Song song với việc đưa vào thị trường các quốc gia mới của EU những
sản phẩm có tính cạnh tranh, các doanh nghiệp cần lưu ý xây dựng thương
hiệu sản phẩm. Đây là một giá trị đặc biệt tạo nên chỗ đứng lâu dài cho doanh
nghiệp trên thị trường. Thương hiệu khi được người tiêu dùng tín nhiệm sẽ
làm cho họ yên tâm khi sử dụng, tạo thuận lợi cho việc phân phối, xâm nhập
những mảng thị trường mới, thu hút đầu tư.
Sau khi đã có cơ cấu mặt hàng xuất khẩu phong phú và thích hợp, các
doanh nghiệp còn phải xác định chiến lược kinh doanh để đưa được các sản
phẩm đó thâm nhập thị trường, đến với người tiêu dùng các nước thành viên
mới của EU. Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam tại thị
trường các quốc gia mới của EU có thể tập trung vào ba hình thức sau:
* Xuất khẩu qua trung gian
114 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2246 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường các quốc gia mới của EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ước
Thành lập trung tâm thương mại
Với ý nghĩa là một cơ cấu thương mại hiện đại, các Trung tâm thương
mại của Việt Nam ở nước ngoài sẽ hỗ trợ cho các doanh nghiệp của nước ta,
đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhở, nâng cao khả năng thâm nhập trực tiếp
vào thị trường. Năm 2002, được sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ, Bộ
Thương mại đã thành lập các Trung tâm thương mại trực thuộc Cục Xúc tiến
thương mại, tại Mỹ, Nga và các tiểu bang Arập thống nhất (Dubai).
Việc thành lập các Trung tâm thương mại là một chủ trương rất đúng đắn
nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại giữa Việt Năm với các nước trên thế giới.
Tuy nhiên mới chỉ có ba Trung tâm thương mại bước đầu được thành lập ở ba
thị trường đại diện cho ba châu lục Á, Âu và Mỹ nói trên, ở các quốc gia mới
của EU chưa có mô hình này. Vì vậy, trong những năm tới Việt Nam nên
thành lập một Trung tâm thương mại ở các quốc gia mới của EU
Trong việc thành lập Trung tâm thương mại ở các quốc gia mới của EU,
cần chú ý một số giải pháp sau:
- Do việc thành lập Trung tâm thương mại đòi hỏi vốn đầu tư và kinh phí
hoạt động lớn, sự hỗ trợ ban đầu về tài chính của Nhà nước là hết sức cần
thiết. Về lâu dài, Nhà nước cần có các chính sách khuyến khích các tổ chức
và cá nhân tham gia hoặc tự mình thành lập Trung tâm thương mại.
- Định hướng phát triển Trung tâm thương mại ở các quốc gia mới của
EU phù hợp với chiến lược xuất khẩu của Việt Nam nói chung và chiến lược
phát triển kinh tế đối ngoại với các quốc gia mới của EU nói riêng.
75
- Bảo đảm nguồn cung ứng hàng hoá phong phú và ổn định cho các
Trung tâm thương mại.
- Quan tâm đầu tư thoả đáng khâu nhân sự cho Trung tâm thương mại.
Do đặc thù của các quốc gia mới của EU là một địa bàn có nhiều thay đổi so
với thời kỳ còn là các nước XHCN nên ngay từ đầu phải đảm bảo tính chuyên
nghiệp của nhân sự được cử đi quản lý Trung tâm thương mại và có chế độ
đãi ngộ của cộng đồng người Việt Nam ở nước sở tại.
- Tăng cường hợp tác, liên doanh, liên kết trong việc thành lập Trung tâm
thương mại ở các quốc gia mới của EU theo các hình thức thích hợp.
Đẩy mạnh công tác thông tin
Vấn đề thông tin có vai trò quan trọng trong việc xúc tiến các hoạt động
thương mại chung, và đặc biệt là đối với thị trường các quốc gia mới của EU
nói riêng. Thực tế là hiện nay thông tin hai chiều giữa nước ta với các quốc
gia mới của EU còn rất thiếu. Hơn nữa, nếu có thông tin thì chỉ dừng lại ở cấp
lãnh đạo và các cơ quan quản lý Nhà nước chứ chưa xuống đến các các doanh
nghiệp. Vì vậy, ở tầm vĩ mô, các cơ quan quản lý Nhà nước phải quan tâm
phát triển công tác thông tin nhằm đảm bảo có sự hợp tác chặt chẽ giữa các
Bộ, nghành cũng như tạo nguồn thông tin phong phú, đáng tin cậy cho các
doanh nghiệp về thị trường các quốc gia mới của EU.
Cho đến nay chúng ta có rất nhiều sách, báo, tạp chí, rất nhiều cơ quan
tham gia cung cấp thông tin phục vụ cho hoạt động kinh tế, kinh doanh cũng
như các hoạt động xuất khẩu cụ thể. Tuy nhiên thông tin về thị trường các
quốc gia mới của EU còn rất ít, rất tản mát và thiếu đồng bộ. Do đó cần
nghiên cứu tạo ra một chuyên san dành riêng cho thị trường các quốc gia mới
của EU, trong đó cập nhật nhanh và đầy đủ các thông tin liên quan đến thị
trường trong nước cũng như các quốc gia mới của EU, các nghành hàng, các
mặt hàng, khả năng cung cấp và tiêu thụ, điều kiện cung cấp hoặc tiêu thụ, các
mặt hàng cùng loại, các mặt hàng có khả năng thay thế, các thông tin liên
quan đến tình hình hoạt động của các đối thủ cạnh tranh (điều kiện tài chính,
76
trình độ công nghệ, sản lượng, giá cả…), các thông tin liên quan đến đường
lối chính sách và pháp luật (trong và ngoài nước), các thông tin liên quan đến
hàng rào thuế quan, phi thuế quan hoặc các biện pháp bảo hộ trên từng thị
trường, các thông tin về trợ giúp khi cần thiết (tư vấn, tín dụng, tài chính,
pháp lý, các tổ chức thế giới, khu vực, các điều ước quốc tế có liên quan…).
Chúng ta đều biết hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống thông
tin viễn thông quốc tế, các nước, các cơ quan quản lý Nhà nước và các doanh
nghiệp đều có thể trực tiếp vào mạng. Vì vậy các cơ quan quản lý Nhà nước,
cũng như các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài cần sớm quan tâm đầu
tư xây dựng và hoàn thiện Website của mình, làm cho Website thực sự trở
thành một “cổng chào” đối với các đối tác và doanh nghiệp nước ngoài.
Ngược lại thì các đơn vị trong nước cũng phải đẩy mạnh việc khai thác
các thông tin trên mạng, Hiện nay, các tổ chức khu vực, các cơ quan quản lý
Nhà nước và nhiều doanh nghiệp ở các quốc gia mới của EU đã xây dựng
nhiều Website khá đầy đủ và phong phú về nội dung. Đặc biệt là Nhà nước
cần sớm có định hướng cho các doanh nghiệp về vấn đề này, chẳng hạn tổ
chức những khoá tập huấn về khai thác mạng Internet, quảng bá trên báo chí
và phương tiện truyền thông những Website đáng quan tâm khi các doanh
nghiệp muốn kinh doanh với các quốc gia mới của EU.
Tăng cường quan hệ với Việt Kiều
Cộng đồng Việt Kiều ở các quốc gia mới của EU, tuy không đông đảo
như các châu lục khác, nhưng cũng đã hình thành từ lâu đời với số lượng nhất
định, bám rễ sâu sắc và có đóng góp đáng kể vào đời sống chính trị cũng như
kinh tế thương mại của nước sở tại. Theo số liệu của Uỷ ban người Việt Nam
ở nước ngoài, cộng đồng Việt Kiều và người Việt Nam sinh sống làm ăn lâu
dài ở các quốc gia mới của EU có khoảng 80.000 người, trong đó đông nhất là
ở Cộng hòa Séc, khoảng 40.000 người. Ngoài ra rải rác ở các nước đều có
kiều bào Việt Nam.
77
Trong công đồng Việt Kiều ở các quốc gia mới của EU hiện nay, nhiều
người có vị trí cao trong xã hội và cũng nhiều người thành đạt trong kinh
doanh. Họ đều nắm vững phong tục tập quán và pháp luật của nước sở tại, am
hiểu những khía cạnh nhất định của thị trường và đặc biệt luôn có trong mình
một tâm hướng về đát nước. Vì vậy giữ mối quan hệ chặt chẽ với cộng đồng
người Việt sẽ có cơ hội thúc đẩy buôn bán với các quốc gia mới của EU theo
nhiều cách. Việt Kiều có thể đứng ra làm trung gian môi giới bán sản phẩm
sang các quốc gia mới của EU, hoặc làm cố vấn cho chúng ta trong hoạt động
kinh doanh tại thị trường các quốc gia mới của EU, cung cấp cho chúng ta
những thông tin bổ ích. Hoặc với mối quen biết của mình, họ giới thiệu chúng
ta gặp gỡ những nhân vật, các tổ chức có uy tín ở bản xứ. Hoặc bằng thế lực
của mình họ đứng ra bảo lãnh các thanh toán giao dịch bằng L/C cho doanh
nghiệp Việt Nam khi L/C được mở ở ngân hàng nước sở tại….
Nói tóm lại, có nhiều hình thức khác nhau qua đó Việt Kiều có thể giúp
đỡ doanh nghiệp nước ta đẩy mạnh kinh doanh ở thị trường các quốc gia mới
của EU. Thời gian qua chúng ta chỉ mới chú ý đến cộng đồng Việt Kiều ở một
số nước lớn như Mỹ, Pháp, …Thực tế cho thấy quan tâm thu hút cộng đồng
Việt Kiều ở các quốc gia mới của EU hướng về Tổ quốc là việc hết sức cần
thiết. Công việc này trước hết thuộc về Uỷ ban về người Việt Nam ở nước
ngoài thuộc Bộ ngoại giao của nước ta ở các quốc gia mới của EU. Tuy nhiên
bản thân các doanh nghiệp hay Hiệp hội nghành hàng cũng cần phát huy các
mối quan hệ riêng của mình với cộng đồng người Việt ở các quốc gia mới của
EU.
3.3.1.4 Hỗ trợ về tài chính cho các doanh nghiệp xuất khẩu
Đại bộ phận các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu
của Việt Nam sang EU đều có quy mô vừa và nhỏ, nên khả năng cạnh tranh
và hiệu quả xuất khẩu không cao; vì thế để đẩy mạnh, mở rộng qui mô và
nâng cao hiệu quả xuất khẩu sang thị trường này, Nhà nước cần có sự hỗ trợ
78
các doanh nghiệp về vốn thông qua hệ thống ngân hàng. Để triển khai hoạt
động hỗ trợ này, Nhà nước Việt Nam nên thực hiện các biện pháp sau đây:
- Sử dụng có hiệu quả quỹ hỗ trợ xuất khẩu để các doanh nghiệp được
vay vốn với lãi suất thấp, giải quyết được khó khăn về vốn lưu động và vốn
đầu tư đổi mới trang thiết bị. Bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, tạo điều kiện cho
doanh nghiệp thâm nhập thị trường các quốc gia mới của EU.
- Đảm bảo sự bình đẳng thực sự trong quan hệ tín dụng ngân hàng trên
cơ sở pháp luật giữa các thành phần kinh tế (hiện nay các doanh nghiệp vừa
và nhỏ thuộc khu vực tư nhân không được lấy giá trị quyền sử dụng đất đai để
thế chấp khi vay vốn). Mở rộng khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng từ các
ngân hàng cũng như các định chế tài chính. Đơn giản hóa thủ tục vay vốn và
yêu cầu thế chấp tài sản của ngân hàng và các tổ chức tín dụng.
- Xúc tiến thành lập ngân hàng chuyên doanh của khu vực doanh nghiệp
vừa và nhỏ, thu hút sự tham gia của các doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp lớn
với sự hỗ trợ của Nhà nước và các Tổ chức quốc tế.
- Mở rộng khả năng tiếp cận các nguồn vốn cho doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Nhà nước cần thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng. Quỹ này thực hiện bảo
lãnh cho các doanh nghiệp có khả năng phát triển nhưng không có đủ tài sản
để thế chấp vay vốn. Quỹ được thành lập dưới hình thức là một tổ chức tài
chính của Nhà nước, hoạt động không vì mục tiên lợi nhuận, cho phép các
doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất, kinh doanh xuất khẩu có hiệu quả được
vay vốn theo phương thức tự vay tự trả.
- Thực hiện lãi suất ưu đãi cho doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất, kinh
doanh xuất khẩu sang EU có hiệu quả, sản xuất sản phẩm mới hoặc nghiên
cứu ứng dụng khoa học công nghệ mới.
- Thông qua ngân hàng linh hoạt hạ mức lãi suất chiết khấu để đẩy mạnh
xuất khẩu sang thị trường các quốc gia mới của EU. Ngân hàng thực hiện
chiết khấu các kỳ phiếu và hối phiếu chưa đến hạn thanh toán trong trường
hợp các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu mà bị thiếu vốn (đặc biệt đối với
79
các thị trường Free Quota, như EU). Nếu lãi suất chiết khấu hạ thì giá hàng
hóa xuất khẩu cũng hạ, do đó khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt
Nam tăng lên và chúng ta mở rộng được xuất khẩu.
3.3.1.5. Phát triển các ngành hàng xuất khẩu chủ lực sang thị trường
các quốc gia mới của EU
Nhà nước cần có chính sách cụ thể để phát triển các ngành hàng xuất
khẩu chủ lực sang thị trường các quốc gia mới của EU. Thông qua sự hỗ trợ
về vốn, ưu đãi về thuế và tạo điều kiện thuận lợi trong sản xuất kinh doanh
cho các doanh nghiệp, Việt Nam có thể phát triển được nền sản xuất nội địa
(phát triển kinh tế ngành và kinh tế vùng), đồng thời nâng cao được khả năng
cạnh tranh của hàng hóa và doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường EU.
Đối với mặt hàng xuất khẩu chủ lực (chiếm hơn ½ kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam sang thị trường các quốc gia mới của EU) giày dép, dệt may, do
có đặc thù riên trong sản xuất: ta chủ yếu làm gia công cho nước ngoài nên
hiệu quả thực tế thu được từ xuất khẩu rất thấp (25% - 30% doanh thu). Hơn
nữa, do gia công theo đơn đặt hàng và sản xuất theo kỹ thuật nước ngoài nên
các doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn bị động về mẫu mã, sản xuất cũng như
tiêu thụ sản phẩm. Đây là điểm yếu trong xuất khẩu hai mặt hàng này của ta.
Nếu cứ tiếp tục kéo dài tình trạng này sẽ rất bất lợi cho Việt Nam. Bởi vậy,
Nhà nước cần có một chính sách cụ thể khuyến khích các doanh nghiệp sản
xuất (chứ không phải các doanh nghiệp gia công) làm ăn có hiệu quả hoặc các
doanh nghiệp sản xuất đã xuất khẩu trực tiếp sản phẩm sang các quốc gia mới
của EU thuộc hai ngành công nghiệp này tiếp tục đầu tư vốn và đổi mới công
nghệ trong quá trình sản xuất để cải tiến sản phẩm phù hợp với thị hiếu của
người tiêu dùng ở các quốc gia mới của EU, nâng cao chất lượng, tăng cường
xuất khẩu theo phương thức mua đứt bán đoạn (mua nguyên liệu và bán thành
phẩm), giảm dần phương thức gia công xuất khẩu; đồng thời đẩy mạnh xuất
khẩu trực tiếp sản phẩm có tỉ lệ nội địa hóa cao, tiến tới xuất khẩu sản phẩm
80
100% nguyên liệu trong nước nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất
khẩu hai mặt hàng này.
Đối với các mặt hàng đang được ưa chuộng trên thị trường các quốc gia
mới của EU như hàng thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ gia dụng, đồ dùng phục vụ du
lịch, đồ chơi trẻ em, hàng điện tử và hàng thủy hải sản, Nhà nước cần có một
chính sách cụ thể khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vốn và công nghệ
hiện đại để mở rộng qui mô sản xuất, nâng cao năng suất và chất lượng sản
phẩm, đa dạng hóa và nâng cao trình độ tiếp thị sản phẩm nhằm mục đích
tăng khối lượng và nâng cao hiệu quả xuất khẩu những mặt hàng này sang thị
trường các quốc gia mới của EU. Đối tượng áp dụng của chinh sách này là
những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, những doanh nghiệp có
mặt hàng xuất khẩu mới và có triển vọng phát triển.
Đối với một số mặt hàng nông sản có khả năng xuất khẩu sang thị trường
các quốc gia mới của EU như cà phê, chè, hạt tiêu, hạt điều, cao su, rau quả…,
Nhà nước cần xây dựng quy hoạch, chọn lựa và có chính sách cụ thể khuyến
khích đầu tư vốn tạo ra các vùng sản xuất chuyên canh ứng dụng các kỹ thuật
tiên tiến, công nghệ sau thu hoạch để đảm bảo sản phẩm làm ra có năng suất
cao, chất lượng tốt, đồng đều, giá thành hạ và khối lượng lớn. Việc tạo ra
vùng sản xuất chuyên canh cho xuất khẩu sẽ giúp cho công tác quản lý chất
lượng được thực hiện tốt từ khâu tuyển chọn giống, kỹ thuật thâm canh, chăm
sóc đến lựa chọn, đảm bảo chất lượng tốt, phù hợp khi đưa ra xuất khẩu khắc
phục được tình trạng chất lượng thấp, không ổn định và nguồn cung cấp nhỏ.
Với chính sách này, hàng nông sản của ta có thể thâm nhập và chiếm lĩnh thị
trường các quốc gia mới của EU.
Chúng ta đang thực hiện tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và theo
Dự thảo nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX thì đến năm 2020 Việt
nam sẽ trở thành nước công nghiệp. Như vậy trong 10 năm tới, cơ cấu hàng
xuất khẩu của Việt nam sẽ chuyển mạnh theo hướng: tăng nhanh tỷ trọng
hàng chế biến, chế tạo và giảm mạnh tỷ trọng hàng nguyên liệu thô. Để có cơ
81
cấu hàng xuất khẩu như trên trong tương lai, nhà nước cần có một chính sách
cụ thể khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp chế biến
và chế tạo (thực phẩm chế biến, đồ điện, điện tử gia dụng, điện tử tin học,
phần mềm, công nghệ viễn thông, v.v…) đầu tư theo chiều sâu để nâng cao
chất lượng, giá trị gia tăng và tính độc đáo của sản phẩm, đa dạng hóa mặt
hàng nhằm tăng nhanh khối lượng và nâng cao hiệu quả xuất khẩu sang thị
trường EU. Riêng đối với các doanh nghiệp lớn của nhà nước thuộc ngành
điện tử tin học, công nghệ viễn thông, v.v… (các ngành công nghiệp có hàm
lượng công nghệ cao), Nhà nước cần có sự hỗ trợ về vốn và khuyến khích họ
tập trung cho nghiên cứu cơ bản để tạo ra các sản phẩm công nghệ cao. Đối
tượng áp dụng của chính sách là những doanh nghiệp chế biến và chế tạo có
uy tín trên thị trường quốc tế (đã có những sản phẩm được người tiêu dùng
trong và ngoài nước ưa chuộng).
3.3.1.6. Đào tạo nguồn nhân lực
Phát triển nguồn nhân lực là một công việc thường xuyên, liên tục trong
suốt quá trình phát triển của bất cứ quốc gia nào nhưng ở đây muốn nhấn
mạnh về công tác đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động xúc tiến
thương mại và hợp tác với các nước thành viên mới của EU. Đương nhiên, về
phía doanh nghiệp cũng vẫn phải chủ động đào tạo nhân lực cho mình nhưng
không thể thiếu sự hỗ trợ của Nhà nước trong hoạt động này. Có nghĩa là trên
cơ sở những kiến thức cơ bản về kinh doanh, thương mại quốc tế, ngoại ngữ
(ngôn ngữ chính thức, ngôn ngữ địa phương), cán bộ phục vụ chiến lược xúc
tiến thương mại với thị trường các quốc gia mới của EU phải được trang bị
thêm những kiến thức cơ bản về từng thị trường (tức là trở thành hạt nhân và
bộ phận không thể thiếu trong việc thực hiện chính sách mặt hàng và thị
trường). Theo kinh nghiệm rút ra từ thành công trong xúc tiến thương mại của
một số nước trên thế giới (Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản…), để tìm hiểu
bất cứ một thị trường nào được coi là mới và là mục tiêu thâm nhập, mở rộng,
phát triển quan hệ, không có cách nào tốt hơn là cử “cán bộ nằm vùng” và
82
hình thức này hay được áp dụng là thông qua các chuyên gia thuộc các
chương trình hỗ trợ nào đó (trong khuôn khổ các chương trình, dự án viện trợ
phát triển) hoặc đội ngũ lưu học sinh (thuộc chương trình hợp tác đào tạo),
đội ngũ lao động hay đội ngũ kiều dân. Chúng ta hoàn toàn có thể sử dụng
hình thức này, tuy nhiên để làm được thì Chính phủ cần tính toán và chấp
nhận “đầu tư” cho tương lai, tức là phải đầu tư, hỗ trợ các hoạt động đào tạo
nhân lực. Ngoài việc phát triển một đội ngũ cán bộ có năng lực chuyên môn,
am hiểu về thị trường sở tại, vấn đề ngoại ngữ là rất quan trọng.
Việc đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển quan hệ kinh tế thương
mại với các nước thành viên mới của EU cần phải được thực hiện một cách có
hệ thống, mang tính ổn định, hình thức đào tạo có thể là đào tạo tại chỗ thông
qua các khóa huấn luyện; các buổi hội thảo có mời các chuyên gia trong nước
và quốc tế. Hoặc cũng có thể gửi lưu học sinh đi đào tạo tại các nước thành
viên mới của EU, đặc biệt là ở một số nước co nền giáo dục tương đối phát
triển như Ba Lan, Rumani, Cộng hòa Séc…..
3.3.2. Nhóm giải pháp vi mô
3.3.2.1 Các doanh nghiệp cần có kế hoạch và chiến lược kinh doanh
thích hợp để thâm nhập thị trường các quốc gia mới của EU
Đối với thị trường các quốc gia mới của EU, các doanh nghiệp cần phải
kiên trì lựa chọn và xây dựng cho mình những kế hoạch và chiến lược kinh
doanh phù hợp. Cần hết sức tránh tình trạng buôn bán theo kiểu chụp giật là
mất uy tín cho cả giới doanh nghiệp Việt Nam.
Việc đầu tiên các doanh nghiệp cần làm là phải nghiên cứu thị trường.
Cách thứ nhất là có thể nghiên cứu ở văn phòng, đặc biệt là qua Internet cho
phép đánh giá trước và lựa chọn sơ bộ một cách nhanh chóng và tiết kiệm.
Cách thứ hai là nghiên cứu thực địa, bằng cách trực tiếp đi thăm hay qua một
công ty tư vấn độc lập có thể được tiến hành sau đó để kiểm chứng kết quả
nghiên cứu sơ bộ và cung cấp thông tin ban đầu cụ thể.
83
Nghiên cứu thị trường là một nguồn đầu tư rất tốn kém. Doanh nghiệp
không nên nghĩ một cách sai lầm rằng xuất khẩu chỉ là để kiếm tiền. Bao giờ
cũng phải có đầu tư trước khi thực sự kiếm được tiền. Nhà xuất khẩu nào
chưa sẵn sàng đầu tư cho nghiên cứu thị trường sẽ phải chấp nhận việc họ
không thể xuất khẩu. Thông tin thị trường và việc nắm bắt được xu hướng
phát triển của thị trường là quan trọng nhất trong thị trường cạnh tranh của
người mua. Nhà xuất khẩu nào ngại đầu tư tiền để có thông tin chắc chắn sẽ
thua kém đối thủ cạnh tranh, đơn giản chỉ vì không nắm bắt được nhu cầu thị
trường.
Sau khi đã đánh giá về thị trường có triển vọng nhất, doanh nghiệp phải
tự đánh giá về khả năng của công ty mình xem có đủ lực để chiếm lĩnh và
duy trì vị thế trên thị trường đã được lựa chọn hay chưa. Cơ hội và thách thức
trên thị trường sẽ được so sánh với ưu khuyết điểm của doanh nghiệp. Phải
xem xét một số yếu tố gồm: đặc điểm sản phẩm, thiết bị sản xuất, chất lượng,
bao bì, năng lực và nhân viên, hệ thống quản lý và chất lượng, năng lực tài
chính, và kinh nghiệm xuất khẩu.
Hoạt động chiến lược phải dựa trên kết quả của việc đánh giá thị trường
và bản thân doanh nghiệp. Cơ hội và điểm mạnh phải được tối ưu hoá trong
khi nguy cơ và điểm yếu phải biến thành điểm mạnh. Khi biến điểm yếu
thành điểm mạnh, nguy cơ tự nó biến thành cơ hội. Ví dụ như các yêu cầu về
môi trường của thị trường Châu Âu có thể là nguy cơ đối với các doanh
nghiệp chưa biết đến yêu cầu đó hay không muốn thay đổi bao bì và quy trình
sản xuất. Đối với các doanh nghiệp được cấp chứng chỉ ISO 14001, thì đây lại
là cơ hội! Trong trường hợp điểm mạnh và cơ hội chiếm ưu thế so với điểm
yếu và nguy cơ thì doanh nghiệp đã sẵn sàng hình thành chiến lược xuất khẩu
đối với thị trường cụ thể và lập kế hoạch cho các sản phẩm xuất khẩu.
Nhà xuất khẩu nào ngại đầu tư cho việc củng cố doanh nghiệp để đáp
ứng được yêu cầu cao của thị trường EU thì không nên triển khai các hoạt
động xuất khẩu sang châu Âu.
84
Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp nào làm đủ ba bước là đánh giá thị trường,
đánh giá doanh nghiệp và có hoạt động chiến lược thì doanh nghiệp đó sẽ xây
dựng được cách tiếp cận có hệ thống, cách tiếp cận này sẽ đặt nền móng cho
các quyết định đúng đắn và kim chỉ nam hướng tới tương lai.
Công việc tiếp theo là phải đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu, không nên
có định kiến coi các quốc gia mới của EU có trình độ phát triển kinh tế kém
hơn các nước EU cũ và chỉ quan tâm đến xuất khẩu lương thực nông sản,
hàng dệt may, giầy dépđại trà mà cần nhận thức rõ đây là thị trường tiềm năng
cho mọi loại hàng hóa như đồ gỗ nội thất cao cấp, dệt may thời trang, thủ
công mỹ nghệ, thực phẩm chế biến, hàng tiêu dùng....
Và một công việc hết sức quan trọng là phải nâng cao tính cạnh tranh của
từng sản phẩm về giá cả, mẫu mã, chất lượng. Trong đó chất lượng sản phẩm
là yếu tố thành công quan trọng nhất vì sau khi gia nhập EU, các quốc gia mới
cũng phải áp dụng những tiêu chuẩn chung rất khắt khe về chất lượng sản
phẩm như các quốc gia EU cũ. Nhìn chung có thể nói rằng thị trường EU có
nhu cầu rất cao về chất lượng sản phẩm, các quy định tập trung đến các nội
dung sau:
* Tiêu chuẩn hóa sản phẩm:
Theo truyền thống, các tiêu chuẩn được sử dụng để mô tả chất lượng và
tính năng của hàng hóa dịch vụ và chúng rất quan trọng đối với sự phát triển
của thị trường toàn cầu. Hầu hết các tiêu chuẩn điều được xây dựng theo yêu
cầu của nền công nghiệp. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam phải nhanh
chóng đổi mới công nghệ thiết bị và nâng cao chất lượng sản phẩm để đáp
ứng các tiêu chuẩn này.
Tiêu chuẩn hóa không chỉ quan trọng trong lĩnh vực sức khỏe, an toàn
còn trong lĩnh vực quản lý chất lượng, sản xuất mang tính môi trường trách
nhiệm xã hội. Viêc tiêu chuẩn hóa sẽ tạo ra các nhãn hiệu hàng hóa, các giấy
chứng nhận nhằm chứng minh cho việc tuân thủ các tiêu chuẩn mà các doanh
85
nghiệp áp dụng, tạo điều kiện tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên
thương trường quốc tế.
* Quản lý chất lượng sản phẩm:
Đây là tiêu chuẩn quan trọng để quyết định năng lực cạnh tranh của sản
phẩm. Tiêu chuẩn quản lý chất lượng liên quan đến phương thức quản lý.
Tiêu chuẩn này khác với các tiêu chuẩn hàng hóa, nhãn hiệu hành hóa có liên
quan đến sản phẩm hay quá trình sản xuất. Đăng ký tiêu chuẩn quản lý chất
lượng là quá trình tự nguyện, tiêu chuẩn này sẽ giúp cho người tiêu dùng có
cách nhìn nhận về doanh nghiệp trên thị trường, đặc biệt là khi doanh nghiệp
được cấp chứng nhận theo tiêu chuẩn quản lý được quốc tế công nhận. Các
tiêu chuẩn quản lý chất lượng quan trọng nhất thuộc nhóm tiêu chuẩn ISO
9000. Các nhà sản xuất được cấp chứng chỉ ISO 9001 hay ISO 9002 thực sự
đã sở hữu một tài sản quan trọng đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Đây là một đặt điểm hổ trợ bán hàng cơ bản trong kinh doanh ở thị trường EU
vốn rất cạnh tranh, đặc điểm này cũng giúp tăng thêm lòng tin của khách hàng.
* Về sức khỏe và an toàn thực phẩm:
Đối với Các sản phẩm công nghiệp chế tạo cần phải đạt nhãn CE
(European Conformity) là 1 nhãn bắt buộc đối với nhiều sản phẩm công
nghiệp. Mục đích của nhãn CE là đặt ra yêu cầu chung đối các nhà sản xuất
nhằm chỉ đưa ra những sản phẩm an toàn ở thị trường EU. Nhãn CE được
xem là một giấy thông hành của nhà sản xuất lưu thông nhiều sản phẩm công
nghiệp như máy móc thiết bị, các thiết bị điện có điện thế thấp, đồ chơi, các
thiết bị an toàn cá nhân….Trên thị trường EU. Nhãn CE chỉ ra rằng sản phẩm
đáp ứng các nhu cầu về luật định và có thể được áp dụng về an toàn, sức khỏe,
môi trường và bảo vệ người tiêu dùng.
Đối với các sản phẩm thực phẩm thì tiêu chuẩn HACCP (the Hazard
Analysis Critical Control Point system) được áp dụng cho ngành công nghiệp
thực phẩm, điều này sẽ xác định rằng các công ty thực phẩm xác định từng
khía cạnh ảnh hưởng đến an toàn thực phẩm.
86
* Về môi trường:
Nhiều quốc gia Châu Âu thỏa thuận mang tính tình nguyện và mang tính
pháp lý được thông qua giữa các chính phủ và các nhà sản xuất. Các thỏa
thuận không chỉ áp dụng cho sản phẩm mà được áp dụng cho bao bì của sản
phẩm. Các nhà xuất khẩu của Việt Nam phải tuân thủ những quy định về môi
trường để được xuất khẩu. Các nhà xuất khẩu buộc phải xem xét ảnh hưởng
môi trường của sản phẩm mình, của quá trình sản xuất và đóng gói. Do đó,
các nhà xuất khẩu Việt Nam phải hiểu rằng việc tuân thủ các quy định về sản
phẩm là rất cần thiết, tuy nhiên việc đầu tiên là đáp ứng nhu cầu của người
tiêu dùng là điều quan trọng trong thành công tại thị trường EU.
Bên cạnh, ngoài các tiêu chí quan trọng về chất lượng, vệ sinh, an toàn
và môi trường đã đề cập ở trên, các vấn đề xã hội ngày càng có tầm quan
trọng. Ngày nay có nhiều ngườI dân Châu Âu cho rằng các doanh nghiệp phải
chịu trách nhiệm về đạo đức đối với nhân viên của họ nói riêng và toàn xã hội
nói chung. Người tiêu dùng ngày càng coi trọng “đạo đức kinh doanh” như
một tiêu chí để lựa chọn và đàm phán trong kinh doanh.
Tóm lại, EU là thị trường đòi hỏi yêu cầu chất lượng rất cao, điều kiện
thương mại nghiêm ngặt và được bảo hộ đặc biệt. Các khách hàng EU là nổi
tiếng về mẫu mốt, thị hiếu, khác với khách hàng Việt Nam thì giá cả có vai trò
quyết định trong việc mua hàng. Do đó, khi các sản phẩm đạt các yếu tố về
chất lượng, thời trang và giá cả hấp dẫn thì sản phẩm mới có cơ hội hấp dẫn
được người tiêu dùng ở Châu Âu. Đây là các vấn đề mà các doanh nghiệp
Việt Nam cần phải chú ý để thâm nhập và thành công ở thị trường này.
Đương nhiên để làm được việc đó, doanh nghiệp nhất thiết phải quan tâm
nâng cao trình độ công nghệ và đổi mới trang thiết bị sản xuất của doanh
nghiệp. Nhìn chung với các nước thành viên mới của EU, thị trường đòi hỏi
sản phẩm có chất lượng cao, ổn định, mẫu mã mới, đẹp. Cạnh tranh về chất
lượng và mẫu mã là một điểm yếu của các doanh nghiệp nước ta trước các đối
thủ trong khu vực, đặc biệt là Trung Quốc. Để làm được điều này, nhất thiết
87
các doanh nghiệp phải đổi mới công nghệ sản xuất, chịu khó tìm tòi nghiên
cứu kỹ thị hiếu của người tiêu dùng các nước thành viên mới của EU để có
thể cho ra đời những sản phẩm chất lượng cao, mẫu mã đẹp. Thời gian tới,
với điều kiện tài chính hạn hẹp, từng doanh nghiệp phải quan tâm đến những
điểm sau trong quá trình đổi mới công nghệ:
- Xác định các khâu quan trọng trong dây chuyền sản xuất có ảnh hưởng
quyết định đến chất lượng và giá thành sản phẩm để hiện đại hóa trước.
- Nhập các thiết bị nước ngoài nhưng phải học tập thiết kế để tự thiết kế
lại và cải biến cho phù hợp. Những chi tiết trong nước chưa đủ khả năng chế
tạo thì nhập khẩu, nhưng phải nâng cao dần tỷ lệ nội địa hóa.
- Đối với công nghệ thiết bị có giá thành nhập khẩu quá cao, các doanh
nghiệp cần hợp tác với các cơ quan nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước
cùng đầu tư thiết kết và chế tạo.
Các doanh nghiệp cần lưu ý rằng không phải cứ công nghệ cao, hiện đại
mới là tốt. Vấn đề ở chỗ doanh nghiệp phải lựa chọn cho mình công nghệ phù
hợp với điều kiện sản xuất, trình độ, tay nghề của người lao động nhằm tối ưu
hóa việc kết hợp các nguồn lực để đạt được hiệu quả cao, từ đó tạo điều kiện
tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm.
Bên cạnh đổi mới công nghệ, các doanh nghiệp nước ta cần chú trọng
khâu thiết kế sản phẩm, gia tăng giá trị sử dụng của sản phẩm chứ không phụ
thuộc hoàn toàn vào công nghệ sản xuất, đặc biệt đối với các ngành hàng
chúng ta có thể đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường các quốc gia mới của EU
như nông sản, hàng dệt may, giày dép, thủ công mỹ nghệ, sản phẩm nhựa….
Đặc biệt trong việc thiết kế mẫu mã và nâng cao giá trị sử dụng cho sản phẩm
xuất khẩu sang thị trường các quốc gia mới của EU, nhất thiết các doanh
nghiệp phải năng động, sáng tạo, nắm bắt được những yếu tố tôn giáo, văn
hóa của thị trường mà mình hướng tới để tạo cho sản phẩm độ hấp dẫn khác
biệt so với những sản phẩm cạnh tranh.
88
Song song với việc đưa vào thị trường các quốc gia mới của EU những
sản phẩm có tính cạnh tranh, các doanh nghiệp cần lưu ý xây dựng thương
hiệu sản phẩm. Đây là một giá trị đặc biệt tạo nên chỗ đứng lâu dài cho doanh
nghiệp trên thị trường. Thương hiệu khi được người tiêu dùng tín nhiệm sẽ
làm cho họ yên tâm khi sử dụng, tạo thuận lợi cho việc phân phối, xâm nhập
những mảng thị trường mới, thu hút đầu tư.
Sau khi đã có cơ cấu mặt hàng xuất khẩu phong phú và thích hợp, các
doanh nghiệp còn phải xác định chiến lược kinh doanh để đưa được các sản
phẩm đó thâm nhập thị trường, đến với người tiêu dùng các nước thành viên
mới của EU. Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam tại thị
trường các quốc gia mới của EU có thể tập trung vào ba hình thức sau:
* Xuất khẩu qua trung gian
Đây là con đường mà phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đã áp dụng
để thâm nhập thị trường các quốc gia mới của EU ở thời kỳ ban đầu, mới tái
khai phá thị trường này. Khi đó thị trường các quốc gia mới của EU sau một
thời gian chuyển đổi cơ chế kinh tế đã trở nên rất mới mẻ và bỡ ngỡ đối với
các doanh nghiệp, hơn nữa các doanh nghiệp lại thiếu kinh nghiệm về thương
trường nên không thiết lập được quan hệ bạn hàng trực tiếp với các đối tác ở
các quốc gia mới của EU. Do vậy, doanh nghiệp đã phải xuất khẩu sang thị
trường các quốc gia mới của EU qua các bạn hàng trung gian mà chủ yếu là ở
châu Á. Hình thức này chỉ thích hợp cho thời kỳ đầu khai phá thị trường.
* Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là con đường chính thâm nhập thị trường các quốc
gia mới của EU hiện nay của các doanh nghiệp Việt Nam. Hình thức này
thính hợp với thời kỳ sau khai phá khi qui mô xuất khẩu còn nhỏ bé và các
mặt hàng xuất khẩu còn phân tán, nhưng dễ tạo ra thế bị động đối với các nhà
xuất khẩu do khó nắm bắt kịp thời những thông tin về thị trường, cần áp dụng
các hình thức đầu tư trực tiếp và liên doanh.
89
Xuất khẩu trực tiếp cũng là một hình thức được các doanh nghiệp Việt
Nam áp dụng, nhất là tại các quốc gia mà nước ta đã có Thương vụ hoặc cơ
quan đại diện ngoại giao và một số nước có hệ thống ngân hàng tương đối
phát triển và khả năng tài chính tương đối mạnh, đầu tư ban đầu rất lớn trên
cả hai phương diện vật lực và nhân lực với sự hỗ trợ của các cơ quan hữu
quan trong và ngoài nước. Bản thân các doanh nghiệp khi đã có những giao
dịch trưc tiếp với một đối tác trong số các nước thành viên mới của EU cũng
cần có biện pháp duy trì mối quan hệ đó mang tính ổn định, tạo ra sự tin cậy
lẫn nhau.
Tất nhiên để đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp sang thị trường các quốc gia
mới của EU, ngoài những hỗ trợ về phía nhà nước, các doanh nghiệp phải chủ
động có những biện pháp đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp ở các
nước thành viên mới của EU, đặc biệt là thanh toán.
Về thanh toán, để đáp ứng được yêu cầu thanh toán chậm, các doanh
nghiệp phải nắm vững thông tin và xây dựng được mối quan hệ tin cậy với
đối tác ở các nước thành viên mới của EU, phải biết dựa vào sự tư vấn của các
cơ quan chức năng, đặc biệt là Sứ quán và Thương vụ. Tất nhiên trong trường
hợp L/C trả chậm, doanh nghiệp khi xuất khẩu hàng phải đề nghị đối tác mở
L/C này tại một ngân hàng có uy tín của Mỹ hoặc các nước Châu Âu khác.
Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần biết phát huy những cơ chế hỗ trợ tài chính
sẵn có như vay vốn qua Quỹ hỗ trợ xuất khẩu thuộc Quỹ hỗ trợ phát triển để
bán hàng trả chậm.
Trong buôn bán trực tiếp, những doanh nghiệp quyết tâm làm ăn lâu dài
ở thị trường các quốc gia mới của EU nên xem xét lập kho ngoại quan, đặc
biệt tại các nước trọng điểm mà nước ta đã có Sứ quán và cơ quan Thương vụ.
Điều này sẽ cho phép doanh nghiệp giới thiệu và bán sản phẩm một cách trực
tiếp, đáp ứng được nhưng đơn hàng mang tính thời vụ.
* Liên doanh
90
Liên doanh có thể dưới hình thức sử dụng giấy phép, nhãn hiệu hàng hóa,
chẳng hạn kinh nghiệp của Đài Loan trong lĩnh vực này rất đáng chú ý. Trên
thực tế các nhà xuất khẩu Đài Loan đã đưa hàng hóa của mình sang thị trường
EU dưới danh nghĩa của nhiều công ty nước ngoài nổi tiếng. Nguyên nhân
dẫn tới việc các doanh nghiệp Đài Loan phải dùng hình thức này để thâm
nhập thị trường EU là vì người tiêu dùng ở đây thích và có thói quen sử dụng
những sản phẩm có nhãn hiệu nổi tiếng, chất lượng là yếu tố quyết định tiêu
dùng đối với phần lớn mặt hàng được tiêu thụ trên thị trường này chứ không
phải giá cả. Do đó, hình thước liên doanh này đã đem lại thành công cho Đài
Loan trong việc xâm nhập vào thị trường EU.
3.3.2.2 Các doanh nghiệp cần đẩy mạnh công tác đào tạo, nâng cao
năng lực nghiệp vụ cho cán bộ quản lý, cán bộ kinh doanh xuất nhập
khẩu và người lao động
Hiện nay, nhìn chung trình độ của đội ngũ lãnh đạo, quản lý doanh
nghiệp nước ta còn yếu, làm ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh tế và khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Việc lựa chọn những người đứng đầu
doanh nghiệp có năng lực, đáp ứng được nhu cầu công việc trong bối cảnh
mới, có tầm nhìn chiến lược trong sản xuất và kinh doanh là yếu tố rất quan
trọng. Đặc biệt, người lãnh đạo doanh nghiệp phải tâm huyết với công việc,
có ý thức dám nghĩ dám làm, mạnh dạn mở rộng hoạt động hướng về những
thị trường tuy xa lạ nhưng đầy tiềm năng như các nước thành viên mới của
EU. Đây là khâu còn yếu ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ kinh
doanh xuất nhập khẩu ở các doanh nghiệp nước ta hiện nay.
Về đội ngũ người lao động, nhìn chung năng lực chưa cao. Cả nước hiện
nay chỉ có 10,2% lực lượng lao động có trình độ công nhân kỹ thuật trở lên.
Trong số 2,5 triệu công nhân, chỉ có 0,2% bậc cao. Khoảng 40% trong số này
được đào tạo ngắn hạn và 25% chưa qua đào tạo. Đây thực sự là trở ngại lớn
cho các doanh nghiệp nước ta trong quá trình hội nhập quốc tế. Thực tế cho
thấy, có nhiều trường hợp do cán bộ, nhân viên năng lực yếu kém, không đáp
91
ứng được nhu cầu công tác, lại ngại khó khăn, gian khổ nên việc tiếp cận và
buôn bán với những thị trường mới thường không thể thực hiện được.
Vì vậy, các doanh nghiệp phải chú trọng công tác đào tạo để nâng cao
năng lực cán bộ và công nhân kỹ thuật vì họ là nhân tố quan trọng và không
thể thiếu được trong việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên
thị trường các quốc gia mới của EU. Các doanh nghiệp phải luôn luôn nâng
cao trình độ cán bộ và công nhân kỹ thuật, phát huy tính năng động, nhạy bén,
học hỏi… Từng doanh nghiệp phải dành một khoản kinh phí nhất định cho
hoạt động này và phải biết tận dụng các chương trình đào tạo cán bộ và công
nhân kỹ thuật của Chính phủ để cử cán bộ của mình tham gia. Các doanh
nghiệp phải quan tâm đào tạo cả cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, cán bộ
thương mại và công nhân kỹ thuật, không những đào tạo lại đối với cán bộ và
công nhân kỹ thuật đã qua đào tạo nhưng trình độ còn hạn chế mà phải đào
tạo chuyên sâu cho những cán bộ và công nhân kỹ thuật trẻ có năng lực để có
một đội ngũ cán bộ giỏi và công nhân kỹ thuật lành nghề. Đối với cán bộ
thương mại, các doanh nghiệp không chỉ chú trọng nâng cao nghiệp vụ
chuyên môn mà phải nâng cao cả trình độ ngoại ngữ vì ngoại ngữ kém sẽ rất
khó mà thành công trong đàm phán và thường bị ở thế bất lợi trong giao dịch
kinh doanh.
Các doanh nghiệp phải thường xuyên (có định kỳ cụ thể) kiểm tra trình
độ cán bộ và công nhân kỹ thuật của mình để có những phương hướng đào tạo
thích hợp. Ngoài việc tự lo kinh phí đào tạo, các doanh nghiệp cần phải tăng
cường xin hỗ trợ từ Chính phủ và xin tài trợ từ các tổ chức quốc tế và khu vực.
3.3.2.3 Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến xuất khẩu của doanh nghiệp
sang thị trường các quốc gia mới của EU
* Thu thập và xử lý thông tin
Không thể nói đến xúc tiến xuất khẩu khi không giải quyết tốt khâu
thông tin. Tình trạng thiếu thông tin đang là trở ngại lớn trong việc phát triển
buôn bán giữa nước ta với các nước thành viên mới của EU. Đa số các doanh
92
nghiệp chỉ biết đến các nước thành viên mới của EU là các nước Đông Âu cũ
thuộc khối xã hội chủ nghĩa có nền kinh tế thị trường đang chuyển đổi, giao
thương với bên ngoài còn nhiều hạn chế nên thường ít chịu tìm hiểu tiềm
năng, những cơ hội hợp tác kinh doanh tại các thị trường này, cũng như các
chính sách thương mại, các phong tục tập quán bản địa… Vì vậy, muốn mở
rộng buôn bán sang các nước thành viên mới của EU, nhất thiết các doanh
nghiệp phải nâng cao khả năng thu thập và xử lý thông tin.
Nguồn thông tin lớn nhất không gì khác hơn chính là đi thâm nhập thực
địa. Từ những chuyến đi thực tế, các doanh nghiệp có thể tìm ra được cơ hội
kinh doanh ở từng thị trường các quốc gia mới của EU, tìm hiểu xem người
tiêu dùng sở tại cần loại hàng gì, sở thích và sức mua của họ ra sao, những
mặt hàng nào thì doanh nghiệp của mình có thể đáp ứng… Những chuyến đi
như vậy không thể mang tính “cưỡi ngựa xem hoa” mà đòi hỏi phải mất nhiều
thời gian, công sức và cả tiền của. Khi đã sang đến nơi, bằng nhiều cách khác
nhau, các doanh nghiệp phải gặp cho được từ các quan chức chính phủ, các
doanh nghiệp cho đến tận người dân, thậm chí xuống cả những vùng xa xôi
hẻo lánh, có như vậy mới phát huy hiệu quả.
Một nguồn cung cấp thông tin quan trọng là từ các cơ quan quản lý Nhà
nước như Bộ Công thương bao gồm các Vụ chức năng, Cục Xúc tiến thương
mại, Trung tâm thông tin thương mại, các Bộ ngành liên quan, các Viện
nghiên cứu… Các doanh nghiệp cũng phải chủ động liên lạc với các Thương
vụ, các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài như Đại sứ quán,
Thương vụ các nước, các tổ chức quốc tế, các tổ chức và cá nhân nước ngoài.
Thông tin trên mạng Internet cũng đóng vai trò quan trọng vì thực tế đã
có nhiều giao dịch phát sinh từ thông tin trên mạng. Tuy nhiên nguồn thông
tin này không phải lúc nào cũng đáng tin cậy. Nhìn chung, trong những giao
dịch lần đầu với thị trường các quốc gia mới của EU, doanh nghiệp cần phải
tham khảo ý kiến của các đơn vị chức năng, của Bộ Công thương hoặc của
93
các Bộ ngành liên quan, hoặc nhờ Cơ quan đại diện ngoại giao và thương mại
Việt Nam ở nước sở tại hay kiêm nhiệm điều tra thông tin về đối tác.
* Quảng bá sản phẩm và thương hiệu
Mặc dù đến nay đã có nhiều ấn phẩm giới thiệu về đất nước, con người
Việt Nam nhưng vẫn còn quá ít ấn phẩm về ngành hàng, về sản phẩm xuất
khẩu có thế mạnh của nước ta, về thương hiệu Việt Nam được giới thiệu ở
nước ngoài và ở các nước thành viên mới của EU thì lại càng ít. Vì vậy, thời
gian tới, thông qua các Thương vụ hoặc cơ quan đại diện ngoại giao của Việt
Nam tại các nước thành viên mới của EU, các doanh nghiệp cũng cần chủ
động đẩy mạnh công tác quảng bá sản phẩm và thương hiệu của mình trên thị
trường sở tại nhiều hơn nữa, dưới nhiều hình thức khác nhau. Công tác này
cần được tiến hành cho đối tượng là các cơ quan Quản lý Nhà nước cũng như
các doanh nghiệp của các nước thành viên mới của EU.
Gần đây, một số doanh nghiệp nước ta đã chủ động mở trang web trên
mạng Internet để quảng cáo, giới thiệu về các sản phẩm của mình, song số
lượng còn ít và chất lượng chưa cao, cần phải được tăng cường hơn nữa. Các
trang web của doanh nghiệp được ví như là những trung tâm thông tin, văn
phòng đại diện, cửa hàng bán lẻ của doanh nghiệp ở mọi nơi, mọi lúc. Trong
khi đó, chi phí duy trì văn phòng ảo này rất thấp nếu so sánh với chi phí cho
một văn phòng đại diện thực sự ở nước ngoài. Đối với thị trường ở các nước
Châu Âu, nơi mà chi phí thuê văn phòng rất cao thì các trang web lại càng tiết
kiệm chi phí quảng bá sản phẩm và thương hiệu cho doanh nghiệp.
Cần lưu ý đối với những sản phẩm ít nhiều đã tạo được chỗ đứng trên thị
trường các nước thành viên mới của EU, doanh nghiệp nước ta cần sớm đăng
ký thương hiệu và các nội dung có liên quan khác với cơ quan có thẩm quyền
của nước sở tại để tránh những rắc rối không cần thiết về sau.
* Tham dự hội chợ, triển lãm
Nhìn chung, các doanh nghiệp Việt Nam đều đã nhận thức được tầm
quan trọng của việc tham gia các hội chợ, triển lãm quốc tế. Tuy nhiên thực tế
94
thời gian qua cho thấy, do không xác định rõ mục tiêu tham gia hội chợ, triển
lãm, do chưa gắn mục tiêu tham gia với chính sách mặt hàng và chiến lược
phát triển của doanh nghiệp, hoặc do những hạn chế về mặt kinh phí nên hoạt
động quảng bá sản phẩm, kiếm tìm đối tác thông qua tham gia hội chợ triển
lãm quốc tế của doanh nghiệp nước ta còn nhiều bất cập, chưa đạt được hiệu
quả như mong muốn. Đặc biệt là khi tổ chức hoặc tham gia các hội chợ, triển
lãm chúng ta chưa vượt ra được tình trạng giới thiệu “các sản phẩm truyền
thống” của một số doanh nghiệp nhất định và kết thúc hội chợ, triển lãm chỉ
bán được một số sản phẩm và ký được một số ít hợp đồng.
Để tham gia hội chợ, triển lãm ở các nước thành viên mới của EU đạt kết
quả tốt, doanh nghiệp cần phải lưu ý ít nhất bốn vấn đề: Mục đích và đối
tượng (cho đối tác hay người tiêu dùng, để giới thiệu và bán hàng hay giới
thiệu và kiếm tìm đối tác….); quy mô hội chợ, triển lãm định tham gia; những
mặt hàng mà doanh nghiệp tham gia và kinh phí tham gia. Doanh nghiệp cần
nhận thức đầy đủ những yếu tố trên đây thì kết quả sẽ khác hơn.
* Kênh phân phối
Kênh phân phối là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến
tình hình lưu thông hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường các
nước thành viên mới của EU. Lựa chọn phương thức thích hợp và chủ động
thâm nhập vào các kênh phân phối trên thị trường các quốc gia mới của EU,
góp phần gia tăng lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường các
quốc gia mới của EU. Các doanh nghiệp Việt Nam có thể thực hiện các giải
pháp sau để thâm nhập các kênh phân phối này.
Thứ nhất, đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, do tiềm lực kinh tế hạn
chế nên có thể liên kết với cộng đồng người Việt Nam ở các quốc gia mới của
EU để đầu tư sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng mà thị trường này đang
có nhu cầu lớn như hàng dệt may, giày dép, đồ gỗ gia dụng, thủ công mỹ
nghệ… Hợp tác kinh doanh có thể dưới hình thức liên doanh. Thành lập liên
doanh theo Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, các Việt kiều có
95
thể đầu tư vào Việt nam thành lập liên doanh với các doanh nghiệp trong
nước. Hai bên cùng góp vốn để thành lập liên doanh nhưng liên doanh có thể
sử dụng lao động, nguyên liệu, nhà xưởng của phía Việt nam và sử dụng pháp
nhân, sự hiểu biết về thị trường, kênh phân phối và sự nhạy bén trong kinh
doanh của phía nước ngoài. Phía Việt Nam sẽ chịu trách nhiệm sản xuất hàng
hóa theo đúng thiết kế, còn phía nước ngoài sẽ chịu trách nhiệm tiêu thụ hàng
hóa. Bằng cách này hàng hóa được sản xuất ra sẽ đáp ứng tốt thị hiếu luôn
thay đổi của thị trường các quốc gia mới của EU và thâm nhập vào được kênh
phân phối trên thị trường này.
Thứ hai, đối với các doanh nghiệp lớn (thường là doanh nghiệp nhà
nước) có tiềm lực kinh tế mạnh hơn có thể liên doanh để trở thành công ty
con của các công ty xuyên quốc gia EU. Bằng cách này các doanh nghiệp có
thể thâm nhập trực tiếp vào các kênh phân phối chủ đạo trên thị trường các
quốc gia mới của EU vì các công ty xuyên quốc gia đóng vai trò chủ chốt
trong các kênh phân phối này. Các nhà nhập khẩu (các công ty thương mại)
thuộc các công ty xuyên quốc gia thường nhập hàng từ các xí nghiệp, nhà
máy thuộc tập đoàn của mình và từ các nhà thầu nước ngoài có quan hệ bạn
hàng lâu dài, ít khi nhập khẩu hàng từ các nhà xuất khẩu không quen biết, sau
đó đưa hàng vào mạng lưới tiêu thụ (hệ thống các siêu thị, cửa hàng, công ty
bán lẻ độc lập, v.v…) Nếu trở thành công ty con của tập đoàn thì đương nhiên
hàng sản xuất ra sẽ được đưa vào kênh tiêu thụ của tập đoàn.
3.3.2.4 Tăng cường vai trò của Hiệp hội ngành hàng và sự hợp tác
giữa các doanh nghiệp
Ở nước ta đã xuất hiện rất nhiều Hiệp hội ngành hàng, nhưng chỉ trong
vài năm gần đây, khi khó khăn nảy sinh ngày càng nhiều đối với các doanh
nghiệp, cùng với tác động của các cuộc chiến thương mại quốc tế, chúng ta
mới nhận thức đầy đủ và sâu sắc vai trò của hiệp hội, từ việc đứng ra giải
quyết kiện cáo cho doanh nghiệp đến việc điều tiết thu hoạch sản phẩm, ấn
96
định giá sàn sản phẩm, đưa ra các tiêu chuẩn về sản phẩm để bảo vệ quyền lợi
cho hội viên.
Do hiệp hội ngày càng có vai trò quan trọng, việc Chính phủ ban hành
Nghị định về tổ chức hoạt động của Hiệp hội là một chủ trương đúng đắn cần
sớm được thực hiện. Trong đó cần định hình hoạt động của hiệp hội theo các
nội dung chính như: xác định phương hướng phát triển sản xuất, kinh doanh
ngành hàng, các nội dung liên kết sản xuất, tiêu thụ trên cơ sở tự nguyện của
các hội viên; thay mặt hội viên trong các tranh tụng quốc tế; phổ biến tiến bộ
khoa học – công nghệ, cung cấp thông tin thị trường, hỗ trợ xúc tiến thương
mại cho các doanh nghiệp hội viên.
Riêng đối với các quốc gia mới của EU, các hiệp hội cần có những hành
động cụ thể để hỗ trợ về mặt tài chính cho doanh nghiệp thâm nhập thị trường
các quốc gia mới của EU, đặc biệt đối với trong những ngành hàng chúng ta
có thế mạnh xuất khẩu tại thị trường này như thủy sản, cà phê, chè, dệt may,
giày dép, thủ công mỹ nghệ…. Chẳng hạn các hiệp hội có thể thành lập các
quỹ hỗ trợ sản xuất, xuất khẩu hay quỹ bảo hiểm xuất khẩu của riêng hiệp hội,
trong đó có những cơ chế riêng giúp đỡ cho hội viên buôn bán với thị trường
châu Phi. Nguồn vốn cho những quỹ này, ngoài một phần kinh phí do Chính
phủ hỗ trợ, chủ yếu sẽ do các hội viên đóng góp, với một định mức đóng góp
hàng năm theo tỷ lệ trên doanh thu.
Hiệp hội cũng cần đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại trên thị trường
các quốc gia mới của EU cho các doanh nghiệp. Thậm chí các Hiệp hội có thể
nghiên cứu việc lập chi nhánh đại diện tại một số nước trọng điểm như Séc,
Hungari, Ba Lan, Bulgari để nắm bắt và xử lý nhanh các nhu cầu nảy sinh.
Các Hiệp hội cũng cần phải quan tâm động viên tinh thần hợp tác giữa
các hội viên. Quá trình cạnh tranh giữa các doanh nghiệp không có ý nghĩa là
chối bỏ sự hợp tác, mà các doanh nghiệp, với tư cách là những bộ phận hợp
thành nền kinh tế quốc dân thống nhất, phải xem hợp tác là biện pháp quan
trọng để hạn chế những mặt tiêu cực của cơ chế cạnh tranh. Thí dụ, sự kết hợp
97
giữa doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân nhằm khắc phục một
thực tế hiện nay là doanh nghiệp Nhà nước có tiềm lực lớn, nhưng hiệu quả
kinh tế nói chung là kém. Doanh nghiệp tư nhân tiềm lực thấp hơn nhưng hiệu
quả thường cao hơn. Ngoài ra, khối các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cũng
có những thế mạnh về trình độ công nghệ, năng lực quản lý… Chủ trương
hợp tác có thể mở rộng ra thị trường thế giới, trong đó có các nước thành viên
mới của EU, để kết hợp với các doanh nghiệp của Việt Nam nhằm tranh thủ
được vốn, công nghệ hiện đại và kinh nghiệm thương trường.
Sự hợp tác giữa các doanh nghiệp cần được đẩy mạnh trong vấn đề thông
tin về các cơ hội kinh doanh, về kinh nghiệm làm ăn ở thị trường các nước
thành viên mới của EU. Đặc biệt để thâm nhập thị trường các nước thành viên
mới của EU trong giai đoạn đầu, các doanh nghiệp cần liên kết trong việc góp
vốn mở kho ngoại quan, mở Showroom, phối hợp trong đấu thầu xây dựng
hoặc trong các dự án đầu tư….
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Đinh Thị Ngọc Bích (2003), Quan hệ thương mại Việt Nam – EU trong
tiến trình mở rộng EU, Đề tài cấp Viện, Viện Nghiên cứu Châu Âu.
2. Bùi Quang Bình (2007), “Thương mại giữa Việt Nam và Châu Âu qua
20 năm đổi mới”, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, (số 9), trang 26-33.
3. Bùi Thị Hồng Hạnh (2006), “Quan hệ Mỹ - Liên minh Châu Âu trong
bối cảnh mới của kinh tế thế giới”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (số 06),
trang 11-18.
4. Phùng Thị Vân Kiều (2007), Các giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất
khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị trường EU giai đoạn 2000-2010,
Viện Nghiên cứu Thương mại.
5. Vũ Chí Lộc (2004), Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của Việt
Nam sang thị trường Châu Âu, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
6. Thông tấn xã Việt Nam (2004), “Tác động của việc mở rộng EU”, Tài
liệu tham khảo đặc biệt, (số 009), trang 1-5.
7. Thông tấn xã Việt Nam (2007), “Chính sách lâu dài của Liên minh
Châu Âu đối với Trung Quốc và quan hệ mậu dịch song phương”, Tài
liệu tham khảo đặc biệt, (số 5+6), trang 29-40.
8. Nguyễn Quang Thuấn (2004), “Liên minh châu Âu mở rộng và khả
năng hợp tác của Việt Nam”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế và chính trị
thế giới, (số 1), trang 59-65.
9. Nguyễn Quang Thuấn (2004), “Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam
– EU trong bối cảnh những năm đầu thế kỷ XXI”, Tạp chí Nghiên cứu
kinh tế, (số 4), trang 15-20.
10. Nguyễn Quang Thuấn (2005), Các nước Đông Âu gia nhập Liên minh
châu Âu và những tác động tới Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội.
11. Đinh Công Tuấn (2007), “Quan hệ kinh tế Việt Nam – EU năm 2006”,
Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, (số 1), trang 49-55.
12. Trần Nguyễn Tuyên (2004), “Thực trạng và triển vọng phát triển quan
hệ kinh tế EU – Việt Nam”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế và chính trị
thế giới, (số 6), trang 57-66.
Tiếng Anh
1. Christopher M.Dent (1999), The European Union and East Asian and
Economic Relationship, Routledge, London.
2. Martin Dangerfield (2000), Subregional Economic Co-operation in
control and Eastern European, Edward Elgar, Cheltenhem.
3. Rachman G. (2001), “A survey of European enlargerment: Europe’s
magnetic”, The Economist Newspaper Limited, (No. 20).
Các website
1. www.gso.gov.vn (Trang web của Tổng cục Thống kê Việt Nam)
2. www.moit.gov.vn (Trang web của Bộ Công thương)
3. www.thongtinthuongmai.com.vn (Trang web của Trung tâm thông tin
thương mại – Bộ Công thương)
4. www.customs.gov.vn (Trang web của Tổng cục Hải quan Việt Nam)
5. www.comtrade.un.org (Trang web về thống kê thương mại toàn cầu của
Liên hợp quốc)
6. www.eurostat.org (Trang web của Liên minh châu Âu)
7. www.wto.org (Trang web của Tổ chức thương mại thế giới)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3201_2129.pdf