan tâm hàng đầu của mọi quốc gia và của cộng đồng quốc tế. Các vấn đề ô nhiễm không khí, nguồn nước, suy thoái đất đai, tàn phá rừng, sa mạc hoá, sự suy giảm tính đa dạng sinh học, nguy cơ diệt chủng nhiều loại sinh vật quý hiếm, mất cân bằng sinh thái... Đang trở thành phổ biến và trầm trọng trên phạm vi toàn cầu. Đặc biệt là sự suy giảm tầng ozon. Sự nóng dần lên của khí quyển và do đó nguy cơ nâng cao mực nước biển đang đe doạ sự sinh tồn và phát triển của loài người. Đấu tranh để bảo vệ môi trường, giữ gìn ngôi nhà chung - trái đất chúng ta đang sống là nghĩa vụ của mọi người, vì sự phát triển chung của cả nhân loại. Nếu chỉ vì lợi ích trước mắt, lợi ích cục bộ mà gây tổn hại môi trường thì đó chính là hành động ngăn chặn quy trình phát triển của chính mình, nếu không nói là sự tự phá huỷ mình.
Lịch sử đã để lại cho chúng ta nhiều bài học thấm thía. Nhiều vùng rộng lớn trước kia đã từng có nền văn minh chói lọi nay trở thành xa mạc. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là do sự phát triển không đi đôi với bảo vệ môi trường, không tuân thủ các quy luật tự nhiên.
Ô nhiễm môi trường gây ra do con người trong hoạt động nông-lâm nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, do chiến tranh và do những chất thải sinh hoạt ở các khu dân cư tập trung.
Ở các nước công nghiệp, đất không chỉ mất lớp phủ thực vật do phá rừng mà còn là “nghĩa địa” chôn cất bã phóng xạ, chất thải công nghiệp và chất thải sinh hoạt.
Trên đất nông nghiệp, do thâm canh và đốt rừng lấy đất trồng trọt nên đất bị thoái hóa và ô nhiễm hóa học do dùng phân bón và thuốc hóa học bảo vệ thực vật. Nguồn nước sạch, kể cả nước ngầm cũng bị thu hẹp bởi không những do tốc độ khai thác ngày càng cao mà còn do nước bị ô nhiễm, chẳng hạn hàm lượng nitrat (là một trong những chất độc) trong nước ngầm tăng lên gấp 3 lần so với 20-30 năm trước đây.Biển và đại dương hàng năm nhận trung bình 1,6 triệu tấn dầu do tàu thuyền thải xuống và do tai nạn của các tàu chở dầu. Đại dương còn là bãi chôn cất các chất thải phóng xạ. Không khí bị ô nhiễm, khí hậu bị xáo trộn, do khai thác rừng bừa bãi nên diện tích rừng hàng năm bị thu hẹp dần (mà rừng là bộ máy điều hòa và duy trì tỷ lệ CO2/O2 trong không khí), nền công nông nghiệp hàng năm thải vào khí quyển khoảng 1-2 tỉ tấn CO2 và cứ tăng dần theo tốc độ công nghiệp hóa, lượng oxit lưu huỳnh, CH4, CFC, Chính vì những lẽ đó Thế giới ngày càng phát triển càng gây nên những tác động xấu đến môi trường, làm cho môi trường ngày càng biến đổi sâu sắc, rộng lớn, bị ô nhiễm nghiêm trọng, đe dọa sự sống còn của hành tinh chúng ta. Vì vậy, vấn đề môi trường và phát triển bền vững đã trở thành vấn đề hết sức cấp bách của chúng ta hiện nay. Ở nước ta, Đảng và Nhà nước đã sớm nhận rõ tầm quan trọng và mối quan hệ gắn kết giữa phát triển kinh tế - xã hội và công tác bảo vệ môi trường, đặc biệt là trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.Bảo vệ môi trường là một vấn đề sống còn của đất nước, của nhân loại; là nhiệm vụ có tính xã hội sâu sắc
Mục tiêu của công tác quản lý bảo vệ môi trường là “Ngăn ngừa ô nhiễm môi trường, phục hồi và cải thiện môi trường ở những nơi, những vùng đã bị suy thoái, bảo tồn đa dạng sinh học, từng bước nâng cao chất lượng môi trường ở các khu công nghiệp, đô thị và nông thôn, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, góp phần phát triển kinh tế-xã hội bền vững tiến hành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước”.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Nhận thức về tầm quan trọng của môi trường, hiểu rõ các vấn đề môi trường của tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu đang phát triển theo chiều hướng nào
Hoàn thiện các hệ thống quản lý , công cụ quản lý và quy hoạch môi trường thích hợp hơn.
Trang bị một cách nhìn tổng thể vững, quy hoạch môi trường và quản lý môi trường,
Tìm hiểu sự cần thiết việc tham gia của các nhà hoạt động và công chúng trong quy hoạch môi trường và quản lý môi trường và nhận thức về kế hoạch hoá phát triển và quy hoạch môi trường,
Thiết lập một mối liên kết giữa phát triển bền sâu sắc vai trò tương ứng của họ trong quá trình tham gia của cộng đồng.
Đưa ra hướng giải quyết mới , tốt hơn cho vấn đề môi trường Bà Rịa Vũng Tàu nói riêng và cả nước .
PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Các vấn đề môi trường phát sinh từ sinh hoạt , sản xuất của các khu công nghiệp trong tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu
Quy hoạch môi trường của tỉnh
Tình trạng quản lý Môi Trường của tỉnh
Hiện trạng việc sử dụng các loại tài nguyên
SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Mục tiêu trước mắt là phải ngăn ngừa, hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường do hoạt động của con người và tác động của tự nhiên gây ra; khắc phục ô nhiễm môi trường, trước hết ở những nơi đã bị ô nhiễm nghiêm trọng, phụchồi các hệ sinh thái đã bị suy thoái; quản lý, sử dụng hợp lý, bền vững tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ đa dạng sinh học; từng bước nâng cao chất lượng môi trường.
Ô nhiễm, suy thoái môi trường là một trong những vấn đề mà loài người đang phải đối mặt song song với các vấn đề đói nghèo, đại dịch AIDS vì vậy, bảo vệ môi trường cũng đồng nghĩa với bảo vệ môi trường sống, bảo đảm mọi người dân được sống trong môi trường trong lành, sạch đẹp, góp phần nâng cao sức khỏe và chất lượng cuộc sống của nhân dân, đồng thời là nội dung quan trọng của phát triền bền vững.
Nếu công tác phòng ngừa, hạn chế các tác động xấu đối với môi trường được thực hiện khoa học, nghiêm túc và hiệu quả thì sẽ tiết kiệm được nguồn lực lớn cho công tác khắc phục, phục hồi môi trường sau này.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp tham khảo tài liệu về các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm
Phương pháp đánh giá nhanh hiện trạng môi trường
Phương pháp khảo sát trực tiếp.
Phương pháp thống kê số liệu.
Phương pháp điều tra, phỏng, nhân viên có liên vấn các công nhân quan.
NỘI DUNG THỰC HIỆN
Tìm hiểu về cơ sở lý luận của quản lý môi trường.
Thu thập các dữ liệu và khảo sát các khu công nghiệp tại tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu
Thu thập các dữ liệu và khảo sát về ĐDSH trên địa bàn tỉnh
Tìm hiểu các văn bản pháp quy có liên quan đến việc quản lý môi trường
Tìm hiểu về cơ cấu nhân sự , bộ phận chuyên trách , có liên quan đến quản lý
Đánh giá thực trạng quản lý môi trường tại KCN và STNMT Tỉnh .
Nghiên cứu đề xuất các giải pháp cải tiến cho công tác quản lý môi trường
CHƯƠNG II – TỔNG QUAN
2.1 TỔNG QUAN VỀ TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU
2.1.1 Lịch sử hình thành
Vũng Tàu từng có tên là Tam Thắng để ghi lại sự kiện thành lập ba làng đầu tiên ở đây: Thắng Nhất, Thắng Nhị, Thắng Tam. Chữ tam Thắng là biến âm của Tam Thoàn ( tức Tam Thuyền ).
Đây là ba chiếc thuyền do ba viên đội chỉ huy bảo vệ bà con đường thuỷ vào Gia Định chống lại bọn cướp biển. Vào năm 1822 vua Minh mạng ban thưởng phẩm hàm và cấp đất cho họ khai khẩn lập làng làm ăn sinh sống. Đội thuyền thứ nhất do ông Phạm Đăng Dinh chỉ huy lập nên làng Thắng Nhất, đội thuyền thứ hai do ông Lê Văn Lộc chỉ huy lập nên làng Thắng Nhì, đội thuyền thứ ba do ông Ngô văn Huyền chỉ huy lập nên làng Thắng Tam.
Để nhớ ơn ông Phạm Văn Dinh là người đã lập ra khu đất này, người ta đã lấy tên ông đặt cho con sông duy nhất ở Vũng Tàu: sông Dinh và tên một dãy núi: núi Dinh ( Ngoài ra còn có một giải thích khác về tên của dãy núi Dinh: núi Dinh là núi Kho, thế kỷ XVIII các tướng lĩnh của chúa Nguyễn ánh xây dựng doanh trại trên núi này và Dinh còn có nghĩa là doanh trại. Dãy núi Dinh gồm các ngọn núi Dinh, ông Trịnh, Thị Vải. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí ( thời Tự Đức 1829 - 1883 ) viết: "Vùng đất này xưa thuộc Phước nam Thắng cách Phước Thọ 31 dặm về phía Tây - Nam, là một mũi đất càng nhô ra biển càng lớn.
Phía Bắc mũi đất ôm giếng Ngọc, phía nam nối tiếp tới ghềnh Rái và che chở cho biển Cần Giờ một vịnh lớn được hình thành bởi các dòng sông, chảy ra biển, là chố yên ổn cho tàu thuyền trú ngụ...". Hẳn do địa hình như vậy nên Vũng Tàu còn có một cái tên khác là Thuyền áo ( áo của Thuyền ). Trong bản đồ dinh Trấn Biên của các chúa Nguyễn ( Thế kỷ XVII ) của cuốn Biên Hoà Lược sử toàn biên, Vũng Tàu ngày nay đã được ghi là Thuyền áo.
Đầu thế kỷ XVI trên bản đồ thế giới, Vũng Tàu có tên là : Cinco Chagas Veirdareiras Năm vết thương của chúa cứu thế ), sở dĩ họ gọi như vậy vì nơi đây có năm ngọn núi, người đi biển dễ nhận thấy từ ngoài xa, biểu tượng của niềm vui, của sự cứu giúp đối với họ. Các bản đồ hàng hải của người Bồ Đào Nha đều ghi Vũng Tàu là Cinco Chagas Veirdareiras. Nhưng khi cuốn hải trình nổi tiếng "Biển Phương Đông" (La Neptune Oriental) của một nhà hàng hải Pháp ra đời thì nó lại có tên là Cap Saint Jacques, có người giải thích đó là do cách đọc của các thuỷ thủ Châu Âu nên Cinco Chagas trở thành Silkei Chagas và cuối cùng là Saint Jacques.
(Theo nhà văn Nguyễn Tuân, Saint Jacques là tên một loài sò quen thuộc với người Pháp - Coquille Saint Jacques có mặt tại vùng biển này). Trong thời Pháp thuộc Vũng Tàu có một cái tên khác là Ô Cấp hoặc Cấp. Ô Cấp là phiên âm của tiếng Pháp au Cap trong câu Aller au Cap (đi ra mũi đất). Ô Cấp lúc đầu dùng để chỉ cả vùng đất Vũng Tàu. Khi nói đến Vũng Tàu hay Ô Cấp, nếu để ý đến ngữ nghĩa của các từ sẽ thấy Vũng Tàu không giống như Ô Cấp, bởi Vũng Tàu là vùng nước sâu để cho thuyền đậu, còn Ô Cấp là mũi đất chạy nhô ra biển.
Nhưng chúng đều được dùng chung để chỉ một vùng đất vùng biển. Ở đây khác nhau chỉ là cách đặt tên thao mũi đất chỗ lồi hướng ra biển, người phương Đông đặt tên theo vũng chỗ lõm (hướng vào đất liền), thể hiện một tâm lý nào đó về cách nhìn ra thế giới bên ngoài.
Vùng đất Bà Rịa được người Việt Nam khai phá từ thế kỷ XVII, lúc đầu Bà Rịa thuộc dinh Trấn Biên, tỉnh Gia Định. Năm 1808 vua Gia Long đổi Trấn Biên thành Biên Hoà. Tên Bà Rịa có hai cách giải thích: Theo các cuốn "Gia Định thành thống chí", "Đại Nam nhất thống chí" và một số bộ sử khác thì Bà Rịa vốn là đất của tiểu vương Bà Lỵ (bị Chân Lạp thôn tính). Năm 1622 theo thoả ước của chúa Nguyễn Phúc Nguyên với vua Chân Lạp Chey Chetta II, những nhóm cư dân Việt đầu tiên được phép khai phá xứ Mô Xoài xứ bà Lỵ. Tên Bà Lỵ được người Việt phát âm chệch thành Bà Rịa. Một cách giải thích khác: Vào khoảng năm 1789 có một người đàn bà tục gọi là Bà Rịa người Bình Định đưa dân nghèo vào khai hoang ở Tam Phước (tên gọi ngày nay). Nhờ uy tín và tài năng tổ chức, bà động viên được nọi người ra sức khẩn hoang, xây dựng cuộc sống trên vùng đất mới. Về già, Bà Rịa đem hết tài sản của mình làm việc công ích, lập quỹ cứu tế để trợ giúp người nghèo, rước thầy về dạy học cho trẻ... Bà chết năm 1803 được dân lập đền thờ như một vị phúc thần. Tên của bà đã trở thành tên của tỉnh.
Vị trí địa lý
Bà Rịa - Vũng Tàu là một tỉnh miền Đông Nam Bộ, phía Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, phía Đông Bắc giáp tỉnh Bình Thuận, phía Tây giáp thành phố Hồ Chí Minh, mặt còn lại giáp biển Đông với hơn 200 km bờ biển trong đó có 40 km là bãi tắm.
Bà Rịa - Vũng Tàu có 7 đơn vị hành chính: Thành phố Vũng Tàu, thị xã Bà Rịa và 4 huyện trên đất liền : Châu Đức. Tân Thành, Xuyên Mộc và Long Đất nằm ở kinh độ 107'05" Đông, vĩ độ 10'50" Bắc. Huyện Côn Đảo nằm ở kinh độ 106'35" Đông, vĩ độ 8'42" Bắc có 66 km bờ biển. Thềm lục địa rộng trên 100.000 km2
Thành phố Vũng Tàu
Diện tích : 175,62 Km2
Dân số : 167.529 người
Thị xã Bà Rịa
Diện tích : 89,09 Km2
Dân số : 76.820 người
Huyện Châu Đức
Diện tích : 436,65 Km2
Dân số : 143.301 người Hình 2.1 Bản đồ hành chính tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu
Huyện Tân Thành
Diện tích : 304,86 Km2
Dân số : 80.846 người
Huyện Xuyên Mộc
Diện tích : 631,54 Km2
Dân số : 116.327 người
Huyện Long Đất
Diện tích : 292,95 Km2
Dân số : 132.384 người
Huyện Côn Đảo Hình 2.2 Bãi biển Vũng Tàu
Diện tích : 76,00 Km2
Dân số : 1.796 người
2.1.3 Tự Nhiên Dân Cư
Tổng diện tích tự nhiên: 2006,7 km2.
Diện tích đất tự nhiên: 195,659 ha.
Trong đó
Đất nông nghiệp: 76.590 ha - 39%.
Đất lâm nghiệp: 65.000 ha - 33%.
Đất chuyên dùng: 4.153 ha - 2,1%.
Thổ cư: 8.949 ha - 4,6%.
Chưa khai thác: 38.900 - 21,1%.
Dân cư có tổng số là 719.000 người, trong đó dân ở thành phố, thị trấn là 271.549 người.
Mật độ trung bình: 349,8 người/km2, riêng Vũng Tàu là 912,5 người/km2.
Dân tộc: Chủ yếu là người Việt, ngoài ra có các dân tộc khác như Hoa, Châu Ro, Mường, Tày.
Lực lượng lao động: Chiếm 51,56% số dân.
2.1.4 Khí hậu - Thời tiết
Khí hậu nhiệt đới ôn hoà do chịu ảnh hưởng cảu biển. Hàng năm có hai mùa: khô (từ tháng 11 đến tháng 4), mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 10), nhiệt độ trung bình từ 25 đến 27 độ C, ít gió bão lớn, lượng mưa trung bình 1300mm - 1750mm. Độ ẩm bình quân cả năm là 80%.
Nếu như ở Hà Nội thời tiết còn rất lạnh, mọi người còn phải mặc áo ấm thì ở Vũng Tàu khí hậu vẫn nóng bức, biển Vũng Tàu được gọi là biển nóng, tắm được quanh năm.
Bán đảo Vũng Tàu có nhiệt độ trung bình thấp hơn so với các tỉnh phía nam bởi ba mặt giáp biển Đông, quanh năm lộng gió, nhiệt độ trung bình khoảng 28 độ C, lượng mưa trung bình 1.500mm/năm.
Vũng Tàu có hai mùa rõ rệt tuỳ thuộc vào gió, gió thổi theo hai chiều gần như ngược nhau, trừ những ngày chuyển tiếp. Gió mùa Tây Nam thổi vào mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 10), gió mùa Đông Bắc thổi vào mùa khô (từ tháng 11 đến tháng 4).
Gió thổi mạnh, tốc độ khoảng 35km/giờ. Tháng 4 và tháng 10 là những tháng chuyển mùa, gió thổi nhẹ, ngoài khơi sóng nhỏ. Biển Vũng Tàu ít bão tố hoặc ảnh hưởng của bão không đáng kể vì thế trở thành nơi trú ngụ tốt cho thuyền bè.
Thuỷ triều thuộc loại bán nhật triều, mỗi ngày đều có hai lần thuỷ triều lên xuống. Biên độ triều lớn nhất là 4 - 5 m.
Nhiệt độ nước biển ít thay đổi, quanh năm nhiệt độ tầng mặt nước khoảng 24 - 29 độ C, nhiệt độ tầng đáy khoảng 26,5 - 27 độ C.
Với đặc điểm khí hậu, thời tiết và thiên nhiên ưu đãi, Vũng Tàu đã và sẽ luôn là một trong những trung tâm du lịch hàng đầu của cả nước.
2.1.5 Tài nguyên du lịch
Bà Rịa - Vũng Tàu là một trong những tỉnh có cửa ngõ giao lưu giữa Việt Nam và thế giới, có hệ thống đường biển, đường sông và đường hàng không rất thuận tiện.
Bên cạnh những tiềm năng to lớn về dầu khí. Bà Rịa - Vũng Tàu đang từng bước khẳng định thế mạnh du lịch của mình, nhờ lợi thế về tiềm năng thiên nhiên và nhân văn phong phú. Bà Rịa Vũng Tàu là một quần thể thiên nhiên hài hoà, sơn thuỷ hữu tình, có những dãy Núi Lớn - Núi Nhỏ - Minh Đạm, Núi Dinh che chắn, xa xa biển Đông có Côn Đảo bao bọc, ở gần có Long Sơn quy tụ...
Ngoài những bãi tắm tuyệt đẹp với bờ cát mịn thoai thoải, nói đến Bà Rịa - Vũng Tàu không thể không nhắc đến hai khu rừng nguyên sinh nổi tiếng: rừng cấm Bình Châu - Phước Bửu và rừng quốc gia Côn Đảo với những loài động thực vật quý hiếm, môi trường đa dạng tập hợp nhiều kiểu rừng của các vùng sinh thái.
Đến với khu du lịch suối khoáng nóng Bình Châu, du khách thực sự được thư giãn để tận hưởng bầu không khí ấm áp, làn sương khói la đà len lỏi giữa rừng cây xanh rải rác như giữa chốn thần tiên, đây đó là những khu nhà nghỉ dưỡng, trị bệnh bằng nguồn nước khoáng nóng bổ ích.
Bà Rịa - Vũng Tàu cũng là miền đất có truyền thống văn hoá lịch sử lâu đời với những khu di tích mang đậm dấu ấn của những thời kỳ lịch sử, toàn tỉnh hiện có 29 khu di tích được xếp hạng cấp quốc gia.
Với những lợi thế và tiềm năng to lớn nói trên, thời gian qua du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu đã có những bước phát triển mạnh mẽ, hàng loạt dự án đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực khách sạn, khu vui chơi giải trí, các tuyến, điểm du lịch với tổng số vốn đầu tư lên đến hàng trăm triệu đôla đang hoạt động hết sức nhộn nhịp. Bà Rịa - Vũng Tàu hiện có 65 khách sạn với trên 2300 phòng trong đó có 1100 phòng được công nhận đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Theo quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu (1995 - 2010) với 5 trung tâm kinh tế - du lịch, trong tương lai không xa, Bà Rịa - Vũng Tàu sẽ phát triển mạnh mẽ, tương xứng với vị thế và tiềm năng của một trung tâm du lịch quan trọng của cả nước.
Thành phố Vũng Tàu
Thành phố Vũng Tàu cách thành phố Hồ Chí Minh 125km và cách thành phố Biên Hoà 90 km. Vũng Tàu giống như một hòn đảo bởi nó được bao bọc ba mặt là biển và sông án ngữ mặt thứ tư.
Bờ biển
Thành phố có bờ biển trải dài 20km, hầu hết là ghềnh đá nhấp nhô từ chân Núi Lớn và Núi Nhỏ chạy ra biển.Từ rặng Bồng Đào đến mũi Nghinh Phong, bờ biển được tạo bởi những vách đá dựng đứng. có một cửa sông và bờ vịnh kín gió thuận lợi cho tàu bè thả neo.
Đất và đồi cát
Ngoài hai ngọn núi đá Núi Lớn và Núi Nhỏ, phần đất còn lại vủa Vũng Tàu được cấu tạo bởi những lớp đất cát. Loại đất này thích hợp với các loại cây: xoài, mãng cầu, nhãn được trồng nhiều trong thành phố.
Thành phố Vũng Tàu có dãy đồi cát nằm song song với bãi biển chạy từ chân Núi Nhỏ đến Cửa Lấp dài khoảng 10km, cao từ 4m đến 12m. Nhờ dãy đồi cát này mà các luồng gió mạnh từ biển thổi vào theo hướng Đông Nam không làm thiệt hại hao màu, cây cối.
Núi non
Thành phố Vũng Tàu có hai trái núi nằm ở phía Tây Nam thành phố:
Núi Lớn (còn gọi là tương kỳ) diện tích khoảng 400ha gồm các đỉnh Núi Lớn (245m), Vũng Mây (220m), Hòn Sụp (215m).
Núi Nhỏ (còn gọi là Tao Phùng) cao 138m, diện tích khoảng 180ha Ao hồ
Sau dãy đồi cát chạy song song với bãi biển là một hồ sen trải dài từ chân Núi Nhỏ đến khu Thắng Nhất, sau hồ sen là cánh rừng chạy đến rạch Cây Khế hết địa phận thành phố Vũng Tàu.
Hồ sen rộng 400ha là một thắng cảnh và là nguồn cung cấp thực phẩm dồi dào. Người ta đánh bắt cá cua, lươn, ếch... và thu hoạch hột sen, ngó sen trong hồ để chế biến các đặc sản cho du khách.
Sông rạch
Thành phố Vũng Tàu chỉ có một con sông lớn nhất là sông Dinh. Sông bắt nguồn từ núi Dinh, chảy qua Phước Lễ, xuôi theo hướng Tây Bắc Vũng Tàu dài 11 km, chỗ rộng nhất 1000m chỗ hẹp nhất 300m, hơi sâu nhất 25m.
Phía Đông Bắc thành phố có rạch Cây Khế dài 6 km. Rạch Bà dài 7,9km nằm chắn ngang, làm ranh giới giữa khu Thắng Nhất và Thắng Nhì.
Tại khu Thắng Nhì, phía sau cù lao Bến Đình có rạch Bến Đình dài 5,5km, phía Đông Phước Thắng nơi Cửa Lấp có 3 rạch dẫn nước biển vào thành phố là rạch Ông Nam, rạch Suối Nước và rạch Sông Cái. Sông rạch ở Vũng Tàu cũng là những cảnh quan đẹp.
Đường sá
Đường vòng Núi Nhỏ (đường Hạ Long) chạy từ Bãi Trước đến mũi Nghinh Phong ra đường Thuỳ Vân (Bãi Sau) dài 6km ôm sát chân núi, chạy lên dốc cao, có đoạn chạy sát biển, có chặng luồn giữa những khu vực cây cối xanh tươi. Đi dạo theo con đường này, du khách được hít thở không khí trong lành, hưởng gió biển, ngắm cảnh biển bao la và những cảnh sắc luôn thay đổi dọc theo bên đường.
Đường vòng Núi Lớn (đường Trần Phú) chạy quanh sườn Núi Lớn, từ Bến Đình - Thích Ca - Phật Đài - Bãi Dâu đến Bãi Trước dài 10km, cách mặt biển 40 - 50m một bên là núi, phía dưới là biển, hùng vĩ hơn đường vòng Núi Nhỏ, có nhiều thắng cảnh dọc đường như tượng Đức Mẹ, núi Ghềnh Rái, Bến Đá Điện Bà...
Các mũi đá nơi có nhiều gió mà du khách thích đến là mũi Nghinh Phong, ở đây gió thổi quanh năm. Ngoài ra còn có mũi Đá trước toà Bạch Dinh, mũi đá Cao Trang ở đầu đường vòng Núi Lớn, cũng là những nơi buổi chiều du khách thường đến dạo chơi.
Trên đường vòng quanh Núi Nhỏ sau khi qua khỏi bãi Vọng Nguyệt, nếu để ý du khách sẽ thấy một hòn đảo nhỏ như một tría núi nhô lên mặt nước. Khi nước ròng hạ thấp người ta có thể đi bộ ra đây, qua một bãi đá lởm chởm làm cầu, đó là hòn Bà.
2.1.6 Thông Tin Về Các Khu Công Nghiệp
Theo Quyết định số 742/QĐTTg ngày 06/10/1996 của Thủ tướng Chính phủ phê quyệt quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu thời kỳ 2001-2010, tỉnh BR-VT sẽ phát triển 09 KCN với tổng diện tích 4.460 ha.
Đến nay toàn tỉnh đã phát triển được 9 KCN với tổng diện tích trên 3.591 ha, trong đó 2 khu mới thành lập trong năm 2006 là Mỹ Xuân B1-Tiến Hùng, Mỹ Xuân B1 - Đại Dương đang trong giai đoạn bồi thường-GPMB, đầu tư các hạng mục hạ tầng để thu hút dự án; 7 khu còn lại gồm Phú Mỹ I, Đông Xuyên, Mỹ Xuân A, Mỹ Xuân A2, Cái Mép, Phú Mỹ II, Mỹ Xuân B1 đã thu hút 130 dự án với tổng vốn đầu tư trên 6,7 tỷ USD (trong đó có 62 DA FDI, vốn đầu tư 4,28 tỷ USD) và có 6 khu (trừ KCN Mỹ Xuân B1) đã lấp đầy diện tích đất cho thuê từ 80% trở lên. Số dự án hoạt động sản xuất – kinh doanh đến nay là 86 dự án, hàng năm đã đóng góp cho ngân sách nhà nước khoảng 2.500 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho 19.000 lao động trực tiếp với thu nhập bình quân 1 triệu đồng/tháng. Giá trị sản xuất công nghiệp tại các KCN chiếm tỷ trọng 38% so với giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh tính cả dầu khí, nếu trừ dầu khí chiếm tỷ trọng 86%. Hoạt động từ các KCN đã có tác động tích cực tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong tổng giá trị sản xuất của toàn tỉnh.
Hình2.4 Ảnh quy hoạch tổng thể các kcn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
KCN Phú Mỹ I
Diện tích: 954,4 ha, diện tích đất cho thuê : 651 ha, diện tích đã cho thuê : 493,96 ha, diện tích đất còn lại : 157,05 ha đạt tỷ lệ lấp đầy 75,88%
KCN Đông Xuyên
Diện tích: 160,8 ha, diện tích đất cho thuê: 128 ha, diện tích đã cho thuê: 128 ha đạt tỷ lệ lấp đầy 100 %
KCN Long Sơn
Tổng diện tích đất quy hoạch: 1.250ha Trong đó: Đất nhà máy lọc dầu số 3: 480 ha Đất khu tổ hợp hóa dầu 400 ha Đất nhà máy điện 100 ha Đất công nghiệp khác 270 ha
KCN Mỹ Xuân A
Diện tích đất KCN : 301 ha; diện tích đất cho thuê : 301 ha; diện tích đã cho thuê 1,47 ha; diện tích còn cho thuê : 43,40 ha; tỷ lệ lấp đầy : 80,70%.
KCN Mỹ Xuân A2
- Diện tích: 422,22 ha trong đó diện tích đất cho thuê 292,31 ha. Diện tích đã cho thuê: 129,3 ha, Diện tích còn cho thuê: 163 ha, Tỷ lệ lấp đầy: 44,23%.
KCN Mỹ Xuân B1 - Tiến Hùng
Diện tích: 200 ha. Diện tích đất cho thuê: 140 ha. Diện tích đã cho thuê: 0 ha. Diện tích còn cho thuê: 140 ha.
KCN Mỹ Xuân B1 - Đại Dương
Diện tích: 145,7 ha. Diện tích đất cho thuê: 95 ha. Diện tích đã cho thuê: 0 ha. Diện tích còn cho thuê: 95 ha.
KCN Châu Đức
Diện tích KCN: 1.550 ha trong đó diện tích đất cho thuê 941 ha.
KCN Mỹ Xuân B1- CONAC
Diện tích: 227,14 ha. Diện tích đất cho thuê: 157,71 ha. Diện tích đã cho thuê: 48,13 ha đạt tỷ lệ lấp đầy 30,52%. Diện tích còn cho thuê: 109,58 ha.
KCN Cái Mép
- Diện tích: 670 ha. Diện tích đất cho thuê: 449 ha; diện tích đã cho thuê: 182,48 ha; diện tích còn cho thuê: 266,52 ha; tỷ lệ lấp đầy: 40,64%.
KCN Phú Mỹ II
Diện tích: 620,6 ha. Diện tích đất cho thuê: 372,4 ha. Diện tích đã cho thuê: 160 ha. Diện tích còn cho thuê: 212,4 ha. Tỷ lệ lấp đầy 42,96%.
KCN Phú Mỹ III
Diện tích KCN: 942 ha, trong đó: Khu công nghiệp tập trung: 802 ha Khu cảng và kho bãi: 140 ha
2.2 THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG
2.2.1 Hiện trạng môi trường nước
Theo nhận định của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Việt Nam đã và đang chịu ảnh hưởng nặng nề từ biến đổi khí hậu (BĐKH), trong đó, BR-VT là một trong những tỉnh chịu tác động mạnh nhất.
Trên cơ sở phân tích số liệu mưa và nước bốc hơi hơn 30 năm qua cũng như sự xuất hiện cảnh quan bán khô hạn ở một số vùng trong tỉnh, các nhà khoa học cho rằng: BR-VT đã chớm chuyển sang trạng thái bán khô hạn, nằm trong ngưỡng thiếu nước nghiêm trọng. Nếu tính theo chuẩn cấp nước cho các nhu cầu sinh hoạt và sản xuất 2.500 m3/người/năm là bền vững thì khả năng cung cấp của nguồn tài nguyên nước BR-VT hiện nay chỉ đạt 35,7%. Xu thế bán khô hạn sẽ tiếp tục gia tăng do BĐKH. Hiện tượng nhiễm mặn và ô nhiễm nước ngầm cũng đã xảy ra. Cụ thể, mỏ nước ngầm Bà Rịa hiện đã nằm sát biên mặn (1mg/lit), có nhiều khả năng bị nhiễm mặn là rất lớn…
Hiện tượng xói lở bờ biển và nước biển dâng cao là một mối đe dọa nguy hiểm cho BR-VT. Theo tính toán về khả năng dâng cao của mực nước biển Việt Nam, đến năm 2050 nước biển sẽ dâng cao thêm 33cm. Nếu vậy, một phần dải đất thấp ven bờ phía Đông của tỉnh - nơi tập trung cơ sở hạ tầng du lịch, nghề nuôi trồng và chế biến thủy sản, nơi ở của hàng vạn hộ gia đình sẽ bị sóng phá hủy. Tình hình còn có thể nguy hiểm hơn nếu mực nước biển dâng cao thêm 1m theo dự báo của các nhà khoa học Anh. Lúc này, vùng đất thấp dọc sông Thị Vải (nơi tập trung các khu công nghiệp) sẽ bị đe dọa. Theo đánh giá của Sở Khoa học và Công nghệ, hiện tượng xói lở bờ biển ở Vũng Tàu hiện đã diễn ra, bình quân hàng năm đường bờ khu vực Cửa Lấp (phường 12, thành phố Vũng Tàu) bị xói lở từ 4-5m, có nơi lên đến 10m. Theo thống kê của UBND phường 12, tại khu vực Trại Nhái nằm ở miệng sông Cửa Lấp từ năm 2002 đến nay biển đã tiến vào đất liền gần 100m.
Tình trạng ô nhiễm nguồn nước trên địa bàn tỉnh là do phần lớn các đô thị nhất là các khách sạn, nhà hàng chưa xây dựng đầy đủ hệ thống thoát nước bẩn, nước thải chỉ được xử lý qua hệ thống tự hoại hoặc bán tự hoại, có nơi còn xả thẳng xuống sông, suối, ao-hồ, ngoại trừ một số phường trên địa bàn thi xã Bà Rịa được đấu nối đưa về xử lý tại nhà máy xử lý nước thải sinh hoạt tập trung của tinh .Các KCN, CCN của tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu chỉ mới có chủ trương và đang tìm nhà đầu tư để xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung. Các cơ sở SXCN nằm ngoài các khu quy hoạch công nghiệp đã từng bước đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải nhưng nước thải sau xử lý vẫn chưa đảm bảo quy định về xả thải hoặc có xây dựng nhưng còn vận hành mang tính chất đối phó.
Nước thải ở các bệnh viện, trung tâm y tế huyện cũng chỉ xử lý sơ bộ đảm bảo yêu cầu theo quy định..Nước mặt còn bị ô nhiễm bởi tình trạng xói mòn và rửa trôi gây Mất cân bằng sinh thái trong phát triển nông nghiệp thể hiện rõ nét ở tình trạng dịch bệnh phát sinh trên diện rộng do ONMT nước ở các mô hình nuôi thâm canh các tra, các dịch bệnh cho ngành chăn nuôi gia súc, gia cầm, dịch bệnh lúa,… môi trường nước trên các sông thuộc hệ thống sông Đồng Nai, sông La Ngà, sông Krôngnô và các hồ (Xuân Hương, Chiến Thắng, Tuyền Lâm, Đankia,…) trong tỉnh đã có dấu hiệu ô nhiễm chất hữu cơ và vi
sinh, và đang có nguy cơ gia tăng gây ra những biến đổi trong cân bằng sinh thái. Ở các vực nước mặt có sự lưu thông nước thấp, sự mất cân bằng sinh thái thể hiện rõ hơn do hiện tượng phú dưỡng. Đây là vấn đề các nhà môi trường sinh thái cần đặc biệt quan tâm và có cái nhìn lâu dài vì nó có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng trong tương lai.
Hình 2.5 Nguồn nước bị ô nhiễm do rác sinh hoạt
2.2.2 Hiện trạng môi trường không khí
TP. Vũng Tàu từ năm 1960 đến nay nhiệt độ đã tăng 20C. Những thay đổi về nhiệt độ đang tiềm ẩn nhiều hệ lụy như nước biển dâng, xói lở bờ biển, thiếu nước ngọt
Tốc độ đô thị hoá diễn ra nhanh, mạnh đã gây ra hàng loạt các vấn đề và môi trường không khí nói riêng. Theo thống kê của Sở Tài nguyên Môi trường và Nhà đất Tinh Bà Rịa Vũng Tàu, mỗi năm tỉnh phải tiếp nhận khoảng 5.000 tấn bụi, khói; 5.000 tấn khí SO2; 25.000 tấn khí CO2 từ các cơ sở công nghiệp thải ra. Ngoài ra, các phương tiện giao thông ô tô, xe máy cũng được xác định như là một nguồn phát thải lớn. Những kết quả nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng, chất lượng không khí ở khu vực chưa bị ô nhiễm bởi CO, SO2, NO2 và bụi lơ lửng (TSP), ngoại trừ tại các khu công nghiệp và các khu vực gần các tuyến đường giao thông liên tỉnh, đường cao tốc. Còn khu vực tại các khu công nghiệp, tuyến giao thông chính đều bị ô nhiễm nhưng ở các mức độ khác nhau. Tại các tuyến giao thông, ô nhiễm bụi lơ lửng (TSP) là chủ yếu với nồng độ đo được cao hơn tiêu chuẩn cho phép từ 0.5 – 1.5 lần . Những khu vực đang thi công các công trình xây dựng, giao thông, đô thị mới,… nồng độ TSP đo được thường cao hơn 3- 5 lần so với TCCP . Nồng độ các khí SO2, NO2 trung bình hàng năm tăng khoảng từ 10 – 20 %, nồng độ CO tại các trục giao thông chính cao hơn từ 1,5 đến 3,6 lần so với TCCP
Các loại thực vật bị ảnh hưởng nhiều hơn so với động vật: Về bản chất,khả năng thích nghi trong môi trường bị ô nhiễm hoặc BĐKH của thực vật kém hơn so với các loài động vật. Một điều tra đã cho thấy các loài thực vật trên cạn bị ảnh hưởng gấp 3 lần do ô nhiễm không khí so với động vật. Ngược lại, trong HST nước ngọt, mức độ ảnh hưởng của thực vật lại ít hơn nhiều so với động vật. Một nghiên cứu ở Thuỵ Điển cho thấy: khi độ pH của nước giảm 1 đơn vị, sự đa dạng của động vật giảm 40%, trong khi tỷ lệ này ở thực
vật là 25%.Ô nhiễm không khí tác động đến các nhóm động thực vật khác nhau. Sự tác động của ô nhiễm không khí đối với các loài động vật chủ yếu là tác động gián tiếp, thông qua việc mất các nguồn thức ăn hoặc làm thay đổi cơ chế sinh sản. Trong số các HST bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm không khí đô thị, HST nước ngọt bị ảnh hưởng nhiều nhất
Cho đến nay, các nhà khoa học đều cho rằng ô nhiễm không khí đô thị là một nhân tố làm suy giảm sự ĐDSH. Sự ảnh hưởng của ô nhiễm không khí liên quan chủ yếu đến việc suy giảm, làm yếu đi các loài mà không phải là gây ra tuyệt chủng. Tuy nhiên, với xu hướng tiếp tục ô nhiễm như hiện nay thì một số loài động thực vật bị mất đi là điều không tránh khỏi.
2.2.3 Hiện trạng môi trường đất
Có thể phân loại đất bị ô nhiễm theo các nguồn gốc phát sinh hoặc theo các tác nhân gây ô nhiễm. Nếu phân theo nguồn gốc phát sinh ta có:
- Ô nhiễm đất do các chất thải sinh hoạt.
- Ô nhiễm đất do chất thải công nghiệp.
- Ô nhiễm đất do hoạt động nông nghiệp.
Tuy nhiên, môi trường đất có những đặc thù và một số tác nhân gây ô nhiễm có thể cùng một nguồn gốc nhưng lại gây tác động bất lợi rất khác biệt. Do đó, người ta còn phân loại ô nhiễm đất theo các tác nhân gây ô nhiễm:
- Ô nhiễm đất do tác nhân hoá học: Bao gồm phân bón N, P (dư lượng phân bón trong đất), thuốc trừ sâu (chlo hữu cơ, DDT, lindan, aldrin, photpho hữu cơ ...), chất thải công nghiệp, hoạt động khai thác khoáng sản và sinh hoạt (kim loại nặng, độ kiềm, độ axit ...).
- Ô nhiễm đất do tác nhân vật lý: Nhiệt độ (ảnh hưởng đến tốc độ phân huỷ chất thải của sinh vật), chất phóng xạ (U ran, Thori, Sr90, I131, Cs137).
Theo số liệu điều tra, hiện nay vấn đề ONMT đất trên địa bàn tỉnh BRVT chủ yếu là do tình trạng sử dụng hoá chất trong nông nghiệp như phân hoá học, thuốc bảo vệ thực vật một cách tràn lan, không có sự kiểm soát của ngành chức năng đã gây môi trường đất, nước ngày càng ô nhiễm nặng hơn. Bên cạnh đó, các hoạt động khai thác khoáng sản cũng gây ra những tác động bất lợi đến môi trường đất. Ngoài ra, nguồn chất thải sinh hoạt, chất thải chăn nuôi và SXCN chưa được xây dựng hệ thống xử lý hoàn chỉnh cũng đang góp phần gây suy thoái môi trường đất.
Hệ thống quan trắc chưa hoàn chỉnh cùng với việc còn khó khăn về cơ sở vật chất cũng như kinh phí cho quan trắc môi trường còn hạn chế nên hiện tại tỉnh chưa thực hiện quan trắc các chỉ tiêu ONMT đất nên không đánh giá được tình hình ONMT đất trên địa bàn tỉnh. Năm 2009 là năm đầu tiên tiến hành quan trắc chất lượng đất. Các thông số quan trắc môi trường đất chủ yếu là: thành phần cơ giới, tỷ trọng, pH, , EC, P2O5, K2O, Tổng nitơ, Tổng hữu cơ, P2O5 tổng số, K2O5 tổng số, K+ trao đổi, Na+ trao đổi, Asen.
Môi trường đất ô nhiễm thì các loại sinh vật trong đất sẽ ảnh hưởng có loài sẽ chết như giun đất, kéo theo sự sinh trưởng kém của thực vật, suy giảm độ thoáng khí của đất rễ cây làm ảnh hưởng tới quá trình quang hợp dẫn đến ảnh hưởng tới môi trường sống của chúng ta. Cây có vai trò rất lớn đến việc giữ môi trường trong sạch, nếu môi trường đất bị ảnh hưởng dẫn đến nhiều ảnh hưởng khác không tốt
2.2.4 Đa dạng sinh học
Nếu được điều tra đầy đủ, chắc chắn số lượng các loài động và thực vật được ghi nhận ở BRVT sẽ rất phong phú . Tính ĐDSH về các loài thực vật, động vật không chỉ thể hiện ở chỗ nhiều loài, mà còn có nhiều loài có giá trị bảo vệ đặc biệt không những ở trong nước mà có giá trị toàn cầu.
Côn đảo là một vùng đảo tương đối xa bờ, hoạt động của con người chưa làm biến đổi lớn tính tự nhiên của các hệ sinh thái biển. Rạn san hô ở đây còn giữ được những đặc tính đặc trưng cho vùng biển. Các nghiên cứu cho thấy san hô có độ phủ trung bình là 42,6%. Trong số rạn san hô nghiên cứu, có đến 74,2% san hô đạt độ phủ cao, chỉ có 2,8% thuộc loại phủ thấp. Mật độ cá rạn san hô ở những điểm nghiên cứu đạt trung bình 400 con/m2. Đây là giá trị rất cao so với các vùng biển ven bờ khác ở Việt Nam.
Có thể coi Côn Đảo như một cầu nối cho sự phát tán sinh vật từ trung tâm đa dạng của vùng biển Ấn Độ - Tây Thái Bình dương đến vùng biển ven bờ Việt Nam.
Chế độ dòng chảy Biển Đông với sự thay đổi hai mùa gió chính đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển ấu trùng sinh vật biển từ Côn Đảo đi về phía Bắc và phía Nam. Ngược lại, vùng biển này dễ dàng thu nhận nguồn phát tán từ các nơi khác. Do vậy, thành phần loài sinh vật biển ghi nhận ở đây tương đối đa dạng. Cho đến nay, đã phát hiện 285 loài san hô cứng, 202 loài cá, 153 loài thân mềm, 130 loài giun nhiều tơ, 110 loài giáp xác, 46 loài da gai. TS Võ Sĩ Tuấn, phó viện trưởng Viện Hải dương học Nha Trang cho biết: Côn Đảo được xếp vào vùng có độ đa dạng cao về giống loài của san hô tạo rạn. Thành phần thân mềm cũng được coi là đa dạng nhất khi so sánh với các quần đảo lớn khác ở Việt Nam.
Về đa dạng sinh thái, vùng nước nông Côn Đảo có cả rạn san hô, thảm cỏ biển và rừng ngập mặn. Trong đó, rạn san hô quần cư là khá phổ biến, có thể tìm thấy ở hầu hết vùng ven đảo. Loại rạn riềm điển hình chiếm đến 59%, chứng tỏ rạn san hô này có điều kiện phát triển trong một thời gian dài. Cỏ biển tuy không phân bố rộng nhưng tập trung trên diện tích tích lớn, khoảng trên 200ha. Đa dạng sinh thái tạo điều kiện cho sự phát triển của các loài sinh vật quý hiếm. Nghiên cứu về môi trường biển cho thấy chưa có sự ô nhiễm biển ở đây.
Hiện nay, Côn Đảo là vùng có nhiều rùa biển nhất ở Việt Nam, với hai loài thường gặp là đồi mồi và tráng đông. Có 17 bãi cát được ghi nhận là bãi đẻ của rùa, trong đó có đến bốn bãi được ghi nhận là có
1.000 rùa mẹ lên đẻ hàng năm. Côn Đảo cũng là nơi duy nhất ở Việt Nam còn tồn tại một quần thể bò biển (Dugong dugong) có cuộc sống không tách rời các thảm cỏ biển.
Đến nay, vẫn chưa có nghiên cứu về mối quan hệ giữa nguồn lợi ven biển và các hệ sinh thái nước nông Côn Đảo. Dù sao, cùng với sự tồn tại của rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn và mối quan hệ sinh thái giữa chúng là môi trường thuận lợi cho sự sinh sản, ươm giống của nhiều nguồn lợi. Các nghiên cứu của Viện Hải dương học về trứng cá, cá bột ở VQG Côn Đảo cho thấy số lượng trứng cao hơn rất nhiều lần so với các vùng biển khác của Việt Nam.
BRVT là tỉnh được đánh giá là có tính ĐDSH rất cao, chứa đựng một nguồn gen phong phú. Đây là nguồn tài nguyên quan trọng đảm bảo sự phát triển nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực, đóng góp quan trọng đối với phát triển kinh tế đất nước. Sự đa dạng gen trong các quần thể các loài động, thực vật là cần thiết giúp duy trì quần thể các loài nguy cấp, quý, hiếm, làm tăng khả năng phục hồi của các quần thể này trước những biến cố như
dịch bệnh từ các quần thể cây trồng vật nuôi, sự xâm lấn của các loài ngoại lai, sự BĐKH nhiều loài đang bị đe doạ tuyệt chủng, suy giảm quần thể. Trong một số trường hợp, đa dạng gen của quần thể các loài trọng tâm cũng đang bị suy thoái do mất nơi sống và chia cắt manh mún sinh cảnh, giảm hành lang ĐDSH, làm cô lập các quần thể này. Các mối đe doạ đối với tính ĐDSH của tỉnh cũng đa dạng và có tác động với nhau
Hình 2.7 Rùa côn Đảo
2.3 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
2.3.1 Tình trạng khai thác gỗ
Những gốc cây sến, dầu, sao, vênh vênh, vôi đất, gõ… có đường kính từ 30-40cm của rừng nguyên sinh thuộc địa bàn xã Phước Thuận, Xuyên Mộc bị tàn phá nặng nề. Lâm tặc công khai đưa máy cưa hạ cây và vận chuyển đi ra khỏi rừng ngay giữa ban ngày.
sau đó dân lấn chiếm rừng làm rẫy hoặc trồng cây công nghiệp…rừng bị mất dần:
Khai thác gỗ, lâm sản ngoài gỗ trái phép: là một mối đe doạ nghiêm trọng do hoạt động này phần lớn tập trung vào một số loài cho sản phẩm có chất lượng và giá trị kinh tế cao theo yêu cầu của người tiêu dùng và thường là khai thác quá mức, đe doạ một số loài trước nguy cơ tuyệt chủng, làm suy giảm nghiêm trọng chất lượng và sản lượng rừng, không còn là sinh cảnh thích hợp của nhiều loài động vật hoang dã.
Việc khai thác lâm sản có kiểm soát, xử lý thực bì, cây gỗ trên các khu vực rừng có chất lượng thấp để trồng rừng kinh tế, trồng cây cao su… mặc dù đảm bảo tuân thủ các quy trình kỹ thuật nhưng cũng có một số ảnh hưởng như việc mở đường phục vụ vận chuyển gỗ tạo điều kiện xâm nhập thuận lợi hơn cho các đối tượng khai thác gỗ, lâm sản, săn bắn động vật rừng trái phép, lấn chiếm đất rừng; diện tích đất rừng sau khi xử lý thực bì và làm đất trồng rừng cũng như các tuyến đường đất thường bị rửa trôi xói mòn đất vào mùa mưa làm tăng lượng phù sa bồi lắng ở các hệ thống sông suối và hồ đập; sự vận
hành của các phương tiện cơ giới gây tiếng động, làm cho các loài động vật hoang dã phải di chuyển sang nơi khác ... Hình 2.7 gổ lớn bị khai thác lậu
2.3.2 Săn bắt, buôn bán trái phép động vật rừng
Việc săn bắt động vật hoang dã trái phép vì mục đích thương mại như chế biến thức ăn đặc sản, dược liệu, nuôi làm cảnh, cũng như săn bắt do nhu cầu của người dân sống gần rừng, việc khai thác nguồn lợi thuỷ sản mang tính huỷ diệt tại các thuỷ vực như sử dụng thuốc nổ, dùng lưới có mắt lưới quá nhỏ… đã làm cạn kiệt, dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng của nhiều loài. Ở một số vùng, săn bắt quá mức làm cho quần thể sinh sản của các loài
động vật hoang dã thu nhỏ lại và phân tán rải rác, dễ bị tổn thương do bệnh tật hay tác động từ các loài ngoại lai xâm lấn. Các cơ hội phục hồi HST tự nhiên cũng sẽ làm giảm đi, đặc biệt đối với các loài bị săn bắn có chức năng giúp phát tán hạt giống hay thụ phấn
Hình 2.8 thu giữ động vât bị giết
2.3.3 Tình hình đánh bắt thủy sản
Theo tính toán của ngư dân, đánh bắt vùng ven bờ tuy không đem lại hiệu quả kinh tế cao nhưng tiêu hao ít nhiên liệu, mỗi chuyến biển ít nhiều gì cũng có lời, chứ không bị lỗ. Thực tế đó đã đưa nghề cá đi ngược lại định hướng phát triển chung. Ông Nguyễn Văn Ngọc, ngư dân phường 12 (TP. Vũng Tàu) cho biết: Tại khu vực Cửa Lấp thuộc các phường 11 và 12 (TP. --Vũng Tàu) cho tới các tuyến sông Dinh, sông Thị Vải... trung bình mỗi ngày có khoảng 30-40 chiếc tàu đánh bắt, tàu nào đi lâu nhất cũng chỉ có 3-5 ngày là về, số tàu nhỏ đánh bắt theo buổi cũng tăng lên gấp 2-3 lần. “Cá thì ít tàu thì nhiều, tranh nhau đánh riết rồi cá tôm cũng cạn kiệt”
Hiện nay nguồn lợi thủy sản tại các vùng biển ven bờ đang giảm mạnh về sản lượng và trọng lượng. Tỷ lệ cá tạp trong một mẻ lưới chiếm tới 70%. Một số loài hải sản có giá trị cao mà trước đây ngư dân đánh bắt với số lượng lớn như: cá trích, tôm hùm, bào ngư, sò điệp và mực... thì nay đã trở nên khan hiếm. Theo Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi Thủy sản, một số loài đặc sản như: tôm he, cá song và các loài nhuyễn thể trai ngọc, tu hài… trước đây có ở vùng biển ven bờ, nhưng giờ đang có nguy cơ tuyệt chủng. Việc gia tăng tốc độ khai thác như hiện nay, nhiều hệ sinh thái tiêu biểu, nơi cư trú, nơi cung cấp nguồn dinh dưỡng, bãi đẻ cho các loài thủy sản đang bị phá hủy và đe dọa. Ông Nguyễn Văn Nhàn, Chi cục trưởng Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản cho biết: Công tác quản lý, bảo vệ nguồn lợi thủy sản còn gặp nhiều khó khăn, do nhiều ngư dân chưa quan tâm tới lợi ích cộng đồng, sử dụng phương tiện hủy diệt nguồn lợi cao. Trong khi đó, số lao động này thường là người nghèo, không có điều kiện đầu tư lớn để đánh bắt xa bờ, cũng không có trình độ chuyên môn để có thể chuyển đổi sang nghề mới. Do đó, số lao động tham gia khai thác ven bờ tăng hàng năm.
2.3.4 Hiện trạng quản lý chất thải
2.3.4.1 Thu gom và xử lý chất thải rắn đô thị và công nghiệp
Việc thu gom và xử lý CTR theo phương thức chôn lấp hợp vệ sinh chỉ mới thực hiện được ở TP.Vũng Tàu (100% lượng rác thu gom) và một phần ở huyện Long Điền Tỷ lệ thu gom CTRSH ở đô thị trên toàn tỉnh mới đạt 70%. Hiện tại Công ty Công trình Đô thị vẫn là đơn vị thu gom rác chính trên địa bàn tỉnh và Công ty đã được đầu tư 01 lò đốt rác có công suất 250 kg rác/giờ, lò đốt này chủ yếu phục vụ cho xử lý CTRYT và một số loại CTRNH khác.
2.3.4.2 Thu gom và xử lý chất thải rắn công nghiệp
Hầu hết các CTRCN phát sinh từ các cơ sở SXCN trên địa bản tỉnh đều được thu gom và tập trung đưa về bãi rác để xử lý. Do trình độ công nghệ còn thấp nên vấn đề tái chế và tái sử dụng CTRCN chưa được các doanh nghiệp chú trọng, công tác phân loại rác tại nguồn chưa được quan tâm đúng mức. Từ khi văn bản và thông tư về quản lý CTNH có hiệu lực, các doanh nghiệp trên địa bàn cũng có ý thức chấp hành về vấn đề này. Hiện tại đã cấp
được 07 sổ đăng ký chủ nguồn thải CTNH, tuy nhiên vấn đề này đang gặp rất nhiều khó khăn vì lượng CTNH sản sinh từ các doanh nghiệp không nhiều, và trên địa bàn tỉnh cũng chưa có đơn vị nào có khả năng thu gom và xử lý.
2.3.4.3 Thu gom và xử lý chất thải rắn y tế
CTRYT chưa được thu gom xử lý tập trung, tuy nhiên tại các cơ sở y tế việc phân loại CTRYT tại nguồn bước đầu đã được thực hiện, nhưng phương thức xử lý chủ yếu bằng biện pháp chôn lấp.
2.3.4.4 Chất thải rắn trong sản xuất nông nghiệp
Chất thải rắn nông nghiệp sau thu hoạch – CTRSTH, hầu hết là loại phế thải có thể tận dụng do chứa các thành phần dinh dưỡng, các chất hữu cơ và vô cơ có ích, rất dễ bị thối rữa và phân huỷ gây ô nhiễm môi trường. Hiện nay, khối lượng CTRSTH thải ra rất lớn, nhưng chỉ một phần nhỏ được tận thu, số còn lại hầu hết chưa được quan tâm đúng mức, thiếu vốn, thiếu công nghệ, kỹ thuật,…trong quá trình xử lý và tận thu.
Xử lý CTR nói chung và CTRSTH nói riêng là nhu cầu bức xúc cho sự phát triển nền nông nghiệp bền vững. Thực trạng ô nhiễm môi trường do CTRSTH là vấn đề cần quan tâm vì nó không những ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái và sức khoẻ con người mà còn hạn chế sự phát triển của nền kinh tế, tăng giá thành sản xuất, giảm sức cạnh tranh nông sản chế biến.
Để phát triển nền nông nghiệp bền vững có năng suất, chất lượng cao, cần có ngành công nghiệp bảo quản chế biến mạnh với phương châm: năng suất, chất lượng cao, tận dụng tối đa nguyên liệu, phụ liệu; sử dụng, xử lý có hiệu quả sau thu hoạch. Việc nghiên cứu, đánh giá tình hình CTRSTH như thực trạng sử dụng, tác động của chúng đến môi trường cần được tiến hành một cách toàn diện, trên qui mô lớn. Có như vậy, việc hoạch định chính sách và giải pháp vĩ mô về quản lý và xử lý CTRSTH nhằm giảm thiểu các tổn thất
về kinh tế và ô nhiễm môi trường mới chính xác và hiệu quả.
2.4 CƠ CHẾ , CHÍNH SÁCH , LUẬT PHÁP VỀ QUẢN LÝ BẢO VỆ TNTN
2.4.1 Về cơ cấu tổ chức quản lý môi trường
Qua thời gian 05 năm hoạt động kể từ năm 2005, Phòng Môi trường thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường (nay là Chi cục Bảo vệ Môi trường) là bộ phận trực tiếp thực hiện công tác quản lý môi trường. Với biên chế là 04 cán bộ đã không đáp ứng được đòi hỏi ngày càng phức tạp của công tác QLMT nên việc hình thành bộ máy QLMT địa phương từ cấp tỉnh đến cấp huyện, cấp xã là đòi hỏi tất yếu. Thực tế hiện nay:
- Cấp tỉnh, đã thành lập tổ chức Chi cục BVMT với 10 cán bộ chuyên trách công tác BVMT, chính thức đi vào hoạt động vào đầu năm 2010.
- Lực lượng cảnh sát môi trường của tỉnh được thành lập tháng 10/2008 đến nay đã có 18 cán bộ, chiến sĩ.
- Ở cấp huyện, riêng cán bộ làm công tác QLMT được định biên 1-2 biên chế thuộc trong Phòng TNMT.
Ngoài ra, công tác BVMT địa phương còn có sự góp sức của Trung tâm quan trắc Tài nguyên và Môi trường, các Trung tâm trực thuộc Sở Khoa học Công nghệ
2.4.2 Về mặt tài chính
Năm 2006 kinh phí dành cho công tác QLMT là 180 triệu.Từ khi Luật BVMT 2005 có hiệu lực, UBND Tỉnh phấn đấu dành 1% thu ngân sách địa phương bố trí cho kinh phí sự nghiệp môi trường toàn tỉnh cụ thể:
Năm 2007 là 22.400 triệu đồng, trong đó phân bổ cho cấp huyện là17.708 triệu đồng: tập trung cho công tác thu gom vận chuyển chất thải sinh hoạt, tăng cường phương tiện thu gom vận chuyển rác thải sinh hoạt; cấp tỉnh là 4.615 triệu đồng tập trung cho việc tăng cường cơ sở vật chất cho Trạm Quan trắc và Giám sát môi trường; hoạt động của Trung tâm nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn và Trung tâm Thông tin Tài nguyên và Môi trường.
Năm 2008 là 27.232 triệu đồng, trong đó phân bổ cho cấp huyện là 21.708 triệu đồng tập trung cho công tác thu gom vận chuyển chất thải sinh hoạt, tuyên truyền nâng cao nhận thức môi trường, điều tra đánh giá về chất lượng nền môi trường khu vực. Cấp tỉnh 220 triệu đồng dành để xây dựng chương trình quan trắc thành phần môi trường đất, nước mặt, nước ngầm, không khí xung quanh trên địa bàn, nguồn vốn đối ứng từ ngân sách của tỉnh là 1.743 triệu đồng để xây dựng hệ thống xử lý nước thải bệnh viện Đa khoa
tỉnh Lâm Đồng. (Nguồn vốn Trung ương hỗ trợ là 4.200 triệu đồng). Kinh phí năm 2009 khoảng 30.000 triệu đồng, trong đó phân bổ cho cấp tỉnh là 5.524 triệu đồng tập trung cho công tác thu gom vận chuyển chất thải sinh hoạt.
Hiện nay, mặc dù công tác bảo tồn ĐDSH đã được quan tâm, nhiều văn bản pháp luật được ban hành đã có tác dụng ngăn chặn, răn đe các hành vi xâm hại tài nguyên, nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều khiếm khuyết, nhất là thiếu các khung chính sách định hướng cho bảo tồn và sử dụng bền vững ĐDSH; chưa có chính sách cụ thể để khuyến khích việc nuôi trồng các loài động vật, thực vật hoang dã; chưa quan tâm đến quản lý, bảo vệ các loài động vật, thực vật hoang dã sống ở môi trường nước; công tác quy hoạch bảo tồn ĐDSH chưa cụ thể...Tuy đã có những nỗ lực về phát triển KT-XH trong những năm vừa qua nhưng BRVT vẫn là một trong những tỉnh có năng lực tài chính đầu tư cho bảo tồn ĐDSH còn nhiều hạn chế; đội ngũ cán bộ và chuyên gia về ĐDSH còn mỏng và chưa được đào tạo chuyên sâu. Bên cạnh đó, năng lực của cơ quan thực thi pháp luật, cơ quan quản lý, nghiên cứu về bảo tồn ĐDSH còn nhiều hạn chế, bất cập.
CHƯƠNG III - CÁC CHÍNH SÁCH VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ , PHÁT TRIỂN MÔI TRƯỜNG HƯỚNG TỚI BỀN VỮNG
3.1 GIẢI PHÁP ĐÔ THỊ BỀN VỮNG :
Phát triển đô thị kết hợp với điều kiện tài nguyên tự nhiên và môi trường của đô thị, coi trọng môi trường sinh thái, thể hiện tính chỉnh thể của đô thị. Cần tăng cường tính thân thiện với môi trường, nói cách khác là để người dân đô thị bên cạnh việc phải sống trong môi trường mang tính bê tông hóa (đặc trưng của các đô thị lớn), bắt buộc phải có thêm những yếu tố thiên nhiên, không gian cây xanh mặt nước, công viên,… để đảm bảo không gian sống, sức khỏe cộng đồng và giảm stress.
Khi phát triển đô thị, chú trọng kế thừa tính địa phương và tính văn hóa lịch sử
đặc thù của đô thị. Cần phát triển hài hòa, kết hợp giữa các yếu tố hiện đại và truyền
thống. Chú trọng tới việc giữ gìn những không gian truyền thống, các di sản, di tích,…
cho người dân đô thị hôm nay và mai sau.
Phát triển đô thị bền vững cần phải chú ý đến tầm nhìn tương lai, đặc biệt là
vấn đề kiến trúc quy hoạch. Chúng ta có thể thấy điều này qua di sản quy hoạch và kiến
trúc của các KTS Pháp để lại tại Hà Nội, Huế hay TP.HCM… dù đã hàng trăm năm vẫn
không thấy sự lạc hậu. Trong khi đó, nhiều đường phố, đô thị do chúng ta thực hiện, dù
mới đầu tư xây dựng đã thấy lạc hậu, nhếch nhác mà chắc chắn con cháu chúng ta sẽ phải
khắc phục, xử lý rất tốn kém.
Phát triển đô thị bền vững cần tăng cường các diện tích công ích công cộng.
Tăng cường các không gian cây xanh, công viên, phố đi bộ… là những nơi mọi cư dân đô
thị đều có thể được thụ hưởng.
Khi quy hoạch và xây dựng đô thị, cần nỗ lực khai thác không gian ngầm có hiệu quả, tiết kiệm, hợp lý và không khô cứng; phục vụ vào nhiều mục đích như xây dựng hạ tầng kỹ thuật đô thị, giao thông, sinh hoạt công cộng, thương mại dịch vụ…
Khai thác ngầm sẽ giúp quá trình phát triển đô thị có không gian bền vững và hài hòa
hơn, nâng cao chất lượng sống và tiện ích của cư dân đô thị. Nó góp phần tạo nên sự hợp
lý hơn của quy hoạch tổng thể mặt bằng xây dựng đô thị vì sẽ để dành được nhiều hơn không gian trên mặt đất cho công viên, cây xanh, bảo vệ môi trường, sinh thái đô thị...
Và dưới góc nhìn của nhà đầu tư Bất động sản, chúng tôi muốn đề cập sâu hơn đến vai trò của đầu tư “xây dựng xanh” trong việc phát triển đô thị bền vững.
Như chúng ta đã biết, xây dựng xanh là phương thức làm tăng hiệu quả sử dụng các nguồn tài nguyên như năng lượng, nước và nguyên vật liệu cho các tòa nhà, đồng
thời giảm những tác động của tòa nhà đối với sức khỏe con người và môi trường thông
qua việc chọn lựa địa điểm, thiết kế, xây dựng, vận hành, bảo trì và tháo dỡ tốt hơn. Các tòa nhà xanh được thiết kế nhằm giảm thiểu toàn bộ ảnh hưởng của môi trường được xây dựng đối với sức khỏe của con người và môi trường thiên nhiên bằng cách:
- Sử dụng hiệu quả năng lượng, nước và các nguồn tài nguyên khác
- Bảo vệ sức khỏe của người dân và nâng cao năng suất lao động của những người
làm việc trong công trình nhờ có cảnh quan, môi trường phù hợp.
- Giảm thiểu rác thải, ô nhiễm và sự thoái hoá môi trường.
Theo các chuyên gia nước ngoài, xây dựng xanh, tòa nhà xanh là những mục tiêu ưu tiên của ngành xây dựng nhiều nước trên thế giới, nhằm giảm tác động môi trường, tạo ra công trình lành mạnh, giảm nhu cầu năng lượng, nước và chi phí vận hành, cải thiện tiện nghi và sức khỏe cho con người.
Trong bối cảnh phát triển nóng của các đô thị Việt Nam hiện nay, về mặt xây dựng đô thị đã nảy sinh hàng loạt vấn đề bất cập, đó là hệ thống các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị, nhất là hạ tầng giao thông, cấp thoát nước và xử lý nước thải, rác thải bị quá tải do không được coi trọng, thiếu đồng bộ, cơ chế bất cập, không có các hoạt động đầu tư hạ tầng sớm để đấu nối hoặc do nhà đầu tư vì tiết kiệm chi phí nên chỉ lo đầu tư vào các công trình bề nổi; do mật độ dân cư gia tăng; nguồn tài nguyên thiên nhiên và năng lượng đang được khai thác một cách triệt để nhằm phục vụ cho quá trình xây dựng và hoạt động của đô thị.
Đơn cử, theo một khảo sát thực tế về mức độ tiêu thụ điện năng của TS. Michael Waibel (Đại học Hambug) tại Việt Nam cho thấy, hơn 75% năng lượng tiêu thụ trong các